LUẬN ĐẠI THỪA TẬP BỒ TÁT HỌC
(Luận Đại thừa tập hợp các Học xứ của Bồ-tát)
Bồ-tát Pháp Xứng tạo luận
Sa-môn Pháp Hộ v.v… dịch
Nguyên Hồng dịch tiếng Việt

 

QUYỂN 4

Phẩm 2: HỌC XỨ VỀ GIỚI HỘ TRÌ CHÍNH PHÁP 2

Luận nói:

Với kinh điển ấy thì không bỏ các thiện tri thức như gìn giữ thân mình.

Với kinh điển ấy thì vui học Bồ-tát trong từng sát-na.

Với kinh điển ấy các hạnh Bồ-tát được tập hợp.

Đối với Bồ-tát học phải lựa chọn những lời kia nói, quán sát kỹ càng không rơi vào tội lỗi, thấy chỗ vô trí thì không ưa thích.

Thấy kinh ấy thường vui thích tôn trọng.

Thấy kinh ấy thì không bỏ các thiện tri thức, vì nói hộ trì tất cả chính pháp.

Như Kinh Hải Ý nói:

Nhưng thiện nam tử ! Nói không thể nói, nghĩa là dùng văn tự ngôn ngữ không thể nói được pháp vô sinh. Nếu dùng văn tự ngôn ngữ giải thích pháp môn Tổng trì thì mới có thể nói. Đó gọi là hộ trì chính pháp.

Lại nữa, thiện nam tử ! Có vị sư thuyết pháp đối với biển kinh rất sâu như vậy như thuyết tu hành, nếu ai đối với vị pháp sư này thân cận cung kính tôn trọng thừa sự hộ trì các thứ ẩm thực y phục tọa cụ, cúng thí các thứ thuốc men chữa bệnh, ủng hộ bằng các việc lành và bằng lời nói, dù cho có người phỉ báng cũng vì đó giấu che. Đó gọi là hộ trì chính pháp.

Cho đến thiện nam tử ! Đối với người không tranh cãi mà có thể thắng, không có pháp gì để nói, người này với pháp đều không chấp. Đó gọi là hộ trì chính pháp.

Lại nữa thiện nam tử ! Đối với các chúng sinh, trong tuệ giải thoát không sinh tổn giảm, không vì tâm tài lợi mà pháp thí cho người. Đó gọi là hộ trì chính pháp.

Lại nữa thiện nam tử ! Hoặc nhân nghe pháp, hoặc nhân thuyết pháp mà chuyên trụ, cho đến một bước đi, một hơi thở ra vào. Đó gọi là hộ trì chính pháp.

Tóm lại, này thiện nam tử ! Nếu trong cảnh giới sắc tâm không có các phan duyên, điều phục chỉ tức, trong một cảnh tính duy nhất. Đó gọi là hộ trì chính pháp.

Lại nữa thiện nam tử ! Cho đến nếu gọi pháp này đối với pháp, là pháp có thể chuyển, thì pháp đó không có chỗ chấp thủ. Đó gọi là hộ trì chính pháp.

Luận nói:

Vị sư thuyết pháp kia tuy nói thân cận thiện tri thức và không lìa bỏ tướng thiện tri thức, nhưng nếu không hộ trì chính pháp tức là không giữ gìn, là không thanh tịnh, là không tăng trưởng, tức chẳng phải Bồ-tát quyết định hộ trì chính pháp như vậy.

Kinh Thắng Man Sư Tử Hống nói:

Phật nói: Bồ-tát có hằng hà sa số vô lượng hạnh nguyện đều nên nhập vào trong một nguyện lớn. Đó gọi là hộ trì chính pháp. Hộ trì chính pháp là cảnh giới to lớn.

Kinh ấy cũng nói:

Ví như có một đại lực sĩ, ai chạm vào người anh ta sẽ bị tổn hại.

Phật nói: Thắng Man ! Người có một ít hộ trì chính pháp cũng như vậy, khiến ma Ba-tuần bị sầu não rất lớn. Ta không thấy có một thiện pháp nào khác có thể khiến ác ma sinh ưu não như thế này. Như là người có chút ít hộ trì chính pháp.

Lại nói: Ví như núi chúa Tu-di đoan chính đặc thù, so với các Hắc sơn là núi cao nhất.

Phật bảo Thắng Man: Như vậy Đại thừa xả bỏ thân mạng tài sản để giữ cái tâm hộ trì chính pháp hơn những người khác, trụ nơi Đại thừa mà không xả bỏ thân mạng tài sản để gìn giữ tất cả thiện pháp.

Như bài kệ trong Kinh Hải Ý nói:

Người hộ trì chính pháp Như Lai,

Sẽ được Thế Tôn thường nhiếp thụ.

Chư thiên, long vương, Khẩn-na-la,

Phúc đức trí tuệ đều gồm đủ.

Cho đến người hộ trì chính pháp của Như Lai thì sinh vào nước nào cũng không luống qua một cách trống không, tất cả trong mọi cuộc đời sinh ra đều được gặp Thế Tôn, gặp rồi liền được tâm thanh tịnh.

Người hộ trì chính pháp Như Lai được túc mạng nhiều lần sinh trong pháp ta, xuất gia thiện lợi có thể thành tựu tu hạnh chân thật thanh tịnh.

Lại nói: Người thụ trì chính pháp Như Lai được đại tổng trì và thiện lợi, cho dẫu trăm kiếp không được nghe, do đủ biện tài hoàn toàn vô ngại.

Người hộ trì chính pháp cho đến làm Đế Thích, Phạm vương, trời Hộ Thế v.v…, trong loài người lại được làm chuyển luân vương, được niềm vui an ổn ngộ Bồ-đề.

Người hộ trì chính pháp của Như Lai thân đủ ba hai tướng đặc thù vi diệu, đại trí trang nghiêm hỷ lạc, người trông thấy không sinh chán.

Người hộ trì chính pháp không lìa bỏ tâm Bồ-đề, không hủy bỏ hạnh Ba-la-mật, đều có thể nhiếp thụ nhiều thứ thiện pháp.

Phẩm 3: HỌC XỨ VỀ HỘ PHÁP SƯ

Luận nói:

Có ba phương tiện bảo hộ. Đó là bảo hộ thân miệng được lìa các việc khó. Người hành giả hộ trì chính pháp tư duy, thủ hộ không làm cho người khác bị tổn hại. Xa lìa các việc khó này như trong Kinh Hư Không tạng, các bồ-tát hộ trì chính pháp đồng nói bài kệ rằng:

Lưỡng túc tôn cao tột,

Từ đây diệt độ rồi

Đều sinh tâm dũng mãnh,

Không tiếc thân mạng mình.

Hộ trì chính pháp Phật,

Xả bỏ mọi lợi dưỡng,

Và lìa các quyến thuộc,

Vì cầu chứng Phật trí.

Không bỏ chính pháp này.

Bị mắng nhiếc làm nhục,

Cho đến lời độc địa,

Vì hộ trì chính phá.,

Chúng ta đều nhẫn nhịn.

Hoặc chọc ghẹo khinh miệt,

Chê bai chẳng ngợi khen,

Vì hộ trì chính pháp.

Tất cả đều nhần nhịn.

Nói chung hay tóm lược,

Vì mạt pháp chúng sinh,

Ta phải giữ chính pháp.

Tì-kheo ác ở đời,

Có sức tăng thượng lớn,

Với kinh điển vi diệu,

Chẳng đọc cũng chẳng nghe,

Tự cho mình là thầy,

Chấp sai quấy khác lạ.

Với giáo nghĩa thậm thâm,

Đều thuận quả giải thoát,

Trong chính pháp như vậy,

Tâm không ưa phân biệt.

Cho đến:

Dùng từ niệm chúng sinh,

Hoặc không trụ pháp ấy

Vì khởi tâm bi mẫn

Nên được trì kinh ấy.

Nếu thấy người phá giới

Tham đắm nơi lợi dưỡng,

Ta phải tâm thương xót,

Phương tiện khiến lìa bỏ.

Nếu thấy người tâm ác

Hủy báng nơi chính pháp,

Ta dùng tâm từ nhẫn,

Chính kiến khiến hoan hỷ.

Như sức hộ người kia,

Khéo thành tựu ngữ nghiệp.

Hoặc cũng không phải nói,

Kia sẽ tự an trụ.

Sau dùng bốn nhiếp sự,

Thành thục người như vậy.

Đối với tội ác hành,

Dắt dẫn khiến khai ngộ.

Hoặc bỏ được ồn ào,

Lặng ở cảnh giới thiện,

Như nai chúa tự tại,

Thiểu dục và tri túc.

Cho đến kệ nói:

Nếu vào trong xóm làng,

Tâm điều nhu chính trực,

Nếu có người cầu pháp,

Vì nói pháp sâu mầu.

Khiến ở A-lan-nhã,

Ưa thích pháp tịch tĩnh.

Do trong thiện lợi này,

Mà thường được pháp lạc.

Nếu có người mê lầm,

Thường xuyên hiện ra trước,

An trụ trong pháp lạc,

Cần phải tự quan sát,

Ta chỉ đường cho đời

Không nhiễm pháp thế gian.

Đối với sự chê khen,

Như Tu-di chẳng động.

Các Tì-kheo phá giới,

Dẫu đến hủy báng nữa,

Nên tự nhẫn việc này.

Cẩn thận chớ quan tâm.

Lại trong các pháp này,

Ta nói vô sở hữu.

Với hạnh chính pháp này,

Chẳng sinh tưởng oán báo.

Giả làm tướng Sa-môn,

Thật không đức Sa-môn.

Nghe Ốt-đà-nam này,

Ắt phỉ báng chính pháp.

Chư Tì-kheo mai sau,

Người hộ trì chính pháp,

Lấy đây làm chướng nạn.

Không cho nghe pháp này.

Hoặc phép vua ép buộc,

Trích phạt trong đại chúng,

Ta nguyện thừa Phật lực,

Khiến đều nghe pháp này.

Mai sau khi đời ác,

Thà tan thân mất mạng,

Để hộ trì chính pháp,

Làm lợi ích chúng sinh.

Kinh Diệu Pháp Liên Hoa cũng nói như thế nầy:

Nên trụ hành xứ Và thân cận xứ.

Thường xa quốc vương,

Và con quốc vương,

Đại thần, quan trưởng,

Dân chơi hung hãn,

Cùng Chiên-đà-la,

Ngoại đạo,Phạm-chí,

Cũng không thân cận.

Người tăng thượng mạn,

Tham đắm Tiểu thừa,

Học giả ba tạng,

Tì-kheo phá giới,

Danh tự La-hán,

Và Tì-kheo-ni

Ưa thích vui đùa,

Các Ưu-bà-di

Tham mê ngũ dục,

Đều chớ thân cận.

Nếu những người đó

Ý tốt mà đến Ở nơi Bồ-tát

Để nghe Phật đạo,

Bồ-tát nên đem

Lòng không sợ sệt,

Vì họ nói pháp,

Không mong gì khác.

Gái góa, gái tơ,

Những kẻ ái nam,

Chớ nên gần gũi

Để mà làm thân.

Cho đến:

Bán thịt nuôi sống,

Buôn phấn bán hương,

Những người như thế

Chớ nên gần gũi.

Các trò hung hiểm

Đánh đấm làm vui,

Những gái lẳng lơ

Chớ nên gần gũi.

Đừng ở chỗ vắng

Giảng dạy đàn bà.

Nếu vì nói pháp

Không nên cười cợt.

Luận nói:

Lại nói về các nạn, nghĩa là ma sự.

Kinh Bát-nhã nói:

Nghĩa là đối với những người trụ ở Bồ-tát thừa chưa được bao lâu, khi tu tập Bát-nhã Ba-la-mật-đa này thì ma Ba-tuần nổi thế lực mạnh làm cho người tu tập khiếp sợ.

Lại nói: Lại nữa A-nan-đà ! Nếu khi Bồ-tát Ma-ha-tát tu tập Bát-nhã Ba-la-mật-đa thì có ác ma đến chỗ Bồ-tát hiện ra các việc đáng sợ để quấy nhiễu như hóa ra sấm sét lửa cháy mười phương muốn làm cho Bồ-tát rởn người khiếp sợ để trong một niệm thoái lui mất tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.

Lại nữa hóa hiện ra bày trò biên chép đọc tụng, nhưng người này không muốn bỏ lợi dưỡng bỏ chỗ mà đi, tạo cuồng loạn như vậy làm trò đùa.

Lại nữa bày trò biên chép đọc tụng để khởi lên các việc ma như có ý đi tìm xóm làng thành ấp, Hòa thượng, A-xà-lê, cha mẹ, tri thức để kết đảng làm thân, hoặc khởi tâm chiếm đoạt y phục của cải.

Lại nữa hoặc có sư thuyết pháp Bát-nhã Ba-la-mật sâu xa thì bày trò biên chép đọc tụng nghe pháp rồi sinh biếng nhác gây điên đảo nơi chỗ pháp sư, khiến người nghe đi chỗ khác nghe pháp khác.

Lại pháp sư muốn nói pháp rộng lớn thì khiến người nghe chỉ mong cầu chút ít thôi. Hoặc pháp sư chỉ nói sơ lược thì người nghe lại đòi hỏi cho nhiều.

Tất cả những điều như vậy là ma sự.

Lại nữa Kinh Hư Không Tạng nói:

Cho đến xả bỏ thiện pháp thích làm mười nghiệp bất thiện. Như vậy tất cả đều là ma sự.

Kinh Hải Ý nói:

Thế Tôn ! Lại nữa Bồ-tát ở nơi A-lan-nhã, thích ở nơi vắng vẻ tịch mịch cho là đủ. Tuy lìa tục xuất gia, thiểu dục tri túc nhưng không cầu học hỏi nhiều về hạnh diệu lạc, cũng không hóa độ chúng sinh. Nơi có giảng pháp thì không thích nghe, trong đó tùy nghi nói các nghĩa quyết định, đối với chỗ phải gần gũi thì không hỏi han tư vấn, một chút thiện hạnh cũng không mong cầu. Tuy ở nơi vắng vẻ tịch mịch mà thích ồn ào tụ tập các hạnh phiền não, chỉ tích tắc là rời khỏi tòa, không tự hiểu biết, không tu tập, làm hỏng pháp môn đạo quán, không tự lợi lợi tha.

Thế Tôn ! Đó gọi là Bồ-tát trụ A-lan-nhã như ma sự thứ bảy.

Tóm lại, thưa Thế Tôn ! Bồ-tát có ác tri thức thân cận thừa sự. Các ác tri thức này thể tướng không khác với thiện tri thức, nhưng thậm chí chúng có thể đoạn dứt bốn nhiếp sự, đoạn dứt việc tu phúc nghiệp, đoạn dứt việc hộ trì chính pháp, chỉ tu trí tuệ hẹp hòi thiểu dục tri túc, giảng dạy vì nói Thanh văn Duyên Giác.

Có khi Bồ-tát lìa hạnh Đại thừa, thế là việc làm của Bồ-tát có cân nhắc tính toán, chỉ tu trí tuệ hẹp hòi như đã nói. Nếu Bồ-tát dũng mãnh tinh tiến không biếng trễ đối với đạo Bồ-đề, thì tám hoặc chín kiếp sẽ được A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, nhưng không được quả Bồ-đề này.

Thế Tôn ! Bồ-tát ấy dũng mãnh tinh tiến, đối với sự chấp trước này chắc chắn không có, chỉ ở nơi nhàn tĩnh được quả này.

Thế Tôn ! Đó gọi là ma sự thứ mười của Bồ-tát đối với thể tướng của thiện tri thức. Nếu người đối với Bồ-tát thừa này bị ma kềm chế, duyên theo pháp hạnh khác cùng nhau ưa tu tập, như chuyển theo thân cận hạng hạ liệt tu theo hạnh hạ liệt, đó gọi là hôn mê không biết hướng về đâu, như con dê câm. Đó là ma sự thứ mười một.

Luận nói:

Bồ-tát không học tinh tiến dũng mãnh như vậy thì đối với mọi thời mọi nơi tu tập cũng như không tu tập.

Kinh Bảo vân nói:

Nghĩa là các Bồ-tát đối với các oai nghi đi đứng phát hạnh tinh tiến, thân tâm thường không giải đãi, đó gọi là Bồ-tát rốt ráo tinh tiến.

Làm sao đối với tinh tiến này lại sinh lười biếng mệt mỏi được ? Hoặc không đúng lúc mà tu hành những việc quá nặng nên vội sinh khiếp nhược, hoặc còn chưa thành thục tín giải nên khó thực hành các khổ hạnh, nên bảo rằng thí thịt của thân mình đâu được đem thí cho chúng sinh thụ dụng không đúng lúc. Do đó mà Bồ-tát sinh giải đãi mệt mỏi đối với các chúng sinh, tức thì sẽ tổn mất chủng tử tích tập cho đại quả của tâm Bồ-đề.

Kinh Hư Không Tạng lại nói:

Không đúng lúc mà cố đòi hỏi, đó là ma sự. Nghĩa là không đúng lúc mà nơi thân chợt khởi lên tâm xả như thế. Nếu trước không tu tập cũng chớ thí cho chút ít. Trụ tâm như vậy tức lấy sự ngu si mà tự hại mình, trái với sự thuần thục của tâm Bồ-đề.

Cho nên những việc xả bỏ thịt của thân mình phải khéo giữ gìn như khéo giữ gìn cây thuốc hiện tại vậy. Có thể lấy rễ, hạt thí cho trường hợp không đúng lúc. Việc khéo giữ gìn cây thuốc chính giác này cũng giống như vậy.

Luận nói:

Đối với ma sự, bình đẳng là việc khó.

Như Kinh Bảo Vân nói:

Phật bảo: Thiện nam tử ! Làm sao lìa các ma sự mà không hư hỏng việc thiện ? Nghĩa là Bồ-tát này tất cả mọi lúc mọi nơi trước hết phải xa lìa các ác tri thức, cũng chẳng đối địch. Đến chỗ của chúng luận nói việc thế tục, thân cận lợi dưỡng, cúng dường cung kính, nhiều thứ như vậy mọi lúc mọi nơi đều phải lánh xa. Lại nữa nếu có những phiền não vi tế có thể làm chướng ngại đạo Bồ-đề thì mọi lúc mọi nơi đều phải tránh xa. Biết rõ như vậy, đó là cách đối trị.

Kinh ấy cũng nói về tướng của ác tri thức. Nghĩa là người phá hủy chính giới, đó là ác tri thức cần phải tránh xa. Cũng giống như vậy, người phá hủy chính kiến, chính hạnh, chính mạng, đều phải tránh xa. Những kẻ ưa ồn ào náo nhiệt, kẻ nhiều lười biếng, kẻ đắm trước sinh tử, kẻ quay lưng với cửa ngõ Bồ-đề, kẻ ưa thích ở nhà bà con, đều là những ác tri thức cần phải xa lìa.

Thiện nam tử ! Tuy muốn xa lìa các ác tri thức này nhưng đối với chúng không phát khởi ác tâm có ý làm tổn hại. Phải trụ tâm như vậy.

Lại nữa Thế Tôn nói: Ở trong cảnh giới chúng sinh phá trừ sự hợp tập cho nên ta phải xa lìa những thứ này.

Luận nói:

Mất tâm Bồ-đề là điều khó khăn.

Cho nên Kinh Bảo Tích nói:

Lại nữa, này Ca-diếp ! Bồ-tát có bốn pháp mất tâm Bồ-đề. Những gì là bốn ?

1. Đối với A-xà-lê và các sư trưởng đã không tôn trọng lại còn lừa dối.

2. Chỗ không nghi hối làm cho sinh nghi hối.

3. Người trụ Đại thừa mà không khen ngợi còn mạ nhục.

4. Làm việc với người mà có tâm xảo trá không ngay thẳng.

Lại nữa Ca-diếp ! Bồ-tát thành tựu bốn pháp thì nơi sinh ra được không lìa bỏ tâm Bồ-đề, liên tục hiện tiền cho đến khi ngồi Bồđề trường. Những gì là bốn ?

1. Dẫu gặp nhân duyên mất mạng cũng không quên tươi cuời nói năng thân cận.

2. Làm việc với người giữ tâm ngay thẳng không xảo trá.

3. Đối với các Bồ-tát khởi tưởng nghị luận, tùy chỗ bốn phương mà khen ngợi.

4. Hóa độ chúng sinh, chí không cầu gì khác.

Tất cả đầy đủ khiến trụ A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.

Phật nói: Ca-diếp ! Đó gọi là bốn pháp.

Kinh Sư Tử Vương Sở Vấn có bài kệ rằng:

Nếu người làm pháp thí,

Cũng không bị tan mất.

Người ấy mau được vào

Trong chư Phật tập hội.

Như Thái tử Tinh Hạ,

Đời đời nghĩ pháp thí

Lại đời đời kiếp kiếp,

Cho đến trong chiêm bao

Không bỏ tâm Bồ-đề,

Huống nay được giác ngộ.

Kinh ấy lại nói:

Nếu ở nơi đi đến,

Hoặc thành phố xóm làng,

Cũng không bỏ tâm ấy,

Giáo hóa khiến giác ngộ.

Kinh Văn Thù Trang Nghiêm Phật Sát Công Đức nói:

Bồ-tát thành tựu bốn pháp không mất bản nguyện, cho đến lìa được kiêu mạn, xan tham, tật đố, hoặc thấy người khác an ổn giàu có thì vui mừng thay cho họ.

Luận nói:

Cho nên như vậy đối với tâm Bồ-đề khai phát không hư vọng lỗi lầm.

Như Kinh Bảo Tích nói:

Tất cả oai nghi đi đứng đều là sự nghiệp của tâm Bồ-đề. Tâm này là do tâm Bồ-đề từ quá khứ.

Lại nữa Kinh Nguyệt Đăng Tam Muội có bài kệ rằng:

Nếu người nhiều nghi ngờ,

Nên nhận điều ta dạy.

Do được thâm tâm này,

Thoát khỏi nghi ngờ kia.

Luận nói:

Xa lìa sự không trong sạch thuần hậu là khó.

Kinh Bảo Vân nói:

Bồ-tát phát tâm như vậy để ta tinh tiến. Vì khiếp nhược, thấp hèn và lười biếng nên việc tu tập Bồ-đề tự cho là khó đạt được. Như vậy tích chứa trong vô lượng trăm ngàn kiếp như cứu lửa cháy đầu mới chứng Bồ-đề. Ta nay hủy bỏ gánh nặng ấy.

Sao Bồ-tát có thể phát ngôn như vậy ? Có ba đời Như Lai chính đẳng chính giác là có tinh tiến tu hành mới hiện chứng chính đẳng giác. Cho đến như vậy chẳng phải chẳng trường thời gian mới hiện thành chính giác sao ?

Ta nay cũng phải hộ trì trong nhiều kiếp, vì các chúng sinh tích chứa sự tinh tiến thì sẽ được A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.

Luận nói:

Trở lại nói về cái khó này.

Kinh Bảo Tích nói:

Đối với chúng sinh chưa thành thục mà đồng phương tiện thiện xảo, là Bồ-tát sai lầm.

Đối với hạng chúng sinh phi pháp khí, mà chỉ bày bằng các pháp Phật nhiệm mầu sâu rộng, là Bồ-tát sai lầm.

Đối với chúng sinh có lòng tin hiểu rộng lớn, mà dạy bày hạ liệt thừa, là Bồ-tát sai lầm.

Luận nói:

Không tin hiểu là khó.

Như Kinh Hộ Quốc nói:

Nghĩa là đối với Phật pháp tăng bảo không sinh tin hiểu, cũng không tin học hiểu, ngăn chận nhiều hạnh, cũng không tin hiểu những việc tội phúc, những người ở trong tội lỗi như vậy thì dẫu sau khi chết sinh làm người cũng sẽ chịu báo si ám, sau chịu các khổ địa ngục ngạ quỷ súc sinh.

Luận nói:

Để lìa khỏi điều này, Kinh Bảo Tích có nói:

Nếu người đối với pháp rất sâu không có chỗ hiểu, không sinh phỉ báng, Như Lai chứng tri như vậy.

Lại nói, nhưng ta không thể hiểu, chỉ đối với vô lượng chư Phật Bồ-đề có các thứ tin hiểu, cho nên Như Lai vì hạng chúng sinh này nói chính pháp hạnh.

Luận nói:

Phải biết rằng bỏ việc giỏi quản sự là khó.

Cho nên Kinh Bồ Tát Biệt Giải Thoát nói:

Đối với Tì-kheo hành pháp, nghe diệu pháp, thân cận việc doanh sự để cúng dường Phật.

Luận nói:

Làm việc quản sự, như trong Kinh Bảo Tích nói:

Phật nói: Tì-kheo làm quản sự đối với các chúng Tì-kheo phải hộ trì tâm này: Nếu Tì-kheo A-lan-nhã ưa ngồi nơi yên tĩnh vắng vẻ thì Tì-kheo quản sự bất cứ lúc nào bất cứ nơi đâu không nên sai bảo việc gì.

Giả sử mỗi khi Tì-kheo A-lan-nhã nhập chúng học mà bị sai bảo thì Tì-kheo quản sự này phải làm thay công việc cho Tì-kheo ấy, hoặc mời một Tì-kheo khác làm thay cho Tì-kheo ấy.

Nếu có Tì-kheo đi khất thực, Tì-kheo quản sự phải cung cấp các thức ăn tốt.

Lại nữa Ca-diếp ! Nếu có Tì-kheo thoát khỏi sự khống chế, Tìkheo quản sự thấy tùy theo chỗ cần thiết mà cung cấp đầy đủ, như ăn mặc đồ nằm thuốc thang.

Nếu Tì-kheo thoát khỏi sự khống chế ở chỗ nào, không nên nói lớn tiếng, Tì-kheo quản sự nên nằm ngồi gần gũi để phòng hộ và tùy theo sở thích mà cung cấp thức ăn tốt.

Lại nữa nếu có Tì-kheo đa văn thì phải dũng cảm bảo vệ.

Nếu có Tì-kheo thuyết pháp, phải vì pháp đến ngồi nghe, vào trong pháp hội hoặc ở trong trường luận nghị thanh tịnh. Cho đến ba lần xướng: Hay thay !

Tóm lại, không nên đối với vật sở hữu mà có tư tưởng tự do tự tại. Dẫu có chút việc phải làm, chúng cho phép mới làm, chớ nên tự cho phép sử dụng. Cho đến vật của hiện tiền tăng, vật của tứ phương tăng không được lẫn lộn. Với vật của chùa tháp Phật không được đổ đống lộn xộn, phải ngăn chận sự đảo lộn như vậy. Nếu nghi ngờ có sự lẫn lộn vật của tứ phương tăng với vật của hiện tiền tăng, Tì-kheo quản sự phải bạch chúng rằng: Những lợi dưỡng của hiện tiền tăng và tứ phương tăng này xin đồng ý xả thí để tu sửa Phật tháp hư nát, nên cầu xin xả thí để ra làm. Đó là điều Phật đã có dạy bảo.

Lại nữa Ca-diếp ! Nếu như vật của Phật tháp có nhiều, Tì-kheo quản sự không được phân chia ra cho hiện tiền tăng và tứ phương tăng.

Sở dĩ vì sao ? Vì vật của tháp Phật dẫu là một phần mười cũng đều là của tịnh tín, sao có thể lấy nhiều được ? Chư thiên, người đời sinh ý tưởng về tháp Phật, huống chi lại là châu báu đều là báu vật.

Nếu lấy y áo nơi tháp Phật do Như Lai đã chế ra thì thà để cho gió mưa làm hư hại không nên dùng tiền bạc mua y áo này. Y áo nơi tháp Như Lai không ai có thể ra giá là bao nhiêu, lại nữa Phật cũng chẳng dùng tiền đó làm gì.

Phật nói: Ca-diếp ! Nếu Tì-kheo quản sự có ác tâm đối với người trì giới, chính tay cung cấp sai bảo tự do, bởi nghiệp bất thiện đó phải đọa địa ngục. Dẫu được làm người sẽ làm thân tôi tớ để kiếm sống, bị người sai bảo mắng nhiếc đánh đập. Tóm lại, hoặc đối với Tì-kheo lại lập quy chế mới, vì sợ trách phạt là sai bảo không đúng lúc, Tì-kheo quản sự ấy do căn bất thiện đọa địa ngục lớn gọi là nhiều đinh, cho đến cả ngàn cái đinh đâm vào người đốt cháy mãnh liệt tạo thành đống lửa lớn. Lại nói chung là lưỡi tội nhân rộng dài đến trăm do-tuần, trên lưỡi có trăm ngàn cây đinh bốc cháy rực rỡ không thể chịu nổi.

Phật nói: Ca-diếp ! Tì-kheo quản sự hoặc đến hoặc đi được lợi dưỡng của tăng mà xan lẫn cất giấu, hoặc cho đúng lúc hay không đúng lúc, hoặc khốn khổ mới cho, hoặc không cho, Tì-kheo quản sự như vậy, do căn bất thiện chết đọa vào loài ngạ quỷ ăn những viên phân. Có một con quỷ có uy thế lớn mang đến đưa ra. Ban đầu chẳng dám đến gần, nhưng ngước mắt nhìn những viên phân, trải qua đói khát trăm ngàn năm không được ăn uống. Dẫu có được chút ít, nhưng do hành nghiệp hiểm ác mà tất cả hóa thành phân nhơ.

Lại nữa trong Kinh Tăng Hộ Duyên Khởi có nói về khổ nạn này.

Phật bảo Tì-kheo Tăng Hộ rằng: Như ông thấy đó, thật sự không phải là bức tường mà đó là người địa ngục, là người xuất gia thời Phật Ca-diếp, vô cớ nhổ nước bọt lên vách tường nơi chư tăng ở, do nghiệp báo đó thụ khổ báo làm bức tường bằng thịt bị lửa đốt đến nay chưa dứt.

Lại nữa như ông thấy đó thật chẳng phải là cây cột nhà, mà là người địa ngục. Cũng giống như trước, vô cớ nhổ nước bọt lên cột nhà nơi chư tăng ở mà chịu khổ báo làm cây cột bằng thịt đến nay chưa dứt.

Lại nữa như ông thấy, đó thật sự chẳng phải là cây lá hoa quả, mà là người địa ngục. Cũng giống như trước, người này phi lý thụ dụng trước cây lá hoa quả nơi tăng chúng ở hoặc đem cho người thế tục mà chịu khổ báo làm cây thịt đến nay chưa dứt.

Lại nữa, ông thấy đó thật sự không phải sợi dây căng, mà là hình người địa ngục. Cũng giống như trước người này phi lý lấy dây nơi tăng chúng ở, trước đem dùng riêng hoặc đem cho người thế tục mà chịu khổ báo làm sợi dây thịt đến nay chưa dứt.

Lại nữa ông thấy đó thật sự chẳng phải cái cán gáo múc nước, mà là hình người địa ngục.

Thời Phật Ca-diếp có một Sa-di bủn xỉn đang cầm cái cán gáo gãi, khi ấy có một khách Tì-kheo đến, Sa-di kia trông thấy quay lưng. Khách Tì-kheo nói: Trong chúng đây có nước uống không ?

Sa-di có tâm bủn xỉn kia đáp: Ông không thấy tôi cầm cán gáo mà gãi đấy sao ? Muốn kiếm nước uống còn chưa có !

Khách Tì-kheo lặng thinh không xin được đỏ mặt bỏ đi. Do nghiệp báo này chịu khổ làm cái cán cái chuôi bằng thịt đến nay chưa dứt.

Lại nữa ông thấy đó, thật sự đây không phải cái chày cái cối, mà là hình người địa ngục.

Thuở Phật Ca-diếp có một Sa-di mang ấn ký đến chỗ vị Tì-kheo chủ sự thu thập vật dụng. Vị Sa-di này là một A-la-hán.

Có một Tì-kheo đến bảo Sa-di rằng: Ta cần cái chày cái cối.

Sa-di nói: Xin Thượng tọa hãy chờ cho giây lát, con có chút việc, sau hãy giã.

Tì-kheo kia nổi giận bảo Sa-di: Ta mà được cái chày cái cối này ta sẽ ném ngươi vào cối mà giã như thế này, đừng nói tới cối chày !

Khi ấy Sa-di biết Tì-kheo kia nói lời mắng nhiếc ác độc, nghĩ rằng nếu ta đáp lại ắt sẽ làm tăng thêm giận dữ nên lặng thinh.

Sau khi thấy sự tức giận đã nguôi bèn đến vị Tì-kheo kia khuyên hối lỗi rằng Đại đức Thượng tọa như vậy là phiền não.

Kia nói: Ngươi biết trong pháp luật Phật Ca-diếp này Sa-di xuất gia ta là Thượng tọa.

Sa-di Tì-kheo nói: Nếu như vậy những người xuất gia chúng ta làm sao đoạn trừ tất cả phiền não, giải thoát tất cả kết sử ? Nói ra lời nói ác phải khéo đối trị bằng pháp hối tội. Đó gọi là tùy theo trường hợp khiến tội tiêu nhẹ.

Bấy giờ Tì-kheo Thượng tọa không trả lời, vì còn giận không hối cải. Do nghiệp báo này hóa làm cái cối chày bằng thịt chịu khổ không dứt.

Lại nữa ông thấy đó thật sự không phải cái nồi gang.

Có một Tì-kheo đến hỏi: Có dùng cái nồi gang này không ?

Sa-di đáp: Xin ngồi chờ cho một chút, con đang săn sóc thầy Tì-kheo bệnh, dùng cáí nồi gang này sắc thuốc.

Tì-kheo kia không ưa câu nói đó, do ác tâm đập vỡ cái nồi gang rồi bỏ đi, chịu khổ báo hóa làm cái nồi gang bằng thịt đến nay chưa dứt.

Lại nữa ông thấy đó ở giữa thì bị đứt chỉ liên kết lại bằng sợi dây mỏng manh, đó là hình người địa ngục. Do người này trước đây chủ việc chăm lo đời sống chúng tăng, do tâm tham lam bỏn sẻn tráo đổi vật của chúng tăng, mùa này mùa kia tráo đổi cho nhau mà cấp dữ, do nghiệp báo đây chịu khổ không dứt.

Phẩm 4: HỌC XỨ VỀ KHÔNG 1

Luận nói:

Lại nữa kinh nói các nghĩa quan trọng.

Như Kinh Hư Không Tạng nói:

Phật bảo Bồ-tát Di-lặc rằng: Vua quán đảnh Sát-đế-lợi có năm tội căn bản. Nếu phạm tội này sẽ đốt cháy tiêu các giống thiện căn đời trước, hướng đến đường ác đọa vào các thắng xứ khác, xa lìa tất cả sự hưởng lạc cõi trời cõi người. Những gì là năm ?

Thiện nam tử ! Nếu nhân danh vua quán đảnh Sát-đế-lợi mà lấy vật của tháp Phật, vật của tứ phương tăng, tự mình lấy, sai bảo người khác lấy, đó là tội căn bản thứ nhất.

Nếu hủy báng pháp Thanh Văn thừa, pháp Duyên Giác thừa, hủy báng pháp Đại thừa, ẩn giấu các tệ nạn, đó là tội căn bản thứ hai.

Nếu người y vào pháp ta xuất gia, cạo râu tóc mặc ca-sa, dù có học dù không học, dù giữ giới dù phá giới, mà buộc họ cởi áo ca-sa hoàn tục hoặc còn thêm đánh đập xiềng trói giam nhốt trong ngục hoặc giết chết, đó là tội căn bản thứ ba.

Sát hại cha mẹ, giết A-la-hán, phá hòa hợp tăng, dùng ác tâm làm thân Phật chảy máu, tùy theo làm một việc nào đều là năm nghiệp vô gián, đó là tội căn bản thứ tư.

Nếu hủy báng cho rằng không nhân quả, không sợ đời khác, tự làm mười nghiệp đạo bất thiện hoặc chuyển dạy cho nhiều người khác, tự bản thân mình và dạy bảo người khác kiên trụ mười nghiệp đạo bất thiện, đó là tội căn bản thứ năm.

Cho đến nói chung là nếu ưa phá hoại đất nước làng xóm nhà cửa nhân dân, đó gọi là các tội căn bản.

Tóm lại, lại nữa thiện nam tử thiện nữ nhân người mới thực hành trụ Đại thừa, có tám tội căn bản. Người mới thực hành trụ Đại thừa này đối với tội căn bản mà có sai lầm, thì đốt cháy mất tất cả giống thiện căn đời trước, hướng đến nẻo ác rơi vào các thắng xứ, xa lìa cái vui của trời người và Đại thừa, ở lâu trong luân hồi, rời bỏ thiện tri thức. Những gì là tám ? Các chúng sinh này nhân đời trước làm các việc ác mà sinh vào đời ác năm trược đầy hiểm nạn, nhờ chút thiện căn được gần thiện tri thức, được nghe kinh điển Đại thừa rất sâu, người ấy trí cạn liền phát tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề nhưng mới thực hành Bồ-tát, nghe nói về pháp không của kinh điển rất sâu, rồi thụ trì đọc tụng như đã nghe, được người trí cạn trước như thật khai thị văn nghĩa hay ho, cảnh giới rộng lớn, kẻ phàm phu ngu muội kia nghe nói như vậy tâm sinh sợ hãi. Do tâm sợ hãi nên thoái lui mất tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề mà phát tâm Thanh Văn thừa. Đó là tội căn bản thứ nhất của người mới thực hành Bồ-tát.

Thiện nam tử ! Do phạm tội nên đốt cháy tiêu tất cả giống thiện căn đời trước, hướng đến đường ác, rơi vào các thắng xứ khác, xa lìa cái vui của nhân thiên và Đại thừa, phá hủy tâm Bồ-đề. Cho nên Bồ-tát đối với hữu tình Bổ-đặc-già-la khác phải có tâm và chí nguyện sâu xa, trước biết rồi thực hành như tâm chí mình, sau tùy theo đó mà dần dần vì người nói pháp. Ví như những con sông dần dần đi vào biển lớn. Tóm lại, lại nữa người mới thực hành Bồ-tát nếu nói như thế này: Ngươi không thể tu tập sáu hạnh Ba-la-mật được, cũng không thể được A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Ngươi phải mau phát tâm Thanh Văn, Bích-chi-phật thì ngươi có thể mau được xuất ly sinh tử, cho đến nói như trước. Đó gọi là tội căn bản thứ hai của người mới thực hành Bồ-tát.

HẾT QUYỂN 4