LUẬN ĐẠI THỪA TẬP BỒ TÁT HỌC
Biên soạn: Pháp Xứng – Hán dịch: Pháp Hộ
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản

 

QUYỂN 6

Phẩm 4: KHÔNG

Phần 3

Cũng Kinh Nguyệt Thượng Đồng nữ Sở Vấn nói: Bấy giờ, Đồng nữ Nguyệt Thượng thấy nhiều người muốn đến gần tức liền trụ giữa hư không cao bảy cây Đa-la và vì các người ấy mà nói kệ:

Ông nên quán thân ta
Sắc vàng thật sáng diệu
Chẳng nhân tâm dục nhiễm
Cảm tố chất thanh tịnh
Dục sanh nơi cảnh giới
Như hầm lửa thiêu đốt
Nhẫn điều hòa sáu căn
Tịnh tu các phạm hạnh
Nếu thấy vợ người khác
Đều sanh tưởng mẹ, em
Sau được thân đoan chính
Người khác thường thích nhìn.
Trong chân lông của ta
Hương thơm biến khắp chốn
Không từ tâm tham nhiễm
Huân tu quả thiện nầy
Tâm tham vốn không sanh
Không dục sao sanh dục?
Mâu-ni hiện chứng minh
Như thật không hư vọng
Ngươi xưa hoặc cha ta
Ta hoặc là mẹ ngươi
Thay nhau làm cha mẹ
Cớ sao sanh dục nhiễm?
Ta hoặc thường hại ngươi
Người khác lại hại ta
Oán bạn thù giết nhau
Tình nào sanh dục nhiễm?
Đoan chánh chẳng tham được
Tham chẳng sanh cõi thiện
Tham chẳng nhân xuất ly
Cho nên đều xả bỏ.
Lại nhân tham dục nầy
Nhanh đọa ba đường ác
Dạ-xoa, Tỳ-xá-xà
Và chúng A-tu-la
Với quỷ Cưu-bàn-trà
Đều là do tham dục
Hoặc mù, điếc, câm, ngọng
Thân co quắp xấu xí
Các họa hoạn thế gian
Đều do hành tham dục.
Hoặc được Chuyển luân vương
Và chủ trời Đế Thích
Phạm vương, Đại tự tại
Nhờ rộng tu phạm hạnh
Làm cọp, voi, ngựa, trâu
Lạc đà, la, heo, chó
Chẳng biết được thân sơ
Nên thường ham dục nhiễm
Sát lợi và vương thần
Hoặc Tín sĩ, Trưởng giả
Chốn vui sướng giàu sang
Nhờ rộng tu phạm hạnh
Hoặc bị gông cùm xích
Các khổ nạn nước lửa
Bị móc mắt cắt tai
Và đoạn chặt tay chân
Cho đến làm nô bộc
Đều do tham dục nầy.

Trong Kinh Tử Vương Sở Vấn A Dục nói nghĩa kệ:

Nói người vướng dục nầy
Như ruồi thấy máu mủ
Cũng như loài heo, chó v.v…
Chạy bám thịt dơ uế
Không biết vui người nữ
Dong ruổi cũng như vậy
Trẻ ngu không hiểu rõ
Lưỡi nếm vị dơ bẩn
Người ngu thích nữ nhân
Đầy đủ các hắc ám
Hiện rõ cảnh giới quỷ
Chết liền đọa dường ác
Làm trùng trong hầm xí
Chấp vị sanh tưởng vui
Giống như vẽ bánh nấm
Trang nghiêm quán tướng ngoài
Như xào xạc trong gió
Tràn đầy các ô uế
Tức ghèn đờm chảy dài
Và các thứ bất tịnh
Thân như túi dơ bẩn
Người ngu cho là đẹp
Toàn thân chỉ có xương
Được da thịt bao bọc.
Chỉ sanh ở một cửa
Giống như mụt nhọt lớn
Cũng như trong lỗ nhọt
Có nhiều các loại trùng
Và nhiều thứ bất tịnh
Tướng thân cũng như vậy
Bụng như cái bao lớn
Trong sanh tạng thục tạng
Và xương đầu xương sườn
Các huyết tuỷ dơ bẩn
Có tám vạn loài trùng
Núp kín ở trong thân
Rơi vào lồng lưới si
Nên người ngu không thấy
Lại ở trong chín lỗ
Chảy bất tịnh, hôi dơ
Hoặc nếu thấy, nếu nói
Người ngu sanh chấp tướng.
Tất cả chỗ ác xấu
Do vui, không hiểu biết
Nước dãi làm thức ăn
Cảnh giới người ngu kia.
Mồ hôi nách chảy ra
Dơ bẩn thật đáng chán
Thích sự đáng chán nầy
Như ruồi thấy vết thương
Ở trong pháp hèn hạ
Ham thích dục kém cỏi
Tạo nên nghiệp ác ấy
Chết đọa vào đường ác
Đọa địa ngục vô gián
Thọ các khổ báo lớn
Phật nói các người nữ
Thối nhất trong các mùi
Cho nên tập hợp lại
Phá tưởng hạ liệt ấy
Lại nếu khởi chấp trước
Chỉ người ngu rảo chạy
Tạo ra ác nghiệp nầy
Nên mắc quả như vậy.

Kinh kia lại nói: “Do hành tướng như vậy mà khổ cầu những cần thiết để tự nuôi mạng sống, lại cố chấp trước không xả bỏ. Đến nỗi đói rách bần cùng phải đi xin ăn, bị các người nữ khuất phục, chấp giữ, mê muội, giống như kẻ nô bộc bị người tự do sai khiến. Do đối với người nữ tham vui dưỡng dục nên không thể tu bố thí, trì giới và các phẩm thiện. Lại nữa, bị người nữ mắng chửi, lấn ép, trói buộc. Do tâm chấp trước nên phải chịu nhịn nhục khuất phục. Hoặc đến nhà người nữ hàng xóm dòm ngó dáng mạo thùy mị. Do nhân duyên dục ấy nên tự do qua lại. Phật bảo: Đại vương! Người ham thích ái dục là người không thanh tịnh, là người đối với thế gian tạo nên nhiều sai lầm”. Cho đến trong kệ cũng nói:

Đối người nữ giao hợp
Thấy làm cùng tùy hỷ
Nghe rồi ý ưa xem
Người ấy không xuất ly
Thân gần các khổ dục
Nói đây thật chán khinh
Do nghe được pháp ấy
Nói đẹp và nói si.
Tâm chạy theo người nữ
Không khác chuột đuổi mèo.
Hoặc nghe lời Phật nói
Tạm thời được tỉnh ngộ
Sau lại đối tham ấy
Như độc Yết-la-la
Lại như heo thấy phân
Phát sanh niềm ái lạc
Chỉ được trong giây lát
Rồi chuyển sanh chán sợ
Người ngu vướng dục lạc
Xa lìa giáo pháp Phật
Gần gũi dục hèn kém
Chết sẽ đọa đường ác
Vui đắm say rượu dục
Hủy giới phá tịnh mạng
Tạo ra các tội nghiệp
Chết sẽ đọa đường ác.
Nếu đối chánh pháp nầy
Hiểu rỏ các cảnh dục
Không khởi tâm phóng dật
Thường sanh cõi tịnh thiên
Đối Bồ-đề vô thượng
Đây không phải khó được.
Nếu nghe pháp nầy rồi
Sát na được chánh tuệ
Ngộ pháp môn xuất gia
Xa lìa các việc dục.

Luận nói: Lại nói đó là tai nạn. Trong Kinh Tịch Tĩnh Quyết Định

Thần Biến nói: “Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: Nếu có người đối với tất cả hữu tình trong cõi Diêm-phù-đề cướp lấy tài bảo thì sẽ hoại mạng căn. Văn-thù-sư-lợi! Nếu Thiện nam Thiện nữ đối với Bồ-tát đoạn một tâm thiện tức liền gần đọa vào cõi Bàng sanh, ở trong thời gian chịu tội đồng đọa lạc như người kia. Nhưng vì đoạn trừ thiện căn nên chịu tội nhiều hơn người trước trải qua vô số kiếp. Vì sao? Vì đoạn diệt thiện căn tức là đoạn diệt sự xuất hiện ở đời của Phật. Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: Lại như chủng loại khác đối với Bồ-tát khởi tâm ghen ghét thì do nhân duyên ấy nên biết mắc phải ba loại sợ hãi. Những gì là ba?

Sợ hãi đọa vào địa ngục.
Sợ hãi sanh vào chỗ tối tăm.
Sợ hãi sanh vào nơi biên địa.

Kinh kia lại nói: “Nếu được làm người thì lời nói thường không chân thật mà ưa phỉ báng. Lời nói ác sân hận thường gây nhiễu loạn người đời. Rồi sau khi thân hoại mạng chung đọa vào địa ngục lớn sanh ra không có chân và chịu nhận các khổ não, trải qua năm trăm Du-thiện-na bị các côn trùng nhỏ chui vào thân để ăn thịt. Con rắn nầy đáng sợ, có đủ năm ngàn cái đầu. Do tội phỉ báng nên mỗi cái đầu của nó có năm trăm cái lưỡi, mỗi cái lưỡi trong miệng lại xuất ra năm trăm cái cày bằng sắt với ngọn lửa nóng bức thiêu đốt nghiệp tội nói dối nầy phải bị đám lửa lớn nung nấu đốt cháy. Lại nữa, nếu người khởi lời nói bất hòa, bức não Bồ-tát, người ấy cầu đầu thai vào đường súc sanh cũng khó được mà phải đọa vào địa ngục lớn trải qua trăm ngàn kiếp Câu-kỳ-na-do-đa. Khi chết rồi lại làm con rắn độc mang tâm thâm hiểm khiến người sợ hãi và do sự bức não của đói khát nên tạo thêm các nghiệp ác. Giả sử có được ăn uống cũng không no đủ. Sau khi chết, nếu sanh trong loài người cũng bị mù tối không có trí tuệ và ác tâm không dứt, thường nói ác trách mắng và không kính nể thánh hiền. Khi mãn làm người lại đọa vào đường ác, trải qua trăm ngàn kiếp Câu-chi sanh ra không thấy Phật”.

Kinh kia lại nói: “Nầy Văn-thù-sư-lợi! Nếu ở chỗ Bồ-tát cho đến khi Bồ-tát phát tâm thanh tịnh trong sáng mà tâm khinh dể thì cho đến nhiều kiếp vẫn ở trong địa ngục lớn như mặc áo giáp bằng đồng. Vănthù-sư-lợi! Nghiệp Bồ-tát nầy tất không thể đọa lạc trừ tội phỉ báng. Văn-thù-sư-lợi! Thí như kim cương, ngọc, ma ni không có gỗ đá nào phá hoại được. Văn-thù-sư-lợi! Nghiệp Bồ-tát ấy cũng lại như vậy, tất không thể đọa lạc chỉ trừ bị phỉ báng Bồ-tát kia”. Trong Kinh Tín Lực

Tài Nhập Ấn cũng nói: Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: “Nếu có người đối với các chúng sanh trong mười phương thế giới khởi sân nhuế trói buộc thì đọa vào nơi hắc ám. Văn-thù-sư-lợi! Ở chỗ Bồ-tát, xa rời việc đứng trước mặt, co duỗi, chống tay, khởi tâm sân nhuế tức tội ấy còn vượt hơn cả tội trước số A-tăng-kỳ kiếp. Văn-thù-sư-lợi! Lại nếu có người trộm cắp tất cả tài vật ở cõi Diêm-phù-đề, lại có người đối với Bồ-tát mà khởi tâm khinh khi nhục mạ thì tội nầy chịu khổ báo vượt hơn tội trước số A-tăng-kỳ”. Kinh kia lại nói: “Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: Nếu có người thiêu hủy hằng hà sa tháp miếu của chư Phật và có người đối với Bồ-tát tin hiểu Đại thừa khởi tâm sân nhuế tăng thêm nhục mạ và hủy báng thì tội nầy phải chịu khổ vượt hơn tội trước số A-tăng-kỳ. Vì sao? Vì các Bồ-tát là cơ sở để sanh ra chư Phật Thế Tôn. Từ các Đức Phật kia mới có tháp miếu đem lại lợi lạc cho chư Thiên v.v… Nếu khinh hủy các Bồ-tát là khinh hủy các Đức Phật. Ngược lại, nếu cung kính các Bồtát là cung kính các Đức Phật. Muốn cầu cúng dường tối thượng thì nên phải cúng dường các Bồ-tát. Vì cúng dường các Bồ-tát là cúng dường các Đức Như Lai”.

Luận nói: Phước báo cúng dường nầy trong kinh Tịch Tĩnh Quyết Định Thần Biến nói: “Nếu người hộ pháp và thuyết pháp tức là xa lìa tất cả các đường ác, đạt được quả vị Đế Thích và chủ Phạm-thế, Dạ-ma, Đâu-xuất, Tự-tại-thiên v.v… Về sau sanh trong loài người làm Chuyển luân Thánh vương, Trưởng giả, Cư sĩ v.v… đầy đủ các tài bảo, niệm tuệ, tương ưng và an ổn không sợ”.

Luận nói: Những Bồ-tát nào ở trong chỗ nghiệp thiện của Bồ-tát mà khởi tâm ác? Nghĩa là hàng dị sanh v.v… Lại như trong kinh Tín Lực Tài Nhập Ấn nói: Văn-thù-sư-lợi! Nếu có người đối với chúng sanh nhiều như vi trần trong tất cả thế giới ngày ngày đem trăm thức ăn uống ngon của trời và y phục của trời mà bố thí trải qua hằng hà sa kiếp và nếu có thiện nam, thiện nữ cúng dường người thành tựu mười nghiệp thiện, bậc Thanh văn, Phật-bích-chi, người nói pháp Đại thừa, người trụ Đại thừa với giới đức tương ưng, biện tài lưu loát cùng người không có trí hý luận, người vì pháp thưa hỏi, nghe thọ đều nên cúng dường thì bao nhiêu tội được tiêu trừ? Phật bảo: Thiện nam tử! Thí như có người đầu ngày đem các trân bảo trong cõi Diêm-phù-đề cúng dường cho đệ tử Phật rồi giữa ngày và cuối ngày cũng làm như vậy trải qua số trăm ngàn năm thì người kia có được phước nhiều không? Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Phước đức của người ấy thật vô lượng vô số không thể tính toán được chỉ có Như Lai mới biết rõ. Phật bảo: Thiện nam tử! Nếu có bậc Sát-đế-lợi chân thiện bố thí như trước đã thì phước ấy có nhiều không?

Như vậy, lược nói thì phước ấy vượt qua số phước báo trước vô lượng A-tăng-kỳ. Phật dạy: Năm trăm năm sau người hộ trì chánh pháp khéo tự hộ trì mình, người khác, cõi khác, ở trong giáo pháp của ta người xuất gia làm đệ tử thì dù là pháp khí hay chẳng phải pháp khí mà cắt bỏ râu tóc, mặc áo cà sa đều phải nên khéo hộ trì chớ sanh tâm não hại. Cho đến cõi nước mình hay cõi khác cũng đều được an vui, diệt trừ tất cả tội cấu, chư Thiên, chư tiên tăng thêm lợi ích và giữ gìn tuổi thọ lâu dài, phiền não của người và mình cũng tiêu hết, trụ trong đạo Chánh giác và sáu pháp Ba-la-mật, xa lìa các tội ác. Đối với biển luân hồi không bị chìm đắm lâu nữa, thường xa lìa bạn ác và gần gũi bạn lành, cộng sự với chư Phật và chúng Đại Bồ-tát, thích ở cõi các Đức Phật và chẳng bao lâu nữa sẽ đắc quả A-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-Bồ-đề. Bấy giờ, trong tất cả chúng đồng đạo, có một Ưu-bà-tắc trong một ngày có thể cúng dường thức ăn nước uống. Đối với đệ tử Phật cúng dường như vậy nên phước báo hơn trước A-tăng-kỳ số. Văn-thù-sư-lợi! Lại nếu các Ưu-bà-tắc thành tựu mười thiện nghiệp nhiều như số vi trần trong tất cả thế giới ngày ngày lấy trăm vị thức ăn uống và y phục của trời bố thí trải qua hằng hà sa kiếp như vậy, lại có người đối với một Tỳ-kheo, trong một ngày cúng dường thức ăn nước uống thì phước báo nầy vượt qua phước báo trước A-tăng-kỳ số.

Trong kinh Nhập Định Bất Định Ấn nói: “Phật bảo Văn-thù-sưlợi: Giả sử các loài hữu tình trong tất cả thế giới mười phương móc mắt đến mãn một kiếp, lại có Thiện nam tử Thiện nữ nhân đối với loài hữu tình kia khởi tâm thương xót khiến mắt bình phục trở lại mãn một kiếp, và nếu có người ở chỗ Bồ-tát tín giải Đại thừa lấy tâm thanh tịnh mà quán sát thì phước báu nầy vượt qua hơn phước báu trước vô lượng Atăng-kỳ số. Văn-thù-sư-lợi! Giả sử người nào có khả năng khiến cho tất cả chúng sanh bị trói nhốt trong lao ngục mười phương đều được giải thoát rồi thọ nhận diệu lạc của Chuyển luân Thánh vương và cái vui của Phạm thiên, lại nếu có người ở chỗ Bồ-tát tin hiểu Đại thừa mà lấy tâm thanh tịnh chiêm ngưỡng tán thán thì phước báu nầy hơn phước báu trước vô lượng A-tăng-kỳ số”. Lại nữa, Kinh Địa Tạng nói: Bạch Thế Tôn! Nếu bậc quân vương Sát-đế-lợi, Cư sĩ chân thiện, Bà-la-môn chân thiện v.v… tự hộ trì mình, người khác và cõi khác, đối với đệ tử Phật dù pháp khí hay chẳng phải pháp khí cho đến người cắt tóc xuất gia chỉ mặc một phần nhỏ áo ca sa thì đều nên bảo hộ người ấy. Bấy giờ, Thiên chủ và quyến thuộc cho đến chủ Tất-xá-giá cùng với quyến thuộc đều từ chỗ ngồi đứng dậy chắp tay cung kính bạch Phật: “Thưa Thế Tôn!

Nếu đời vị lai cho đến năm trăm năm sau có vua Sát-đế-lợi chân thiện, Cư sĩ chân thiện, Tể quan chân thiện, Sa-môn chân thiện, Bà-la-môn chân thiện v.v… như vậy mà hộ trì chánh pháp, nối dòng Tam bảo thì đều khiến cho được hưng thịnh. Các vua Sát-đế-lợi chân thiện, Cư sĩ chân thiện, Tể quan chân thiện, được sở hữu tất cả quyến thuộc của ta và đối với mười loại thủ hộ đều tăng trưởng”. Những gì là mười?

  1. Thọ mạng tăng ích.
  2. Rộng trì chánh pháp.
  3. Thường không có bệnh não.
  4. Có nhiều quyến thuộc.
  5. Được no đủ dư dả.
  6. Thọ mạng không thiếu.
  7. Giàu sang tự tại.
  8. Danh xưng nổi tiếng.
  9. Làm người bạn tốt.
  10. Được trí tuệ đầy đủ.

Luận nói: Nên biết phước báu rộng lớn nầy tương tự như nhập vào đất Thánh. Kinh Quán Âm nói: “Người phát tâm Chánh giác khéo làm lợi ích cho tất cả chúng sanh, nếu chỉ nhiễu quanh bên phải tháp Phật, ta vẫn nói công đức nầy rộng lớn. Phật tử các ông! Nếu có người không yêu thích chư Thiên, xa lìa người thiện thì đó là cảnh giới địa ngục. Điều nầy như trước đã nói”.

Luận nói: Chưa có khả năng tiếp nhận sự khai thị của người khác thì tạm dừng ở đây mà phân biệt nhận biết. Kinh Tịnh Chư Nghiệp Chướng nói: “Hễ nói đến chướng ngại tức là nói đến tai nạn. Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: Sao gọi là chướng ngại? Tham là chướng ngại, sân là chướng ngại, si là chướng ngại, bố thí là chướng ngại, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ đều là chướng ngại. Vì sao vậy? Kẻ phàm phu ngu si khi bố thí lại keo kiệt mến tiếc không khởi tâm tịnh tín. Do không khởi tâm tịnh tín nên khởi tâm tổn hại. Do tổn hại nên sanh khởi tội hối não mà đọa vào địa ngục lớn. Người trì giới kia lại vì người phá giới mà sanh khởi các sự hủy báng, không khuyên bảo khiến các người ấy nghe lỗi lầm mình rồi không khởi tâm tịnh tín. Do không tin nên liền đọa vào đường ác. Người tu nhẫn nhục kia do nhẫn chịu ngông cuồng xấc láo nên nhẫn mơ hồ tâm vẫn đục. Do nhẫn mơ hồ làm căn bản của phóng dật nên liền đọa vào cõi khổ. Người phát khởi tinh tấn lại khởi tâm ngã mạn nói Tỳ-kheo khác tu hành biếng trễ không xứng với sự cung cấp vật thực của tín thí. Do phát khởi tinh tấn mà khởi ngã mạn nên coi thường người khác. Người tu thiền định do đối với sự tĩnh lự Tam-ma-đề mà phát khởi tâm yêu thích cho rằng ta đã chứng được hạnh Tam-ma-địa còn các Tỳ-kheo khác hành tán loạn, do đâu mà chứng đắc Phật quả? Nói rộng như ở kinh kia nói”. Trong kinh Tùy Chuyển Chư Pháp nói: “Chỉ dạy Bồ-tát trừ tội nghiệp chướng xa đắc Bồ-đề dạy các uy nghi đạo hạnh mà xa đắc Bồ-đề. Tuy nhiên Bồ-tát kia đối với chỗ sanh phát tưởng hạ liệt của Bồ-tát, tự mình phát khởi tưởng cao lớn nghĩa là ta đã phần nào diệt trừ nghiệp chướng Bồ-tát nầy đối với Bồ-tát kia hoặc thuyết giáo khiến trụ vào tưởng của Phật. Bồtát đối với chỗ Bồ-tát chớ khởi tâm chỉ trích khiến người kia không bỏ tâm Bồ-đề. Phật bảo: Thiên tử! Bồ-tát như vậy không đoạn thiện căn dù là phần ít như Bồ-tát không hề có hai hành. Giả thiết người không phát tâm Bồ-đề cho đến đối với Bồ-tát sáng suốt còn không khởi lăng mạ huống hồ người có tâm Bồ-đề”. Như kinh Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội nói: “Phật bảo Bồ-tát Kiên Ý: Sao gọi người chưa phát tâm Bồ-đề cũng được thọ ký? Nếu người sanh vào năm cõi luân hồi hoặc cõi Trời, Người, Bàng sanh, Địa ngục hay cảnh giới Diễm-ma-la mà các căn lanh lợi, tin hiểu rộng lớn thì Như Lai đối với người kia hiểu rõ và khiến cho trải qua trăm ngàn kiếp sẽ phát tâm A-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-Bồ-đề. Cho đến trăm ngàn A-tăng-kỳ-kiếp như vậy rồi đắc quả Bồ-đề. Phật bảo Kiên Ý: Do vậy nói Bồ-tát nầy tuy là người chưa phát tâm Bồ-đề mà được thọ ký. Bấy giờ, Tôn giả Đại Ca-diếp ở trước bạch Phật: Thế Tôn! Từ đây về sau con phải đối với tất cả chúng sanh khởi tưởng của Phật. Vì sao vậy? Vì chúng con không có trí tuệ, thế nào là chúng sanh thành tựu căn Bồ-đề? Và thế nào không? Thế Tôn! Chúng con không biết hành tướng như vậy. Nếu đối với chúng sanh khởi tưởng hạ liệt thì tự làm tổn thương mình. Phật dạy: Hay thay Ca-diếp! Ông thật khéo léo nói lên lời nầy. Phải lấy nghĩa ấy để chánh quán tự tại: Ta đối với giáo pháp như vậy, không vọng xưng tính toán xuất gia, tại gia hay người nam người nữ. Nếu vọng xưng tính toán tức là tự làm tổn thương mình. Chỉ có Như Lai mới thấu triệt tất cả chúng sanh bình đẳng. Nầy Đại Cadiếp, nếu các Thanh văn và Bồ-tát thì nói phải đối với tất cả chúng sanh khởi tưởng của Thế Tôn”.

Luận nói: Bồ-tát đối với các Bổ-đặc-già-la tại sao còn phần ít, không thể hóa độ, không hộ trì thân? Thấy có tướng như vậy vì sự quyết định đắc Bồ-đề Đối với đệ tử Phật kia không có khinh miệt nên thường phải hộ trì. Như kinh Diệu Pháp Liên Hoa nói kệ:

Hoặc có dựng miếu đá
Chiên đàn và trầm thủy
Gỗ mộc cùng gỗ khác
Gạch, ngói, bùn, đất thảy
Nếu ở trong đồng trống
Dùng đất đắp miếu Phật
Cho đến Đồng tử giỡn
Dùng cát làm tháp Phật
Tất cả người như thế
Đều đã thành Phật đạo.
Cho đến vẽ tượng Phật
Trăm phước tướng trang nghiêm
Tự vẽ, sai người vẽ
Đều đã thành Phật đạo.
Cho đến Đồng tử giỡn
Dùng cỏ cây và bút
Hoặc ngón tay móng tay
Mà vẽ hình tượng Phật
Tất cả người như thế
Đều đã thành Phật đạo.
Nếu người đối tháp miếu
Tượng báu hoặc tượng vẽ
Dùng hoa hương, phan, lọng
Thành kính mà cúng dường
Hoặc khiến người trổi nhạc
Đánh trống thổi sừng ốc
Tiêu, địch, cầm, không hầu
Tỳ bà, chụp chả đồng
Các tiếng hay như thế
Đem hết để cúng dường
Hoặc dùng tâm hoan hỷ
Ca ngợi công Đức Phật
Cho đến một tiếng nhỏ
Đều sẽ thành Phật đạo
Nếu người tâm tán loạn
Cho đến dùng một hoa
Cúng dường nơi tượng
Phật Liền thấy vô số Phật.
Hoặc có người lễ bái
Hoặc lại chỉ chắp tay
Cho đến giơ một tay
Hoặc lại chỉ cúi đầu
Để cúng dường tượng Phật
Dần thấy vô số Phật.

Lại nói:

Nếu người tâm tán loạn
Đi vào trong tháp miếu
Chỉ xưng Nam mô Phật
Đều sẽ thành Phật đạo.
Đối các Phật quá khứ
Hiện đời hoặc vị lai
Nếu có nghe pháp nầy
Đều sẽ thành Phật đạo.

Lại nữa, Kinh Đại Bi nói: “Phật bảo: A-nan! Thí như người đánh cá muốn bắt được cá ở trong ao lớn thì phải móc mồi vào lưỡi câu thật kỹ càng bỏ xuống ao khiến cho cá đớp mồi. Khi cá đớp mồi thì phải biết nó vẫn còn ở trong ao nhưng chẳng bao lâu phải ra khỏi ao. Lại phải biết làm lưỡi câu, cần câu, dây câu kia phải buộc chặt dưới gốc cây trên bờ. Lúc ấy, người câu cá đã đến chỗ ấy tức kiểm lại cần câu mà biết cá đã cắn câu. Nên kéo dây câu lên đặt ở trên bờ rồi theo mong muốn của mình mà sử dụng nó. Phật bảo A-nan: Ta nay cũng lại như vậy, khiến các chúng sanh đối với Phật Thế Tôn tâm sanh tịnh tín gieo trồng các căn bản thiện cho đến chỉ dùng một niệm tín tâm các chúng sanh kia tuy bị ác nghiệp che lấp nên trong một sát-na đọa lạc, nhưng nếu Phật Thế Tôn đối với chúng sanh ấy đem trí Bồ-đề nhiếp thọ các việc ràng buộc thì trong biển luân hồi chúng sanh được an trí vào bờ Niết-bàn”.

Luận nói: Do đó chúng sanh đối với Phật phát khởi tưởng kính lễ. Nên biết đây là tác ý kính lễ, người mới phát tâm Bồ-đề phải khởi thân kính lễ. Như Đồng tử Thiện Tài đến chỗ Bồ-tát Bảo Vân mới phát khởi ý đạo Bồ-đề nên đem thân kính lễ, tất cả điều ấy phải nên hiểu rõ. Như trong Kinh Thâm Tâm Giáo Giới nói: “Vì chỗ độ sanh của các Bồtát mà cung kính đảnh lễ. Nhưng tại sao nói trong một xứ sở dù lễ hay không lễ cũng không trái ngược nhau? Vì đối với sự lễ kính nầy lần lượt hệ thuộc. Không thể lễ kính như vậy mà không có phước báo, và do đâu chỉ một đảnh lễ mà thấy chư Phật? Nên biết không có điều ấy”.

Luận nói: Nói đây là học xứ của Bồ-tát, đây chẳng phải học xứ của Bồ-tát thì đều là hủy báng chánh pháp nên trở thành tai nạn. Trong Kinh Tập Chư Phước Lực Quảng nói: “Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: Sao gọi là đối với phần ít pháp của Như Lai nói hoặc khởi tưởng tịnh và tưởng bất tịnh đều là hủy báng chánh pháp? Người hủy báng chánh pháp tức là hủy hoại khinh miệt Pháp Phật Tăng lại ở đây là giải thoát, đây chẳng phải giải thoát đều là phỉ báng chánh pháp. Ta chẳng riêng nói các pháp thuộc Thanh văn thừa, Duyên giác thừa hay thuộc Đại thừa Bồ-tát. Người ngu si kia ở trong chánh pháp nầy của ta tạo nên đủ loại ngôn thuyết mà nói đây là Thanh văn, đây là Duyên giác, đây là Bồ-tát. Do khởi các tưởng như vậy nên hủy báng chánh pháp. Nếu nói đây là học xứ của Bồ-tát, đây chẳng phải học xứ của Bồ-tát là người hủy báng chánh pháp. Nếu nói đây là Pháp sư có biện tài hay không có biện tài cũng gọi hủy báng pháp. Lại nói đây là pháp đây là phi pháp cũng đều gọi là hủy báng pháp. Nếu nói Phật quá khứ xuất hiện ở đời không có pháp tổng trì có thể chứng đắc cũng gọi hủy báng pháp. Nói Pháp sư không có pháp tổng trì là hủy báng pháp. Nói Pháp sư tạo tác lỗi lầm cũng gọi hủy báng pháp. Nói Pháp sư không có đủ biện tài tức hủy báng chánh pháp. Chỉ dạy phóng dật cũng là hủy báng chánh pháp. Chỉ dạy oai nghi đạo hạnh cũng là hủy báng chánh pháp. Dạy giới bất chánh tức là hủy báng chánh pháp. Khuyết giảm biện tài cũng là hủy báng chánh pháp. Đối với pháp sáng rõ mà không hiểu thì cũng hủy báng chánh pháp. Đối với việc trì minh triệu thỉnh không hiểu lời nói ra cũng gọi là hủy báng pháp. Đối với pháp của Như Lai chỉ nắm bắt trên chữ nghĩa mà không đi vào sự hiểu ngộ thì đều gọi là hủy báng chánh pháp”.