LUẬN
ĐẠI TRÍ ĐỘ

Nguyên tác: Bồ tát Long Thọ
Hán dịch: Pháp sư Cưu Ma La Thập
Việt dịch: Tỳ kheo ni THÍCH NỮ DIỆU KHÔNG

 

TẬP I
QUYỂN 8

PHÓNG QUANG
(Chiếu Hào Quang)
(Tiếp theo)

KINH

Đức Thế Tôn lại dùng “Thường Quang Minh” chiếu khắp 3000 Đại Thiên Thế Giới, cùng chiếu đến hằng sa thế giới Phật khác trong khắp 10 phương. Nếu có chúng sinh nào nhận được ánh quang minh này, thì quyết định được Đạo Vô Thượng Bồ Đề.

LUẬN

Hỏi: Trước đây đã nói phóng quang minh rồi. Nay vì sao lại nói phóng “Thường Quang” chiếu khắp 10 phương?

Đáp: Vì có chúng sinh thấy ánh quang minh lạ, nghĩ là chẳng phải Phật phóng quang. Nay Phật dùng “Thường Quang” khiến người trông thấy đều vững tin rằng ánh quang minh này chắc chắn là của Phật; từ đó họ chuyển đạo tâm, sinh hoan hỷ, ắt được Đạo Vô Thượng Bồ Đề vậy.

Hỏi: Thế nào gọi là “Thường Quang Minh”?

Đáp: Ở quang thân Phật có quang minh tỏa xa 1 trượng, gọi là Thường Quang Minh.

Hỏi: Vì sao Thường Quang chỉ có 1 trượng, mà không nhiều hơn?

Đáp: Thường Quang của chư Phật chiếu khắp 10 phương thế giới. Song, vào đời 5 trược, chúng sinh ít phước đức, ít trí tuệ, nên Phật chỉ thị hiện 1 trượng quang minh mà thôi. Vì sao vậy? Vì tầm mắt của chúng sinh ở cõi này không thể chịu được ánh sáng nhiều hơn.

Nếu gặp chúng sinh lợi căn, phước đức nhiều, thì Phật hiện vô lượng quang minh.

—o0o—

KINH

Đức Thế Tôn mỉm cười, hiện tướng lưỡi rộng dài, trùm khắp cả 3000 Đại Thiên Thế Giới. Từ tướng lưỡi phóng ra vô lượng ngàn vạn ức quang minh. Mỗi quang minh hóa thành hoa sen báu ngàn cánh sắc vàng; trên mỗi hoa sen có một “Hóa Phật” ngồi kiết già tuyên thuyết 6 pháp Ba La Mật. Nếu có chúng sinh nào nghe được, quyết định được Đạo Vô Thượng Bồ Đề.

Lại ở các thế giới Phật khác, nhiều như số cát của sông Hằng, cũng đều như vậy cả.

LUẬN

Hỏi: Phật là đấng tối tôn tối trọng. Vì sao Phật còn hiện tướng lưỡi rộng dài để làm gì?

Đáp: Sau khi phóng quang xong, nay Phật muốn nói kinh Bát Nhã Ba La Mật, là pháp thậm thâm, khó tin, khó thụ, nên mới hiện tướng lưỡi rộng dài, để làm chứng cho lời nói chân thật.

Ví như có một thời, Phật ở thành Xá Bà Đề, sau khi Thụ Tuế1, Phật đi du hành các nước, có ngài A Nan theo hầu. Phật muốn đến thành của 1 vị vua Bà La Môn, nhưng vị vua này, biết Phật có thần đức cảm hóa được tâm người, nên không muốn Phật có dịp tiếp xúc nhiều với nhân dân trong nước của mình. Nhà vua bèn hạ lệnh cấm nhân dân không được cúng dường Phật, truyền rằng “Nếu ai cúng dường Phật, nghe Phật thuyết pháp, thì sẽ phải nộp phạt 500 đồng tiền vàng”. Khi Phật và Ngài A Nan đi vào thành khất thực, mọi nhà đều đóng kín cửa. Lúc bấy giờ, tại một nhà nọ, có 1 bà lão đem bát cháo thiu đi đổ. Bà lão vừa ra khỏi cửa liền thấy Phật và Ngài A Nan ôm bình bát đi lại. Bà lão thấy Phật tướng mạo trang nghiêm, thân sắc vàng rực rỡ, lông trắng giữa chặng mày, nhục kế ở đỉnh đầu, lại có hào quang 1 trượng bao quanh; thế nhưng bà lại rất đỗi ngạc nhiên thấy Phật và vị thị giả ôm bình bát rỗng, chẳng có gì để ăn cả. Thấy vậy rồi, bà suy nghĩ “Vị thần này đáng dùng thức ăn của nhà Trời, sao lại ôm bình bát rỗng đi khất thực trong loài người? Chắc là do lòng đại từ đại bi thương xót chúng sinh mà làm như vậy”.

Nghĩ như vậy rồi, tâm bà trở nên thanh tịnh. Bà muốn đem thức ăn cùng dường Phật mà chẳng có được. Bà hổ thẹn bạch Phật: “Con rất muốn được cúng dường Phật mà con chẳng có gì, nay có ít cháo thiu, nếu Phật cần dùng, con xin kính dâng lên Phật”.

Phật biết tâm bà thanh tịnh, tín kính Phật, liền đưa bình bát nhận lấy phần cháo thiu. Rồi Phật mỉm cười, hiện quang minh đủ 5 sắc chiếu khắp nơi.

Ngài A Nan quỳ gối bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà Thế Tôn mỉm cười?”

Phật dạy: “Này A Nan! Ngươi có thấy bà lão đem tín tâm thanh tịnh cúng dường TA chăng?”

Ngài A Nan bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Con có thấy.”

Phật dạy: “Bà lão này do nhân duyên Tịnh Thí Phật, sẽ hưởng được 15 kiếp ở cõi Trời, sau đó sẽ trở lại trong nhân gian, thụ các phước lạc, chẳng đọa vào ác đạo. Về sau sẽ được thân nam, xuất gia thành Bích Chi Phật, vào Vô Dư Niết Bàn”.

Lúc bấy giờ, có một người Bà La Môn chứng kiến sự việc, đến gần Phật nói kệ rằng:

Ông là dòng Sát Đế Lợi
Thái Tử của Tịnh Phạn Vương,
Vì miếng ăn sinh vọng ngữ
Thí cháo thiu được phước chăng?

Lúc bấy giờ, Phật hiện tướng lưỡi dài, phủ cả mặt lên đến tận chân tóc và hỏi người Bà La Môn rằng: “Theo kinh thơ của ông, thì người có tướng lưỡi rộng dài có nói dối không?”

Người Bà La Môn đáp: “Người le lưỡi chấm mũi là đã không nói dối rồi, huống nữa là le lưỡi chấm đến tận chân tóc như Phật vậy. Con tin Phật không nói dối, nhưng chẳng biết vì sao chỉ bố thí chút ít cháo thiu mà lại được phước báo nhiều đến như vậy?”

Phật hỏi người Bà La Môn: “Ông có bao giờ thấy những sự việc hy hữu ở thế gian không?”

Người Bà La Môn đáp: “Con có thấy. Ví như thấy một cây Ni Câu Lâu Đà che rợp cả một vùng lớn, đến cả 500 cỗ xe của khách làng buôn đậu ở dưới mà vẫn còn thừa bóng mát. Thật là hy hữu.”

Phật hỏi người Bà La Môn: “Hạt của loại cây ấy lớn hay nhỏ?”

Người Bà La Môn đáp: “Chỉ bằng hạt đậu thôi”.

Phật bảo: “Vì sao hạt nhỏ mà lại sinh được cây lớn như vậy? Có thể tin được lời ông nói chăng?”

Người Bà La Môn đáp: “Chính mắt con thấy như vậy, chẳng phải con nói dối”.

Phật bảo: “TA cũng thấy như vậy. Bà lão này đem tín tâm thanh tịnh bố thí, nên được phước báo lớn như vậy đó. Gieo nhân ít mà được quả nhiều, chẳng khác nào cây kia từ hạt nhỏ mà thành cây lớn như vậy. Vì sao vậy? Vì Như Lai là phước điền tốt nhất để cho người thực hành hạnh bố thí vậy.”

Người Bà La Môn nghe xong, tâm được khai mở, lý được thông giải, gieo năm vóc xuống đất xin sám hối tội lỗi, và bạch Phật: “Con vì ngu si mà sinh tâm không tín kính Phật. Cúi xin Phật vì con nói pháp”.

Phật vì người Bà La Môn, thuyết một thời pháp, khiến người ấy liền chứng được quả Tu Đà Hoàn. Tức thời ông đưa tay lên cao và nói lớn rằng: “Cửa Cam Lồ đã mở rộng. Hết thảy dân chúng ở trong thành hãy mau mau đến cúng dường Phật!”.

Hết thảy dân chúng trong thành nghe như vậy, liền mở tung cửa chạy hết ra đường, đến cúng dường Phật, tự nghĩ rằng: “Đến với Phật sẽ được hưởng vị Cam Lồ, cớ sao chúng ta còn sợ bị phạt vạ 500 tiền vàng, mà chẳng dám cúng dường Phật?”

Nhà vua thấy lệnh cấm chẳng còn được dân chúng tuân theo nữa, thấy rõ việc làm sai trái của mình, nên đã cùng với thần dân xin quy y với Phật. Hết thảy mọi người đều được tín tâm thanh tịnh. Do vì muốn giáo hóa những người không có tín tâm, mà Phật đã hiện tướng lưỡi rộng dài vậy.

Hỏi: Phật vì người Bà La Môn bất tín mà hiện tướng lưỡi rộng dài. Nay vì sao đối trước 3000 Đại Thiên Thế Giới mà Phật cũng hiện tướng lưỡi rộng dài?

Đáp: Nay vì Đại Sự Nhân Duyên nói kinh Bát Nhã Ba La Mật, mà Phật hiện tướng lưỡi rộng dài.

Hỏi: Làm sao hết thảy dân chúng trong một thành thấy được tướng lưỡi rộng dài là đã khó rồi. Nay nói kinh Bát Nhã Ba La Mật cho vô số chúng sinh ở khắp 10 phương, thì làm sao những chúng sinh ấy có thể thấy được tướng lưỡi rộng dài của Phật?

Đáp: Phật dùng phương tiện thần lực, khiến chúng sinh ở khắp 10 phương đều có thể thấy được tướng lưỡi rộng dài của Phật. Nơi kinh Bát Nhã Ba La Mật này có phẩm nói “Hết thảy Chúng Hội đều thấy được Chúng Hội của Phật A Súc Bệ”. Cũngnhư khi Phật thuyết về Thế Giới của Phật A Di Đà đủ các thứ trang nghiêm, Ngài A Nan xin cho được thấy, Phật liền dùng thần lực cho tất cả Chúng Hội đều được thấy thế giới trang nghiêm của Phật A Di Đà.

Hỏi: Vì sao lưỡi cũng phóng quang minh?

Đáp: Vì Phật muốn hết thảy mọi người đều được tín tâm thanh tịnh nên phóng quang minh nơi lưỡi.

Lại nữa, Phật hiện tướng lưỡi màu sắc như san hô, phát ánh sáng màu vàng, ở nơi vùng ánh sáng ấy hiện ra các hoa sen báu ngàn cánh, phát quanh minh chói sáng như mặt trời mới mọc.

Hỏi: Vì sao trong quang minh lại biến hóa thành hoa sen báu?

Đáp: Vì các vị Hóa Phật sẽ ngồi trên các hoa sen ấy.

Hỏi: Ngồi trên giường, trên ghế cũng được rồi, vì sao lại ngồi trên hoa sen?

Đáp: Người thế gian ngồi trên giường, trên ghế, còn Phật ngồi trên hoa sen. Hoa sen mềm mại, thơm tho, chẳng có loại hoa nào sánh kịp, nên được dùng để trang nghiêm vi diệu pháp tòa.

Hoa sen ở hồ A Na Bà Đạt Đa lớn như bánh xe, một người có thể ngồi kiết già trên đó được. Hoa sen của trời lớn hơn, hoa sen của Phật lại còn lớn hơn gấp bội.

Lại nữa, có truyền thuyết rằng “Vào thời kiếp tận, khi tất cả đều bị thiêu rụi, trở thành khoảng trống không, nhưng do nhân duyên phước đức của chúng sinh mà gió từ 10 phương thổi đến, đối chạm nhau, giữ lại một dòng nước lớn. Trên dòng nước ấy, xuất hiện một người có 1000 đầu, 2000 tay, 2000 chân, tên là Vi Nựu. Ở ngay rốn của người ấy mọc ra một đóa hoa sen ngàn cánh, chiếu hào quang sáng như cả vạn mặt trời, trên hoa sen có một người ngồi kiết già. Người ấy có vô lượng quang minh chiếu sáng, chính là Phạm Thiên Vương. Phạm Thiên Vương có 8 người con, 8 người con của Phạm Thiên Vương sinh ra Trời, Đất, và loài Người. Phạm Thiên Vương do tu thiền định mà được đầy đủ các phạm hạnh, được thanh tịnh, chẳng còn dâm, nộ, si.”

Phạm Thiên Vương ngồi trên hoa sen, nên chư Phật cũng tùy thuận thế gian, ngồi kiết già trên hoa sen, thuyết 6 pháp Ba La Mật.

Hỏi: Đức Phật Thích Ca Mâu Ni hóa ra vô lượng Hóa Phật. Làm sao vô lượng Hóa Phật có thể thuyết pháp cũng một lúc được?

Đáp: Phật có vô lượng lực Tam Muội, nên biến hóa của Phật chẳng có thể nghĩ bàn được vậy. Khi Phật thuyết Bát Nhã Ba La Mật ở trong Chúng Hội, thì vô lượng Hóa Phật cũng đều thuyết Bát Nhã Ba La Mật cả.

Hỏi: Sao lại nói “các Hóa Phật ngồi trên các hoa sen báu, thuyết 6 pháp   Ba La Mật?”

Đáp: 6 pháp Ba La Mật chỉ là 1 pháp. Nếu 5 Ba La Mật kia mà chẳng có Bát Nhã Ba La Mật soi sáng thì chẳng có thể được gọi là Ba La Mật.

Phải có Bát Nhã Ba La Mật đồng hợp thì mới có thể dẫn đến Phật Đạo, cho nên nói “Tuy 6 pháp Ba La Mật có khác nhau, nhưng cũng chỉ là một pháp Bát Nhã Ba La Mật” mà thôi.

Lại nữa, hành Bát Nhã Ba La Mật cũng có 2 trường hợp:

-Đã được trang nghiêm
-Chưa được trang nghiêm.

Cũng như nói “Người đeo chuỗi anh lạc là đã trang nghiêm thân, còn người không đeo chuỗi anh lạc là chưa được trang nghiêm thân”.

Hỏi: Phật có đại thần lực, biến hóa ra vô lượng Hóa Phật, ở khắp 10 phương nói 6 pháp Ba La Mật để độ thoát chúng sinh. Như vậy vì sao đến nay vẫn còn có chúng sinh chưa được độ?

Đáp: Có 3 điều chướng ngại, đó là:

-Những chúng sinh trong 3 đường ác không thể hiểu được.

-Trong loài Trời, loài Người có những kẻ còn nhỏ, hoặc quá già, hoặc bệnh hoạn, hoặc ám độn, nên không thể hiểu được.

-Hàng Trời ở các cõi Vô Tưởng, Vô Sắc ít chịu nghe.

Như vậy chúng sinh trong 3 trường hợp này, hoặc không hiểu, hoặc chẳng chịu nghe, nên chẳng có thể hiểu biết được vậy.

Hỏi: Có người thường nghe pháp và cũng hiểu biết, nhưng vì sao chẳng được Đạo?

Đáp: Vì còn nặng kiết sử, nên dù có nghe pháp, có hiểu lời kinh mà vẫn chưa có thể vào được Đạo vậy.

Hỏi: Nay trong khắp 10 phương, chư Phật và chư Hóa Phật đều nói pháp cả. Như vậy vì sao những chúng sinh không có 3 chướng ấy cũng vẫn chẳng được nghe?

Đáp: Nay chúng ta sinh trong đời “5 Trược”, sinh sau Phật, nên chẳng có thiện nghiệp báo, lại vì còn nặng nề kiết sử nên chẳng thể nghe, chẳng thể biết. Ví như mặt trời vẫn chiếu sáng mà người đui mù chẳng thấy nên cho là chẳng có mặt trời, lại như trời sấm vang rền, mà người điếc chẳng nghe nên cho là chẳng có sấm sét vậy.

Trong hiện tại, cùng khắp 10 phương, chư Phật và chư Hóa Phật đang thuyết 6 pháp Ba La Mật, mà chúng sinh do nhiều nghiệp tội, nên chẳng có thể nghe được vậy. Phải khéo tu để cho tội giảm, phước sinh, thì mới có thể nghe được chư Phật đang thuyết pháp, thấy được chư Phật khắp 10 phương vậy.

—o0o—

KINH

Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn vẫn ngồi tại tòa Sư Tử, nhập vào Sư Tử Du Hý Tam Muội, dùng thần thông lực cảm động cả 3000 Đại Thiên Thế Giới, hiện ra 6 điệu chấn động.

LUẬN

Hỏi: Thế nào gọi là Du Hý Tam Muội?

Đáp: Ví như khi sư tử đang bận rộn đùa giỡn với mặt trời, thì các loài thú đều được an ổn, khi Phật nhập vào Du Hý Tam Muội, làm chấn động cả 3000 Đại Thiên Thế Giới, thì các chúng sinh trong 3 đường ác được một thời an ổn, ngừng dứt các khổ.

Lại nữa, khi Phật nhập và Du Hý Tam Muội, hiện ra 6 chấn động khắp 3000 Đại Thiên Thế Giới, thì chúng sinh trong 3 đường ác nương theo đó mà được giải thoát.

Bởi nhân duyên vậy, nên gọi là Du Hý Tam Muội.

Hỏi: Vì sao Phật nhập vào Du Hý Tam Muội?

Đáp: Vì Phật muốn làm chấn động 3000 Đại Thiên Thế Giới, dẫn chúng sinh ra khỏi 3 đường ác, đưa họ lên hàng Trời, Người.

Lại nữa, trước đó đã có 3 sự biến hóa từ thân Phật, nhưng có chúng sinh vẫn chưa tin, hoặc đã tin mà chưa sâu đậm, nên nay Phật hiện 6 điệu chấn động, khiến chúng sinh biết rõ thần lực của Phật, sinh được tín tâm thanh tịnh, nhờ đó được thoát khổ.

Hỏi: Chư Thiên cũng như chư vị A La Hán có làm chấn động được Đại Địa chăng?

Đáp: Chư Thiên và chư vị A La Hán đều có thể làm chấn động Đại Địa, nhưng chẳng làm được đầy đủ như Phật.

Hỏi: Vì sao Phật phải làm 6 điệu chấn động?

Đáp: Vì Phật muốn cho chúng sinh biết rõ vạn pháp đều là Vô Thường, là Khổ, là Không, là Vô Ngã.

Lại nữa, có nhiều chúng sinh cho rằng mặt trời, mặt trăng, núi Tu Di, biển cả đều là thường còn, nên Phật làm 6 điệu chấn động, khiến mọi chúng sinh đều biết rõ hết thảy sự vật đều Vô Thường.

Lại nữa, ví như người muốn nhuộm áo, thì trước hết phải giặt áo cho thật sạch. Cũng như vậy, trong Hội thuyết kinh Bát Nhã Ba La Mật, trước hết Phật phải dùng thần lực làm chấn động 3000 Đại Thiên Thế Giới, khiến chúng sinh khắp 3000 Đại Thiên Thế Giới sinh tâm tín kính nhu nhuyến vậy.

—o0o—

KINH

6 điệu chấn động đó là:

1. Phương Đông nổi lên, phương Tây chìm xuống.
2. Phương Tây nổi lên, phương Đông chìm xuống.
3. Phương Nam nổi lên, phương Bắc chìm xuống.
4. Phương Bắc nổi lên, phương Nam chìm xuống.
5. Phương Bên nổi lên, phương Giữa chìm xuống.
6. Phương Giữa nổi lên, phương Bên chìm xuống.

LUẬN

Hỏi: Những nguyên nhân nào gây ra 6 điệu chấn động?

Đáp: Phật dạy A Nan: “Có rất nhiều nguyên nhân gây ra các điệu chấn động”

Trong khoa Thiên Văn có nêu nhiều nguyên nhân như “Khi mặt trăng tiến về phía các sao Mão, sao Trương, sao Đô, sao Lâu, sao Vị v.v. thì xảy ra nạn hạn hán, trời không mưa, sông lạch khô cạn, mùa gặt bị mất sạch. Đây là một hình thức Đại Địa chấn động.

Nhân duyên gây ra chấn động có khi nhỏ, có khi lớn. Lại có chấn động chỉ giới hạn ở cõi Diêm Phù Đề, có chấn động lan rộng khắp cả 4 Châu Thiên Hạ, có chấn động truyền khắp cả 3000 Đại Thiên Thế Giới. Chấn động lớn chỉ xảy ra khi có đại sự nhân duyên, như khi Phật đản sinh, khi Phật thành Đạo, khi Phật gần nhập Niết Bàn.

Lại nữa, nay Phật muốn nói kinh Bát Nhã Ba La Mật, muốn thụ ký cho các Bồ Tát sẽ được thành Phật trong thời vị lai, làm cho các Địa Thần đều hoan hỷ vui mừng, nên hiện 6 điệu chấn động.

Lại nữa, hết thảy các sự vật trong vũ trụ, núi, sông, đất đai, cây cối v.v… đều là vô thường mà chúng sinh chẳng hay biết, nên Phật dùng đại thần lực của vô lượng phước đức trí huệ để làm chấn động cả Đại Địa, khiến chúng sinh biết rõ vạn pháp đều là vô thường, là hoại diệt vậy.

Lại nữa, đây cũng là do đại nhân duyên phước đức của chúng sinh trong 3000 Đại Thiên Thế Giới mà có Đại Chấn Động vậy..

—o0o—

KINH

Đại Địa chấn động nhu nhuyến khiến chúng sinh đều hòa vui.

LUẬN

Hỏi: Vì sao Phật làm chấn động Đại Địa mà chúng sinh lại hòa vui?

Đáp: Tâm tùy theo thân, khi thân được an lạc thì tâm cũng vui theo.

Tâm chúng sinh thường khô cạn, man dại, ít muốn làm các việc thiện, nên Phật làm 6 điệu chấn động, khiến tâm họ trở nên mềm mại, nhu nhuyến. Ví như ở cõi Trời Tam Thập Tam Thiên có khu vườn hoan lạc. Chư Thiên ở trong vườn ấy luôn luôn hoan hỷ, vui vẻ, dù cho có bị A Tu La khởi binh đến đánh, họ cũng chẳng hề oán hận, chẳng hề sinh tâm đấu tranh.

Ở đây cũng như vậy. Vì Phật thấy chúng sinh ít muốn làm việc thiện, nên Phật hiện 6 điệu chấn động khiến chúng sinh xa lìa đường ác, sinh tâm mềm mại, nhu nhuyến, vui vẻ vậy. Ví như có thứ bùa chú làm cho người hăng say đấu tranh, lại có thứ thuốc làm cho tâm người thanh tịnh, hoan hỷ. Một thứ thuốc còn tạo được ảnh hưởng tốt đẹp như vậy, huống nữa là cả 3000 Đại Thiên Thế Giới mềm mại nhu nhuyến mà chẳng cải hóa được tâm người sao?

KINH

Khắp 3000 Đại Thiên Thế Giới, chúng sinh ở các cõi Địa Ngục, Ngạ Quỷ, Súc Sinh tức thời đều được giải thoát, sinh lên các cõi Trời, từ cõi Trời Tứ Thiên Vương đến cõi Trời Tha Hóa Tự Tại Thiên.

LUẬN

Hỏi: Phật nhập vào Du Hý Tam Muội khiến chúng sinh trong 3 đường ác đều được sinh lên các cõi Trời. Như vậy thì cần gì phải tu phước mới được sinh lên cõi Trời?

Đáp: Như trên đã nói “người có nhiều phước đức thấy được quang minh của Phật liền được độ, còn người tội cấu nặng nề thì phải nương theo dịp Đại Địa chấn động mới được độ”.

Ví như mặt trời chiếu sáng thì trăm hoa đua nở, Phật phóng quang minh khiến người lợi căn thượng trí liền được giải thoát, nhưng người độn căn, ám trí vẫn chưa thể được độ. Bởi vậy nên Phật mới hiện ra 6 điệu chấn động để độ họ vậy.

Hỏi: Vì sao những người đã có nhiều nhân duyên gieo trồng thiện căn mà lại phải sinh về cõi Dục?

Đáp: Ở cõi Vô Sắc do chẳng có thân nên chẳng nghe được pháp, cõi Sắc do hưởng quá nhiều lạc thú, nên cũng rất khó mà được Đạo. Cõi Dục là nơi dễ tu, dễ chứng nhất.

Lại nữa, Phật dùng thần lực làm chấn động 3000 Đại Thiên Thế Giới, khiến chúng sinh khởi tâm hoan hỷ, nên được sinh lên các cõi Trời Dục Giới.

Hỏi: Nếu nói “5 ấm là Vô Thường, là Khổ, là Không, là Vô Ngã”, thì ai sinh, ai chết?

Đáp: Về vấn đề này trong kinh Bát Nhã Ba La Mật có nói rõ: “5 ấm chẳng phải Thường, cũng chẳng phải Vô Thường, chẳng phải Không cũng chẳng phải Chẳng Không, chẳng phải Ngã cũng chẳng phải Vô Ngã”.

Ngoại Đạo mong cầu Thật Ngã, nhưng Ngã vốn bất khả đắc, chỉ do hòa hợp mà có. Ví như người huyễn mà có sống, có chết, có làm đủ công việc vậy.

Hết thảy các pháp chỉ có danh, mà chẳng có thật thể.

Theo pháp thế gian, thì thật có sinh, có chết, mà ở nơi Thật Tướng Pháp, thì chẳng có sinh, chẳng có chết. Còn ở trong vòng vô minh u ám, thì còn phải chìm đắm trong “Sinh Tử, Luân Hồi”. Khi đã có được Đại Trí Huệ, thì liền phá được “tướng sinh”, nên thoát được dòng “Sinh Tử, Luân Hồi”. Như bài kệ thuyết:

Tướng các pháp vốn KHÔNG
Lại cũng chẳng Đoạn Diệt
Do hạnh nghiệp chẳng mất,
Pháp sinh mà chẳng Thường.
Tướng pháp như bẹ chuối,
Tùy Tâm mà sinh khởi.
Nếu rõ pháp vốn KHÔNG,
Tâm sinh pháp cũng KHÔNG,
Nhưng dấy niệm chấp KHÔNG,
Là xa lìa Chính Pháp.
Biết Pháp chẳng Sinh Diệt,
Cũng biết xả niệm chấp.
Có niệm, đọa lưới ma,
Không niệm liền giải thoát.
Tâm động là “Phi Đạo”,
Chẳng động là “Pháp Ấn”.

—o0o—

KINH

Chư vị Thiên Tử tự biết túc mạng của mình, sinh tâm hoan hỷ, đến đỉnh lễ dưới chân Phật rồi đứng sang một bên.

LUẬN

Chư Thiên ngay khi sinh ra, đã có 3 điều tự biết, đó là:

1. Biết mình từ đâu đến.
2. Biết mình đã gieo trồng những phước đức gì.
3. Biết rõ công đức của mình đã làm trong quá khứ.

Hỏi: Làm sao chư Thiên có thể tự biết được Túc Mạng mình?

Đáp: Do sinh báo mà chư Thiên có được 5 thần thông, nên tự biết được Túc Mạng của mình.

Lại nữa, do thần lực của Phật mà chư Thiên biết được Túc Mạng của mình, sinh tâm hoan hỷ đến đỉnh lễ Phật.

Trong loài người, cũng có người do sinh báo mà biết được Túc Mạng của mình, như trường hợp các vị Chuyển Luân Thánh Vương. Cũng có người nhờ nương theo thần lực của Phật mà biết được.

Hỏi: Người sinh ra ở đời phải trải qua 9 tháng trong thai mẹ, phải được cho bú, cho ăn, nuôi dưỡng cho đến 10 tuổi mới được vững vàng. Như vậy làm sao chỉ nương theo Thần Lực của Phật mà có thể từ phương xa đến nơi chỗ Phật được?

Đáp: Lối sinh ra đời trong 5 đạo chúng sinh đều khác nhau.

-Hàng chư Thiên và hàng chúng sinh ở Địa Ngục, Ngạ Quỷ có 2 lối sinh. Đó là Thai Sinh và Hóa Sinh

-Người và súc sinh có 4 lối sinh. Đó là Thai Sinh, Hóa Sinh, Noãn Sinh và Thấp Sinh.

Ví như Tỳ Xá Khư, mẹ của Di Già La, sinh ra 32 trứng, nở ra 32 người con trai. Di Già La là người con trai lớn nhất. Đây là trường hợp noãn sinh.

Lại ví như Sa La Bà Ly sinh ra một Chuyển Luân Thánh Vương từ trên đỉnh đầu của mình. Đây là trường hợp thấp sinh.

Lại ví như trong Chúng Tỳ Kheo Ni của Phật có một vị Tỳ Kheo Ni tên là A La Bà từ trong đất tự hóa sinh.

Vào thời kiếp sơ, loài người đều được sinh ra đời theo lối hóa sinh, rồi về sau lại thường theo lối thai sinh.

Hàng chư Thiên sinh ra theo lối hóa sinh, có sinh báo thần thông nên từ phương xa có thể đi đến chỗ Phật được.

—o0o—

KINH

Ở hằng sa thế giới khắp 10 phương cũng hiện ra 6 điệu chấn động, khiến các loại Ngạ Quỷ, Súc sinh cùng các chúng sinh khác trong Tám Nạn2 đều được giải thoát, sinh lên cõi Trời Dục Giới.

LUẬN

Hỏi: Nếu Đức Phật Thích Ca Mâu Ni có Đại Thần Lực rộng độ được hết thảy chúng sinh trong khắp 10 phương thì cần gì đến các Đức Phật khác nữa?

Đáp: Chúng sinh vô lượng, căn tính không đồng đều nhau, có người đã thuần thục, có người chưa thuần thục. Ví như trong kinh Thanh Văn có chép mẩu chuyện về Ngài Xá Lợi Phất như sau:

Ngài Xá Lợi Phất có nhân duyên với các đệ tử của Ngài, cho nên chỉ có Ngài mới độ được các người ấy, đến các Đức Phật cũng chẳng độ được họ.

Lại nữa, có chúng sinh có nhân duyên với Đức Phật này, mà chẳng có nhân duyên với các Đức Phật khác. Chúng sinh vô lượng, thế giới vô tận, nên Phật độ chúng sinh cũng vô tận.

KINH

Lúc bấy giờ, khắp 3000 Đại Thiên Thế Giới, kẻ mù bẩm sinh thấy được, kẻ điếc nghe được, kẻ câm nói được, kẻ cuồng được tỉnh lại, kẻ loạn được định tâm, kẻ nghèo nàn đói khát được ấm no, kẻ bệnh được lành, kẻ tàn tật được 6 căn đầy đủ.

LUẬN

Hỏi: Chúng sinh chịu vô lượng khổ đau. Như vậy, nếu Phật có Đại Thần Lực thì sao không làm cho hết thảy chúng sinh được giải thoát?

Đáp: Hết thảy chúng sinh đều được cứu độ. Trên đây chỉ nói sơ lược phần thô mà thôi.

Hỏi: Nói người mù thấy được là đủ rồi, sao còn nói người mù bẩm sinh thấy được làm gì nữa?

Đáp: Người mù bẩm sinh, vừa sinh ra đã bị mù là do nhân đời trước có tội nặng. Tội nặng mà còn được cứu độ huống nữa là tội nhẹ, người mù bẩm sinh còn thấy được, thì đương nhiên người mù trong những trường hợp khác đều thấy được cả.

Người mù bẩm sinh do đời trước đã làm các tội nặng như sau:

– Phá mắt hoặc móc mắt chúng sinh. Phá mắt Chính kiến, nghĩa là chẳng tin có tội phước. Hạng người ấy, khi chết đọa vào Địa Ngục, sau sinh lại làm người thì bị mù mắt ngay trong thai mẹ.

– Phá hoặc trộm cắp các bảo châu, đèn đuốc ở các tháp thờ Phật, thờ Bích Chi Phật hoặc thờ các bậc Thánh.

Như vậy có đủ các thứ nhân duyên nghiệp tội khiến chúng sinh hoặc vừa sinh ra đã bị mù, hoặc lớn lên bị tai nạn mà bị mù. Những chúng sinh này, nhờ Thần Lực của Phật đều được sáng mắt.

Hỏi: Do nhân duyên gì mà bị điếc?

Đáp: Vì đời trước được thầy dạy dỗ mà chẳng chịu học, chẳng chịu nghe lời thầy, mà còn trở lại oán giận thầy nữa. Do nhân duyên vậy mà bị điếc.

Lại nữa, vì đời trước đâm lủng tai chúng sinh, hoặc trộm chuông, trộm trống, trộm chiêng v.v. ở các nơi thờ Phật, thờ Tăng v.v. Bởi nhân duyên vậy mà bị điếc.

Hỏi: Do nhân duyên gì mà bị câm?

Đáp: Vì đời trước cắt lưỡi chúng sinh, hoặc cho họ uống các thứ thuốc độc khiến họ không còn nói được.

Lại nữa, vì ngắt lời răn dạy của các bậc cha mẹ, các bậc thầy, hoặc vì chẳng tin có tội phước, phá Chánh ngữ.

Bởi các nhân duyên vậy mà bị câm.

Hỏi: Do nhân duyên gì mà bị cuồng?

Đáp: Vì đời trước phá người tọa thiền, phá các nơi tọa thiền hoặc dùng bùa chú khiến kẻ khác khởi sân nhuế đấu tranh, đắm mình trong dâm dục. Bởi nhân duyên vậy mà bị cuồng.

Lại nữa, người quá sâu dày kiết sử, người bị xúc cảm quá mạnh, người bị phong, bị sốt nặng, bị các bệnh nan y cũng có thể trở thành cuồng điên mất trí.

Ví như Tỳ Kheo Kiền Sát Đa, khi còn là Cư Sĩ, bị chết cùng một lúc 7 người con, quá buồn khổ mà trở thành người cuồng trí. Lại ví như có người Bà La Môn, vừa bị mất mùa, mất sạch tiền bạc, vừa bị chết vợ, nên trở thành người cuồng trí.

Những chúng sinh như vậy, nhờ Thần Lực của Phật đều được tỉnh lại cả.

Hỏi: Do nhân duyên gì mà bị loạn tâm?

Đáp: Vì thường niệm điều bất thiện nên bị loạn trí. Ví như người chẳng biết quán Vô Thường, rong ruổi theo thế sự, chìm đắm trong dục lạc, khiến tâm chẳng bao giờ được an lạc.

Những người như vậy, nếu có thiện duyên gần được Chính Pháp, thì tâm liền được an định.

Hỏi: Loạn và cuồng khác nhau như thế nào?

Đáp: Có người tuy chẳng có cuồng mà tâm thường bị nhiễu loạn chẳng có thể tập trung chuyên chú, nên bị mất tâm lực, khiến chẳng có thể được Đạo.

Hỏi: Có bao nhiêu loại người cuồng?

Đáp: Có 2 loại người cuồng. Đó là:

1. Người cuồng mà ai nhìn thấy cũng biết.

2. Người có tâm ác độc, tà vạy mà người khác trông thấy khó nhận biết ra được.

Trong kinh có chép mẩu chuyện sau đây:

Ở bên Nam Thiên Trúc, có vị Pháp Sư ngồi trên tòa cao thuyết giảng về “5 giới”. Trong Hội có rất nhiều người Ngoại Đạo ngồi nghe giảng.

Lúc bấy giờ, có một vị vua nạn hỏi: “Y theo lời ngài thuyết giảng, thì người uống rượu cũng người đem rượu cho người khác uống đều bị quả báo điên cuồng như nhau. Như vậy, ắt là số người cuồng phải nhiều hơn số người có chính ý. Nhưng vì sao ở đời nay, số người có chính ý lại nhiều hơn số người cuồng?”

Hàng Ngoại Đạo nghe như vậy, rất vui mừng, nghĩ rằng Pháp Sư ở trên tòa chẳng sao giải đáp được. Họ nói lớn rằng: “Hay thay! Câu hỏi của vị vua rất sâu sắc, người ngồi trên tòa cao chắc chắn chẳng sao trả lời được”.

Pháp Sư ngồi trên tòa cao lấy tay chỉ thẳng về phía các Ngoại Đạo rồi tiếp tục thuyết giảng. Nhà vua liền hiểu ý của Pháp Sư, còn hàng Ngoại Đạo thì đắc chí cho rằng Pháp Sư vì chẳng có thể trả lời được nên nói lảng sang chuyện khác. Nhà vua bèn nói với các Ngoại Đạo rằng: “Pháp Sư ngồi trên tòa cao đưa tay chỉ về phía các ông là đã giải đáp xong lời vấn nạn của tôi rồi vậy. Vì muốn giữ thể diện cho các ông mà Pháp Sư không nói vậy thôi”. Rồi nhà vua nói tiếp: “Các ông trần truồng bôi đất cát cùng lên mình, nhổ tóc, nằm gai, mùa Đông nằm trên băng, mùa hạ nằm trên lửa… Tu hành như vậy chẳng phải là cuồng tướng hay sao? Lại nữa, các ông nói bán thịt, bán muối là trái với pháp Bà La Môn, thế nhưng khi tế trời các ông lại bán trâu sắm lễ vật mà vẫn cho là đúng pháp. Lại nữa, các ông còn nói tắm nước sông Hằng sẽ được sạch các tội cấu, Những việc chẳng có nhân duyên mà gượng ép làm nhân duyên đều là cuồng tướng vậy. Nay pháp sư không nói, nhưng các ông chấp tà kiến nói trên là đã cuồng rồi vậy”.

Hỏi: Do nhân duyên gì mà bị lâm vào cảnh đói khát.

Đáp: Vì đời trước mỏng phước đức mà đời nay bị đói khát; hoặc vì đời trước có cướp giật thức ăn của Phật, của các vị A La Hán, của chúng Tăng, của cha mẹ mà ăn, nên nay bị đói khát.

Hỏi: Vì sao có người có tội, bị đói khát, mà nay lại được gặp Phật?

Đáp: Đó là do nghiệp báo của chúng sinh không đồng nhau. Có người có nhân duyên thấy Phật, lại chẳng có nhân duyên được no đủ, có người có nhân duyên được no đủ, lại chẳng có nhân duyên được thấy Phật.

Trong kinh có chép mẩu chuyện sau đây:

Vào thời Phật Ca Diếp, có hai anh em xuất gia cầu đạo. Một người tinh tấn trì giới tụng kinh, tọa thiền. Một người rộng tu các phước nghiệp. Đến khi đức Phật Thích Ca Mâu Ni ra đời, một người sinh làm trưởng giả, một người sinh làm con voi trắng to lớn có sức công phá giặc. Người trưởng giả xuất gia được đạo, đắc quả A La Hán, nhưng vì phước bạc, nên đi khất thực rất khó khăn. Một hôm, đạo nhân ôm bình bát đi ngang qua chỗ voi trắng, thấy voi được cung cấp thức ăn uống quá đầy đủ, liền nói với voi: “Ta và ngươi đều có tội cả”.

Voi thông cảm lời nói ấy, nhịn đói, chẳng ăn uống gì suốt 3 ngày. Người giữ voi lo lắng, đi tìm vị đạo nhân than rằng: “Ngài đã nói gì, mà khiến voi bỏ ăn, bỏ uống vậy?”

Đạo nhân đáp: “Vào thời Phật Ca Diếp, tôi và voi trắng là hai anh em ruột. Anh em tôi cùng xuất gia cầu đạo. Tôi chỉ lo trì giới, tụng kinh, mà chẳng lo bố thí, còn em tôi chỉ lo bố thí và tu phước. Đời nay, em tôi sinh làm voi trắng được ăn uống đầy đủ, còn tôi nay đã được Đạo nhưng khất thực rất khó khăn, bởi nhân duyên vậy, nên nay tôi được gặp Phật, mà vẫn chẳng được ăn uống no đủ”.

Hỏi: Vì sao nói “Chúng sinh thấy Phật liền được no đủ”?

Đáp: Có thuyết nói “Phật dùng Thần Lực, khiến chúng sinh được no đủ”.

Có thuyết lại nói “Quang minh của Phật chạm vào chúng sinh khiến họ chẳng còn thấy đói khát”.

Có thuyết lại nói “Do nhất tâm niệm Phật, mà chúng sinh được no đủ, chẳng còn bị đói khát nữa”.

Hỏi: Vì sao nói “Chúng sinh thấy Phật, liền được lành bệnh”?

Đáp: Bệnh có hai thứ đó là:

– Bệnh ở bên trong, do các kiết sử phiền não nặng nề gây ra, hoặc do “tạng phủ không được điều hòa gây ra”.

– Bệnh ở bên ngoài, do bị cướp đoạt, đánh đập, đâm chém, trụy lạc… gây ra.

Hoặc do ăn uống không điều độ, do dầm mưa dãi gió, đi đứng bất thường… gây ra.

Có đến 404 thứ bệnh do 4 đại gây ra vậy. Chỉ có nương theo Thần Lực của Phật mới khiến các bệnh lành dứt được.

Trong kinh có chép mẩu chuyện sau đây:

Tại thành Xá Bà Đề, có một vị cư sĩ thỉnh Phật và chư Tăng thụ trai ngay ở tịnh xá. Phật chỉ ở tịnh xá dùng bữa trong 5 trường hợp. Đó là:

-Phật sắp nhập định.
-Phật sắp thuyết pháp cho chư Thiên nghe.
-Phật sắp đi thăm phòng của chư vị Tỳ Kheo.
-Phật sắp kiết giới cho các Tỳ Kheo chưa kiết giới.

Lúc bấy giờ Phật đi thăm các phòng, thấy có một Tỳ Kheo bệnh mà chẳng có ai chăm sóc. Phật hỏi vị Tỳ Kheo: “Người đang bị bệnh gì? Sao chẳng có ai đến chăm sóc cho ngươi cả vậy?”

Vị Tỳ Kheo đáp: “Bạch Thế Tôn! Vì trước đây con thấy người khác bệnh mà con lười biếng chẳng chăm sóc, nên nay con bị bệnh chẳng ai đến chăm sóc cho con cả”.

Phật dạy: “Nay TA chăm sóc cho ngươi”.

Nói xong Phật bảo người mang nước đến thoa lên thân của Tỳ Kheo khiến cơn bệnh giảm dần, thân tâm trở lại an lạc. Phật đưa vị Tỳ Kheo ra khỏi phòng tắm rửa, thay y áo, rồi bảo trải tọa cụ cho ngồi.

Xong Phật dạy vị Tỳ Kheo rằng: “Từ lâu ngươi chẳng tinh tấn tu hành, nay mới phải chịu quả báo khổ đau như vậy. Nếu vẫn tiếp tục biếng nhác, giải dãi không tinh tấn, thì về sau còn phải chịu nhiều khổ đau hơn nữa”.

Vị Tỳ Kheo nghe lời Phật dạy, thành tâm niệm ơn Phật, tức thì các khổ đau đều dứt, thân tâm liền được an lạc.

Bởi nhân duyên vậy, nên nói “do Thần Lực của Phật mà các bệnh được tiêu trừ”.

Hỏi: Do nhân duyên gì mà bị tàn tật?

Đáp: Vì đời trước đã phá hủy thân thể của người khác, hoặc đã phá hủy hình tượng của các Đức Phật, của các bậc Thánh, mà nay phải thụ khổ báo, mang thân tàn tật.

Lại nữa, do các hành vi xấu ác ở đời trước, mà đời nay phải thụ khổ báo, sinh ra đời với thân hình xấu xí, các căn chẳng được đầy đủ.

Lại nữa, do ở hiện đời bị nạn cướp bóc, giặc giã, hoặc bị tra tấn, hoặc bị mắc bệnh hiểm nghèo, khiến phải mang thân tàn phế.

Những người như vậy, nhờ ân đức của Phật, được các căn đầy đủ. Trong kinh có chép mẩu chuyện sau đây:

Ở trong thành Xá Vệ, có một người con của anh vua Ba Tư Nặc tên là Kiền Chỉ, đoan chính, mạnh mẽ, tâm tính đôn hậu. Bà Hoàng Hậu trông thấy liền sinh tâm đắm trước, nhưng lại bị khước từ. Bà Hoàng Hậu nổi giận, sàm tấu với nhà vua. Vua Ba Tư Nặc tin lời bà Hoàng Hậu, liền truyền đem Kiền Chỉ chặt tay chân, vứt thây ngoài đồng hoang. Đêm đến, có bầy chó sói tìm đến ăn thịt. Phật biết sự việc, liền chiếu quang minh đến tận nơi đó. Tức thì thân hình Kiền Chỉ được lành lặn, bình phục lại như cũ, tâm hoan hỷ an lạc. Rồi sau đó Phật lại nói pháp cho nghe, khiến Kiền Chỉ liền được Đạo. Kiền Chỉ theo Phật về tịnh xá Kỳ Hoàn, nói với mọi người biết là “ông đã bị chặt tay chân, vứt thây ngoài đồng hoang, may nhờ Phật phóng quang mà thân ông trở lại bình phục như cũ”, và nguyện “đem thân ông bố thí, cúng dường Phật, Tăng”

Vua Ba Tư Nặc nghe tin, đến tận tịnh xá Kỳ Hoàn nói với Kiền Chỉ rằng: “Ta xin sám hối tội lỗi với ngươi. Ngươi là người vô tội, bị hàm oan đến phải chịu cực hình thảm khốc đến vậy. Ta hứa phân chia cho ngươi một phần lãnh thổ để ngươi cai trị.”

Kiền Chỉ đáp: “Tôi đã nhàm chán cuộc đời, mà xét kỹ, vua cũng chẳng có tội gì cả. Chỉ vì đời trước tôi gây tội nên đời nay phải chịu khổ báo vậy thôi. Thân này đã bị tàn phế, nhờ quang minh của Phật mà được lành lặn như cũ, nên tôi nguyện đem thân này cúng dường Phật và Tăng.”

Bởi nhân duyên vậy, nên nói “nhờ quang minh của Phật mà người tàn tật được bình phục.”

KINH

Hết thảy chúng sinh đều phát tâm bình đẳng, xem nhau như cha mẹ, anh chị em, như bạn bè, như thiện tri thức. Hết thảy đều hành mười thiện nghiệp đạo, tịnh tu phạm hạnh, chẳng sinh tâm uế nhiễm, trở nên khoan khoái như vào Đệ Tam Thiền. Hết thảy đều phát trí tuệ tốt, thọ trì giới luật tốt, tự kiềm chế, chẳng còn làm nhiễu loạn nhau.

LUẬN

Hỏi: Chúng sinh chưa được ly dục, chưa có thiền định, chưa có 4 Vô Lượng Tâm, thì làm sao có được tâm bình đẳng?

Đáp: Đây chưa phải là bình đẳng trong Thiền Định, mà chỉ y theo pháp thế gian mà nói. Có nghĩa là chẳng còn oán giận, chẳng còn sân nhuế, chẳng còn tham lam… chỉ lấy thiện tâm đối đãi với nhau, cho nên gọi là bình đẳng vậy.

Lại nữa, như trong kinh nói “Giữ tâm bình đẳng là thấy người già thì xem như cha mẹ, thấy người lớn tuổi thì xem như anh chị, thấy người nhỏ thì xem như em, thấy người cùng trang lứa thì xem như bạn bè… Do tâm bình đẳng như vậy nên xem tất cả chúng sinh đều là thân thuộc của mình vậy.

Hỏi: Chẳng phải cha mẹ mà xem như cha mẹ. Như vậy có phải là vọng ngữ chăng?

Đáp: Chúng sinh trong vô lượng kiếp, đã từng là cha mẹ, anh chị em, bà con thân thuộc, bè bạn… của nhau.

Lại nữa, ở nơi Thật Tướng, thì chúng sanh trong vô lượng thế giới đều bình đẳng với nhau cả. Chỉ do điên đảo chấp Ngã, mà còn phân biệt người này là cha, là mẹ, là anh, là chị, là em, là bạn… Nếu lấy thiện tâm mà đối đãi nhau, thì lại càng phải thân thiết với nhau nhiều hơn nữa. Ví như thấy một đứa trẻ, nết na hiền lành, hay côi cút, nhiều người muốn đem nó về làm con nuôi vậy.

Như bài kệ thuyết:

Xem người già như cha mẹ
Người lớn tuổi như anh chị
Mọi người đều là thân thuộc
Như vậy mới là bình đẳng.

Lúc bấy giờ, với tâm bình đẳng, hết thảy mọi chúng sinh đều thực hành 10 Thiện Nghiệp Đạo gồm 3 nghiệp thân, 4 nghiệp khẩu, và 3 nghiệp ý.

3 nghiệp thân gồm: không sát – không đạo (trộm cắp) – không tà dâm.

4 nghiệp khẩu gồm: không vọng ngữ – không lưỡng thiệt – không ỷ ngữ – không ác khẩu.

3 nghiệp ý gồm: không tham – không sân – không si.

Hầu hết mọi chúng sinh đều tự mình hành 10 Thiện Nghiệp Đạo cùng khuyên mọi chúng sanh khác hành 10 Thiện Nghiệp Đạo.

Hỏi: 3 hạnh sau chẳng phải là Nghiệp Đạo. Như vậy vì sao lại nói chung hết thảy 10 hạnh đều là Thiện Nghiệp Đạo cả?

Đáp: 3 hạnh ấy chẳng phải là Nghiệp Đạo, nhưng làm duyên khởi cho nghiệp.

Hỏi: Đã nói thực hành 10 Nghiệp Đạo rồi, sao còn nói “tịnh tu Phạm Hạnh” làm gì nữa?

Đáp: Có người thực hành 10 Thiện Nghiệp Đạo, nhưng vẫn chưa đoạn sạch dâm dục, cho nên nay tán thán “sự tịnh tu Phạm Hạnh, chẳng còn sinh tâm uế nhiễm.”

Hỏi: Thế nào gọi là “Lạc”?

Đáp: Lạc có 2 thứ. Đó là: Nội Lạc và Niết Bàn Lạc.

-Nội Lạc là niềm vui ở bên trong, chẳng phải do duyên ngoại trần, mà do tu Phạm Hạnh, do hành tâm bình đẳng, mà có. Nội Lạc chẳng phải là thứ lạc thông thường của chúng sinh trong 3 cõi.

Ví như hành giả vào Tam Thiền được sinh Hỷ Lạc; hành giả hành Bát Nhã Ba La Mật, quán hết thảy phá tướng đều chẳng có sanh diệt, được Thật Trí Huệ, được tâm Vô Tướng, tâm không trụ chấp 3 cõi mà sinh lạc.

 – Niết Bàn Lạc, như lời Phật dạy là Đệ Nhất Lạc. Lạc này còn được gọi là Đệ Tam Thiền Lạc.

Có 2 trường hợp sanh lạc:

-Do có thọ, mà sanh lạc.
-Do dứt các thọ, mà sanh lạc.

Khi chẳng còn vướng mắc 5 “ấm thân” nữa, thì liền dứt được các thọ, được Vô Dư Niết Bàn.

Nên biết Sơ Thiền và Nhị Thiền cũng có lạc, nhưng chẳng bằng được Tam Thiền. Vì sao?

Vì Sơ Thiền có Lạc Căn và Hỷ Căn. 5 thức ngoài tương ưng với Lạc Căn, còn ý thức thì tương ưng với Hỷ Căn.

Nhị Thiền có ý thức tương ưng với Hỷ Căn.

Tam Thiền có ý thức tương ưng với Lạc Căn.

Như vậy, trong cả 3 Thiền, chỉ có Tam Thiền là có ý thức tương ưng với Lạc Căn mà thôi.

Chỉ có ý thức tương ưng với Lạc Căn, mới đầy đủ, còn 5 thức ngoài tương ưng với Lạc Căn là chưa đầy đủ. Cho nên, trong kinh nói “khoan khoái như vị Tỳ Kheo nhập Đệ Tam Thiền.”

Hỏi: Vì sao nói “Hết thảy đều phát trí tuệ tốt, thọ trì giới luật tốt, tự kiềm chế, chẳng còn làm nhiễu loạn nhau”?

Đáp: Khi ý thức đã tương ưng với Lạc Căn rồi, thì tâm được hoan hỷ, chẳng còn đắm trước, sự hiểu biết được chân chính, cho nên kinh nói “được trí huệ tốt”. Có được sự trí huệ tốt rồi mới thọ trì giới luật tốt, tự kiềm chế được mình, chẳng còn muốn làm nhiễu loạn người khác nữa.

Hỏi: Thọ trì giới luật là đã tự kiềm chế rồi. Vì sao còn nói thêm “Tự kiềm chế, chẳng còn làm nhiễu loạn nhau”?

Đáp: Thân Khẩu thuần thiện là “trì giới tốt”. Kiềm thúc thân tâm vào sự thuần thiện đó, mới gọi là “tự kiềm chế”. Tự kiềm chế rồi, thì chẳng còn làm nhiễu loạn chúng sinh nữa. Vì sao? Vì hết thảy các công đức đều nhiếp về “Giới, Định, Huệ” của thân. Như trì giới tốt đẹp là nhiếp về Thân Định, chẳng còn nhiễu loạn chúng sinh là nhiếp về Thân Huệ.

Hỏi: Vì sao nói “trì giới tốt đẹp”?

Đáp: Vì có nhiều người trì giới nhưng chẳng phải là trì giới tốt đẹp. Ví như có người Bà La Môn nhiễm chấp các pháp thế gian, cho rằng “bỏ nhà ra đi là trì giới tốt đẹp” hoặc cho rằng “đem sức mình làm ra các của cải vật chất là trì giới tốt đẹp v.v.” Họ lại xem các người xuất gia đi khất thực, chẳng có tự mình lảm ra của cải để tự nuôi sống thân, là chẳng có được các công đức. Như vậy là họ đã hủy báng người trì giới tốt đẹp.

Lại nữa, có người chấp các pháp thế gian, cho rằng “thưởng thiện, phạt ác, không bỏ rơi dòng họ thân thích, lập ra pháp luật để giúp đời, làm các việc có ích là đủ rồi, cần gì phải trì giới tốt đẹp?” Lại nói, “giữ tâm bất động, gặp người nguy khốn mà chẳng lo cứu cấp, gặp lúc hoạn nạn mà vẫn dửng dưng, thì trì giới tốt đẹp để làm gì?” Như vậy cũng là hủy báng người trì giới tốt đẹp.

Lại nữa, có người nói “có oán mà chẳng báo, có giặc mà chẳng chống, gặp kẻ ác mà chẳng trị, cứ an nhiên vô sự, thì thật là vô ích, sao nói là chẳng làm nhiễu loạn chúng sinh?”; hoặc làm kệ châm biếm, như:

Làm người không dũng kiện.
Chẳng lợi ích cho đời
Gặp nạn nhân chẳng cứu
Chẳng khác tượng gỗ đất.

Họ dùng mọi đủ lời lẽ không tốt đẹp để hủy báng người trì giới tốt đẹp, như vậy họ chẳng hiểu được diệu nghĩa “phát trí huệ tốt, trì giới tốt, tự kiềm chế, chẳng làm nhiễu loạn chúng sinh”. Họ chẳng biết rằng “người hành các pháp thiện ấy, được tâm an ổn, chẳng có sợ hãi các ách nạn, chẳng có sinh phiền não, được người khen ngợi, ái kính, thẳng đường về Niết Bàn tịch tịnh. Khi mạng chung vẫn giữ được tâm hoan hỷ, chẳng có gì lo sợ. Dù chưa được vào Niết Bàn, cũng được sanh vào cảnh giới an lành, như được sanh lên cõi Trời.

Bởi nhân duyên vậy, nên nói “Phát trí huệ tốt, trì giới tốt, tự kiềm chế, chẳng làm nhiễu loạn chúng sinh.”
(Hết quyển 8)