LUẬN
ĐẠI TRÍ ĐỘ

Nguyên tác: Bồ tát Long Thọ
Hán dịch: Pháp sư Cưu Ma La Thập
Việt dịch: Tỳ kheo ni THÍCH NỮ DIỆU KHÔNG

 

TẬP I
QUYỂN 1

Phẩm mở đầu
DUYÊN KHỞI

Đường Trí Độ Phật rộng mở bày
Biển Tâm sâu thẳm khắp cùng soi
Tướng Trí Độ, Phật nghĩa vô ngại.
Ngưỡng Trí Độ, Phật tánh khôn lường.
Diệt tận gốc hai chấp có không,
Chân thật tướng Thế Tôn chỉ dạy,
Thường trú, bất hoại, tịnh phiền não.
Kính lễ pháp Phật hằng tôn trọng,
Ruộng phước kia Thánh chúng vun trồng.
Hữu học, vô học tự trang nghiêm:
Mầm ái đời sau hằng tiêu diệt,
Ngã bặt dứt cùng căn trừ sạch,
Pháp thế gian vĩnh viễn xa lìa,
Nơi các pháp thường sanh công đức,
Tại chúng hội tối tôn tối thượng
Cúi lạy chân tịnh Đại Đức Tăng.
Nhất tâm thâm kính lễ Tam Tôn:
Bậc cứu thế từ tôn Di Lạc
Trí Huệ đệ nhất Xá Lợi Phất,
Vô tránh không hành Tu Bồ Đề.
Nay xin như lực tự diễn bày
“Đại Trí Bỉ Ngạn” thật tướng nghĩa
Ngưỡng mong chư thánh trí, đức chân
Nhất tâm tùy thuận lời con luận bàn.

ĐẶT VẤN ĐỀ:

Do nhân duyên gì mà Phật thuyết kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật? Phật pháp chỉ được tuyên bày khi có đại nhân duyên; chẳng phải không nhân duyên, hay do tiểu nhân duyên mà có được. Ví như núi Tu Di chẳng phải tự nhiên, hay do một kích động nhỏ mà lay chuyển được. Nay do đại nhân duyên gì mà Phật thuyết kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật?

LUẬN GIẢI:

Duyên khởi 1:

Trong Tam tạng kinh điển, Phật đã dùng các phương tiện trí để rộng dẫn các thí dụ, vì hàng Thanh Văn, mà thuyết pháp. Thế nhưng, Ngài chưa vội thuyết về Bồ Tát hạnh. Ví dụ như kinh A Hàm chỉ nói đến việc Đức Thế Tôn thọ ký cho Bồ Tát Di Lạc về đời sau sẽ thành Phật, hiệu là Di Lạc, mà vẫn không nói gì về hạnh Bồ Tát cả.

Nay Phật muốn, vì Bồ Tát Di Lạc, rộng nói về Bồ Tát hạnh.

Bởi nhân duyên vậy, nên Phật mới thuyết kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật này.

Duyên khởi 2:

Lại nữa, nay trong chúng hội có những Bồ Tát tu niệm Phật Tam Muội. Phật muốn cho họ được thể nhập vào niệm Phật Tam Muội, muốn họ ở trong Tam Muội được tăng ích, nên mới vì họ, thuyết kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật này.

Như trong kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật, ở phẩm đầu, Phật hiện Thần Túc Thông, phóng kim sắc quang minh chiếu khắp cả mười phương thế giới, Phật thị hiện đại thân thanh tịnh, quang minh tỏa các diệu sắc đầy khắp hư không; Phật ở trong đại chúng đoan chánh, thù diệu chẳng ai bì kịp, ví như núi Tu Di uy nghi giữa biển cả mênh mông. Các Bồ Tát thấy Phật biến hóa thần thông như vậy, đã nhất tâm niệm Phật Tam Muội, nên được bội phần tăng ích.

Bởi nhân duyên vậy, nên Phật mới thuyết kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật này.

Duyên khởi 3:

Lại nữa Bồ Tát (tức Phật Thích Ca Mâu Ni) thị hiển Đản sanh, phóng đại quang minh chiếu khắp mười phương, đi bảy bước, quan sát bốn phương rồi thuyết bài kệ rằng:

Đây là thân rốt sau
Thị hiện nơi thai phần
Ta sẽ vì chúng sanh
Hiển bày lý giải thoát.

Sau khi thuyết kệ như vậy rồi, Ngài lại hiển dụng thân của một người bình thường, từ khi sơ sanh cho đến lúc trưởng thành. Lại nữa, Ngài cũng hiển bày diệu pháp, rời bỏ thân thuộc, xuất gia học đạo. Rồi vào một đêm khi bóng tối bao trùm hoàng cung, tỉnh giấc quan sát các cung phi mỹ nữ đang say sưa trong giấc ngủ, trông chẳng khác gì những xác chết không hồn; Ngài liền bảo Xa Nặc đem con ngựa Kiền Trắc, theo Ngài Vượt thành, đi tìm Đạo. Đi được 12 do tuần, đến một khu rừng, Ngài gặp đạo sĩ Bạc Già Bà tìm hiểu về lối tu khổ hạnh. Ngài lấy dao cắt tóc, giao cho Xa Nặc mang về, cởi bỏ cẩm bào cùng các châu báu, khoác áo Tăng già lê bằng vải thô. Ngài đến sông Ni Liên Thiền tu khổ hạnh; mỗi ngày Ngài chỉ dùng ít mè, ít gạo. Sau 6 năm dài ép xác như vậy, Ngài tự niệm rằng “pháp tu khổ hạnh chẳng phải chánh đạo”. Ngài bèn rời bỏ chốn rừng già, tìm đến dưới cội cây Bồ Đề để tọa thiền, tự tìm cho được chân lý giải thoát. Loài ma vương đem 18 vạn ức ma chúng đến quấy phá Ngài. Ngài đã dùng lực công đức hàng phục chúng ma, và được Vô Thượng Bồ Đề.

Lúc bấy giờ, khắp 3000 Đại thiên thế giới, chư Thiên ở các cõi trời Dục- giới, Sắc-giới và Vô-sắc-giới đến thỉnh Ngài chuyển pháp luân. Y theo nguyện đại từ đại bi của chính mình cũng như của chư Phật quá khứ, Ngài nhận lời thỉnh nguyện của chư Thiên mà chuyển pháp luân, diễn bày vi diệu pháp.

Bởi nhân duyên vậy, nên Phật mới thuyết kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật này.

Duyên khởi 4:

Lại nữa có chúng sanh nghi rằng: “Đức Phật chưa chắc đã được Nhất Thiết Chủng Trí. Vì sao? Vì chư pháp vô lượng vô số; như vậy làm sao một người có thể biết hết được!”.

Phật an trú nơi Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật là thật tướng pháp, thanh tịnh như hư không, cho nên dù có vô lượng vô số pháp. Ngài vẫn tự nói lên lời chân thật với chúng sanh rằng: “Ta là bậc Nhất Thiết Chủng Trí”, để phá trừ hết thảy các mối nghi của chúng sanh.

Bởi nhân duyên vậy, nên Phật mới thuyết kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật này.

Duyên khởi 5:

Lại nữa, có chúng sanh có thể độ được, nhưng bị tà sư mê hoặc khiến phải bị chìm đắm trong tà pháp, chẳng sao vào được chánh đạo. Phật, vì họ, khởi đại bi tâm, dùng đại công đức trí huệ phá các tà kiến chấp, dìu dắt họ vào Phật đạo.

Phật vì họ, thể hiện vô số các diệu lực công đức. Như ở phẩm đầu kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật có nói: “Phật nhập vào chánh định Tam muội Vương. Sau khi xuất định, Phật hiển dụng thiên nhãn quán khắp mười phương thế giới; khắp toàn thân, từ đầu ngón chân đến tận nhục kế ở đỉnh đầu, phóng ra vạn ức quang minh kim sắc chiếu đến vô lượng vô biên hằng sa thế giới Phật”.

Phật hiển bày diệu lực như vậy để phá nghi, trừ chấp của chúng sanh, nhằm tuyên bày thật tướng của các pháp.

Bởi nhân duyên vậy, nên Phật mới thuyết kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật này.

Duyên khởi 6:

Lại nữa, có chúng sanh mê muội nói lời phỉ báng rằng: “Phật chẳng có trí huệ siêu việt hơn người, chỉ dùng huyễn thuật mê hoặc thế gian mà thôi”.

Nhằm phá trừ lưới nghi mê muội ấy, nên Phật hiện vô lượng trí huệ thần lực và dạy chúng sanh rằng: “Ta là đấng có vô lượng trí huệ thần lực, cao quý nhất trong ba cõi, hằng cứu độ chúng sanh. Nếu chúng sanh nào khởi ác, thì sẽ bị nghiệp lực lôi cuốn vào đường ác; chúng sanh nào khởi thiện sẽ được quả vị Niết Bàn.”

Bởi nhân duyên vậy, nên Phật mới thuyết kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật này.

Duyên khởi 7:

Lại nữa, Phật muốn chúng sanh tín thọ Chánh pháp. Phật dạy rằng: “Ta là bậc Đại Sư, đầy đủ 10 Phật lực, 4 vô sở úy, tự tại vô ngại, diễn âm sư tử hống, chuyển bánh xe pháp. Ta là bậc Tối Thượng trong hết thảy các cõi”.

Bởi nhân duyên vậy, nên Phật mới thuyết kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật này.

Duyên khởi 8:

Lại nữa, Phật muốn chúng sanh được Pháp hỷ. Phật dạy chúng sanh rằng: “Các ngươi nên sanh tâm đại hoan hỷ. Vì sao? Vì các ngươi bị trói buộc trong lưới tà kiến. Còn ta, dù cho bọn ác sư bủa lưới tà kiến để mê hoặc, nhưng ta chẳng rơi vào các ác sự ấy. Bậc Giác Ngộ rất khó gặp; nay các người đã có duyên lành gặp ta, thì ta sẽ tùy cơ nghi thuyết các pháp thậm thâm để các người tùy duyên thọ nhận”.

Bởi nhân duyên vậy, nên Phật mới thuyết kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật này.

Duyên khởi 9:

Lại nữa, Phật thương xót chúng sanh thường bị kiết sử quấy nhiễu, lại mang nặng các phiền não chướng cùng sở tri chướng, khiến phải chịu chìm đắm trong bể khổ sanh tử, từ đời vô thỉ đến nay, chẳng được cứu vớt; lại còn bị các ác sư ngoại đạo lừa dối mê hoặc. Phật dạy chúng sanh rằng: “Ta nay xuất thế làm bậc Đại Y Vương, đầy đủ các dược pháp, ta chỉ bày cho các ngươi biết tùy bệnh để chọn thuốc để uống, sẽ được lành bệnh, được an lạc”.

Bởi nhân duyên vậy, nên Phật mới thuyết kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật này.

Duyên khởi 10:

Lại nữa, có chúng sanh nghi rằng: “Phật cũng như người thường, cũng sanh, già, bệnh, chết, cũng chịu cảnh nóng lạnh, đói khát như hết thảy mọi loại chúng sanh”.

Phật muốn đoạn nghi cho họ, nên dạy rằng: “Thân Phật chẳng có thể nghĩ bàn được. Ta có thể thị hiện vô số vô lượng thân. Các hàng Trời, Người muốn suy lường về thân của ta, về âm thành của ta chẳng thể thực hiện được ý định, huống nữa là muốn nghĩ bàn về trí huệ Tam Muội của ta”.

Như bài kệ thuyết:

Thật tướng của chư pháp,
Các hàng Phạm Thiên Vương,
Hết thảy chư Thiên Giới,
Mê muội chẳng nhận được,
Pháp ấy rất thâm diệu,
Chẳng ai thể suy lường.
Phật xuất thế khai thị,
Sáng tỏ như mặt trời.

Lại như khi Phật chuyển pháp luân lần đầu tiên, chư Bồ Tát từ các cõi khác đến, muốn đo lường thân Phật, đã vượt hư không trải qua vô lượng cõi Phật, đến tận quốc độ của Đức Phật Hoa Thượng, mà vẫn còn trông thấy. Như bài kệ thuyết:

Hư không chẳng bờ mé,
Công đức Phật cũng vậy.
Muốn đo lường Phật thân,
Lao nhọc chẳng lường được.
Vượt qua hư không giới,
Trải qua vô lượng cõi Phật,
Thấy thân Phật Thích Ca,
Vẫn thế, chẳng gì khác.
Phật thân như Kim Sơn,
Tỏa chiếu muốn ánh sáng,
Đầy tướng hảo trang nghiêm,
Như hoa xuân giăng rải.

Thân Phật chẳng thế lường được, quang minh và âm thanh của Phật chẳng thể lường được; giới, định, huệ cùng hết thảy công đức của Phật cũng đều như vậy cả. Như trong kinh Phật Tích có trình bày đầy đủ.

Bởi nhân duyên vậy, nên Phật mới thuyết kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật này.

Duyên khởi 11:

Lại nữa Đức Thế Tôn thị hiện Đản sanh, đi bảy bước, rồi tuyên thuyết rằng: “Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn” (Dịch nghĩa: Trong vũ trụ này chẳng gì bằng chân ngã). Tiếp đó, Ngài thuyết kệ. Xong Ngài trở lại thân hài nhi bình thường, phó cho các dưỡng mẫu chăm sóc, nuôi nấng.

Thế nhưng thân Phật là vô lượng, là cùng khắp. Phật vì chúng sanh mà thị hiện thân phàm phu, từ khi sinh ra cho đến tuổi trưởng thành, Ngài cũng sinh hoạt như một người thường, cũng học đầy đủ các pháp thế gian. Phật hiển bày nhân pháp như vậy, để chúng sanh tín nhận. Vì sao? Vì nếu Bồ Tát mới sinh ra đã đi đứng nói năng được, thì người đời sẽ nghĩ rằng “Người như vậy chưa từng có ở thế gian, ắt phải là Thiên Long hay Quỷ Thần hiện thân ra vậy. Những việc người ấy làm, chúng ta chẳng có thể làm được”. Do nghĩ như vậy, mà chúng sanh không mong cầu trở thành bậc Thánh Hiền. Cho nên Đức Thế Tôn từ nơi vườn Lâm Tỳ Ni không đến ngay cội Bồ Đề để thành đấng Vô Thượng Chánh Giác, mà Ngài dùng phương tiện thị hiện thân hài nhi, dần dần theo tuổi lớn lên, thứ lớp học tập đầy đủ các môn văn học, mỹ thuật, nghệ thuật, hưởng thụ đầy đủ các thú vui chơi, theo nếp sống của hàng vương giả đương thời.

Vào một hôm, trong khi đi dạo chơi bốn cửa thành, tình cờ thấy cảnh đau khổ của “sanh, già, bệnh, chết”. Ngài quyết tâm xa lánh trần tục, nửa đêm vượt thành xuất gia, tìm đạo giải thoát. Ngài tìm đến Đạo sĩ Bạc Già Bà, cùng tu mkhổ hạnh, rồi thị hiện làm đệ tử của các vị tiên nhân Uất Đà Già và A La Lá. Ngài thành tựu hết thảy các pháp tu của các vị này mà chẳng hề đắm nhiễm. Tuy Ngài có Túc mạng thông, nhớ biết được tiền kiếp, đã có thời theo Phật Ca Diếp hành đạo, nhưng Ngài vẫn thị hiện tu khổ hạnh suốt 6 năm trời. Tuy Ngài là vị chúa tể của cả 3000 đại thiên thế giới, nhưng Ngài vẫn thị hiện dẹp phá ma quân, thành đạo Vô Thượng.

Ngài đã tùy thuận thế gian mà hiển bảy pháp như trên đây. Nay Ngài lại hiện đại thần thông, đại trí lực khiến chúng sanh thấy rõ thân Phật là biến khắp, chẳng ai có thể lường được, có thể nghĩ bàn được.

Bởi nhân duyên vậy, nên Phật mới thuyết kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật này.

Duyên khởi 12:

Lại nữa, Phật muốn phá trừ hai chấp đoạn và thường của chúng sanh, đưa chúng sanh vào trung đạo.

Bởi nhân duyên vậy, nên Phật mới thuyết kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật này.

Duyên khởi 13:

Lại nữa, Phật muốn chúng sanh phân biệt rõ sanh thân và pháp thân, quả báo và cúng dường.

Bởi nhân duyên vậy, nên Phật mới thuyết kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật này.

Duyên khởi 14:

Lại nữa, Phật muốn chúng sanh thấu rõ về A Bệ Bạt Trí và tướng của A Bệ Bạt Trí, thấy rõ huyễn sự và ma sự.

Bởi nhân duyên vậy, nên Phật mới thuyết kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật này.

Duyên khởi 15:

Lại nữa, vì nhân duyên cúng dường Bát Nhã Ba La Mật của chúng sanh ở đời sau, mà Phật muốn thọ ký cho cả ba thừa.

Như lời Phật dạy Ngài A Nan rằng: “Sau khi ta nhập Niết Bàn, kinh này sẽ truyền đến phương Nam, từ phương Nam sẽ truyền đến phương Tây, rồi 500 năm sau đó sẽ truyền đến phương Bắc. Ở phương Bắc sẽ có các thiện nam nữ đem tài vật, hương hoa, anh lạc, tràng phan, bảo cái… để cúng dường Bát Nhã Ba La Mật này. Lại có người tự mình viết chép, hoặc khuyên người khác viết chép, hoặc trì tụng, tín thọ, chánh ức niệm, như pháp tu hành, hoặc diễn nói khai thị cho người khác nghe. Phải nên biết các thiện nam thiện nữ này sẽ hưởng thọ đủ các lạc thú thế gian và cuối cùng sẽ được ba thừa đạo quả, sẽ được vào Vô Dư Niết Bàn.

Bởi nhân duyên vậy, nên Phật mới thuyết kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật này.

Duyên khởi 16:

Lại nữa, Phật muốn thuyết giảng về tướng của Đệ Nhất Nghĩa Tất Đàn.

Bởi nhân duyên vậy, nên Phật mới thuyết kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật này.

Có 4 thứ Tất Đàn, đó là:

  1. Thế giới Tất Đàn                         
  2. Vị Nhân Tất Đàn
  3. Đối Trị Tất Đàn
  4. Đệ Nhất Nghĩa Tất Đàn

Trong 4 Tất Đàn này tổng nhiếp 12 bộ kinh, gồm 8400 pháp tạng, tất cả đều là chân thật pháp, chẳng có gì trái ngược nhau.

Sở dĩ trong Phật pháp nói có 4 Tất Đàn, và nói cả 4 Tất Đàn đều như thật có, là nhằm đối trị mọi sự nhận định của chúng sanh ở 4 phạm trù riêng biệt vậy.

1, Thế giới Tất Đàn

Hỏi: Vì sao nói có thế giới Tất Đàn?

Đáp: Vì thế giới do các pháp duyên hợp mà có. Ví như cái bánh xe do thùng xe, bánh xe, trục xe, căm xe.v.v. hòa hợp mà có. Cũng như vậy, con người có 5 ấm duyên hợp mà thành.

Nếu thế giới Tất Đàn là không cần thiết, thì Phật đã không nói rằng: “Ta dùng thiên nhãn thanh tịnh thấy chúng sanh theo các nghiệp thiện ác, chết đây, sanh kia, chịu các nghiệp quả báo. Kẻ có thiện nghiệp, thì sanh về cõi Trời, cõi Người. Kẻ tạo ác nghiệp, thì đọa vào 3 đường dữ”.

Lại nữa, Kinh nói: “Một bậc Thánh nhân xuất thế khiến nhiều người được nhờ ơn phước lạc. Ví như Đức Phật ra đời làm lợi lạc cho tất cả chúng sanh”.

Kinh Pháp Cú nói: “Thần tự cứu Thần, kẻ khác chẳng làm sao cứu Thần được”. Tự mình thực hành các thiện hạnh mới tự cứu mình được vậy.

Kinh Bình Sa Vương ghi lời Phật dạy rằng: “Người chẳng chịu nghe Pháp là người thường hay chấp ngã”.

Kinh Niết Bàn ghi lời Phật dạy rằng: “Từ đêm thành đạo đến khi nhập Niết Bàn, tất cả những lời Phật dạy trong khoảng thời gian đó đều là chân thật, không điên đảo”.

Hỏi: Nếu không có ngã, không có chúng sanh thì sao Phật lại nói: “Ta dùng thiên nhãn thấy chúng sanh…”? Lại nữa, nếu nói “Chỉ có Đệ Nhất Nghĩa Tất Đàn mới là chân thật”, thì các Tất Đàn khác đều chẳng thật có hay sao?.

Đáp: Chẳng phải như vậy. Tất cả 4 Tất Đàn đều là chân thật, đều là như chư pháp tánh thật tế cả.

Thế giới, người, vật.v.v. có thể được xét như sau:

– Xét về tánh thì Thế Giới Tất Đàn nói là “không”, còn Đệ Nhất Nghĩa Tất Đàn nói là “có”.

– Xét về tướng, thì Thế Giới Tất Đàn nói là “có”, còn Đệ Nhất Nghĩa Tất Đàn nói là “không”.

Hỏi: Vì sao nói như vậy?

Đáp: Người do duyên 5 ấm hòa hợp nên có. Cũng như vậy, sữa do duyên hòa hợp của sắc, thanh, hương, vị, xúc mà có vậy.

Sữa chẳng có thể tự có được, nhưng nếu đã có sữa thì các duyên hòa hợp tạo ra sữa cũng phải có. Do có danh, có tướng, cho nên Thế Giới Tất Đàn nói là “có” vậy.

2)- Vị Nhân Tất Đàn

Hỏi: Tâm hạnh của mỗi người mỗi khác, có người thoạt nghe thuyết pháp đã hiểu ngay, có người nghe đi nghe lại nhiều lần mà vẫn chẳng hiểu gì cả. Như trong kinh đã nói: “Do tạp báo mà có tạp sanh ở thế gian, dẫn đến có tạp xúc, tạp thọ.” Vậy nên đối với mỗi người phải tùy theo căn cơ của họ mà nói cho họ nghe, thì họ mới thọ nhận được pháp.

Lại nữa, trong kinh Phá Quần Tà có ghi trường hợp một người đến hỏi Phật: “Bạch Thế Tôn! Ai là người phải thọ quả báo?”. Được Phật trả lời rằng: “Chẳng có ai xúc cũng chẳng có ai thọ”. Hai vấn đề vừa nêu trên đây có gì trái ngược nhau chăng?

Đáp: Trước là vì hạng người chẳng tin có đời sau, chẳng tin có tội phước, khiến phải rơi về chấp đoạn . Phật muốn đoạn nghi cho họ, và muốn nhổ tận gốc đoạn kiến nên mới dạy: “Do tạp nghiệp báo mà có tạp sanh ở thế gian này, dẫn đến có tạp xúc, tạp thọ”.

Sau là vì hạng người thâm chấp ngã và ngã sở, khiến phải rơi vào thường kiến. Vậy nên, khi có người đến hỏi Phật “ai thọ quả báo?” thì Phật trả lời dứt khoát rằng: “Chẳng có ai xúc, chẳng có ai thọ?”. Vì sao? Vì nếu họ nghe nói có người xúc, có người thọ, thì họ rơi ngay về thường kiến và ngã kiến vậy. Các lối nói phân biệt, tùy theo từng đối tượng như vậy gọi là Vị Nhân Tất Đàn.

3)- Đối trị Tất Đàn

Hỏi: Sao gọi là Đối Trị Tất Đàn?

Đáp: Pháp đối trị thì có, mà thật tánh thì không. Ví như các món ăn, hoặc các cây cỏ thuốc nồng, cay, mặn.v.v. đối với các bệnh phong thấp, bại xuội có thể là những phương thuốc hay, mà đối với nhiều bệnh khác thì chẳng phải như vậy. Các món ăn hoặc các cây cỏ thuốc có chất đắng, chua.v.v. đối với các bệnh lạnh, thì có thể là những phương thuốc hay, mà đối với nhiều bệnh khác thì chẳng phải như vậy.

Dùng Phật pháp để trị tâm bệnh của chúng sanh cũng tương tự vậy. Ví như quán Bất tịnh là pháp hữu hiệu nhất để đối trị bệnh tham dục nặng nề, nhưng pháp quán này chẳng thể đối trị bệnh sân nhuế. Vì sao? Đối với hạng người này, quán pháp Bất tịnh chỉ làm tăng thêm lửa sân mà thôi. Đối với họ phải dùng từ tâm mới đối trị được.

Quán Từ Bi là phương pháp hữu hiệu nhất để đối trị bệnh sân nhuế, nhưng pháp quán này chẳng có thể đối trị được bệnh tham dục. Vì sao? Vì người tham dục mong cầu sự tốt đẹp, mà pháp quán này chỉ làm cho sự tham dục càng thêm tăng trưởng. Quán Nhân Duyên là phương pháp hữu hiệu nhất để đối trị bệnh ngu si, nhưng pháp quán này chẳng thể đối trị được các bệnh tham dục và sân nhuế. Vì sao? Vì khi quán như vậy, các hạng người này dễ sanh tà kiến, mà tà kiến tức là ngu si vậy.

Hỏi: Trong pháp Phật thì pháp Nhân Duyên là pháp thậm thâm, như lời phật dạy Ngài A-Nan: “Pháp Nhân Duyên khó thấy, khó hiểu, khó tỏ ngộ, khó quan sát”. Như vậy, người trí mới thấy rõ được, kẻ ngu làm sao có thể hiểu được. Đối với hạng người này thì những pháp thông thường còn chưa hiểu nổi, huống nữa là pháp Nhân Duyên quá cao sâu, làm sao họ có thể hiểu được.

Nay vì sao lại có người ngu si nên quán pháp Nhân Duyên?

Đáp: Hạng người này chẳng phải ngu si như bò trâu, dê ngựa. Mà chỉ vì họ bị vô minh ngăn che tâm trí, nên khởi sanh đủ thứ tà kiến chấp. Nếu họ quán được pháp Nhân Duyên, thì họ sẽ cởi bỏ được tà tâm. Vậy nên pháp quán này là thiện pháp đối trị bệnh ngu si.

Đối với hạng người nhiều sân nhuế và tham dục, thì pháp quán này chẳng phải là pháp đối trị hay. Chỉ có quán Từ Bi mới trừ được độc hại của bệnh sân nhuế, cũng như quán Bất Tịnh mới nhổ tận gốc rễ căn bệnh tham dục.

Lại nữa, có người điên đảo rơi về thường kiến, chẳng biết tương sanh, tương lập giữa các pháp, thì phải nên dạy họ quán Vô Thường.

Đây là Đối Trị Tất Đàn, chẳng phải là Đệ Nhất Nghĩa Tất Đàn. Vì sao? Vì hết thảy pháp đều tự tánh không, như bài kệ thuyết:

Vô thường nhận là thường
Ấy gọi là điên đảo
Tánh không chẳng phải thường
Cũng chẳng phải vô thường

Hỏi: Hết thảy pháp hữu vị đều mang tướng vô thường. Như vậy là Đệ Nhất Nghĩa chăng?

Lại nữa, hết thảy các pháp hữu vi đều có 4 tướng sanh, trú, dị, diệt. Như vậy, vô thường là thật. Vì sao nói vô thường chẳng phải là thật?

 Đáp: Pháp hữu vi chẳng có 4 tướng ấy, vì cả 4 tướng ấy đều không thật có. Vì sao? Nếu sanh, trú, dị, diệt là 4 tướng của pháp hữu vi thì ở nơi sanh cũng phải có cả 4 tướng ấy. Như vậy quả là vô cùng, vô tận.

Lại nữa, nếu pháp hữu vi có 4 tướng sanh, trú, dị, diệt và mỗi một trong 4 tướng ấy cũng có đầy đủ cả 4 tướng ấy, thì cũng chẳng nên nói pháp hữu vi là thật có. Vì sao? Vì thật tướng của pháp hữu vi cũng là “Không”. Bởi vậy nên nói “pháp hữu vi là pháp vô thường”, chẳng phải là Đệ Nhất Nghĩa Tất Đàn vây.

Lại nữa, nếu hết thảy pháp tánh đều là vô thường thì chẳng có nghiệp báo hiện hành. Vì sao? Vì vô thường là sanh diệt, mà đã sanh diệt thì tợ như hạt giống đã bị hư thối chẳng sao sanh được cây, được quả; vậy nên chẳng có hành nghiêp cũng chẳng có quả báo được. Nay hết thảy chư Hiền Thánh đều nói đến quả báo, và chư thiện tri thức đều tín thọ, nên phải biết các pháp chẳng phải tánh vô thường vậy.

Do được vô lượng duyên tạo tác, mà các pháp hữu vi có 4 tướng sanh, trú, dị, diệt. Nói các pháp hữu vi là vô thường, là khổ, là không, là vô ngã đều như vậy cả.

Do Đối Trị Tất Đàn mà phân biệt ra có các tướng sai khác.

4)- Đệ Nhất Nghĩa Tất Đàn.

Hỏi: Sao gọi là Đệ Nhất Nghĩa Tất Đàn?

Đáp: Tất cả các luận nghị, ngôn ngữ, thật pháp cũng như phi pháp đều có thể phân biệt, có thể phá tan. Chỉ riêng chân thật pháp của Phật, của Bồ Tát, của Bích Chi Phật, của A La Hán là chẳng có thể phá tan được mà thôi.

Bởi vậy nên, những gì mà ba Tất Đàn trên không thông suốt được, thì Đệ Nhất Nghĩa Tất Đàn đều thông suốt được cả.

Hỏi: Sao gọi là thông suốt?

Đáp: Thông suốt là vượt ra khỏi mọi lỗi lầm, chẳng thể đổi thay, chẳng có gì hơn được. Vì sao? Vì Đệ Nhất Nghĩa Tất Đàn chẳng thể bị phá hoại, chẳng thể làm biến đổi được, trong khi đó thì các Tất Đàn khác đều bị phá hoại, đều biến đổi. Như bài kệ thuyết:

Kiến chấp nơi các pháp
Hý luận khởi cạnh tranh
Biết vậy, thật biết pháp,
Không biết là báng pháp.
Chẳng dung pháp của người,
Ấy là kẻ vô trí.
nơi tự kiến pháp
Khởi sanh các luận giải.
Đối với bậc Tịnh Trí,
Chẳng gì mà chẳng tịnh.

Trong bài kệ trên đây, Phật thuyết về tướng của Đệ Nhất Nghĩa Tất Đàn, hàm ý nghĩa “ở thế gian, chúng sanh thường khởi các kiến chấp, lại tự ý theo luận giải của riêng mình nên thường khởi cạnh tranh. Chúng sanh đâu có biết rằng “gốc của tất cả hý luận đều ở nơi kiến chấp”. Như bài kệ thuyết:

Hý luận sanh do vì thọ pháp
Pháp chẳng thọ, luận chẳng dấy sanh.
Có thọ, không thọ, đều kiến chấp.
Biết vậy rồi, mọi chấp tiêu trừ.

Nếu hành giả biết rõ như vậy, thì đối mọi pháp, mọi thuyết, mọi lý luận cũng đều chẳng lãnh thọ, chẳng kiến chấp, chẳng bảo thủ ý kiến của riêng mình. Do vậy mà chẳng cùng người khác khởi cạnh tranh. Biết như vậy là “như thật biết” vị cam lồ của pháp Phật. Nếu chẳng biết như vậy là hủy báng pháp.

Nếu chẳng thọ nhân pháp của người khác, hoặc chẳng hay biết đến, thì đó là người vô trí. Bởi vậy nên những ai khởi tranh luận cũng đều là vô trí cả. Vì sao? Vì ai cũng cho “pháp của mình là chân thật bậc nhất, pháp của người là vọng ngữ, là không đúng đắn”, đó là cội gốc của sự đấu tranh tương tục, không ngừng nghỉ. Ví như luật pháp thế gian ban hành những hình phạt độc ác, như tra khảo, chém giết, nhằm trừng trị những kẻ phạm tội. Người thế tục cho đó là đúng, là tịnh, còn người tu hành thì cho đó là xấu ác, là bất tịnh.

Lại nữa, người xuất gia ngoài đạo tin ở pháp tu khổ hạnh của mình là đúng, các pháp tu khác đều là si pháp cả. Hàng Bạch Y Bà La Môn cũng cho pháp của mình là diệu pháp, còn các pháp khác chỉ là vọng ngữ.

Lại nữa, sau khi Phật nhập Niết Bàn, các Tỳ Kheo, do không có cùng quan điểm với nhau về một số vấn đề, đã chia thành nhiều bộ phái tranh luận với nhau kéo dài hằng thế kỷ. Chỉ nói riêng quan điểm về sắc thân của con người cũng đã có nhiều sai khác. Có nhóm cho rằng “con người do 4 đại duyên hợp tạo thành”. Có nhóm chỉ cho rằng “con người có 5 ấm duyên hợp tạo thành”. Có nhóm thì cho rằng “con người chẳng ngoài 5 ấm, 5 ấm chẳng ngoài con người, không thể nói 5 ấm là con người, ngoài 5 ấm có con người, vì con người được xếp vào tạng thứ 5, chẳng nhiếp vào pháp tạng, nên là bất khả thuyết, chẳng thể dùng lời nói lên được”. Có nhóm cho rằng “trong mọi sự việc, ở mọi thời, nơi mọi pháp môn, chẳng sao tìm được Ngã, vì ngã ví như lông rùa sừng thỏ, chẳng sao có được”. Có nhóm cho rằng “5 ấm, 12 nhập, 18 giới là thật có, mà ở trong đó vẫn chẳng sao tìm được NGÔ. Có nhóm lại cho rằng “hết thảy pháp chẳng có sanh, chẳng có diệt, nên chẳng có gì hết, hết thảy pháp Phật đều ví như lông rùa sừng thỏ, là thường KHÔNG vậy’.

Tóm lại, hết thảy hàng luận nghị đều suy nghĩ theo ý riêng của mình, chẳng ai muốn nghe pháp của người khác, ai cũng muốn tự cho pháp của mình là thật, pháp của người là vọng, để rồi tự thọ lãnh và tu hành pháp riêng của mình, ai cũng thủ chấp pháp của mình, chẳng hề quan tâm đến pháp của người khác. Đó là lầm lỗi lớn của hàng nghị luận vậy.

Các bậc tu hành, khi đã đến chỗ rốt ráo thanh tịnh, đã rõ được Đệ Nhất Nghĩa rồi, thì trong hết thảy các pháp, chẳng thấy có pháp nào là thanh tịnh cả.

Hỏi: Nếu có hết thảy các kiến chấp đều lầm lỗi, thì sao lại nói Đệ Nhất Nghĩa Tất Đàn là đúng?

Đáp: Hết thảy các ngữ ngôn, hết thảy các tướng Tâm đều diệt, đều chẳng có chỗ sở y. Bởi vậy nên hết thảy pháp chẳng thị hiện, chẳng có trước cũng chẳng có sau, chẳng có thành cũng chẳng có hoại. Như vậy là Đệ Nhất Nghĩa Tất Đàn.

Như bài kệ thuyết:

Nói năng bặt dứt
Tâm hành cũng không,
Chẳng sanh, chẳng diệt,
Như pháp Niết Bàn.
Nói có hành xứ,
Là Thế Giới pháp.
Nói không hành xứ,
Là Đệ Nhất Nghĩa.
Hết thảy đều thật,
Hết thảy không thật,
Và hết thảy thật,
Cũng là không thật.
Hết thảy không thật,
Chẳng phải không thật.
Ấy Thật Tướng pháp,
Thật Tướng vô tướng.

Đệ Nhất Nghĩa Tất Đàn được nói trong các kinh Ma Ha Diễn là như vậy. Nghĩa lý quá sâu xa, rất khó thấy, rất khó giải.

Bởi nhân duyên vậy, nên Phật thuyết kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật này.

Duyên khởi 17:

Lại nữa, Phật muốn hàng đại luân sư, như Phạm Chí Trường Trảo (một vị Phạm Chí có móng tay dài) sinh tín tâm thanh tịnh đối với Phật pháp.

Bởi nhân duyên vậy, nên Phật thuyết kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật này.

Trong kinh có nói Phạm Chí Trường Trảo cùng với một số các vị đại luận sư ở cõi Diêm Phù Đề cho rằng: “Hết thảy các luận thuyết  đều có thể phá, hết thảy các lời đều có thể hoại, mọi thứ chấp đều có thể bị lay chuyển. Vậy nên, chẳng có Pháp nào đáng tin tưởng, chẳng có người nào đáng tôn kính”.

Trong kinh Xá Lợi Phất Bản Mạc có chép về vị Phạm Chí này như sau:

Ông là cậu của Ngài Xá Lợi Phất, tên là Câu Hy La. Vào một hôm, Câu Hy La luận nghị với chị là bà Xá Lợi, nhưng chẳng sao bì kịp. Ông bèn nghĩ rằng: “Đây chẳng phải do sức của chị ta, ắt phải có một đại trí giả, gá vào bào thai của chị ta, gởi lời qua trung gian của mẹ. Vị này chưa sanh mà đã như vậy rồi, ắt về sau sẽ là một bậc có trí huệ siêu quần.”

Suy nghĩ như vậy rồi, ông sanh tâm kiêu mạn, tật đố, nên liền hạ quyết tâm xuất gia làm Phạm Chí, để được học thuật nhiều các kinh thơ, luận nghĩa. Ông tìm đến xứ Nam Trúc, tham cứu kinh thơ. Có người hỏi ông “muốn học những kinh gì?”. Ông không chút ngần ngại đáp rằng: “Ta muốn học đủ cả 18 bộ kinh”. Lại có người nói với ông rằng:

“Suốt một đời người học cho thông suốt một bộ kinh còn khó, huống nữa là học đủ 18 bộ kinh”.

Mặc dù nghe như vậy, ông vẫn không sờn lòng, và phát thệ rằng: “Ta đã bị người làm nhục nên ta quyết chẳng cắt móng tay, ta quyết tâm học thông suốt hết cả 18 bộ kinh”. Người ngoài thấy ông để móng tay dài nên gọi ông là Phạm Chí Trường Trảo.

Trường Trảo dồn hết nghị lực học thông suốt cả 18 bộ kinh, rồi dùng trí huệ phá các luận nghĩa của các luận sư đương thời.

Một hôm, Trường Trảo trở về quê cũ, hỏi thăm tin tức về bà chị. Có người nghe ông hỏi “chị ta sanh rồi, nay ở đâu?”. Liền trả lời: “Con trai của chị ông khi mới vừa 8 tuổi đã thông suốt hết các kinh thơ; đến năm 16 tuổi đã luận nghĩa vô ngại thắng hết các luận sư danh tiếng. Hiện nay có một đạo nhân tên là Cù Đàm, thuộc dòng họ Thích, thu nhận con của chị ông là đệ tử”.

Trường Trảo nghe xong liền dấy tâm kiêu mạn, chẳng tin sự việc có thể xảy ra như vậy, bèn nói với người kia rằng: “Con của chị ta thông minh xuất chúng, như vậy đạo nhân Cù Đàm đã dùng tà thuật gì mà dụ dỗ cháu của ta cạo đầu làm đệ tử?”

Nói xong ông liền đi đến chỗ Phật để hỏi cho ra lẽ. Lúc bấy giờ, Ngài Xá Lợi Phất vừa mới thọ giới được nửa tháng, đang đứng hầu bên Phật.

Trường Trảo nghe Phật hỏi thăm, liền ngồi xuống một bên, dấy niệm rằng: “Trí huệ của ta như biển cả mênh mông, có công năng phá được hết thảy các luận nghị. Ta hãy hỏi thử xem đạo nhân Cù Đàm đã dùng luận nghị gì mà thu phục được con của chị ta làm đệ tử?”

Suy nghĩ như vậy rồi, ông bèn nói với Phật rằng: “Này ông Cù Đàm! Hết thảy pháp ta đều chẳng thọ. Ý ông nghĩ sao?”

Phật đáp: “Hết thảy pháp ngươi đều chẳng thọ. Như vậy, ngươi có thọ kiến chấp ấy không ?”

Lúc bấy giờ Trường Trảo như con ngựa tốt, vừa thấy bóng roi liền chạy về đúng đường. Ông liền xả bỏ tâm kiêu mạn, cúi đầu suy nghĩ “đã nói chẳng thọ hết thảy pháp, thì làm sao ta thọ kiến chấp ấy được ?”

Nghĩ như vậy rồi, ông liền nói với Phật rằng: “Này ông Cù Đàm! Hết thảy pháp ta đều chẳng thọ, kể luôn cả kiến chấp ấy ta cũng chẳng thọ nữa”.

Phật dạy: “Ngươi nói hết thảy các pháp ngươi đều chẳng thọ, đến kiến chấp chẳng thọ đó ngươi cũng chẳng thọ luôn. Như vậy, có gì khác nhau đâu mà ngươi sanh kiêu mạn?”.

Trường Trảo biết mình tự mâu thuẫn với chính mình, sanh tâm cung kính Phật, và tự nghĩ rằng: “Ta rơi vào chỗ mâu thuẫn rồi. Phật chẳng vạch trần chỗ mâu thuẫn nơi ý nghĩ của ta; Phật cũng chẳng nói gì trái với ta cả. Thế mới biết Tâm Phật thật nhu nhuyến, thanh tịnh. Hết thảy ngôn ngữ luận nghị đều diệt mới là đại thâm pháp, là pháp thanh tịnh bậc nhất, chẳng lỗi lầm”. Trường Trảo rõ biết Phật thuyết pháp chỉ nhằm đoạn tà kiến cho riêng mình, nên đang ngồi tại chỗ mà ông đã xa lìa được trần cấu, được pháp nhãn thanh tịnh.

Ngay lúc ấy, Ngài Xá Lợi Phất thoạt  nghe lời Phật dạy như vậy liền chứng quả A La Hán.

Nếu Phạm Chí Trường Trảo chẳng được nghe khí phần Bát Nhã Ba La Mật là pháp Đệ Nhất Nghĩa, thì một chút lòng tin cũng chẳng thể có được, huống nữa là được đạo quả của bậc xuất thế.

Phật muốn dìu dắt các đại luận sư lợi căn, thượng trí như ông Phạm Chí Trường Trảo, nên mới thuyết kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật này.

Duyên khởi 18:

Lại nữa, chư Phật có hai lối thuyết pháp là:

  1. Quán tâm chúng sanh mà thuyết pháp
  2. Quán các tướng mà thuyết pháp.

Nay Phật muốn cho các chúng sanh thấy rõ thật tướng của các pháp. Như ở phẩm “Vấn Tướng”, phẩm thứ 49 của kinh Bát Nhã Ba La Mật, khi các chư Thiên hỏi Phật: “Bát Nhã Ba La Mật rất sâu xa, như vậy làm sao mà có thể biết được tướng của Bát Nhã Ba La Mật ?”. Phật liền dạy rằng: “Này các Thiên Tử! Không tướng, Vô Tướng tướng, Vô Tác tướng, Vô Sanh tướng, Vô Diệt tướng, Vô Tịnh tướng, Vô Cấu tướng, Vô Hành tướng, Vô Sở Hữu tướng, như Hư Không tướng,.v.v. đều là tướng của Bát Nhã Ba La Mật.

Bởi nhân duyên vậy, nên Phật thuyết kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật này.

Duyên khởi 19:

Lại nữa, cũng có hai lối thuyết pháp là:

  1. Thuyết pháp có tranh cãi
  2. Thuyết pháp không có tranh cãi.

Nói có tướng hay không có tướng, có vật hay không có vật, có chỗ y cứ, có thế giới hay không có thế giới… dẫn đến có mê, có ngộ, có chúng sanh, có Phật.v.v. đều thuộc về lối thuyết pháp có tranh cãi, vì có đối đãi vậy.

Nay Phật muốn thuyết minh lối thuyết không có tranh cãi.

Bởi nhân duyên vậy, nên Phật thuyết kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật này.

Hỏi: Phật là đấng Đại Từ, Đại Bi, chỉ thuyết những pháp không có tranh cãi. Vì sao Phật cũng có thuyết những pháp có tranh cãi?

Đáp: Các pháp không tranh cãi đều là vô tướng, thường vắng lặng, nên chẳng có thể dùng lời nói mà diễn bày được. Các pháp Bố Thí, Trì Giới, Tinh Tấn, Nhẫn Nhục, Thiền Định, Trí Huệ; cũng như các pháp Vô Thường, Khổ, Không, Vô Ngã .v.v. đều vắng lặng, chẳng có hý luận. Người lợi căn, thượng trí nghe xong liền hiểu ý Phật, nên chẳng khởi tranh cãi. Người độn căn, thiểu trí, vì chẳng hiểu được ý Phật nên sanh chấp tướng, rồi từ đó khởi tranh cãi.

Bát Nhã Ba La Mật là pháp rốt ráo, nên chẳng có tranh cãi. Vì sao? Vì đã rốt ráo thì chẳng còn có đối đãi nên chẳng y cứ vào đâu để khởi tranh cãi. Lại nữa, đã là rốt ráo thì  và không đều vắng lặng.

Bởi nhân duyên vậy, nên Phật thuyết kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật này.

Duyên khởi 20:

Lại nữa, trong kinh thường nói về ba lối thuyết pháp, đó là:

  1. Thuyết pháp về pháp thiện
  2. Thuyết về pháp bất thiện
  3. Thuyết pháp về pháp vô ký

Nay Phật muốn thuyết về pháp Không, chẳng phải thiện, chẳng phải bất thiện, cũng chẳng phải vô ký, nên mới thuyết kinh Bát Nhã Ba La Mật này.

Khi thuyết về các pháp Hữu Học, pháp Vô Học, pháp Kiến Đế, các pháp thượng, trung, hạ cùng vô lượng các pháp khác, đều phải dùng đến 3 lối thuyết pháp nêu trên đây.

Ví như, khi thuyết Tứ Niệm Xứ cho hàng Thanh Văn, Phật chỉ nhằm dạy các Tỳ Kheo quán thân bất tịnh để đối trị với bệnh tham dục. Trái lại, khi thuyết giảng Tứ Niệm Xứ cho hàng Bồ Tát thì Phật lại dạy dùng Trí huệ Bát Nhã để quán nội thân bất tịnh mà vẫn chẳng sanh giác quán. Bồ Tát quán nội thân bất tịnh mà không sanh giác quán là việc rất khó làm, nhưng người tu hạnh Bồ Tát phải hạ quyết tâm làm cho được. Cũng như vậy, Bồ Tát quán ngoại thân, nội ngoại thân, mà ở nơi thân vẫn chẳng sanh giác quán, tức là bất khả đắc thân. Bởi vậy nên Bồ Tát được vô sở đắc. Đối với ba Niệm Xứ kia cũng đều như vậy.

Nói rộng, tu 4 Chánh Cần, 4 Như Ý Túc, cùng tất cả các pháp môn khác cũng đều như vậy cả.

Lại nữa, trong các kinh thường nói “5 ấm là vô thường, là khổ, là không, là vô ngã”. Thế nhưng, trong kinh Bát Nhã Ba La Mật, Phật lại dạy Ngài Tu Bồ Đề rằng: “Bồ Tát quán sắc là thường mà chẳng hành sắc thường, mới là hành Bát Nhã Ba La Mật; quán thọ, tưởng, hành thức là thường, mà chẳng hành, thọ, tưởng, hành, thức thường là hành Bát Nhã Ba La Mật. Dẫn đến quán sắc là vô thường, mà chẳng hành sắc vô thường .v.v. mới là hành Bát Nhã Ba la Mật. Nói rộng cho đến vô lượng pháp môn cũng đều như vậy cả”.

Bởi nhân duyên vậy, nên Phật thuyết kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật này.

Nghĩa Bát Nhã Ba La Mật vô cùng vô tận, lý duyên khởi cũng vô lượng vô biên. Nay chỉ lược thuyết một số lý duyên khởi đủ để dẫn nhập vào bộ luận này.

***

Phẩm Thứ Nhất
PHẨM TỰ

Nói về nghĩa:

Như Thị Ngã Văn: Nhất thời…
(Như vậy tôi nghe: Một thời..)

KINH:

Như vậy tôi nghe một thời….

LUẬN:

Hỏi: Vì sao tất cả các kinh Phật đều mở đầu bằng hai chữ “NHƯ VẬY”?

Đáp: Phật pháp mênh mông như biển cả. Phải có tín tâm mới vào được biển Phật pháp; có tín tâm mới sanh tín lực, giúp hành giả vượt qua mọi khó khăn thử thách, tinh tấn tu học, thẳng tiến trên đường hành đạo.

“NHƯ VẬY” đặt ở ngay đầu mỗi quyển kinh, khẳng định lòng tin sâu dày của các bậc kiết tập kinh điển đối với lời Phật dạy. Người có tín tâm thanh tịnh mới vào được biển Phật pháp. Người không có tín tâm thì chẳng sao được NHƯ VẬY.

Ví như da trâu đã được thuộc rồi. Trở nên mềm mại, dễ uốn nắn; cũng như vậy, hành giả nếu được trang bị tín tâm thanh tịnh, sẽ vận hành pháp Phật một cách mềm mại, nhu nhuyến.

Phật dạy: “Ví như người có đầy đủ hai tay, nếu vào được trong núi báu, sẽ tha hồ lượm nhặt các vật báu, còn người mất cả hai tay, thì dù có vào được cũng chẳng lượm nhặt được gì cả. Cũng như vậy, hành giả có tín tâm thanh tịnh, nếu vào được trong núi báu Phật pháp, sẽ được tự tại thọ lãnh vô lậu căn, vô lậu lực, thiền định, trí huệ .v.v. người không có tín tâm chẳng bao giờ được NHƯ VẬY.

Trên đây, Phật mật ý dạy rằng: “Người có tín căn mới vào được trong biển Phật pháp mênh mông của Như Lai, xứng đáng được gọi là Sa Môn, mà không uổng công cạo đầu, nhuộm y vậy. Trái lại người không có tín căn, thì dù có cạo đầu, nhuộm y, cũng chẳng sao vào được biển Phật pháp; chỉ ví như cây khô chẳng sao có thể đâm chồi, nẩy lộc, đơm hoa, kết quả vậy”.

Lại nữa, Phật pháp thậm thâm, vi diệu. Nếu không có tín căn, tín lực thì chẳng có thể mong thấu rõ được.

Khi Phạm Thiên Vương thỉnh Phật chuyển pháp luân, có bài kệ để bạch Phật rằng:

Chúng sanh cõi Diêm Phù
Hành nhiều pháp bất thiện.
Xin mở lối “Cam Lồ”
Chỉ bày Đạo thanh tịnh
Phật dùng kệ đáp lại rằng:
Pháp ta rất khó được
Nếu chẳng đoạn kiết sử,
Còn đắm chấp ba cõi,
Chẳng sao thấu rõ được.

Lúc bấy giờ, Phạm Thiên Vương bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Căn trí của chúng sanh trong thế gian có ba hạng thượng, trung và hạ. Có chúng sanh thiện tâm mềm mại; có chúng sanh trực tâm nhu hòa. Những chúng sanh như vậy có thể được độ thoát; nhưng nếu họ chẳng nghe được chánh pháp, thì vẫn có thể bị đọa vào 3 đường dữ. Ví như trong ao sen, có hoa đã ló lên khỏi mặt nước, có hoa còn ở dưới nước; nhưng nếu như chẳng có ánh sáng mặt trời, thì các hoa sen ấy chẳng sao nở ra được. Phật như ánh sáng mặt trời; cúi xin Phật thương xót chúng sanh, vì họ thuyết pháp”.

Y theo hạnh nguyện của chính mình, cũng như của chư Phật trong quá khứ, Phật đã nhận lời thỉnh nguyện của chư Thiên mà chuyển pháp luân và thuyết kệ rằng:

Khai mở đạo Cam Lồ,
Gieo niềm tin hoan hỷ.
Cõi Diêm Phù chuyển pháp
An lạc cả muôn loài.

Trong bài kệ trên đây, Phật chỉ nói riêng về những người có tín tâm thanh tịnh, hoan hỷ vào trong biển Phật pháp, mà không nói đến những hạng người khác.

Trên đây, Phật mật ý nói: “Phật pháp thậm thâm vi diệu, hành giả trước hết phải tự trang bị cho mình một lòng tin vững chắc mới có thể vào được. Dù có đa văn, dù tinh cần hành bố thí, trì giới, nhẫn nhục, thiền định .v.v., nhưng nếu hành giả chưa có đầy đủ tín lực, thì cũng khó có thể vào được”. Như bài kệ thuyết:

Người thế gian tâm động,
Chẳng khéo tu nhân phước,
Đắm chấp quả phước báo,
Cầu báo chẳng cầu diệt,
Lại do nghe tà pháp,
Tâm chấp quá sâu dày.
Pháp TA rất thậm thâm,
Chẳng tin, sao hiểu được?.

Hai chữ “Như vậy” mang ý nghĩa: “Người trực tín mới có thể nghe pháp. Nếu chẳng có tín lực thanh tịnh, thì chẳng sao có thể hiểu được lời Phật dạy”. Như bài kệ thuyết:

Cầu nghe pháp như khát cầu uống,
Nhất tâm tìm hiểu nghĩa lời kinh,
Tinh tấn nghe với tâm hoan hỷ.
Người như vậy, nên vì họ thuyết.

Hai chữ “Như vậy” còn mang ý nghĩa: “Người nghe Phật pháp được nhiều lợi ích ở đời này và cả đời sau. Lợi ích được quả Niết Bàn an lạc cúng các lợi ích khác đều căn bản nơi tín căn; vì có tín căn mới sanh tín lực mở đường dẫn vào Đạo.

Lại nữa, hết thảy hàng xuất gia Ngoại Đạo đều tự cho pháp của mình là đệ nhất thanh tịnh nên hủy báng pháp của người khác.

Bởi vậy, ở hiện đời khởi đấu tranh, khiến đời sau phải đọa địa ngục, thọ vô lượng khổ đau. Như bài kệ thuyết:

Người say đắm pháp mình,
Hủy báng pháp của người
Dù giữ gìn giới hạnh,
Chẳng thoát khổ địa ngục.

Phật pháp xả ly ái chấp cùng các kiến chấp khác, đoạn trừ hết các kiết sử, chẳng có tham sân si, chẳng có kiêu mạn. Bởi vậy nên, bậc chân tu chẳng thấy có gì để đắm trước cả.

Trong kinh, Phật có dạy: “Pháp của ta ví như chiếc thuyền để đưa người qua sông; khi đã qua được bờ bên kia rồi thì chẳng cần thuyền làm gì nữa. Cũng như vậy, khi hành giả đã qua đến bờ giác rồi, thì thiện pháp cũng xả, hà huống là phi pháp”.

Bước đầu vào Phật pháp là “Như vậy”. Hành giả phải “Như vậy” ý chỉ nơi lời dạy của Đức Thế Tôn: “Đệ tử của TA chẳng có ái pháp, chẳng có nhiễm pháp, chẳng bị pháp trói buộc, chẳng khởi hý luận, chẳng khởi đấu tranh, mà chỉ mong được lìa khổ, được giải thoát”.

Trong kinh có nêu trường hợp Ma Kiền Đề dùng kệ bạch Phật:

Quyết định chấp các pháp
Nảy sanh nhiều vọng tưởng.
Nhưng bỏ trong lẫn ngoài,
Làm sao vào được Đạo?

Phật dùng kệ đáp lại rằng:

Chẳng phải do thấy nghe,
Chẳng phải do trì giới,
Chẳng phải chẳng thấy nghe,
Chẳng phải chẳng trì giới.
Xả sạch các luận ấy,
Xả luôn Ngã, Ngã sở,
Chẳng chấp đắm tướng pháp,
Mới rõ thông Đạo Mầu.

Ma Kiền Đề dùng kệ hỏi Phật:

Nếu chẳng phải thấy nghe
Cũng chẳng do trì giới,
Chẳng phải chẳng thấy nghe,
Chẳng phải chẳng trì giới!
Như tâm con quán sát:
Pháp câm được Đạo sao?
Phật lại dùng kệ đáp:
Ngươi y theo tà kiến
Trói mình trong Si đạo,
Chẳng nhận ra vọng tưởng,
Mới nói “Trì pháp câm”!

Lại nữa, người thế gian thường nghĩ “pháp của mình là chân thật, pháp của người là vọng ngữ, pháp của mình là bậc nhất, pháp của người là hạ tiện”.  Bao nhiêu luận nghị tương tự như vậy là đầu mối của đấu tranh.

Hai chữ “Như vậy” mang ý nghĩa: “Phật pháp vốn là vô tranh, chẳng phải là mầm mống của đấu tranh”. Khi nghe người khác nói pháp của họ, phải nghĩ rằng họ nói pháp như vậy chẳng có lỗi gì, vì họ nghĩ như vậy.

Nói tóm lại, kinh mở đầu bằng hai chữ “Như vậy” là như vậy.

Hỏi: Trong Phật pháp nói “Tất cả đều không, tất cả đều Vô Ngã”. Như vậy vì sao kinh Phật lại bắt đầu bằng câu “Như vậy tôi nghe, một thời…?”

Đáp: Các vị Đại Đệ Tử của Phật, tuy biết rõ hết thảy các pháp đều vô ngã, nhưng phải tùy thuận thế gian mà nói đến Ngã. Thế nhưng Ngã nơi đây chẳng phải Chân Ngã. Ví như đem tiền vàng đổi lấy thành tiền đồng, chẳng ai chê cười cả. Vì sao? Vì pháp trao đổi qua lại là như vậy đó. Như trong kinh Thiên Vấn có bài kệ thuyết rằng:

A La Hán Tỳ kheo
Đã dứt trừ lậu hoặc,
Ở nơi tối hậu thân,
Tự xưng TA được chăng?
Phật dùng kệ đáp:
A La Hán Tỳ kheo
Đã dứt trừ lậu hoặc,
Ở nơi tối hậu thân
Có thể tự xưng TA.

Trong pháp giới, khi nói đến Ngã, chẳng nên hiểu theo Đệ Nhất Nghĩa. Vì sao? Vì đối với các pháp Vô Thường, Khổ, Không, Vô Ngã mà phải tùy thuận thế tục nói là có Ngã, thì cũng chẳng có lỗi gì cả.

Ngôn ngữ thế gian dựa trên 3 pháp căn bản, đó là:

  1. Tà kiến
  2. Kiêu mạn
  3. Danh tự

Tà kiến và kiêu mạn là 2 pháp Bất tịnh. Chỉ có Danh tự là pháp tịnh mà thôi. Phàm phu có đầy đủ 3 pháp ấy; còn người học đạo chỉ nên dùng Danh tự mà thôi. Có như vậy mới chẳng trái Thật pháp mà còn tùy thuận thế gian pháp; lại có thể phá được tà kiến, mà chẳng gây ra sự tranh cãi. Bởi vậy nên hàng đệ tử của Phật vẫn có thể tùy thuận thế gian thuyết có Ngã, mà chẳng có lỗi lầm gì cả.

Lại nữa, nếu có người hỏi “Vì sao ở nơi thật tướng là Vô Ngã, mà phải dẫn nhập kinh bằng câu NHƯ VẬY TÔI NGHE?”, thì phải nên biết rằng người nêu câu hỏi trên đây đã chấp pháp Vô Ngã. Nên biết rằng: “Đã là đệ tử của Phật, thì ở nơi thật tướng của các pháp cũng chẳng nên chấp đắm, hà huống là nơi pháp Vô Ngã. Như trong Luận Trung Quán có bài kệ thuyết về vấn đề này như sau:

Nếu có pháp chẳng không,
Tất phải có pháp không.
Chẳng không còn chẳng có,
Huống nữa là pháp không.
Phàm phu thấy chẳng không
Nhưng lại cũng thấy không
Nếu thấy mà chẳng thấy,
Mới thật là Niết Bàn.
Thông suốt lý không hai,
Phá trừ được tà kiến.
Hành xứ của Chư Phật
Hiển bày pháp vô ngã.

Hỏi: Trong kinh nói “TÔI NGHE”. Nghĩa của từ “TÔI” đã giảng rồi, còn nghĩa của chữ NGHE ra sao? Phải nghe như thế nào?

 Dùng nhĩ căn để nghe, dùng nhĩ thức để nghe, hoặc dùng ý thức để nghe?

Nếu nói dùng nhĩ căn, thì nhĩ căn chẳng có tánh biết, làm sao có thể nghe được? Nếu nói dùng ý thức, thì ý thức chỉ nhận biết sau 5 thức ngoài, làm sao có thể nghe được? Ý thức chẳng có thể nhận biết ngay ở hiện tại, mà chỉ nhận biết các trần cảnh từ 5 thức ngoài chuyển đến. Nếu ý thức nhận biết ngay ở hiện tại, thì người mù có thể thấy được sắc, người điếc có thể nghe được âm thanh. Vì sao? Vì ý thức chẳng phải mù, cũng chẳng phải điếc vậy.

Đáp: chẳng phải nhĩ căn nghe tiếng; cũng chẳng phải nhĩ thức, chẳng phải ý thức có thể đơn độc làm được công việc này. Phải hội đủ các duyên hòa hợp mới nghe được tiếng; chẳng phải do một pháp riêng rẽ mà có thể làm được. Vì sao? Vì nhĩ căn là vô giác, chẳng có tánh biết, nên chẳng có thể nghe được. Nhĩ thức là vô sắc, vô đối, vô xứ, nên cũng chẳng có thể nghe được.

Nếu không có căn, không có tánh biết, thì chẳng có đủ các duyên hòa hợp để có thể nghe tiếng được. Nhĩ căn phải ở tình trạng tốt mới nhận được âm thanh từ ngoài chuyển đến; kế đó ý thức liền hòa hợp với nhĩ thức khởi phân biệt. Như vậy, phải hội đủ các duyên gồm căn (nhĩ căn), trần (thanh trần), và thức (nhĩ thức cùng ý thức), hòa hợp mới hình thành được sự nghe. Bởi vậy nên trong kinh có nêu rõ “Chẳng có một pháp riêng rẽ nào mà có khả năng tạo tác, có thể thấy, nghe, hay, biết được”. Như bài kệ thuyết:

Tạo nghiệp ắt thọ quả.
Người chẳng tạo nghiệp quả,
Là đệ nhất thậm thâm.
Pháp Phật thuyết như vậy.
Tuy không, mà chẳng dứt;
Tương tục, mà chẳng thường;
Tội phước cũng chẳng mất.
Pháp Phật thuyết như vậy.

Hỏi: trong Phật pháp có nói rõ “Các pháp là vô lượng, vô biên”. Như vậy thì chẳng lệ thuộc vào không gian và thời gian, cũng chẳng nhiếp vào ấm, giới, nhập. Nay vì sao lại nói đến MỘT THỜI?

Đáp: Đây là tùy theo thế tục, mà nói MỘT THỜI. Như vậy cũng chẳng có lỗi gì cả.

Ví như người lấy gỗ, lấy đất… làm thành tượng Phật, tượng các chư Thiên… rồi chiêm ngưỡng, lễ bái trước các pho tượng ấy, sự lễ bái, chiêm ngưỡng, cúng dường, như vậy cũng chẳng có lỗi gì cả.

Tùy pháp thế gian mà nói MỘT THỜI vậy thôi, nhưng thật sự thì chẳng có một thời nhất định nào cả.

Hỏi: Phật thuyết “Một bậc Giác Ngộ Xuất thế, nhiều người được an vui”. Như vậy là Phật đã có nói đến một thời điểm của sự xuất thế rồi vậy. Sao nói chẳng có một thời nào nhất định cả?

Đáp: Phật thuyết kệ:

Ta hành đạo, chẳng theo thầy học,
MỘT mình TA, chẳng có bạn bè,
Chỉ MỘT hạnh, chứng thành đạo quả,
Hoát nhiên TA thấu suốt ĐẠO MẦU.

Theo một bài kệ trên, Phật đã nhắc lại nhiều lần chữ MỘT. Như vậy, MỘT tất nhiên là một pháp. Đã là một pháp, thì pháp đó cũng phải do duyên hòa hợp mới được. Ví như nói “một vật”, “một tâm sanh” .v.v. thì dù nói “một” với “vật” hay nói “một” với “tâm”… là cùng hay là khác, cũng đều có lỗi cả.

Hỏi: nếu nói MỘT thì có lỗi lầm gì?

Đáp: Khi ta nói “một bình” là có đầy đủ ý nghĩa, để chỉ một vật mang tên “bình”.

Ở đây “một” và “bình” chẳng phải cùng; “một” chẳn phải là “bình”, cũng như “bình” chẳng phải “một”. Nếu MỘT là bình, thì MỘT cũng nên là chén, là dĩa, là bàn, là ghế .v.v. Ngược lại, nếu BÌNH là MỘT, thì chẳng có thể phân biệt “một bình” với “nhiều bình” được.

Lại nữa, “một” và “bình” cũng chẳng khác nhau. Nếu “một” và “bình” riêng khác, thì MỘT chẳng dính dáng gì đến BÌNH, cũng như BÌNH chẳng dính dáng gì đến MỘT cả.

Thật vậy, MỘT và BÌNH chẳng phải cùng, cũng chẳng phải khác. Vì sao? MỘT và BÌNH hòa hợp với nhau thành MỘT BÌNH mới có đầy đủ ý nghĩa.

Lại nữa, MỘT chỉ là số pháp. Các số tự nhiên khởi đầu bằng số MỘT. Đây chỉ là quy ước thế gian; cho nên MỘT là bất khả đắc; dẫn đến các số nhiều kế tiếp cũng đều là bất khả đắc cả.

Phật pháp tùy thuận thế gian pháp, mà nói một người, một tâm, một thời .v.v. Nói như vậy chẳng có lỗi lầm, cũng chẳng rơi vào tà kiến. Bởi nhân duyên vậy, nên MỘT THỜI chẳng lệ thuộc vào thời gian và không gian, chẳng nhiếp vào ấm, giới, nhập.

Hỏi: THỜI được dịch nghĩa từ 2 từ khác nhau bên Thiên Trúc. Đó là Ca La và Tam Ma Da?

Vì sao Phật chẳng nói THỜI theo nghĩa Ca La, mà chỉ nói theo nghĩa Tam Ma Da?

Đáp: Do muốn trừ tà kiến, nên Đức Phật dùng từ Tam Ma Da, mà không dùng từ Ca La.

Có người cho rằng “hết thảy các sự vật trong trời đất, hết thảy các điềm tốt xấu… đều lấy THỜI làm gốc”. Như bài kệ thuyết:

THỜI đến, chúng sanh thành thục,
THỜI tốt, gặt hái được mùa,
THỜI lành, nhiều người ngộ đạo.
Nên biết lấy THỜI làm nhân.
Thế giới như bánh xe quay;
THỜI biến như xe chuyển bánh;
Đời người quay tợ bánh xe,
Lên xuống chẳng hề ngưng nghỉ.

Lại có người nói “mọi sự vật chẳng phải do THỜI làm ra, mà tùy thuộc ảnh hưởng tốt hay xấu của trời đất”.

Mặc dù vậy, tác động của THỜI vẫn có, tợ như THỜI là bất biến, thường hằng. THỜI là một pháp quá vi tế, khiến người ở thế gian không thể nhận ra được. Người ta chỉ biết THỜI xuyên qua sự đâm chồi, nẩy lộc, đơm hoa, kết trái của cỏ cây; xuyên qua sự tăng trưởng của các sinh vật; nói chung là qua sự biến đổi không ngừng của vạn pháp trong vũ trụ.

Cứ y nơi quả mà suy ra nhân, thì rõ biết THỜI là bất hoạt, là thường còn vậy. Ví như hòn đất ở hiện tại đã là bụi trần trong quá khứ, và có thể là cái bình, cái chậu trong tương lai.

Rõ ràng là theo tiến trình biến đổi của một pháp, mà tướng của pháp ấy cũng biến đổi theo, cho nên nói có thời quá khứ, thời hiện tại, thời vị lai vậy

Kinh sách Ngoại Đạo cho rằng THỜI là một sự vật; do vậy mà họ phân biệt quá khứ, hiện tại, và vị lai, mỗi mỗi đều có “thời tướng” riêng biệt. Thế nhưng, nếu nói rằng 3 thời đều có các tướng riêng khác, thì đó chỉ là tướng của hiện tại mà thôi. Vì sao? Vì nếu 3 thời đều có tướng riêng khác, thì làm sao quá khứ chuyển thành hiện tại, và hiện tại chuyển thành vị lai?

Hỏi: Vì sao trước đây nói “chẳng lệ thuộc vào thời gian”, mà nay lại có “thời hiện tại”?

Đáp: Quá khứ đã qua, vị lai chưa đến; tướng quá khứ đã mất, tướng vị lai chưa hiện. Như vậy, tướng hiện tại từ đâu mà được hình thành?

Trên đây, nói đến tướng hiện tại chỉ nhằm để phá trừ sự lầm chấp về 3 thời tướng mà thôi. Thật ra tướng hiện tại cũng chỉ là giả lập, cũng là bất khả đắc.

Vì muốn trừ tà kiến, nên Phật nói THỜI theo nghĩa Tam Ma Da, nói là “do ấm, giới, nhập, sanh diệt, mà giả danh có THỜI”. Thật ra THỜI là vô phân biệt, chẳng có ly hợp, chẳng có đồng khác, chẳng có ngắn dài… Tất cả các danh từ đó đều do tâm thế gian chấp đắm, mà có vậy.

Thật tướng của pháp chẳng có tùy thuận theo không gian và thời gian. Phật nói MỘT THỜI nhằm phá trừ mọi sự chấp trước của thế gian, bị ràng buộc trong khuôn khổ của danh tự cũng như của ngôn ngữ vậy.

Hỏi: Nếu nói THỜI là vô phân biệt, thì vì sao trong luật có đề cập đến trường hợp “phi thời thực giới”?

Đáp: Trước đã nói, do tùy thuận danh tự thế gian, mà lập ra có THỜI. Thế nhưng, nói như vậy chẳng phải là thật pháp. Như vậy chẳng nên nạn hỏi nữa.

Lại nữa, người thế gian cho các giới pháp trông bộ luật Tỳ Ni là Thật pháp, nhưng các giới pháp này chẳng phải là Đệ Nhất “Thật Tướng pháp”. Vì sao? Vì pháp tướng là vô ngã, là bất khả đắc.

Nên biết, do muốn răn dạy Chúng Tăng phạm giới luật, muốn cho chúng sanh hộ trì Phật pháp, muốn cho Phật pháp được trụ thế lâu dài, mà Phật quyết định kiết giới cho hàng đệ tử. Như vậy chẳng nên nạn hỏi nữa.

Hỏi: Trong các trường hợp “phi thời thực”, “thời dược”, “thời y”… Vì sao Phật không nói THỜI theo nghĩa Tam Ma Da mà lại nói theo nghĩa Ca La?

Đáp: Trong tất cả các từ kép nêu trên đây, đều được trích dẫn trong bộ luật Tỳ Ni. Ở đây, THỜI được dịch theo nghĩa Ca La. Bộ luật này chỉ cho lưu hành trong nội bộ Chúng Tỳ Kheo. Phật không muốn cho hàng Bạch Y, và hàng Ngoại Đạo nghe những điều luật này, vì sợ họ nghe như vậy sẽ sanh tà kiến.

Trái lại, các bộ kinh nên được phổ biến rộng rãi cho mọi giới được nghe. Bởi vậy nên trong kinh Phật chỉ nói THỜI theo nghĩa Tam Ma Da. Vì sao? Vì theo nghĩa Tam Ma Da, thì THỜI chỉ là giả danh, khiến người nghe không khởi sanh tà kiến. Bởi nhân duyên vậy, nên trong các kinh, Phật thường nói THỜI theo nghĩa Tam Ma Da, ít khi nói heo nghĩa Ca La. Như vậy chẳng nên nạn hỏi nữa.