LUẬN ĐẠI THỪA TRANG NGHIÊM KINH

SỐ 1604

Tác giả: Bồ-tát Vô Trước.
Hán dịch: Tam Tạng pháp sư, Đời Đường, là Ba-la-phả-mật-đa-la.
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

 

QUYỂN 2

Phẩm Thứ 5: PHÁT TÂM

Giải thích: Như nói đã phân biệt về chủng tính của Bồ-tát, kế là sẽ nói về tướng phát tâm Bồ-đề của Bồ-tát.

Kệ rằng:

Mạnh mẽ và phương tiện,
Lợi ích và xuất ly,
Bốn lớn, ba công đức,
Tâm khởi do hai nghĩa.

Giải thích: Bồ-tát phát tâm có bốn thứ lớn lao:

  1. Lớn lao mạnh mẽ, nghĩa là lời thệ nguyện rộng lớn, tinh tấn sâu sắc, làm việc khó làm tùy theo thời gian lâu dài.
  2. Lớn lao phương tiện nghĩa là mặc áo giáp thệ nguyện rộng lớn mãi mãi bất cứ lúc nào cũng sử dụng phương tiện tinh tấn.
  3. Lớn lao lợi ích làm việc lợi ích cho mình và người bất cứ lúc nào.
  4. Lớn lao ra khỏi nghĩa là cầu quả Bồ-đề Vô thượng.

Hơn nữa, bốn thứ lớn lao nầy đã nói về ba thứ công đức. Nguyện một và nguyện hai đã làm chói sáng hình ảnh bậc trượng phu với công đức mà hạnh ấy đã làm. Nguyện thứ ba làm sáng chói công đức của nghĩa lớn lao. Nguyện thứ tư nói về công đức hưởng quả. Ba công đức nầy, lấy hai nghĩa làm duyên.

Gọi là Bồ-đề Vô thượng và tất cả chúng sinh là vì sự suy nghĩ rồi phát tâm Bồ-đề.

Đã nói về tướng phát tâm, kế là, nói về sự khác nhau của sự phát tâm. Kệ rằng:

Tín hạnh và nương tịnh,
Báo đắc và không chướng,
Phát tâm nương các địa,
Có bốn thứ khác nhau.

Giải thích: Bồ-tát phát tâm nương vào các địa, có bốn thứ khác nhau:

  1. Phát tâm tin, hiểu, thực hành làm lợi cho người.
  2. Phát tâm nương vào trong sạch là trong bảy địa trước.
  3. Phát tâm vì được quả báo nghĩa là ba địa sau.
  4. Phát tâm vô ngại là ở địa Như lai.

Đã nói về sự khác nhau của phát tâm, kế là sẽ giải thích rộng.

Hỏi: Sự phát tâm nầy lấy gì làm căn bản? Dựa vào đâu? Tin vào đâu, bởi duyên gì? Trong hoàn cảnh nào? An trụ vào gì? Có những chướng ngại nào? Có những công đức gì? Tự tính là gì? Ra khỏi cái gì?

Đâu là chỗ rốt ráo?

Kệ rằng:

Đại bi, và lợi vật,
Đại Pháp nương chủng trí,
Ham muốn lớn, giữ Đại (Thừa),
Thọ chướng thêm lành,
Phước trí và tu độ,
Từng địa đều tròn đầy,
Gốc đầu đến rốt ráo,
Thứ lớp hiểu, nên biết.

Giải thích: Bồ-tát phát tâm lấy đại bi làm gốc, nương vào việc làm lợi ích cho các vật, dùng pháp Đại thừa làm niềm tin, lấy chủng trí làm duyên, để mong cầu cho hữu tình. Lấy ham muốn cao cả làm hoàn cảnh để cầu Thừa Vô thượng. Lấy sự giữ gìn Đại thừa làm nơi trụ, an trụ trong giới Bồ-tát, nhận lấy chướng ngại là cái khổ cho phát trụ, ở thừa khác. Lấy tăng thêm điều thiện làm công đức. Lấy phước trí làm tự tính. Lấy tu tập các độ làm ra khỏi. Lấy địa mãn làm chỗ rốt ráo. Ở mỗi địa đều thực hành phương tiện siêng năng tương ưng với mỗi việc làm.

Như vậy, đã phân biệt về sự khác nhau của phát tâm, kế là nói về thọ phát tâm thế tục. Kệ rằng:

Sức bạn và sức nhân,
Sức căn cũng sức nghe,
Bốn sức đều hai phát,
Không bền bỉ và bền.

Giải thích: Do nghe người khác nói pháp, hiểu rõ mà phát tâm thì gọi là nhận phát tâm thế tục. Phát tâm nầy do bốn sức mạnh:

  1. Do sức mạnh của bạn bè mà phát tâm, hay được thuận theo thiện tri thức.
  2. Vì sức mạnh của nhân mà phát tâm, là bởi nhân phát tâm đã từng phát tâm trong đời trước, lấy đó làm tính chất.
  3. Vì sức mạnh của cội gốc mà phát tâm, là quá khứ đã từng làm các gốc lành đầy đủ.
  4. Vì sức mạnh của việc nghe pháp mà phát tâm, là từng nghe nhiều, nhiều thời pháp bất cứ đâu mà các người phát tâm Bồ-đề.

Lại nữa, về tu tập gốc lành mà trong hiện tại, thọ trì các pháp từng được nghe. Lãi nữa, bốn sức mạnh khiến phát tâm kia, gộp chung thành hai thứ:

  1. Phát tâm không bền vững, là phát tâm do sức bạn.
  2. Phát tâm bền vững, là phát tâm vì ba năng lực như năng lực của nhân, v.v…

Đã nói về phát tâm thế tục. Kế là nói về phát tâm nghĩa đệ nhất.

Kệ rằng:

Gần bậc chánh biến tri,
Khéo chứa nhóm phước trí,
Vô phân biệt các pháp,
Trí chân tối thượng sinh.

Giải thích: Phát tâm nghĩa đệ nhất nói về ba thứ cao quý:

  1. Dạy dỗ cao quý vì được gần gũi bậc chánh biến tri.
  2. Tùy thuận cao quý là khéo gom chứa nhóm phước trí.
  3. Đắc quả cao quý là vì sinh trí không còn phân biệt.
  4. Phát tâm nầy được gọi là địa vui mừng vì sự cao quý của vui mừng.

Hỏi: Sự cao quý nầy, lấy gì làm nhân? Kệ rằng:

Các pháp và chúng sinh,
Việc làm và Phật thể.
Bốn thứ bình đẳng nầy,
Được vui mừng cao quý.

Giải thích: Bốn thứ bình đẳng là:

  1. Pháp bình đẳng, là vì thấu hiểu pháp là vô ngã.
  2. Chúng sinh bình đẳng, là vì chứng được mình và người đều bình đẳng.
  3. Các việc làm đều bình đẳng, vì giúp kẻ khác hết khổ như chính mình đã hết khổ.
  4. Thể tính Phật đều bình đẳng, là vì pháp giới và mình đều chẳng khác nhau, quyết chắc có thể thấu biết.

Đã nói về nhân cao quý, kế là sẽ nói về sự khác nhau của cao quý. Kệ rằng:

Sinh vị và nguyện vị,
Vừa mạnh vừa nương tịnh,
Khéo khác, và xuất khác,
Sáu cao quý cũng thế.

Giải thích: Phát tâm nghĩa đệ nhất có sáu pháp cao quý là:

  1. Vị trí sống thù thắng.
  2. Vị trí nguyện thù thắng.
  3. Mạnh mẽ thù thắng.
  4. Nương vào thanh tịnh thù thắng
  5. Thiện xảo thù thắng khác.
  6. Xuất ly thù thắng khác.

Hỏi: Vì sao gọi sáu pháp nầy là thù thắng?

Kệ rằng:

Sinh thắng có bốn nghĩa
Nguyện lớn có mười thứ.
Mạnh mẽ thường không lui,
Nương tịnh, hai lợi sinh.
Xảo tiện, tiến địa khác.
Khéo tư duy xuất ly,
Sáu đạo lý như thế,
Thứ lớp thành sáu thắng.

Giải thích: Đời sống cao quý có bốn nghĩa là:

1. Hạt giống thù thắng, vì hạt giống tin tưởng vào pháp Đại thừa.

2. Mẹ ruột thù thắng là vì lấy Bát-nhã Ba-la-mật-đa làm mẹ.

3. Thai tạng thù thắng là vì lấy thiền định của Đại thừa làm bào thai.

4. Mẹ nuôi thù thắng là vì lấy đại bi, nuôi lớn làm mẹ nuôi nguyện lớn có mười điều: Là mười đại nguyên như kinh Thập Địa nói. Phát nguyện thù thắng nầy thì thường mạnh mẽ không bao giờ lui sụt. Dù phải làm những việc khó làm vẫn không lui sụt. Nương vào thanh tịnh để làm hai việc lợi người:

  1. Biết mình gần với quả Bồ-đề.
  2. Biết phương tiện lợi tha.

Xảo phương tiện để tiến lên các địa khác là phương tiện để tiến lên địa trên.

Khéo tư duy việc xuất ly là pháp quán xét đã được lập ra để được an trụ trong các địa.

Hỏi: Tư duy là gì?

Đáp: Như đã lập ra giới hạn phạm vi mà phân biệt biết, cho nên phân biệt cũng biết được vô phân biệt.

Đã nói phát tâm rồi, kế là sẽ nói về thí dụ để nói về sự phát tâm ấy. Kệ rằng:

Như đất, như vàng sạch,
Như trăng, như lửa cháy,
Như kho, như rương báu,
Như biển, như kim cương,
Như núi, như thuốc chúa,
Như bạn, như nhưý,
Như nhật, như đẹp vui,
Như vua, như kho lẫm,
Như đường, như xe đi,
Như suối, như tiếng vui,
Như nước chảy, như tuyết,
Phát tâm dụ như thế.

Giải thích: Sự phát âm qua những thí dụ như thế, có nghĩa nào tương tự?

Đáp: Như đất bao la kia, người mới phát tâm cũng như vậy, vì tất cả Phật pháp có công năng duy trì.

Ví như vàng sạch, sự phát tâm cũng tương ưng giống như vậy, không lui sụt thoái chí đối với việc làm lợi ích an vui, cho chúng sinh.

Ví như trăng mới mọc, sự siêng năng tương ưng với phát tâm cũng như vậy, bởi pháp lành ngày càng gia tăng.

Thí dụ cho lửa cháy thêm là chỗ nương cao nhất tương ưng với sự phát tâm cũng như vậy, thêm củi cho lửa phừng lên, đó là hình ảnh gôm chứa công hạnh, là chỗ nương cao nhất.

Thí dụ cho kho tàng lớn, Đàn Ba-la-mật tương ưng với phát tâm cũng như vậy, bởi của cải đem cho khắp cùng không bao giờ hết.

Thí dụ rương chứa đồ quý giá là Thi Ba-la-mật tương ưng với phát tâm cũng như vậy, vì công đức pháp bảo đều phát sinh từ đó.

Thí dụ như biển cả là Sằn-đề Ba-la-mật tương ưng với phát tâm cũng như vậy, tâm không rung động vì các việc ngang trái xảy ra.

Thí dụ như kim cương là Tỳ-lê-da Ba-la-mật tương ưng với phát tâm cũng như vậy, mạnh mẽ vững chắc, không gì làm hư hoại được.

Thí dụ như núi chúa là Thiền Ba-la-mật tương ưng với phát tâm cũng như vậy, không có cái gì làm dao động vì nó không rối loạn.

Thí như vua thuốc là bởi Bát-nhã Ba-la-mật tương ưng với phát tâm cũng như vậy, vì thuốc nầy có công năng phá hai thứ bệnh trí và mê.

Thí dụ như bạn lành là có vô số điều tương ưng với phát tâm cũng như vậy, vì không bao giờ xả bỏ chúng sinh bất cứ lúc nào.

Ví như hạt châu như ý là thần thông tương ưng với phát tâm cũng như vậy, vì nó có công năng hiện ra những gì theo ý mình muốn.

Thí như mặt trời rực rỡ gom trong ánh sáng của nó tương ưng với phát tâm cũng vậy, như mặt trời nóng làm cho lúa thóc chín, thành thục chúng sinh cũng như vậy.

Thí như vẻ đẹp niềm vui là tài năng nói tương ưng với phát tâm cũng như vậy, vì nói pháp dẫn dắt chúng sinh.

Thí như quốc vương là năng lực tương ưng với phát tâm cũng như vậy, vì có công năng làm cho chánh đạo không bị hoại nhân.

Thí như kho lẫm là nhóm tương ưng với phát tâm cũng như vậy, là nơi gom nhóm phước trí, pháp tài.

Thí như đường vua đi là phần giác tương ưng với phát tâm cũng như vậy, vì bậc đại thánh đi trước rồi những ai khác mới nối gót theo sau.

Thí dụ như cỗ xe là chỉ quán tương ưng với phát tâm cũng như vậy, vì hai bánh xe chỉ quán lăn đi đầy đủ an vui.

Thí dụ như nước suối phun ra là tổng trì tương ưng với phát tâm cũng như vậy, vì nghe dù nhiều những giáo pháp vẫn không bao giờ cùng tận.

Thí dụ như tiếng reo mừng là pháp ấn tương ưng với phát tâm cũng như vậy, vì mong cầu giải thoát nên nghe một cách vui thích.

Thí như dòng sông là tự tính tương ưng với phát tâm cũng như vậy, là do đạo vô sinh nhẫn tự nhiên tuôn chảy, không do tác ý.

Thí như vừng mây lớn là công năng thành thế giới, phương tiện tương ưng với phát tâm cũng như vậy, chỉ bày tám tướng thành đạo giáo hóa chúng sinh.

Với hai mươi hai thí dụ như vậy là để thí dụ sự phát tâm kia, như bậc Thánh đã nói rộng trong kinh vô tận tuệ, nên biết.

Đã nói thí dụ phát tâm rồi, kế là sẽ nói về lỗi của không phát tâm.

Kệ rằng:

Tư lợi và được phương (tiện),
Hiểu nghĩa cũng chứng thật,
Như thế bốn thời vui.
Tới Niết-bàn buông xả.

Giải thích: Bồ-tát có bốn thứ vui:

1. Suy nghĩ điều lợi ích, an vui là suy nghĩ thời gian nào làm lợi ích cho chúng sinh.

2. Được phương vui nghĩa là cảm thấy vui đến khi chứng được phương tiện thiện xảo.

3. Vui bởi hiểu nghĩa, nghĩa là thấy vui khi hiểu thấu rõ ý nghĩa Đại thừa.

4. Vui chứng ngộ chân thật là vui khi chứng được nhân, pháp đều vô ngã. Nếu ai bỏ chúng sinh mà lo thẳng đến vắng lặng nên biết, người ấy không được bốn thứ vui như vậy của Bồ-tát. Đã quở trách không phát tâm, đối với ai phát tâm nên khen ngợi họ.

Kệ rằng:

Tối sơ phát đại tâm,
Khéo giữ vô biên ác,
Thiện tăng và bi tăng,
Lạc vui khổ cũng vui.

Giải thích: Nếu từ đầu phát tâm Đại Bồ-đề, thì bấy giờ, Bồ-tát nương vào vô số chúng sinh, tức là đã khéo giữ gìn, không gây ra điều ác. Vì vậy, Bồ-tát nầy là người lìa khỏi lo sợ rơi vào đường ác. Lại nữa, thực hành điều thiện và càng thêm lên cho nên đối với vui thường mừng. Tâm thương xót được tăng thêm lên, nên dù gặp cảnh khổ, vẫn thường vui. Do đó, người nầy xa lìa lui sụt đường lành.

Đã khen ngợi sự phát tâm, kế là sẽ nói về nhân phát tâm được không khen ngợi.

Kệ rằng:

Thương kẻ khác hơn mình,
Quên mình lợi chúng sinh,
Không vìmình, ghét người,
Lẽ nào nghiệp bất thiện?

Giải thích: Nếu lược chỉ bày nghĩa đó thì chính là Bồ-tát yêu thương kẻ khác hơn yêu thương mình, do đó quên thân mạng mình và làm lợi ích cho người khác. Không vì lợi mình mà làm tổn hại người khác. Do vậy, nên Bồ-tát mới có công năng dứt hết nghiệp ác của chúng sinh.

Đã nói được không ngợi khen, kế là sẽ nói về được không thoái tâm. Kệ rằng:

Quán pháp biết như huyễn,
Quán sống như vào vườn,
Dù thành hay không thành,
Hay khổ, đều không sợ.

Giải thích: Bồ-tát quán tất cả pháp, biết chúng như huyễn. Vì vậy, nên lúc đang thành tựu lợi ích cho chúng sinh mà có gặp phiền não đi nữa, vẫn không lo sợ. Bồ-tát quán nơi mình đang sống như vào khu vườn, cho nên đang khi thành tựu lợi ích cho chúng sinh, có gặp phiền não đi nữa, vẫn không hề lo sợ. Nếu một người được như vậy thì còn có ý nghĩa gì khiến tâm Bồ-đề lui mất?

Lại nữa, Kệ rằng:

Tự nghiêm, tự nuôi sống,
Khu vườn và vui mừng.
Có bốn việc như vậy,
Bi chẳng phải thừa khác.

Giải thích: Bồ-tát dùng công đức của mình để tự trang nghiêm, nuôi sống mình bằng việc làm lợi ích cho người và sự vui mừng.

Lấy tác ý nơi mình ở làm khu vườn. Lấy thần thông biến hóa làm vui chơi. Bốn việc như vừa nói, chỉ Bồ-tát mới có, Nhị thừa không có.

Có bốn việc ấy, vì sao Bồ-tát phải lui tâm Bồ-đề? Đã nói tâm không thoái lui. Kế là sẽ nói về ngăn dứt tâm sợ khổ.

Kệ rằng:

Rất siêng, lợi chúng sinh,
Đại bi làm thể tính.
Vô gián, như chỗ vui,
Lẽ đâu sợ các khổ.

Giải thích: Bồ-tát lấy tâm đại bi làm bản thể cho nên rất siêng năng làm lợi ích cho người. Cho nên dù có vào địa ngục A-tỳ đi nữa, vẫn như đi dạo chơi. Do vậy, đối với các khổ khác, Bồ-tát nào có lo sợ? Có phải bởi sợ hãi ấy mà lui mất đạo tâm chăng? Kệ rằng:

Đại bi thường trong ý,
Khổ người, là khổ mình,
Tự nhiên, làm phải làm,
Đợi khuyên rất hổ thẹn.

Giải thích: Các Bồ-tát lấy đại bi làm mẫu mực thường ở trong tâm, cho nên thấy chúng sinh chịu khổ, Bồ-tát thấy như mình khổ. Do Đạo lý ấy, tự nhiên làm những việc phải làm. Nếu phải chờ bạn khuyến 2 khích mới làm thì Bồ-tát thấy rất xấu hổ.

Kệ rằng:

Gánh gánh nặng chúng sinh,
Làm biếng xấu, không tốt,
Cởi trói cho mình, người,
Phải tinh tấn gấp trăm.

Giải thích: Bồ-tát phát tâm là gánh gánh nặng chúng sinh. Nếu đi chậm rãi thì đó là một điều rất tồi tệ, chẳng phải là chúng sinh đoan chánh thứ nhất. Bồ-tát phải tự nghĩ: Nếu mình hay người bị trói quá chặt do nhiều thứ, đó là nghiệp mê lầm phát sinh, thì phải tinh tấn gấp trăm lần hơn để cởi những trói buộc ấy. Việc làm nầy của Bồ-tát vượt hơn việc làm của Thanh văn.

 

Phẩm Thứ 6: NHỊ LỢI

Giải thích: Đã nói phát tâm, kế là sẽ nói về nương vào phát tâm ấy mà tùy thuận tu tập đem lợi ích cho mình và cho người.

Kệ rằng:

Nương Đại (Bồ-đề) làm hạnh lớn,
Lần lượt nói quả lớn,
Đại thủ (chúng sinh) và đại nhẫn,
Đại nghĩa, ba sự thành.

Giải thích: Nương chỗ lớn lao là nương vào Đại Bồ-đề mà phát tâm. Đại hạnh là phát tâm làm những lợi ích cho mình và cho người. Đại quả giúp các người được Bồ-đề Vô thượng, theo đúng thứ lớp ấy.

Đại thủ là khi phát tâm gom hết chúng sinh vào.

Đại nhẫn là khi phát tâm làm lợi ích chúng sinh phải chịu đựng tất cả các khổ bao la.

Nghĩa lớn là khi chứng quả, làm lợi lớn cho tất cả chúng sinh để thành tựu sự nghiệp.

Đã nói thứ lớp thực hành công hạnh lợi tha, kế là sẽ nói về sự không khác nhau của lợi mình và lợi người.

Kệ rằng:

Mình, người, tâm bình đẳng
Thương người hơn thương mình,
Có tướng hơn như thế,
Hai lợi, nào có khác?

Giải thích: Bồ-tát chứng được tâm bình đẳng giữa mình và người là lòng tin, là khi phát tâm ở thế tục, hoặc do trí tuệ mà chứng được, là lúc phát tâm nghĩa đệ nhất. Dù có tâm nầy, nhưng Bồ-tát thương thân kẻ khác hơn thương thân mình. Đối với người khác, Bồ-tát đã có ý tưởng tốt như vậy, nên không còn mang tư tưởng phân biệt cái gì là lợi mình, cái gì là lợi người, vì đều không còn phân chia ranh giới.

Đã nói không khác nhau, kế là sẽ nói về làm lợi cao đẹp cho người. Kệ rằng:

Với đời, không nghiệp oán,
Lợi người thường tự khổ.
Tính bi tự nhiên khởi,
Nên, lợi người là hơn.

Giải thích: Bồ-tát từ lâu đã cắt đứt hoàn toàn, các nghiệp oán thù với đời, cho nên Bồ-tát làm mãi cho xong việc đem lợi ích cho người, dù thân mình phải chịu nhiều vất vả, cực khổ. Do vậy mà thể Đại bi tự nhiên phát khởi, do lý ấy làm lợi người vẫn là tốt nhất.

Hỏi: Thế nào là thuận theo lợi tha như thế? Kệ rằng:

Khéo nói khiến quay về,
Khiến nhập, giúp điều phục,
Khiến thành cũng giúp trụ,
Khiến giác ngộ, giải thoát,
Gom đức và sanh gia,
Được thọ ký, nhận chức,
Đến thành trí Như lai,
Lợi chúng sinh như thế.

Giải thích: Có ba hạng chúng sinh là trụ vào tính dưới, giữa, trên. Theo những nơi mà họ trụ vào ấy, Bồ-tát gom họ về chánh đạo bằng mười ba thứ thuận theo đem lợi ích cho họ là:

  1. Nói pháp khéo vì biết theo cách dạy và ghi nhớ chắc.
  2. Khiến họ quay về bằng sức mạnh của thần thông.
  3. Khiến họ thâm nhập là vì họ đã quay về nên giúp họ có lòng tin, và thọ lãnh chánh giáo.
  4. Khiến họ tự điều phục, vì thâm nhập nên họ dứt bỏ ngờ vực.
  5. Khiến họ được thành tựu, vì gốc lành họ đã thành thục.
  6. Khiến họ được an trụ, vì dạy trao giúp tâm được trụ.
  7. Khiến họ giác ngộ, vì được trí tuệ.
  8. Khiến họ giải thoát, vì chứng được các công đức cao quý, như thần thông v.v…
  9. Chứa nhóm công đức, vì chứa nhóm khắp phước trí.
  10. Sinh gia là sinh vào nhà Phật.
  11. Được thọ ký là do tám địa được thọ ký.
  12. Nhận chức, từ mười địa được nhận chức.
  13. Được trí của Như lai, vì đã vào Phật địa.

Hỏi: Thuận theo như vậy, được thành lập ra sao? Kệ rằng:

Không đảo và tự cao,
Không đắm cũng thông đạt,
Năng nhẫn và điều thuận,
Cách xa cũng không tận,
Nên biết tám nghĩa nầy,
Thành tựu mười ba thứ.

Giải thích: Không điên đảo là nếu người đã trụ vào tính, thì theo thứ lớp họ mà Bồ-tát nói pháp, không dạy trao điều dối trá.

Không tự cao là khi họ quay về, Bồ-tát không cậy mình có thần thông mà tự cao.

Không đắm: là khi họ thâm nhập chánh pháp là thành chúng sinh không còn bị ô nhiễm.

Thông đạt là cắt đứt lưới ngờ vực của họ.

Có công năng nhẫn nhục là khéo thành thục họ.

Điều thuận là thuận theo mà dạy trao, chứ chẳng phải không làm chủ khi dạy trao.

Xa (rời) là thuận theo sinh vào nhà Phật, chứ không phải xa lìa, khiến họ có công năng tạo lập công đức.

Không cùng tận là Bồ-tát phát nguyện làm lợi ích chúng sinh không bao giờ hết lời nguyện, bất cứ lúc nào. Đó là thành tựu, nên biết.

Hỏi: Vì sao sự thuận theo nầy cao vượt khác lạ? Kệ rằng:

Thói quen dục đáng sợ,
Hữu ái động, nghiêng đổ,
Vui cắt đứt phiền não,
Đại bi cầu Phật pháp.

Giải thích: Thói quen của ham muốn là người trong cõi Dục nầy, đáng sợ là thâm tâm thường mang nhiều thống khổ vì thường hướng đến đường ác.

Hữu ái là người cõi Sắc, cõi Vô sắc.

Quấy động mà nghiêng đổ là vì vui của họ là không thường còn, nên gây xáo động, vì hành khổ nên bị trái ngược.

Ưa vắng lặng là người tự lợi.

Dứt trừ phiền não là vì phiền não nắm chắc nên khổ không bao giờ dứt. Muốn lìa khổ, mình phải dứt trừ phiền não, cầu lấy sự vắng lặng.

Đại bi làm lợi ích cho người.

Cầu Phật pháp là người nầy thường cầu tất cả Phật pháp, nghĩ đến làm lợi ích cho tất cả chúng sinh, Kệ rằng:

Thế gian tìm tư vui,
Không vui thường rất khổ,
Bồ-tát siêng vui người,
Hai lợi thành vui trên.
 
Giải thích: Kẻ ngu ở đời thường tìm niềm vui cho mình, nhưng không được vui, lại bị rất khổ. Bồ-tát không phải vậy, mà thường làm cho kẻ khác được vui, nên thành tựu hai lợi ích là cho mình và người.

Lại được cái vui lớn nhất của Niết-bàn, đây là Bồ-tát thuận theo hay nhất về chỗ khác nhau.

Đã nói thuận theo làm lợi cho người, kế là sẽ nói về hồi hướng hạnh nầy cho chúng sinh. Kệ rằng:

Căn khác, chỗ ở khác,
Làm khác, có hành khác,
Hễ là các việc làm,
Hướng cho lợi chúng sinh.

Giải thích: Từ giác quan như mắt, v.v… Bồ-tát làm các việc các thực hành các oai nghi quen làm, tất cả đều hồi hương làm lợi ích cho chúng sinh. Tất cả việc làm, những việc tương ưng hay những việc tương tự cũng đều hồi hướng hết cho lợi ích chúng sinh, như trong kinh Hạnh Thanh Tịnh có nói rộng.

Đã nói tâm hồi hướng, kế là nói về việc ngăn dứt tâm không nhẫn nhục. Kệ rằng:

Chúng sinh không tự tại,
Thường làm các nghiệp ác,
Phải nhẫn nhục thêm bi,
Không não, không trái nhau.

Giải thích: Chúng sinh bị phiền não quấy phá nên tâm không tự tại. Cho nên gây ra các nghiệp ác. Bằng trí tuệ, Bồ-tát thường nuôi dưỡng nhẫn nhục lớn, tăng lên mãi lòng thương đối với các loài, cho nên Bồ-tát không khởi tâm làm hại chúng sinh, và cũng không làm việc gì thiếu thuận theo. Đã ngăn dứt tâm không nhẫn nhục, kế làm rõ thuận theo lớn. Kệ rằng:

Xuất ly cao vắng lặng,
Công đức và lợi vật,
Thứ lớp nương bốn nghĩa,
Nói lớn có bốn thứ.

Giải thích: Các Bồ-tát có bốn thứ thuận theo lớn:

1. Xuất ly cao quý lớn là ra khỏi ba cõi, năm đường nên gọi là xuất ly thù thắng, như kinh Bát-nhã Ba-la-mật-đa nói: “Này Tu-bồ-đề, nếu sắc là có pháp, chứ chẳng phải không có pháp, ấy là Ma-ha-diễn, không thể xuất ly cao quý tất cả thế gian, người, trời, A-tu-la”.

2. Vắng lặng lớn là do hồi hướng đến Niết-bàn vô trụ xứ.

3. Công đức lớn là hai nhóm phước trí được thêm lớn.

4. Lợi vật lớn là thường nương vào tâm đại bi, không bỏ chúng sinh.

 

Phẩm Thứ 7: CHÂN THẬT

Giải thích: Đã nói thuận theo tu hành, kế là nói tướng nghĩa đệ nhất. Kệ rằng:

Chẳng có cũng chẳng không,
Chẳng như cũng chẳng khác,
Chẳng sinh cũng chẳng diệt,
Chẳng thêm cũng chẳng bớt,
Chẳng tịnh, chẳng bất tịnh,
Năm thứ, không hai tướng,
Đó gọi nghĩa đệ nhất,
Hành giả phải nên biết.

Giải thích: Nghĩa đệ nhất là không hai. Nó được nói về bằng năm thứ.

Chẳng có là do phân biệt hai tướng y tha là không.

Chẳng không là có tướng chân thật.

Chẳng Như là phân biệt hai tướng y tha, không có một thật thể.

Chẳng khác là hai thứ ấy không có tự thể khác.

Chẳng sinh chẳng diệt là vô vi.

Chẳng thêm chẳng bớt là khi khởi niệm chia hai phần nhiễm tịnh là khi diệt thì pháp giới vẫn yên trụ như thế.

Chẳng tịnh là tự tính không bị nhuộm bẩn thì đâu cần làm cho nó sạch.

Chẳng bất tịnh là khách trần phiền não ra đi.

Như vậy, năm thứ ấy không có hai tướng. Đó là tướng của nghĩa đệ nhất, nên biết.

Đã nói nghĩa đệ nhất. Kế là nói việc ngăn dứt ý niệm điên đảo đối với nghĩa đệ nhất. Kệ rằng:

Chấp ngã chẳng thấy ngã,
Vô tướng chẳng vô duyên,
Hai vô ngã khác nhau,
Giải thoát chỉ hết mê.

Giải thích: Chấp ngã chẳng thấy ngã là không có tướng ngã, vì sao? Vì tướng ngã chỉ là phân biệt.

Chẳng phải vô duyên là phiền não tập khí khởi lên duyên theo năm thọ ấm.

Hai vô ngã khác nhau là hai ngã kiến và năm thọ ấm. Nhưng hai thứ nầy cũng chẳng phải khác mà có tướng ngã. Như vậy, ngã kiến chỉ 3 là mê muội lầm lạc. Thật, không có tướng ngã nào để nắm bắt.

Giải thoát chỉ dứt hết mê nghĩa là nếu dựa vào thân khởi lên ý niệm giải thoát thì cũng chỉ là dứt hết mê mà thôi. Không còn cái ngã nào khác là giải thoát.

Đã nói ngăn dứt kiến chấp sai lầm, kế là quở trách về điên đảo.

Kệ rằng:

Vì sao dựa ngã kiến?
Không thấy tự tính khổ.
Mê khổ và người khổ,
Pháp tánh và vô tánh.

Giải thích: Thế nào là nương vào ngã kiến, không thấy tự tánh khổ?

Than ôi thế gian, thế nào là nương? Ngã kiến khởi lên nhiều thứ mê lầm, không thấu biết các hành, thì với tự tánh khổ ấy mà mãi đuổi theo tà vậy.

Mê khổ và người hổ, pháp tánh và vô tánh là khổ, nghĩa là thọ tiếp xúc với khổ ấy. Khổ nghĩa là khổ không dứt, chẳng phải ngã và khổ tương ưng nhau.

Gọi là khổ nghĩa là khổ bởi mê, không thấu hiểu tự tánh khổ. Khổ do mê cũng do không hiểu vô ngã. Pháp tánh là chỉ có pháp, vì nhân vô ngã. Vô tính là chẳng phải pháp, vì pháp vô ngã. Kệ rằng:

Thể duyên khởi là gì?
Hiện thấy, sinh dị kiến,
Do tối không thấy hữu,
Cũng lại không thấy hữu.

Giải thích: Thế nào là thể của duyên khởi, từ hiện thấy mà sinh dị kiến?

Than ôi! Thế gian làm sao hiện thấy? Các hành đều từ duyên mà sinh ra, nhưng nương vào thế ấy, rồi lại ngang nhiên sinh dị kiến là bảo rằng các căn như mắt v.v… Thể nó chẳng phải duyên mà sinh khởi. Do tối tăm tà vạy nên không thấy hữu.

Cũng lại không có mà thấy: nghĩa là do vô minh, nên pháp duyên khởi là có mà không thấy hữu. Thể của ngã là không có mà lại thấy có.

Hỏi: Nếu vậy thì làm sao được Niết-bàn? Kệ rằng:

Sinh tử và Niết-bàn,
Không hai, không chút khác,
Do khéo trụ vô ngã,
Sinh hết được Niết-bàn.

Giải thích: Sinh tử và Niết-bàn, không hai, cho đến chúng không chút khác nhau. Vì sao? Vì vô ngã cho nên bình đẳng. Nếu ai khéo trụ vào vô ngã mà tu tập nghiệp lành thì liền hết sinh tử mà chứng Niết-bàn.

Như vậy, đã ngăn dứt điên đảo, kế là nói pháp đối trị với sự điên đảo ấy. Kệ rằng:

Phước trí không bờ mé,
Sinh trưởng đều tròn đầy,
Tư pháp quyết định rồi,
Thông đạt tính nghĩa loại.

Giải thích: Bài kệ nầy nói về nhóm tập đại thứ nhất.

Phước và trí không bờ mé là do vô số sự khác nhau và thời tiết vô biên.

Sinh trưởng đều tròn đầy là Bồ-tát gom góp đại tụ nầy để đến bờ kia.

Pháp tư duy quyết định rồi là nương vào tâm định mà tư duy.

Thông đạt tính nghĩa loại là hiểu nghĩa loại các pháp đã tư duy, đều lấy ý thức và lời nói làm tự tính. Kệ rằng:

Đã biết tính nghĩa loại,
Khéo trụ chỉ tâm sáng,
Vì hiện thấy pháp giới,
Giải thoát khỏi hai tướng.

Giải thích: Bài kệ nầy nói về thông đạt phần vị thứ hai, vì thấu hiểu tất cả nghĩa chỉ lấy ý thức lời nói làm tính, nên biết rõ tất cả nghĩa đều là ánh sáng của tâm. Bấy giờ, Bồ-tát được gọi là khéo an trụ trong Duy thức. Sau khi từ Duy thức để nhìn thì thấy pháp giới trước mắt mà thấu biết tất cả hai tướng là năng chấp và sở chấp của giải thoát. Kệ rằng:

Ngoài tâm không có vật,
Vật không, tâm cũng không,
Do hiểu cả hai không,
Khéo trụ chân pháp giới.

Giải thích: Bài kệ nầy nói về vị kiến đạo thứ ba. Như Bồ-tát thấy pháp giới trước mắt, hiểu ngoài tâm không có vật bị chấp. Cái để chấp lấy đã là không, cho nên cũng không có tâm năng chấp. Vì lìa hai tướng năng thủ, sở thủ, nên biết, là đã khéo an trụ vào tự tính pháp giới. Kệ rằng:

Sức trí vô phân biệt,
Thường bình đẳng trùm khắp,
Do phá lỗi thể tụ,
Như thuốc trừ được độc.
 
Giải thích: Bài kệ nầy nói về địa vị tu đạo thứ tư. Sau khi Bồ-tát đã nhập vào nghĩa trí chuyển y thứ nhất, xong thì dùng trí vô phân biệt làm các việc bình đẳng mãi mãi và làm khắp các nơi. Vì sao? Do đã làm tan hoại chỗ nương của tính y tha vì nó huân tập tướng của khối sai lầm như rừng dày mịt.

Hỏi: Sức mạnh của trí tuệ nầy ra sao?

Đáp: Ví như thuốc lớn A-già-đa có công năng dứt trừ tất cả thứ độc. Sức mạnh của nó là thế. Kệ rằng:

Duyên Phật, khéo thành pháp,
Tâm căn an pháp giới,
Hiểu niệm chỉ phân biệt,
Mau tới biển công đức.

Giải thích: Bài kệ nầy nói về Địa vị rốt ráo thứ năm.

Duyên Phật, khéo thành tựu pháp là các Bồ-tát đối với Phật, khéo thành lập nhóm chung duyên trong tất cả pháp mầu nhiệm.

Duyên nhóm chung là gì?

Đáp: Tâm căn an trụ pháp giới, đây là nhập vào nghĩa trí thứ nhất một cách sáng tỏ. Do tuệ nầy an trụ pháp giới, nên tâm nầy gọi là căn.

Hỏi: Phía sau của tâm căn nầy là thế nào?

Đáp: Hiểu biết niệm chỉ là phân biệt, nghĩa là phía sau tâm nầy, khởi lên quán sát như quán việc trước. Niệm chuyển biến theo từng nơi.

Do vậy, mới biết niệm chỉ là phân biệt, chẳng thật có.

Hỏi: Biết như vậy rồi, tiến lên giai vị nào nữa?

Đáp: Mau tới bờ mé cuối cùng của biển công đức. Nghĩa là biết như vậy rồi là tới biển công đức của quả Phật, sẽ mau đến bờ bên kia.

 

Phẩm Thứ 8: THẦN THÔNG

Giải thích: Đã nói nghĩa chân thật rồi, kế là nói về tướng thần thông của Bồ-tát. Kệ rằng:

Sinh diệt và nói năng,
Tâm hành cùng trụ trước,
Để dẫn khiến xuất ly,
Sáu trí thông tự tại.

Giải thích: Sinh diệt là trí cảnh sinh tử, là biết việc sinh tử của chúng sinh.

Lời nói là trí cảnh của thiên nhĩ. Tùy theo lời chúng sinh nói lên đều nghe biết.

Tâm hành là trí cảnh của tâm người, có công năng biết được hoạt động trong tâm người và sự khác nhau của nó.

Tiên trụ là trí cảnh kiếp trước là biết những gom chứa thiện ác kiếp trước của người.

Để dẫn dắt là trí cảnh như ý, là tùy nơi ở chúng sinh mà giáo hóa.

Xuất ly là trí cảnh lậu tận, là biết rõ chúng sinh kia có nên xuất ly hay không.

Sáu trí như vậy, đối với sáu nghĩa khác nhau của thế giới, hiểu biết cùng khắp, không có gì chướng ngại, mà mạnh mẽ tự tại. Đó gọi là tự tính thần thông của Bồ-tát.

Đã nói về tự tính ấy, kế là nói về tu tập. Kệ rằng:

Thiền cực tịnh thứ tư,
Thuộc trí vô phân biệt,
Như phương tiện đã lập,
Nương đây, các thông tịnh.

Giải thích: Như thiền đã nương, như trí đã xếp vào, như phương tiện đã lập, mà Bồ-tát tác ý tu tập là được thần thông tối thượng.

Đã nói tu tập thần thông, kế là nói về quả chứng đắc thần thông.

Kệ rằng:

Ba trụ, trụ vô tỉ,
Nơi qua, khéo cúng dường,
Khiến họ được thanh tịnh,
Là nói quả thần thông.

Giải thích: Thần thông có ba thứ quả là:

1. Quả thắng trụ. Trụ nầy, có ba hạng: a. Trụ vào thánh; b. Trụ  vào phạm thiên; c. Trụ vào cõi trời, vì đã được Vô thượng, vô tỉ.

2. Quả khéo cúng đường là theo chỗ mình ở mà chúng sinh trong đời cúng đường rộng lớn, long trọng.

3. Quả giúp chúng sinh thanh tịnh là có công năng khiến người cúng đường được thanh tịnh.

Hỏi: Thần thông có sáu thứ nghiệp là: Tự nghiệp, tha nghiệp, quang nghiệp, hí nghiệp, hóa nghiệp và tịnh nghiệp. Sáu nghiệp ấy ra sao? Kệ rằng:

Việc thành hoại, đời nầy,
Coi chúng giống như huyễn,
Các việc họ mong muốn,
Tự tại tùy ý thành.

Giải thích: Nửa trên của bài kệ nầy là chỉ bày tự nghiệp, vì thấy các sinh ra, hoại diệt trong đời nầy, như huyễn hóa, nửa sau của bài kệ là chỉ rõ tha nghiệp, nghĩa là những việc đất rung chuyển, phát sáng v.v… Tùy những gì chúng sinh muốn thì hiện cho họ một cách tự tại.

Mười thứ lớp tại, như kinh Thập Địa có nói. Kệ rằng:

Sáng thần soi đường ác,
Khiến tin, sinh đường lành,
Oai lực chấn cung trời,
Điện động làm ma sợ.

Giải thích: Bài kệ nầy nói về ánh sáng nghiệp. Ánh sáng nghiệp có hai thứ: 1. Cứu khổ; 2. Làm cho ma khiếp sợ. Nửa trên của bài kệ nói về việc cứu khổ, nghĩa là chiếu xuống đến chúng sinh ở đường ác, khiến họ phát lòng tin được sinh lên đường lành. Nửa dưới của bài kệ là nói về ma khiếp sợ. Nghĩa là ánh sáng chiếu tới cõi trời làm cung điện ma rung chuyển, khiến các ma kinh hãi. Kệ rằng:

Dạo chơi các Tam-muội,
Bậc nhất trong Tăng-già,
Thường hiện ba biến hóa,
Để lợi ích chúng sinh.

Giải thích: Nửa trên của bài kệ là nói về hí nghiệp, là ở trong Phật và Đại chúng mà vui chơi trong định một cách tự tại. Nửa dưới của bài kệ là nói về hóa nghiệp. Hóa nầy có ba thứ:

  1. Nghiệp hóa, là với tay nghề tinh xảo có thể biến hóa tự tại.
  2. Tùy hóa là theo chúng sinh cầu, đều biến hóa tự tại.
  3. Thượng hóa là biến hóa vượt trội như trụ ở cõi trời Đâu-suất…

Do ba biến hóa nầy mà thường làm lợi ích cho chúng sinh. Kệ rằng:

Trí lực khắp, tự tại,
Tùy muốn hiện cõi nào,
Không Phật, giúp nghe Phật.
Đưa thẳng có cảnh Phật.

Giải thích: Bài kệ là nói về nghiệp thanh tịnh, nghiệp nầy có hai thứ:

  1. Cõi nước thanh tịnh.
  2. Chúng sinh thanh tịnh.

Nửa trên của bài kệ là nói về cõi nước thanh tịnh, là đối với thế giới không có Phật, Bồ-tát có công năng giúp họ nghe pháp Phật, phát lòng tin thanh tịnh, như được sinh nơi có Phật. Đã nói về nghiệp dụng, kế là nói về tương ưng. Kệ rằng:

Sức thành thục chúng sinh,
Điều Chư Phật khen ngợi,
Nói ra ai cũng tin,
Như vậy tương ưng nhau.

Giải thích: Thần thông tương ưng, có ba thứ:

  1. Tương ưng với việc thành tựu chúng sinh, như cánh chim mới được thành tựu.
  2. Tương ưng với lời khen ngợi là thường được Chư Phật khen ngợi.
  3. Tương ưng với sự tin nhận là hễ mình nói ra lời gì cũng được các người tin nhận.

Đã nói tương ưng, sau đây nói về an trụ đầy đủ trong thần thông.

Kệ rằng:

Sáu trí và ba minh,
Tám giải, tám thắng xứ,
Mười biến, các Tam-muội,
Mạnh mẽ giúp thần thông.

Giải thích: Bồ-tát an trụ đầy đủ trong thần thông, có sáu thứ khác nhau:

  1. Sáu trí.
  2. Ba minh.
  3. Tám giải thoát.
  4. Tám thắng xứ.
  5. Mười biến nhập.
  6. Các Tam-muội.

Sáu nghĩa như vậy, là do phân biệt sự khác nhau của thần thông đầy đủ.

Đã nói trụ đầy đủ trong thần thông, kế nói khen ngợi thần thông quảng đại. Kệ rằng:

Năng an không tự tại,
Thường siêng lợi ích vật,
Hành có không sợ hãi,
Mạnh mẽ như sư tử.

Giải thích: Thần thông của Bồ-tát, có ba thứ đại:

1. Tự tại đại, bị chúng sinh do phiền não nên không được tự tại, Bồ-tát có sức mạnh của trí tuệ có công năng tự tại ở bất cứ nơi nào.

2. Vui mừng đại do siêng làm các lợi ích cho chúng sinh nên có một niềm vui hoàn toàn như vậy.

3. Không sợ đại, đi trong ba cõi mạnh mẽ như sư tử.

 

Phẩm Thứ : THÀNH THỤC

Giải thích: Đã nói thần thông của các Bồ-tát. Các Bồ-tát làm thế nào để tự thành thục? Kệ rằng:

Dục, tín, xả, bi, nhẫn,
Đủ niệm, lực, kiên, chi.
Nên biết, tự thành thục,
Chín ấy đều thượng phẩm.

Giải thích: Bồ-tát có chín thứ lớp thành thục:

  1. Ham muốn thành thục, vì mong cầu pháp Đại thừa.
  2. Lòng tin thành thục, vì nói pháp với tâm thanh tịnh.
  3. Buông xả thành thục, vì dứt, lìa phiền não.
  4. Tâm thương xót thành thục, vì thương xót chúng sinh.
  5. Nhẫn nhục thành thục, vì có công năng làm những việc khó làm.
  6. Niệm thành thục, thọ trì tất cả.
  7. Sức mạnh thành thục, vì thông đạt tất cả.
  8. Vững chắc thành thục, vì ác ma, ngoại đạo, không thể đọa lấy.
  9. Bạn hữu thành thục, do phần thiện tròn đầy.

Vì chín thứ địa vị tối thượng cùng cực như vậy, nên gọi là thành thục tướng. Chín thứ thành thục nầy, mỗi thứ đều có nhân, có thể, có nghiệp, nay sẽ nói. Kệ rằng:

Gần bạn, nghe suy nghĩ,
Mạnh hơn, rốt ráo hơn,
Nhiếp pháp, và thọ pháp,
Nói dục tướng (thành) thục.

Giải thích: Gần gũi bạn lành, lắng nghe chánh pháp, suy nghĩ như chánh pháp. Từ ba điều ấy, phát sinh tâm ham muốn lớn lao, đó gọi là nhân ham muốn. Thượng đại tinh tấn là tất cả không có nghĩ bàn, hoàn toàn không nghi ngờ. Đó gọi là thể của ham muốn. Đối với pháp Đại thừa, nơi nào xảy ra tai nạn bất ngờ thì có công năng giữ gìn. Những gì mà Bồ-tát nói để khiến có lòng tin, nhận lãnh thì gọi là nghiệp ham muốn. Kệ rằng:

Nhóm phước trí Như lai,
Tâm tịnh không thể hoại,
Mau thọ quả trí định,
Nói tướng tin, thành thục.

Giải thích: Tức Bà-già-bà đã nói rộng như thế, đó gọi là nhân của lòng tin. Nó được thanh tịnh, không hư hoại, đó gọi là thể của lòng tin.

Được quả trí định gọi là nghiệp của lòng tin. Kệ rằng:

Khéo giữ gìn sáu căn,
Lìa ác khởi đối trị.
Thích tu các pháp lành,
Nói xả tướng thành thục.

Giải thích: Do nương vào niệm mà khéo giữ gìn sáu căn, gọi là nhân buông xả. Lìa hiểu biết bất thiện, phát khởi đạo Vô gián, gọi là thể của buông xả. Thường thích tu tập pháp lành, gọi là nghiệp của buông xả. Kệ rằng:

Thấy các chúng sinh khổ,
Thương xót, lìa tâm Tiểu,
Được thần đẹp thế gian,
Nói tướng bi thành thục.

Giải thích: Bồ-tát thấy chúng sinh khổ, gọi là nhân thương xót. Từ đó phát sinh lòng thương vô hạn, xa lìa tâm Tiểu thừa. Đây gọi là thể của tâm xót thuơng. Được tất cả chỗ tốt đẹp của thế gian mà không lui sụt, gọi là nghiệp của tâm thương xót. Kệ rằng:

Giữ tính thuờng tu, tập
Rất khổ, an nhẫn được,
Thường ưa thích thiện căn,
Nói tướng nhẫn thành thục.

Giải thích: Giữ tính nhẫn nại gọi là cánh cửa thường tu tập thành tính, gọi là nhân của nhẫn nhục, có công năng chịu khổ rất giá rét, đó gọi là thể của nhẫn. Tùy nơi sinh tốt đẹp mà thường tu pháp lành, đó gọi là nghiệp nhẫn. Kệ rằng:

Thuận theo báo tịnh thiện,,
Nói đi sâu thiện, ác,
Năng khởi đại Bát-nhã,
Nói tướng niệm thành thục.

Giải thích: Được đồ chứa đựng trong sạch, gọi là nhân của niệm. Từ hai nghĩa thiện, ác, mà mình nghe, suy nhĩ, tu tập đến chỗ sâu xa, không quên. Đó gọi là thể của niệm, phát sinh trí Bát-nhã xuất thế, đó gọi là nghiệp của niệm. Kệ rằng:

Hai nhóm giới tròn đầy,
Quả sinh, nương trên hết,
Thế gian được bậc nhất.
Nói tướng sức thành tựu.
 
Giải thích: Hạt giống của hai nhóm phước trí đầy khắp, đó gọi là nhân của sức mạnh. Có công năng được nương trên hết, là thể của sức mạnh. Tùy ý thành thục bậc nhất ở thế gian, gọi là sức mạnh của nghiệp. Kệ rằng:

Quán sâu lý diệu pháp,
Các ma không thể đoạt,
Có thể vượt bộ khác,
Nói tướng kiên thành thục.

Giải thích: Đưa tâm ý quán xét đạo lý của pháp mầu nhiệm, đó gọi là vững chắc. Ác ma Ba-tuần không thể chướng ngại nổi, đó gọi là thể của vững chắc. Có thể gây ra lỗi lầm cho bộ chúng khác, đó gọi là nghiệp kiên cố. Kệ rằng:

Tất cả nhóm gốc lành,
Phát sinh do nương siêng,
Lìa ác, và tu lành,
Nói tướng chi thành thục.

Giải thích: Nhóm thiện căn thành thục, đó gọi là nhân của chi. Dựa vào nhân nầy, phát sinh siêng năng hơn nữa, đó gọi là thể của chi. Lìa các bất thiện, thích tu thiện vượt cao, đó gọi là nghiệp của chi. Kệ rằng:

Chín thứ vật như thế,
Tự thục cũng thục người,
Thêm thiện, thêm pháp thân,
Như thân nhất trên đời.

Giải thích: Chín vật như Dục, v.v… có thể làm thành thục, cũng có thể khiến cho người khác được thành thục. Thường tăng thêm tất cả gốc lành và thêm lớn pháp thân. Vì hai thứ tăng thêm nầy mà tương tự như người thân nhất trên đời.

Đã nói Bồ-tát tự thành thục kế là nói Bồ-tát thành thục chúng sinh. Kệ rằng:

Nhọt chín muồi phải trị,
Nấu chín mới ăn được.
Chúng sinh thục cũng vậy,
Vì hai phần xả dụng.

Giải thích: Hai phần là:

  1. Phần chướng ngại.
  2. Phần trị.

Chướng chín muồi thì phải xả, như ung nhọt chín muồi thì phải nặn vỡ ra. Thục chín thì mới dùng, như đồ ăn nấu chín mới ăn. Đó gọi là nương vào thành thục.

Đã nói nương vào thành thục, kế là nói thành thục khác nhau. Kệ rằng:

Xả, phổ, thắng, tùy, thiện,
Đắc, thường, tiệm là tám,
Các thành thục như thế,
Là nói chủng khác nhau.

Giải thích: Có tám thứ tướng làm cho người khác thành thục:

  1. Buông xả thành thục, là giúp chúng sinh dứt phiền não.
  2. Phổ thành thục là giáo hóa ba thừa.
  3. Thắng thành thục vượt qua pháp ngoại đạo.
  4. Tùy thành thục là nói ứng cơ.
  5. Thiện thành thục là tâm cung kính.
  6. Đắc thành thục là giúp chúng sinh không hiểu trái ngược.
  7. Thường thành thục là giúp chúng sinh không bao giờ lui sụt.
  8. Tiệm thành thục, khiến thứ lớp tăng thêm.

Đã nói sự khác nhau của thành thục. Kế là nói thắng tâm thành thục. Kệ rằng:

Lợi con, lợi người thân,
Lợi mình, ba lợi đẹp.
Bồ-tát lợi tất cả,
Ba đẹp kia không sánh.

Giải thích: Như người đời đem yên vui cho con, cho người thân, cho mình, tâm ấy rất đẹp. Bồ-tát muốn thành thục trùm khắp cho tất cả chúng sinh. Nó vượt khỏi ba tâm kia, không thể sánh bằng, nên gọi là Bồ-tát thành thục cho chúng sinh.

Hỏi: Sự tốt đẹp nầy được thành lập ra sao? Kệ rằng:

Người đời không thương mình,
Huống chi thương người khác.
Bồ-tát xả thương mình,
Chỉ vì thương người khác.

Giải thích: Người đời dù thương yêu mình, nhưng vẫn chưa sống an vui sung sướng, huống chi là thương yêu người khác, làm lợi ích cho họ. Bồ-tát không như vậy, là bỏ đi sự thương yêu mình mà chỉ lo thương yêu người, cho nên Bồ-tát thành thục chúng sinh vượt cao khỏi tình thuơng vị kỷ.

Hỏi: Vận dụng tâm vượt hơn nầy để thành thục ra sao? Kệ rằng:

Thân, của xả tất cả,
Bình đẳng, không nhàm chán,
Ai thiếu giúp đầy đủ,
An lập vào gốc lành.

Giải thích: Bài kệ nầy nói về Đàn Ba-la-mật để thành thục chúng sinh. Có ba thứ Đàn (bố thí):

1. Tư sinh Đàn là tất cả cái gì trong thân và của cải bên ngoài đều đều buông xả.

2. Bình đẳng Đàn là đối việc bố thí bỏ đi ý niệm cao, thấp.

3. Vô yếm Đàn: Mãi hăng hái bố thí, không thấy mệt mỏi. Vì hoàn cảnh mà gom chúng sinh về bằng ba Đàn nầy, cho cả hai đời và trong hiện tại thì giúp họ đầy đủ, và an lập cho họ gốc lành trong đời vị lai. Kệ rằng:

Thường với tính và mãn,
Tự vui không buông lung.
Dẫn họ vào giới đủ,
Hai quả thường không hết.

Giải thích: Bài kệ nầy nói về Thi Ba-la-mật thành thục chúng sinh. Bồ-tát có năm thứ Thi-la (giới):

  1. Thường Thi-la là đời đời thường có Thi-la.
  2. Tự tính Thi-la là tâm không dụng công mà vẫn an trụ trong thể chân thật của Thi-la.
  3. Tròn đầy Thi-la là sống đầy đủ với mười nghiệp đạo thiện, như kinh Thập Địa nói.
  4. Tự ưa Thi-la là ưa thích.
  5. Bất buông lung Thi-la là niệm niệm không phạm.

Bởi hoàn cảnh mà gom chúng sinh bằng năm Thi-la nầy cho cả hai đời và trong hiện tại thì an lập phẩm giới, và giúp họ nương vào quả báo hai công đức không bao giờ dứt mất ở đời vị lai. Kệ rằng:

Không lợi, được tưởng lợi,
Tột nhẫn hiểu phương tiện,
Khiến họ khởi thuận theo,
Và gieo các gốc lành.

Giải thích: Bài kệ nầy nói về Sằn-đề (Nhẫn nhục) Ba-la-mật để thành tựu chúng sinh. Nếu ai đem việc không có lợi ích cho Bồ-tát, thì đối với họ, Bồ-tát khởi tâm nhẫn nhục cao tột làm cho họ hiểu lợi ích. Vì sao? Vì theo hoàn cảnh họ gây ra mà ta sống cao hơn nữa về nhẫn nhục Ba-la-mật. Và cũng tùy hoàn cảnh dùng nhẫn gom chúng sinh về trong cả hai đời, trong hiện tại khiến họ quay về chánh đạo, và giúp họ gieo gốc lành đời vị lại. Kệ rằng:

Nhiều kiếp tu siêng năng,
Tâm không lùi lợi vật,
Khiến sinh một niệm lành,
Huống muốn vô lượng thiện?

Giải thích: Bài kệ nầy nói về Tỳ-lê-gia (Tinh tấn) Ba-la-mật thành thục chúng sinh. Trong ức trăm ngàn kiếp, Bồ-tát thực hành siêng năng trên hết thành thục vô biên chúng sinh, nhưng tâm không lui sụt. Và tùy hoàn cảnh đem tinh tấn gom chúng sinh về trong cả hai đời, và trong hiện tại khiến họ phát sinh một ý niệm lành, huống chi giúp cho họ có vô lượng gốc lành tăng lên mãi trong đời vị lai. Kệ rằng:

Được thiền tự tại trên,
Lìa nhiễm và kiến, mạn,
Hiện tại giúp quy hướng,
Vị lại, pháp lành tăng.

Giải thích: Bài kệ nầy nói về Thiền Ba-la-mật để thành thục chúng sinh. Bồ-tát được thiền định xa lìa ái, kiến, mạn, v.v… nên được tự tại trên hết. Và tùy hoàn cảnh, lấy đây gom nhiếp chúng sinh về, trong cả hai đời là trong hiện tại thì khiến họ quay về pháp mầu bậc nhất và giúp họ tăng lên mãi gốc lành ở đời vị lai. Kệ rằng:

Biết chân và biết ý,
Dứt được tất cả nghi,
Khiến cung kính chánh pháp,
Công đức mình, người mãn.

Giải thích: Bài kệ nầy nói về Bát-nhã Ba-la-mật thành thục chúng sinh. Biết chân thật là hiểu pháp không bị trái ngược. Biết ý là vì biết hoạt động trong tâm chúng sinh mà dứt ngờ vực cho họ. Và tùy hoàn cảnh, lấy Bát-nhã nầy mà gom nhiếp chúng sinh về, trong cả hai đời và trong hiện tại thì khiến họ quay về, sinh tâm cung kính pháp sâu xa và giúp công đức tự thân họ và công đức tự thân người đều tròn đầy trong đời vị lai. Kệ rằng:

Đường lành và ba thừa,
Đại bi có ba phẩm,
Cùng tận mé vị lai,
Như thế thục chúng sinh.

Giải thích: Bài kệ nầy nói về tướng thành thục lớn lao. Có ba thứ:

1. Giai vị lớn lao là cùng cực bốn địa vị mà an lập con đường lành cho cả ba thừa.

2. Phẩm lớn lao rốt ráo đại bi có ba phẩm. Phẩm dưới thuộc địa Tín, hạnh. Phẩm giữa là từ Sơ địa đến địa thứ bảy. Phẩm trên thuộc các địa tám, chín, mười.

3. Thời gian lớn lao là thời gian vô biên đến tận cùng bờ mé vị lai, Bồ-tát vẫn làm lợi ích cho chúng sinh đến đó. Đó gọi là tướng thành thục lớn lao.