LUẬN ĐẠI THỪA TẬP BỒ TÁT HỌC
(Luận Đại thừa tập hợp các Học xứ của Bồ-tát)
Bồ-tát Pháp Xứng tạo luận
Sa-môn Pháp Hộ v.v… dịch
Nguyên Hồng dịch tiếng Việt

 

QUYỂN 9

Phẩm 6: HỌC XỨ VỀ HỘ THÂN 2

Như vậy người đi khất thực đối với việc thí thực khởi ba thứ niệm trụ. Là thương xót các con trùng tập trung ở trong thân, vì thành tựu lợi ích tất cả chúng sinh mà nhiếp thụ chính pháp. Lại nữa, Như Lai dạy bảo rằng các việc làm đều phải đầy đủ chính niệm. Trước tiên dùng tiếng chân ngôn để bảo vệ. Nên trước là nói lợi ích của minh chú Mạn-noa-la của Để-lý Tam-muội-da vương nói.

Nay nói chú:

( Phiên âm Hán: )

Na mô tát lý phược, một đà mạo, đề tát đỏa, nẫm áng, vĩ la nhã vĩ la nhã ma ha, phược lý, tát đa sa, la để sa, la để đát la, dĩ đát la, dĩ vĩ đà mạt để tam bạn, nhã nhĩ đa la mạt để tất đà, ngật lý, đát lãm, tát phược hạ.

( Phiên âm Phạn: )

Namaḥ sarvabuddhabodhisattvānāṃ oṁ viraji viraji

mahācakraviraji,sata sata sārata sārata trapi trapi vidhamani,sabh ajani,saṃbhajani,taramati,siddha agre traṁ svāhā.

Tụng chú này sẽ được nhập vào tất cả Mạn-noa-la. Hoặc đây là niệm Như Lai tâm tám ngàn biến.

Sao gọi là tất cả ? Nghĩa là Mạn-noa-la cao tột thế gian xuất thế gian. Tất cả đều có thể nhập vào.

Lại nói chân ngôn:

(Phiên âm Hán: )

Na mô tất để lý, dã đề vĩ ca nẫm, đát đà nga đa nẫm, tát lý phược, đát la, bát la, để cát đa, phược, bát để, đạt lý ma, đa, mạt lăng na, a tam ma tam ma tam mãn đa đô, nan, đát đa, phược, bát để, xá, tát nhĩ cát la cát la tam ma, la tam ma, la noa vĩ nghiệt đa la, nga một đà đạt lý ma, để tát la tát la đạt ma mạt la, cát sa cát sa đát la,dã đát la, dã nga nga na ma hạ, phược la lạc xoa ni nhập phược, la nhập phược, la na sa, nghiệt lý tát phược hạ.

( Phiên âm Phạn: )

Namastraiyabdhikanam Tathagatanam svartrapratihatavapti dharmatapalinam om asamasama samantato nantanavaptisasani hara smara smarana vigataragabuddhadharmate sara sara samabala hasa hasa trayatrayagaganamahacalaraksana jvala jvalana sagare svaha

Phải biết đây là tất cả thân Như Lai rất được rất tôn trọng không có gì trên. Người mới thực hành đối với Phật và chúng sinh khi vô lượng tu tác, các ma đồng khởi tệ ác, cần phải lấy đây làm bảo vệ cao tột. Nghĩa là hoặc dùng vỗ tay, hoặc tro, hoặc cải trắng, hoặc nước trong v.v… tùy ý thấy rồi mới làm kết giới.

Lại nữa nếu là người bệnh thì làm chân ngôn gia trì vào thuốc nước cho uống. Hoặc ở trong rừng hay nơi đồng nội, dùng hoa Côtô-ma đặt nơi tháp Phật chùa Phật an trí trước hình tượng kinh điển chính pháp mà cúng dường, quán Phật Bồ-tát tâm an lạc lợi ích tất cả chúng sinh. Bệnh tật này ắt được các Dược-xoa hộ trì sẽ được thoát khỏi.

Lại nữa, trước tiên niệm tu theo nghi thức hành pháp Phổ Hiền. Trong nghi quỹ này mới thấy biên giới cùng tận. Nghĩa là với Để-lí Tam-muội-da này thì dẫu không tắm gội, rửa mặt súc miệng và bất tịnh, hoặc ăn cá thịt đều không có lỗi.

Nhưng người làm ấn khế, tức bắt ấn bằng các ngón tay, thì đều không được ăn, vỉ không trái với bản nguyện, và cũng không ngồi cùng giường ghế nệm với những người khác, cũng không nhảy nhót. Học hạnh tín giải này không khuynh động cũng chớ nên nghi hoặc. Nếu trước phá giới, đây cũng thành tựu, có trí không trí chắc chắn đều thành.

Lại như kia nói nếu tâm Bồ-đề kiên cố được ý chuyên chú, nên lìa bỏ sự nghi hoặc này thì hoàn toàn thành tựu.

Luận nói:

Tâm Bồ-đề kiên cố, là nhất định nói lợi ích các dị sinh v.v… khiến tâm không thoái lui tùy theo người chưa nhập địa. Nói như vậy là muốn được đem ánh sáng bình minh chiếu rọi vào nơi đầy tăm tối.

Nếu lại mong cầu thành tựu thì như thế nào gọi là phúc tốt ? Muốn thành tựu này phải trừ bỏ tâm biếng nhác. Nhưng nhập vào thánh địa tích tập vô lượng phúc, vượt qua các ác đạo không bị chìm đắm rộng lớn, nói trước được đó là lỗi lầm. Hoặc không chân ngôn mà niệm tụng không biết văn tự tăng giảm, đây không có tội lỗi. Nếu như tăng giảm quên mất thứ lớp đều không có lỗi. Huống chi tin tâm Bồ-đề xả bỏ tự lợi ra làm tính toán quan sát mà chuyển, chắc chắn được thấy chư Phật và Bồ-tát v.v… được thành tựu đây. Hoặc dùng chân ngôn Chấp kim cương làm người bảo hộ.

Chân ngôn nói:

( Phiên âm Hán: )

Na mô tất để lí, dã thể vĩ, ca, nẫm, đát đà, nga đa, nẫm, tát lí phược, phược nhã la, đạt la, noãn, tán noa tán noa mạt la mạt la phược nại la, phược nại la, phiến, đa na phiến, đa na phả la phả la phược la phược la ma, la noa ma, la noa phược nhã la, nại la tả tát phổ, tra, la lệ đa thi kha la tam mãn đa phược nhã lí, nê nhập phược, la nhập phược, la na mô tốt đổ, a ngột lỗ, nga la, xá, tát na, nẫm, la noa la noa hổ la hổ la phả la tát phát, tra, phược tổ lô, đổ di tát phược, ha.

( Phiên âm Phạn: )

Namastraiyabdhikanam Tathagatanam sarvavajradharanam candala candala cala cala vajra vajra santana santana phalana phalana cara cara marana marana vajradalakata lalitasikhara samantavajrini jvala jvala namostu te agrograsasananam rana rana ham phula sphata vajrottame svaha

Tụng chú này trong khoảng sát-na những thứ gây chướng ngại như Tần-na-dạ-ca thảy đều chạy tan. Chư thiên long v.v… đều dùng ẩm thực y phục ngọa cụ phụng sự cúng dường, cho đến gia trì tịnh thủy, hoặc tùy ý chỗ thấy mà bảo hộ.

Lại nữa mọi việc ra làm thì tụng Tâm chân ngôn của Bất Động minh vương như sau:

( Phiên âm Hán: )

Na mô tam mãn đa, phược nhã la, noãn, đát la, tra a mô, khư tán noa ma ha, lỗ sắt, noa tát phổ, tra, dã hồng, đat la, tra, hạ. Án mạt lãng nại nhĩ đế nho, ma, lệ nhĩ tát phược, hạ.

( Phiên âm Phạn: )

Namah samanta vajranam trata amogha candamaharosana sphataya hum phramaya phramaya hum trata hum mam palam dade te jomalini svaha.

Khi mới bắt đầu ăn, tụng chân ngôn này bảy biến sau đó mới ăn, chư Phật Dược Vương và chúng Bồ-tát do niệm tụng làm tiêu các độc loại.

Chân ngôn như sau:

( Phiên âm Hán: )

Đát, đà, y lệ mật đế để lệ mật đế y lệ để lệ mật đế nỗ nhĩ nỗ phược, lê, dệ đát lí kế, đát lí cát, la ni ma ma lí nhĩ, ma lí ma, la ni cát tất di, lí cát tất di, la mục ngật để, a khư nhĩ a khư na khư nhĩ y lệ y lê duệ a kha, dĩ, duệ a bà, y duệ vĩ để tất vĩ, đa đôn ni a na, nỗ la sất tá phược, hạ.

( Phiên âm Phạn: )

Tadjatha ilimitte ilimitteilimittedumbe duhse duhsaliye dumbaliye takke tarkkarane marmme marmaranekasmire kasmiramukye aghane aghanaghane ilimiliye akahpye apapye svete svetatunde ananu rakase svaha.

Lại nữa, nếu nghe minh chú này trong bảy năm không bị rắn độc cắn. Giả sử bị cắn thì đầu rắn vỡ làm bảy phần như ngọn cây lan hương. Nếu người trì minh chú này thì trọn đời không bị rắn độc cắn vào người. Câu chân ngôn này chớ đọc trước rắn. Vì sao vậy ? Vì rắn sẽ bị chết.

Chân ngôn như sau:

( Phiên âm Hán: )

Đát, đà, y la, tức la, tá cô, phược cô, cô ni, cô, ni để nhĩ cô lô noa, nhĩ cô lô ni để bố, noa, bố, ni để bổ lô noa, bổ lô ni để phổ tra la hứ phổ tra định, noa la hứ na, nghiệt la hứ na, nghiệt tra định noa lạt hứ tát lí ba, lạt hứ tát lí ba, đa phược đa lệ yết la lí yết la lí đàn ni đàn ni đát ni, đát ni đa, ni đa, ni mạt la mạt la tát phổ, tát phổ, tra, phát tra, tát phược, ha, y để hứ mịch xoa vu cữu, ngô liêm, vĩ, diêm la tất đa, ô nại, yết lí, đa, diệm, tát lí phược, phổ đa tam ma, nghiệt nhĩ tát lí ban, đát đà, a na đán đà, phổ đam tát đa a vĩ bát lê, đam a vĩ bát lí dã, tát đam, y nại vĩ sa ma vĩ sam bà phược đổ nại đa, lãm nghiệt xán đổ năng sắt tra la, lãm nghiệt xán đổ a ngật nhĩ, nghiệt xán đổ nhạ lam nghiệt xán đổ tát đam, bồng nghiệt xán đổ cô tra dã, nghiệt xán đổ phổ minh nghiệt xán đổ phiến, đỉnh nghiệt xán đổ tát phược, ha.

( Phiên âm Phạn: )

Tadyatha illa cilla cakko bakko koda kodoti nikuruda nikurudeti poda podeti moda modeti puruda purudeti phatarahe phudatanda rahe naga rahe nagatatanda rahe sarpa rahe sarpatatandarahe chala visasate sitacattale halale halale tandi tandi tada tada tadi tadi mala mala sphuta sphuta phutu phutu svaha.

Iti hi phiksavo jangulyam vidyayam udahrtayam sarvabhutasamagate sarvam tathavitathananyathabhutam satyamaviparitamaviparyastam idam visamavisam bhavatu dataram gacchatu damstraram gacchatu agnim gacchatu jalam gacchatu sthalam gacchatu stanbham gacchatu kudyam gacchatu bhumim samkramatu santim gacchatu svaha.

Lại nữa, nếu bị giặc xâm hại thì tụng chân ngôn Ma-lợi-chi như sau:

( Phiên âm Hán: )

Đát, đà, a lí ca, ma tỉ ma lí ca, ma tỉ phược na ma tỉ át đa lí đà, na ma tỉ bát thể nhĩ la xoa ô đát ba, thể nhĩ la xoa nhạ na đô, nhĩ la xoa la, nhạ đô, nhĩ lạc xoa tô, la đô, nhĩ lạc xoa tinh hạ đô, nhĩ lac xoa dương, khát la, đô, nhĩ lạc xoa na, nghiệt đổ, nhĩ lạc xoa tát lí ba, đô, nhĩ lạc xoa tat lí phược, đô, nhĩ lạc xoa lạc xoa, tát lí phược, bà duệtì dược, tát lí vũ, ba nại la, vũ, ba tát lí ngô, bá, dã, tế tì dược, tát phược, ha. Án, phược để lệ phược để lệ tát lí phược, nột sắt tra, nẫm, ngật lãm, đinh mãn đà, nhĩ tát phược, ha. Na mô, la đát na, dạ, dã. Na mô, ma, lí, tải nhĩ phược đa, dị ma, lí, ta, nhĩ phược đa, dã, ngật lí, nại diêm ma, phược lí đa, duệ xa, nhĩ đát, đà, phược đa lệ phược nại,lệ phược la,lệ phược la, ha mục khế tát lí phược, nột sắt tra, nẫm, mãn đà mục khám tát phược, ha.

( Phiên âm Phạn: )

Tadyatha parakramasi udayamasi vairamasi arkamasi markamasi vanamasi antarddhanamasi pathe me raksa utpathe me raksa janato me raksa cairato me raksa rajato me raksa simhato me raksa vyaghrato me raksa nagato me raksa sarpato me raksa sarvato me raksa raksa raksa mam sarvasattvamsca sarvaphayebhyah sarvopaye sopasargebhvah svaha. Um vaeili umvadili sarvadustanam granthim vandami svaha.

Namo ratnatrayaya namo maricyai devatayai maricya detaya hrdayamavartayisyami. Tadyatha battali badali badali barali vara hamukhi sarvadustanam nivaraya bandha mukham svaha.

Do niệm minh chú này xuất sinh vô lượng đại đức oai quang. Lại nữa năm bảy chữ thuộc Trì Minh Tạng, đối với các sự sợ hãi bảo hộ lợi ích.

Chân ngôn như sau:

( Phiên âm Hán: )

Đát, đà, yết chi mạt chi na chi cô na chỉ tra chỉ xá la chỉ xá la chỉ ô lô mạt để lô lô mạt để đổ lô hứ lệ nhĩ lệ tát lí phược, nghê dã, nỗ ba nại nga. Na mô, tát lí phược, tam ma tam một đà, noãn tất điện đô nhĩ mãn đát la, bát nại, tát phược, ha.

( Phiên âm Phạn: )

Tad yatha atte batte natte ku natte take thake tharake uru mati ruru matitu ru hi li mi li sarvajno dupadagga namo sabba samma sam buddhanam me manta padah svaha.

Luận nói:

Việc hộ thân này là dùng thuốc thang y phục v.v… vì lợi ích chúng sinh trước làm như thế này. Nghĩa là đối với những vật đã thụ dụng khởi tội nhiễm ô, do đó Bồ-tát đối với các chúng sinh tất cả đều phải xả bỏ.

Lại nữa nếu không mong cầu vật gì khác, không đắm trước những vật đã dùng thì chỉ có khởi tội nhiễm ô đối với việc ăn uống. Tuy không nghĩ đến ăn uống, đối với việc chúng sinh hoặc không yêu thích, nghĩa là đối với vật ăn uống khởi tưởng là vật khác thì không tội nhiễm ô. Nhưng chỉ tự lợi là đầy đủ tội. Đối với biệt giải thoát bị tội Ba-la-di.

Lại nói chỗ thụ dụng này thì tất cả chúng sinh kia là chủ hay tất cả chúng sinh này là chủ ? Nếu hộ thân như thế thì đều lầm lỗi. Không phải như kẻ nô lệ thường phục dịch cho một chủ sai khiến. Vật gì là sở hữu của mình tức cũng là sở hữu của người khác.

Nhưng trong Kinh Pháp Tập nói:

Bồ-tát ví như đứa trẻ đi ở mướn, thay thế cho tất cả chúng sinh mà làm việc.

Luận nói:

Chẳng phải nói đối với một chủ là vì lợi tha. Giả sử nếu đứa trẻ ở mướn bị bệnh, chủ chưa nói mà hoặc trước cho ăn không bị lỗi ư ? Bồ-tát tu như vậy tạo sự thân cận mà không biết việc đó. Nếu tâm có thể biết rõ lý thanh tịnh này hành quảng đại xả, nhưng đối với lý ấy chớ nên nghi hoặc, tất cả đều nên xả bỏ. Như trước Phật nói là trường hợp khẩn cấp, bảo hộ thân này là vì lợi chúng sinh, phải hiểu rõ nghĩa này, khai thị hợp lý để không quên mất.

Phẩm 7: HỌC XỨ VỀ HỘ THỤ DỤNG PHÚC 1

Luận nói:

Như thế đã giải thích hộ thân nên biết. Nay sẽ nói về người thụ dụng sự bảo hộ.

Lại nữa khởi thiện tu tác, trong đó dùng trí quan sát. Các học xứ này việc hộ thụ dụng không khó.

Kinh Tối Thượng Thụ Sở Vấn nói:

Các học xứ này bình đẳng thấy các việc thiện mà làm. Làm các việc thiện là quán sát rất xa bỏ các thụ dụng.

Luận nói:

Xa-ma-tha này dung nạp thời sau, nhưng đối với lý này hiểu như đã nói tức thành tựu. Nghĩa là như tiết bỏ sự thụ dụng mà đối với sự việc này thành tựu thật sự tự nhiên hơn các thụ dụng rộng nhiều khác. Tổn mà có thể xả bỏ, ngoài ra không có gì khác.

Lại nữa, như Kinh Tối Thượng Thụ Sở Vấn nói:

Vợ con, tôi tớ, người làm công là những người chính đáng được thụ dụng. Hoặc tự hoặc tha, nghe Bồ-đề phần cấm tuyệt việc làm này. Bỏ hay không bỏ không thành vấn đề, phải rất cân nhắc đối với lợi ích chúng sinh. Và Bồ tát là người phải rất khéo giỏi cân nhắc nên cấm tuyệt không làm việc làm này, bỏ hay không bỏ không thành vấn đề, đây được thành tựu.

Về chỗ nghi ngờ này, trong Bồ Tát Biệt Giải Thoát cũng có nói như vầy:

Lại nữa Xá-lợi tử ! Nếu Bồ-tát xuất gia cầu Bồ-đề phần phải biết nói về thí.

Sao gọi là thí ? Nghĩa là hoặc sắc thí cho đến pháp thí. Là người pháp thí, Xá-lợi tử ! Nếu Bồ-tát tại gia dùng bảy báu đầy trong các cõi Phật số như cát sông Khắc-già đem bố thí Như Lai Ứng cúng Chính đẳng Chính giác.

Xá-lợi tử ! Nếu Bồ-tát xuất gia dùng một bài kệ bốn câu như thuyết tu hành, cho đến vì người giảng nói, phúc đức này hơn kia.

Lại nữa, Xá-lợi tử ! Lẽ nào đối với người xuất gia chư Như Lai không nói đến tài thí ?

Nói tóm lại, Xá-lợi tử ! Nếu được thức ăn đầy bát và dư nên phân chia cho những người đồng phạm hạnh.

Nếu họ lại đến cầu xin hoặc y hoặc bát, thì như Phật dạy nếu có nhiều hơn ba y thì tùy nên xả thí.

Nếu thiếu ba y hoặc vì y chỉ trụ tu tịnh phạm hạnh thì trường hợp này không nên xả.

Sở dĩ vì sao ? Vì Như Lai hoàn toàn không nói thí ba y này.

Xá-lợi tử ! Bồ-tát khi dùng ba y kia thí cho người cầu xin, nhưng không thiếu sự gần gũi.

Lại nữa, Xá-lợi tử ! Bồ-tát xuất gia chỉ nên vì pháp mà gần gũi. Kia nếu có cầu xin thì phải biết tiếp nhận. Chỉ một chúng sinh mà chưa đem lại lợi ích nói gì nhiều chúng sinh. Cho nên Bồ-tát đối với chúng sinh phải có tâm sâu xa tu tập làm việc lợi ích. Nếu giảm mất lợi lớn thì diệt mất việc thiện. Như vậy là nói vì một sát-na mà xa lìa thiện phần rộng lớn. Cũng vậy, cho đến vấn đề xà bỏ hay không xả bỏ.

Lại nữa, như Kinh Hải Ý nói:

Người Đại thừa cắt đứt nhiều tài lợi. Cho đến ta quyết định nói Bồ-tát phải làm được như vậy.

Do đâu có thể vào làm được ?

Như Kinh Tối Thượng Thụ Sở Vấn có nói rộng.

Luận nói:

Nếu nói tu hành vị tha thì phải xả kỷ.

Như Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết nói:

Hỏi: Duy-ma-cật ! Sợ sinh tử nên dựa vào đâu ?

Đáp: Văn-thù-sư-lợi ! Bồ-tát sợ sinh tử nên dựa vào công đức của Như Lai.

Hỏi: Muốn nương vào sức công đức của Như Lai nên dựa vào đâu mà trụ ?

Đáp: Phải trụ vào chỗ giải thoát tất cả chúng sinh. L ạ i như Kinh Pháp Tập nói:

Bồ-tát Thương Chủ bạch rằng: Thế Tôn ! Nếu Bồ-tát ưa muốn Bồ-đề, thì trước hết là vì tất cả chúng sinh chứ không vì mình. Thế Tôn ! Đó gọi là pháp tập.

Luận nói:

Bỏ cái này tức thành tự lợi.

Hỏi: Vì sao giảm mất lợi ích chúng sinh ?

Nghĩa là ôm tâm sợ sệt không vì chúng sinh mà tự gánh vác nhiệm vụ nặng. Do giảm mất nên không quan sát lợi tha, nào có khác chi chỉ ở thế gian tu hạnh tự lợi. Nghĩa là nếu Bồ-tát không xả bỏ cái đức của mình để làm thành điều thiện cho người khác, hoặc sợ mình thụ khổ não nơi đường ác. Đây là hai loại, nghĩa là nếu là khổ thì ta hoặc sẽ thụ, nên không nên bỏ. Như kinh đã nói bị tội báo lớn.

Như Kinh Bảo Tích nói:

Phật nói: Ca-diếp-ba ! Có bốn pháp gọi là tương tự Bồ-tát.

Nghĩa là tự lợi cầu an và không tế độ chúng sinh khổ não v.v… Lại nữa, Kinh Tối Thựong Thụ Sở Vấn nói như sau:

Nếu nói trước không có ngã chấp, tức là học xứ của Bồ-tát.

Cũng như Kinh Pháp Tập nói:

Cụ thọ Tu-bồ-đề bảo Bồ-tát Vô Sở Phát rằng:

Thiện nam tử ! Bồ-tát phải trụ như thế nào ?

Đáp: Nếu vì chúng sinh không bỏ chính hạnh.

Hỏi: Thế nào là vì chúng sinh không lìa chính hạnh ?

Đáp: Nghĩa là không bỏ đại từ đại bi.

Tu-bồ-đề nói: Thế nào là đại từ của Bồ-tát ?

Đáp: Nếu đem thân mạng và các gốc thiện thí cho tất cả chúng sinh mà không cầu báo.

Lại hỏi: Thế nào là đại bi của Bồ-tát ?

Đáp: Nếu Bồ-tát ưa thích Bồ-đề thì trước tiên là tất cả chúng sinh, mà không tự mình thủ chứng.

Kinh ấy lại nói:

Tất cả học xứ của Bồ-tát đây lấy đại bi làm gốc. Thế Tôn rốt ráo khiến các Bồ-tát kia không đoạn dứt lợi tha, đó là nghĩa của Bồ-tát. Cho nên chắc chắn cứu cánh không phải nhất định cứ một mặt vi hại sinh tử, mà ta phải quán như biển phúc lớn với nghĩa thí lợi ích rộng lớn.

Lại nữa Kinh Quyết Định Tịch Tĩnh Thần Biến nói:

Xưa có một ông vua thấy một Tì-kheo nhập Diệt tận định trong một ngàn năm. Vì nhân duyên ấy, có các Tì-kheo đọc tụng kinh điển cầu hạnh Bồ-tát, tôn trọng pháp muốn thụ tín thí thực, phát tâm như thế này: Ta vì cầu pháp dùng thiện căn này vì pháp xả thí nào tiền bạc cùng các thứ diệu lạc, tuần tự như trước nói là không lầm lỗi, hoặc đều nói là phúc hộ thụ dụng.

Luận nói:

Lại nữa rộng vui quả báo tự lợi giữ gìn thanh tịnh.

Như Kinh Na La Diên Sở Vấn nói:

Người giữ gìn giới chẳng phải nguyên nhân là vì quốc vương, chẳng phải vì sinh về cõi trời, chẳng phải vì Thước-ca-la, chẳng phải vì thụ dụng, chẳng phải vì giàu có sung sướng, chẳng phải vì hình dung sắc tướng, chẳng phải vì hiển sắc, chẳng phải vì tiếng khen. Cho đến người giữ gìn giới không sợ địa ngục, cũng không sợ súc sinh, giới Diêm-ma-la. Nói tóm lại người giữ giới chỉ trừ được trụ Phật nhãn. Cho đến người giữ gìn giới là vì lợi lạc tất cả chúng sinh. Vì nghĩa tương tự, giới uần của Bồ-tát có hành tướng như vậy được đầy đủ mười pháp không giảm mất.

Những gì là mười ? Đó là được Chuyển luân thánh vương mà không giảm mất. Cầu Phật Bồ-đề cũng không tạp loạn, được Thướcca-la cũng không giảm mất. Nguyện thấy chư Phật được không chướng nạn. Như vậy làm Phạm thiên vương cũng không giảm mất. Nghe diệu pháp được không thoái đọa, cho đến như chỗ được nghe đọc tụng kinh pháp, đủ hạnh Bồ-tát đều không giảm mất. Đối với các thiện pháp không dứt mất biện tài, cầu thiền định sâu cũng không giảm mất. Cho đến như vậy trụ trong giới uẩn của Bồ-tát Ma-ha-tát. Thường được tất cả lễ kính. Nghĩa là trời rồng Dạ-xoa Càn-thát-bà v.v… cúng dường cung kính ca tụng ngợi khen. Cũng được các long vương, A-tula vương v.v… thường tôn trọng, các Sát-lợi, Bà-la-môn, trưởng giả, cư sĩ thân cận, và các người trí khen ngợi ngưỡng mộ, được Phật khen ngợi hỏi han, nào trời nào người tất cả chúng sinh thương mến. Cho đến không làm bốn hạnh, chỉ trừ hạnh hóa độ chúng sinh.

Những gì là bốn ? Đó là không làm hạnh vô tướng, cũng không làm trống rỗng các cõi Phật, cũng không sinh vào nhà tà kiến và đọa các cõi ác.

Luận nói:

Như trước đã xả bỏ sức phiền não và kiêu mạn, giữ gìn phúc báo, lại hành bố thí, nhưng đối với phúc ấy không mong cầu báo. Đây muốn gìn giữ là chỉ vì lợi tha mà sau không hối hận.

Như Kinh Tối Thượng Thụ Sở Vấn nói:

Nếu đã bố thí rồi, dù cho tâm không sinh hối tiếc nhưng còn vương vấn theo, hoặc nghĩ ngợi buồn rầu hay không nghĩ ngợi buồn rầu v.v… đều gọi là truy hối, giảm mất phúc báo khiến tội tăng trưởng. Nếu che giấu không phát lộ sám hối trước Phật, thì việc làm thiện kia trở thành tính tội. Lại nữa, đối với tội ấy nếu hành sám hối diệt trừ thì do đó không tội mà được phúc hỷ.

Luận nói:

Lợi ích chúng sinh, là không đem cái tâm vì tài lợi ra mà phát lộ. Như Kinh Bảo Vân nói:

Ví như thầy thuốc giỏi tự giải thích về tài đức của mình, đó không phải điều lầm lỗi.

Lại nói người muốn gìn giữ phúc thì đối với hạng Bồ-tát vì tiếng tăm lợi dưỡng thường phải tránh xa không đề cao, dùng pháp thanh tịnh xả bỏ ngu si ám chướng.

HẾT QUYỂN 9