LUẬN ĐẠI THỪA KHỞI TÍN NGHĨA KÝ
Chùa Ngụy Quốc Tây Tự ở phủ Kinh Triệu Sa-môn Thích Pháp Tạng soạn
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản

 

QUYỂN HẠ (Phần Đầu)

Tiết 3. Trình bày lại chỗ Thể tướng nhân duyên nương vào:

Từ đây trở xuống.

A1. Nói tóm lược về duyên khởi sâu xa.

A2. Trình bày đầy đủ nghĩa khác nhau của duyên khởi từ “Nghĩa là tâm tánh” trở xuống,

A1. Nói về duyên khởi sâu xa. Có hai:

B1. Khen ngợi chỗ sâu xa.

B2. Giải thích lý do sâu xa từ “Vì sao” trở xuống.

Thức nương vô minh huân tập mà khởi. “Thức nương vô minh huân tập khởi” là lặp lại điều đã nói. Nương vô minh căn bản khởi tâm tĩnh kia thành càc nghiệp thức, v.v… B1. Khen ngợi chỗ sâu xa:

Trong đây có:

– Không phải phần của phàm phu, Tiểu thừa.

– Bồ-tát biết một phần.

– Chỉ Phật mới biết tột cùng.

Phàm phu chẳng thể biết được, trí tuệ nhị thừa giác ngộ cũng chẳng biết được.

Vì người nhị thừa chỉ giác bốn trụ, chẳng rõ vô minh, thức do vô minh khởi này chẳng phải cảnh của họ.

Nghĩa là Bồ-tát từ Sơ chánh tín phát tâm quán sát, nếu chứng Pháp thân chỉ biết được chút phần, cho đến Bồ-tát ở địa vị rốt ráo cũng không thể biết hết được, chỉ có Phật mới biết tột cùng.

“Bồ-tát từ Sơ chánh tín, v.v…”, bắt đầu là Thập tín lúc mới phát tâm tức quán thể tự tánh, duyên khởi nhân quả của bổn thức, thành tựu chánh tín. Nên trong Nhiếp Luận đứng về mặt bổn thức nói: “Bồ-tát sơ khởi trước hết nên quán các pháp nhân duyên như thật” chính là nghĩa này. Trong địa vị Tam hiền ý nói tỷ quán, nên nói quán sát. Từ Sơ địa trở lên chứng chưa tột cùng, nên nói chút phần. Vì họ chỉ giác được tướng Trụ, không giác được tướng Sinh. Như Lai rõ cả bốn tướng nên được tột nguồn.

B2. Giải thích nguyên do sâu xa: “Vì sao, v.v…” trở xuống, Vì sao?

Trước ý trách rằng: Chuỗi duyên khởi diệu lý thông suốt cả phàm và thánh. Vì sao nói thấy chỉ ở quả?

Đáp: Có ba:

– Ngay nơi tịnh mà thường nhiễm.

– “Tuy có tâm nhiễm, v.v…” trở xuống: ngay nơi nhiễm mà thường tịnh.

– “Vì thế” trở xuống, là tổng kết thành khó lường, cho nên chỉ có Phật biết.

Trong ba câu trước:

Tâm này từ xưa đến nay tự tánh thanh tịnh mà có vô minh, vì vô minh nhiễm nên có tâm nhiễm kia.

– Ban đầu là thể duyên khởi tức nhân.

– Kế đến là xuất xứ lý do duyên khởi tức duyên.

– Sau cùng là trình bày tướng duyên khởi, ngay nơi chẳng nhiễm mà nhiễm.

Tuy có tâm nhiễm mà thường hằng bất biến, cho nên nghĩa này chỉ có Phật mới biết được.

“Tuy có” trở xuống, là giải thích nghĩa duyên khởi sâu xa, tức nhiễm mà chẳng nhiễm. Kinh Thắng-man chép: “Tâm tự tánh thanh tịnh khó thể rõ biết. Tâm kia bị phiền não nhiễm cũng khó rõ biết, cho đến kết luận rằng, chỉ có Phật mới rõ biết”. Trong kinh Lăng-già cũng đồng thuyết này. Nên kinh ấy chép: “Như Lai tạng là tướng thanh tịnh, khách trần phiền não cấu nhiễm chẳng thanh tịnh”, cho đến nói rộng. Sau đây kết luận rằng: “Nay ta cùng ông và càc Bồ-tát mà có trí sâu xa, có thể phân biệt rõ ràng”.

A2. Trình bày rộng về tướng duyên khởi khác nhau: “Nghĩa là, v.v…” trở xuống Có hai:

B1. Trình bày thể tướng duyên khởi ở trước.

B2. Khoa này phân biệt trở lại. “Chẳng rõ nghĩa một pháp”trở xuống,

B1. Trình bày thể tướng duyên khởi:

Có ba:

C1. Giải thích nghĩa bất biến ở trên:

“Nghĩa là tâm tánh, v.v…”,

Nghĩa là tâm tánh thường vô niệm gọi là bất biến.

Tuy toàn thể động mà xưa nay tịnh, nên nói thường vô niệm, trình bày thể của duyên khởi nhân ở trên.

C2. Trình bày lý do vô minh duyên khởi ở trên:

“Vì chẳng thông đạt, v.v…” trở xuống,

Vì chẳng thông đạt nhất pháp giới nên tâm chẳng tương ưng, bổng nhiên niệm khởi gọi là Vô minh.

Cũng giải thích lý do vô minh phát khởi ở trên. Vì chẳng rõ nghĩa chân như bình đẳng bậc nhất, tâm bất tương ưng bỗng nhiên động niệm gọi là vô minh, đây là nói vô minh căn bản rất sâu kín, chưa có năng sở, tâm vương, tâm sở khác nhau, tức tâm mê lầm nên nói bất tương ưng, chẳng đồng tâm vương, tâm sở tương ưng. Vì vô minh này là nguồn gốc của pháp nhiễm rất sâu kín tột cùng, lại không có pháp nhiễm nào khác để làm cội gốc, nên nói bổng nhiên khởi niệm. Như Kinh An Lạc Bổn Nghiệp nói: “Trước Tứ trụ địa không có pháp khởi, gọi là vô thỉ vô minh trụ địa, cho nên nói trước vô minh không có pháp riêng làm gốc tụ tập ban đầu, nên nói vô thỉ”. Tức nghĩa của luận này là “bỗng nhiên”, ở đây theo môn thô tế nương nhau nói là không trước, cũng nói là bổng nhiên. Chẳng phải đứng về thời gian để nói bỗng nhiên, vì khởi không có chỗ ban đầu.

C3. Trình bày tướng duyên khởi ở trên:

“Tâm nhiễm, v.v…” trở xuống là nghĩa, là câu có “tâm nhiễm”.

Có ba: – Nêu, hỏi, giải thích riêng.

– Giải thích riêng:

Sáu nhiễm tức ý thức ở trên và năm ý. Nhưng ở trước nói nghĩa nương nhân duyên thứ lớp sinh khởi từ tế đến thô mà nói. Nay muốn nói đối trị thứ lớp và dứt trừ nên nói từ thô đến tế. Trong sáu thứ mỗi thứ có hai: – Chướng và Đối trị.

Tâm nhiễm có sáu thứ, sáu thứ là:

1. Chấp tương ưng nhiễm. “Chấp tương ưng nhiễm” là tướng chấp thủ và tướng kế danh tự trong sáu thô, cũng là ý thức ở trước, nghĩa ái kiến phiền não thêm lớn cũng là tướng chấp trước phân biệt thô trong bốn tướng trên. Nhưng cho tâm thô chấp bên ngoài tương ưng với cảnh làm nhiễm ô hạnh thanh tịnh kia, nên nói là nhiễm.

Theo người Nhị thừa giải thoát và địa vị Tín tương ưng xa lìa (phiền não). Nếu người nhị thừa đến địa vị vô học kiến, tu phiền não rốt ráo xa lìa. “Tín tương ưng” là bậc Thập giải trở lên, tín căn thành 1 thục, không còn lui sụt, gọi là Tín tương ưng. Trong Địa Luận nói, trước Sơ địa gọi chung là Bồ-tát Tín hạnh địa. Trong luận của Vô Trước cũng đồng thuyết này. Bồ-tát này được nhân không kiến, tu phiền não không hiện hành, nên nói xa lìa. Chẳng phải đứng về mặt phiền não để lưu hoặc. Nhiếp luận nói: “Nếu không dứt tâm trên thì chẳng khác phàm phu. Nếu không lưu hạt giống thì chẳng khác Nhị thừa”. Lại hai ý lưu hoặc là tự và tha. Ở đây là nói theo Chung giáo. Nếu theo Thỉ giáo thì từ Sơ địa trở lên mới nói lưu hoặc, như các luận nói. Nay Bồ-tát này chẳng dứt thẳng bốn trụ nhân chấp, chỉ phần đoạn vô minh trụ địa. Luận này văn sau nói: “Chẳng rõ nghĩa nhất pháp giới, từ địa vị Tín tương ưng, quán sát học đoạn”. Nay chỉ trình bày chấp nhân ngã thô chẳng phải luận ấy.

2. Chẳng dứt tương ưng nhiễm, nương Tín tương ưng địa phương tiện tu học dần dần xả, được Tịnh tâm địa mới rốt ráo xa lìa. “Chẳng dứt tương ưng”, trong năm ý gọi là thức tương tục, trong sáu thô gọi là tướng tương tục. Nhưng pháp chấp tương tục sinh khởi chẳng dứt, chẳng dứt gọi là tương tục. Từ Thập giải trở lên tu Duy thức quán, phương tiện tầm tư, cho đến Sơ địa chứng ba vô tánh, trùm khắp chân như, pháp chấp phân biệt không được hiện hành, nên nói là tịnh tâm địa rốt ráo xa lìa.

3. Phân biệt trí tương ưng nhiễm, là nương cụ giới địa dần dần lìa, cho đến vô tướng phương tiện địa rốt ráo lìa. “Trí phân biệt tương ưng”, là trí thức trong năm ý, là trí tướng trong sáu thô. Vì phân biệt các pháp nhiễm tịnh thế gian và xuất thế gian, nên nói là trí. Là pháp chấp tu hoặc từ Thất địa trở xuống, có quán ra vào khác nhau, nên đối với cảnh giới có phân biệt sâu kín. Nhưng, mỗi địa trừ từng phần, nên nói dần dần lìa. Từ Bát địa trở lên không quán duyên cảnh bên ngoài, cho nên bậc Thất địa dứt sạch hết hoặc này, nên nói Vô tướng phương tiện địa rốt ráo lìa. Vì Nhị địa ba nhóm giới đầy đủ, nên nói Cụ giới địa. Vì Thất địa đối với quán vô tướng có công dụng gia hạnh phương tiện, nên nói Vô tướng phương tiện địa. Từ Bát địa trở lên đối với vô tướng không có công dụng phương tiện.

4. Hiện sắc bất tương ưng nhiễm, nương sắc tự tại địa có thể xa lìa. “Hiện sắc bất tương ưng nhiễm”, trong năm ý thì trên là hiện thức, trong ba đời thì trên là tướng cảnh giới. Giống như gương sáng hiện sắc tượng, v.v… Ở đây nương vô minh căn bản động khiến hiện cảnh. Vì trong Bát địa được ba thứ tự tại ở thế gian, sắc tánh theo tâm không có ngăn ngại, nên nói sắc tự tại địa năng xa lìa. Vì địa sắc không tự tại hiện thức chẳng mất, trong địa vị này dẹp tướng kia.

5. Năng kiến tâm bất tương ưng nhiễm, nương tâm tự tại địa năng xa lìa. “Tâm năng kiến”, là chuyển thức trong năm ý, là tướng năng kiến trong ba tế. Vì vô minh căn bản động khiến năng thấy. Văn trên nói: “Nương tâm động thành năng thấy”. Trong Cửu địa khéo biết mười thứ tâm hành rối rắm của chúng sinh, nên nói tâm tự tại. Ở tha tâm này được tự tại, lại dùng bốn mươi trí vô ngại mà mình được thì thức năng duyên sắc trần hữu ngại, thường không khởi được, nên nói tâm tự tại địa xa lìa được.

6. Căn bản nghiệp bất tương ưng nhiễm, Bồ-tát tận địa được vào Như Lai địa có khả năng xa lìa. “Nghiệp căn bản” là nghiệp thức trong năm ý, là nghiệp tướng trong ba tế. Vì năng lực vô minh bất giác tâm động. Bồ-tát địa tận, v.v… nghĩa là bậc Thập địa cuối cùng của định Kim cương dụ trong Vô cấu địa, tập khí sâu kín tâm niệm đều dứt hết. Văn trên nói: “Được thấy tâm tánh, tâm tức thường trụ” nên nói xa lìa được.

B2. Khoa này phân biệt trở lại:

Có ba:

C1. Nói về vô minh ở trên:

Đứng về mặt đối trị dứt để phân biệt.

C2. Giải thích nghĩa tương ưng, bất tương ưng ở trên.

C3. Nêu tâm nhiễm và vô minh ở trên.

Đứng về cảnh thành nghĩa hai ngại.

C1. Nói về vô minh ở trên:

Đứng về mặt đối trị dứt để phân biệt. Có: – Nêu và Giải thích.

Chẳng rõ nghĩa nhất pháp giới, từ địa vị Tín tương ưng quán sát học đoạn vào địa vị tịnh tâm tùy phần được lìa, cho đến Như Lai địa rốt ráo xa lìa được.

Giải thích:

Ban đầu “thô” là đến Sơ địa xa lìa. Sau “tế” đến Phật địa là tận cùng. Đây là vô minh trụ địa nhiễm tâm ở trên nương vào hay nhiễm chân như thành tâm nhiễm. Trên nói: “Phá thức hòa hợp là diệt vô minh, diệt tâm nối tiếp là dứt tâm nhiễm”. Nay vô minh và tâm nhiễm tuy nói có trước sau, nhưng đối trị và diệt thì cùng một lúc.

Nói nghĩa tương ưng là tâm niệm pháp khác, nương nhiễm tịnh khác nhau mà biết tướng và duyên tướng đồng nhau.

C2. Giải thích nghĩa tương ưng và bất tương ưng:

Trong sáu nhiễm nói ba thứ trước là tâm tương ưng, tương ưng có hai cách giải thích:

1. Giải thích theo tâm vương, tâm sở, vì ba thứ này đều là tâm thô. Nói “Tâm niệm pháp khác” tâm là tâm vương, niệm pháp là tâm pháp. Tâm vương tâm sở khác nhau, nên nói là khác. Trong Luận, Ca-chiêndiên gọi là tâm và tâm sở niệm pháp. “Nương nhiễm tịnh khác nhau” là cảnh bị phân biệt. “Biết tướng và duyên đồng nhau” là như tâm vương biết nhiễm, tâm pháp cũng đồng. Tâm vương duyên tịnh, tâm pháp cũng đồng. Biết tướng tức năng tri đồng, duyên tướng tức sở duyên đồng.

2. Giải thích theo tâm cảnh tương ưng: Vì ba thứ này nương cảnh sinh nhiếp trong sáu tướng nương cảnh khởi ở trong văn trên. Văn sau cũng nói: “Cảnh giới diệt cho nên tâm tương ưng diệt”. “Tâm niệm pháp khác”: tâm là tâm năng duyên, pháp là pháp trần sở duyên, khác là tâm cảnh khác nhau, nương nhiễm tịnh nên đều là đồng, nghĩa là ở đối với cảnh nhiễm tạo cái hiểu nhiễm, ở cảnh tịnh tạo cái hiểu tịnh, nên nói là đồng.

Nghĩa bất tương ưng là tức tâm bất giác thường không riêng khác, chẳng đồng với tri tướng, duyên tướng.

Ba thứ nhiễm sau và vô minh đều gọi là bất tương ưng, cũng có hai cách giải thích:

1. Giải thích theo tâm vương, tâm sở: Nói “Tức tâm bất giác thường không riêng khác”, ở đây trình bày vô minh căn bản làm động thể của tâm tĩnh, ngay tâm động này là tướng bất giác, lại không có tâm vương, tâm sở nào khác, nên nói “Tức tâm bất giác thường không khác nhau”. Đây ngược lại tâm niệm pháp khác nhau ở trước.

“Chẳng đồng tri tướng, duyên tướng”, đã không có tâm vương, tâm sở khác nhau làm sao có đồng tri đồng duyên. Ngược lại có thể thấy, như ở trước. Vì ba thứ này nương bất giác mà khởi, chẳng khác bất giác nên nói là“tức”. Văn trên nói: “Nương vào bất giác nên sinh ba thứ tướng, chẳng lìa bất giác, là ngay tâm mà bất giác, nên nói chẳng lìa, chẳng phải là tương ưng mà chẳng lìa”. Văn sau cũng nói: “Vô minh diệt nên tâm bất tương ưng diệt”.

2. Cũng giải thích theo tâm cảnh: “Tức tâm bất giác” nghĩa là vô minh này tức tâm nhiễm mà không có thể khác, chẳng đứng về mặt tương ưng ngoại cảnh mới có bất giác này, chỉ ở trên bản tâm nên nói tức tâm.

“Chẳng đồng tri tướng” là chọn lựa tương ưng ở trước, tâm bất tương ưng này đã là thức A-lại-da, trong đó không phân ra nghĩa vương, sở và không tương ưng với nghĩa ngoại cảnh, đều có nghĩa giác, bất giác. Đều trái với các luận, hòa hợp như trong Biệt Ký nói.

C3. Nêu tâm nhiễm và vô minh ở trên:

Giải thích nghĩa hai ngại:

Có hai:

D1. Nêu lập.

D2. Giải thích trở lại.

D1. Nêu lập:

Có: – Hoặc chướng, Trí chướng.

Lại, nghĩa tâm nhiễm gọi là phiền não ngại, chướng căn bản trí chân như.

Trước nói tâm nhiễm là có sáu tâm nhiễm, “Làm chướng căn bản trí chân như” là nói lên nghĩa ngại kia, nghĩa là trí như lý chiếu tuệ tịch diệu, gọi là trí căn bản, tức văn trên nói là tướng trí tịnh. Tâm nhiễm náo động trái với tịch tĩnh này, nên gọi tâm nhiễm là phiền não ngại, vì phiền não động, nay ở đây nương môn gốc ngọn này, lấy tâm nhiễm do vô minh khởi làm phiền não ngại. Vô minh làm khởi tâm nhiễm làm trí ngại. Chẳng đứng về mặt chấp nhân và pháp để nói về hai ngại.

Nghĩa vô minh gọi là trí ngại, làm chướng nghiệp trí tự nhiên ở thế gian.

Nói “vô minh” là vô minh căn bản. “Làm chướng nghiệp trí thế gian” là nói lên nghĩa ngăn ngại. Nghĩa là hậu đắc như lượng trí, tức nghiệp dụng không thể nghĩ bàn ở trên. Do vô minh mê mờ không phân biệt, trái với trí dụng này gọi là trí ngại, từ chỗ chướng mà có tên này.

Nghĩa này thế nào?

D2. Giải thích trở lại:

Trước hỏi: vô minh này đã là khuấy động tâm tĩnh kia thành tâm nhiễm, thì vô minh là tế, lẽ ra chướng lý trí, tâm nhiễm là thô nên chướng lượng trí mới phải chứ?

Vì nương tâm nhiễm năng kiến, năng hiện vọng chấp cảnh giới, trái với tánh bình đẳng.

Trong phần đáp, trước giải thích phiền não ngại:

“Vì nương tâm nhiễm nên năng kiến, năng hiện” là ba nhiễm tế ở sau.

“Vọng chấp cảnh giới” là nhiếp chung ba tâm nhiễm ở trước.

“Vì nương cảnh khởi, trái tánh bình đẳng” là giải thích thành nghĩa ngại. Do tâm nhiễm này mà năng sở khác nhau, trái với trí căn bản, năng sở bình đẳng, do đó chướng lý trí.

Vì tất cả pháp thường tĩnh không có tướng khởi, vô minh bất giác vọng trái với pháp, không thể thuận theo các thứ hiểu biết tất cả cảnh 150 giới ở thế gian.

Sau đây giải thích trong Trí ngại:

“Vì tất cả pháp thường tĩnh không có tướng khởi” là nêu pháp tánh bị vô minh mê mờ.

“Vô minh bất giác vọng trái với pháp” chính là nói lên vô minh trái với pháp tánh ở trước. Vì chẳng rõ tịch tĩnh như pháp vọng có khởi diệt, nên trái với pháp.

“Không thể được” cho đến “Các thứ hiểu biết” là do bên trong quên chân lý, ngoài thức thấy trần ở nơi cảnh như lượng, không thể thuận theo các thứ hiểu biết. Đây chính giải thích nghĩa chướng như lượng trí. Từ trên đến đây là giải thích nhân duyên sinh diệt đã xong.

Chi III. Giải thích Tướng sinh diệt:

Từ đây trở xuống.

Có ba:

A1. Nêu số khởi hỏi.

A2. Kể tên lược trình bày.

A3. Giải thích rộng tướng kia.

A1. Nêu số khởi hỏi:

Lại nữa, tướng phân biệt sinh diệt có hai thứ, hai thứ ấy là:

A2. Kể tên lược trình bày:

1. Thô tương ưng với tâm. “Thô tương ưng với tâm”, là ba nhiễm trước trong sáu nhiễm, là tướng thô hiển của tâm tương ưng, trong kinh nói là tướng sinh diệt.

2. Tế bất tương ưng với tâm. “Tế bất tương ưng với tâm”, tức ba nhiễm sau là tâm bất tương ưng.

Vì không có tướng tâm, tâm pháp thô hiển, thể kia sâu kín thường trôi chảy không dứt. Trong kinh nói là lưu chú sinh diệt. Ở đây nương kinh Lăng-già bốn quyển, còn trong loại mười quyển nói: “Thức có hai thứ diệt: Một là tướng diệt, hai là tương tục diệt” Sinh trụ cũng giống như thế. Trong kinh đặt tên không hiển bày tướng riêng. Nên nay Luận Chủ đứng về mặt nghĩa tương ưng và bất tương ưng hiển bày hai thứ tướng sinh diệt của tâm thô tế.

A3. Giải thích:

Có hai:

B1. Theo nhân mà đối hiện.

B2.Nói về chỗ sở y của tướng.

B1. Theo nhân mà đối hiện, là đối ba địa vị của (người):

Lại thô trong thô là cảnh giới phàm phu.

Ba tâm nhiễm trước đều gọi là thô, trong đó ban đầu là chấp tương ưng nhiễm lại càng thô, nên nói thô trong thô. Địa vị Ba hiền gọi là nội phàm, hay giác nhiễm này nên nói cảnh giới phàm phu.

Tế trong thô và thô trong tế là cảnh giới Bồ-tát.

Lại trong ba thô trước, hai thô sau là bất đoạn tương ưng nhiễm và phân biệt trí tương ưng nhiễm, là trong tâm thô có chút tế, nên nói tế trong thô. Thô trong tế là ba tâm nhiễm sau đều gọi là Tế. Trong đó, hai tế trước là năng kiến năng hiện, đồng là bất tương ưng gọi là Tế. So với nghiệp thức căn bản sau lại gọi là thô. Đây là cảnh trong địa vị Bồ-tát, bậc Thập trụ trở xuống biết được.

Tế trong tế là cảnh giới Phật.

Tế trong tế là căn bản nghiệp bất tương ưng nhiễm, năng sở chưa phân, hình tướng rất tế, chỉ Phật mới biết được.

B2. Nói về chỗ sở y của tướng: Từ đây trở xuống.

Có hai:

C1. Nói về chỗ duyên theo lối thuận.

C2. Nói về nghĩa diệt nghịch.

C1. Nói sinh duyên theo lối thuận:

Có hai:

D1. Nói về duyên chung.

D2. Trình bày nhân riêng.

D1. Nói về duyên chung:

Hai thứ sinh diệt này nương vô minh huân tập mà có. Nghĩa là nương nhân, nương duyên. Nương nhân là nghĩa bất giác, nương duyên là nghĩa vọng tạo cảnh giới. Hai thức thô tế đều nương vô minh trụ địa mà khởi, vì căn bản vô minh động khởi ba tế, nương ba tế này chuyển khởi tâm thô, do vô minh làm gốc chung, nên nói nương vô minh huân tập mà có.

D2. Trình bày nhân riêng:

Nương vô minh nhân sinh ba tế tâm bất tương ưng. Nương cảnh giới duyên sinh ba thô tâm tương ưng, nên nói nương nhân cho đến nghĩa vọng tạo cảnh giới. Trong đây văn ít, nếu nói đủ thì mỗi thứ có hai nhân. Như kinh Lăng-già nói: “Này Đại Tuệ! Bát tư nghì huân và bất tư nghì biến là nhân hiện thức. Chấp các thứ trần và huân vọng tưởng từ vô thỉ là nhân của thức phân biệt sự”.

Giải: “Bất tư nghì huân”, nghĩa là vô minh có công năng huân chân như, chỗ không thể huân mà huân được, nên nói bất tư nghì huân. Lại 152 huân tức chẳng huân, chẳng huân mà huân, gọi là bất tư nghì huân.

“Bất tư nghì biến”, nghĩa là tâm chân như bị vô minh huân, không thể biến khác mà biến khác, nên nói bất tư nghì biến. Lại biến tức bất biến, bất biến mà biến, gọi là bất tư nghì biến. Trong Kinh Thắng-man nói: “Không nhiễm mà nhiễm, nhiễm mà không nhiễm” khó có thể rõ biết không thể nghĩ bàn này. Nhưng, huân biến này rất sâu kín, nên ẩn hiện thức bị khởi hành tướng rất sâu kín, trong đó cũng có chuyển thức nghiệp thức. Nêu thô gồm tế, nên chỉ gọi hiện thức tức là tâm bất tương ưng này. Chấp các thứ trần tức các thứ cảnh giới do hiện thức hiện, lại hay động biển tâm kia khởi các sóng sự thức.

“Huân vọng tưởng từ vô thỉ” tức trong biển tâm hòa hợp kia, vọng niệm tập khí từ vô thỉ đến nay huân tập chẳng dứt. Vì chưa từng lìa niệm, trần và niệm này huân động biển tâm các thứ thức sinh, do vọng niệm và trần thô nên hiển bày. Chỗ khởi phân biệt sự thức hình tướng thô hiển bày thành tâm tương ưng. Trong kinh muốn nói về hiện thức nương bất tư nghì huân nên được sinh, nương bất tư nghị biến nên đuợc trụ. Sự thức nương cảnh giới mà được sinh, nương biển tâm mà được trụ. Nay trong luận này chỉ nói duyên sinh, nên chẳng nói nương nơi Trụ. Cho nên trong tế chỉ nói vô minh huân, trong thô chỉ nêu cảnh giới duyên.

C2. Nói về nghĩa diệt nghịch:

Có hai:

D1. Chính nói.

D2. Giải thích nghi.

D1. Chính nói. Có hai:

Nếu nhân diệt thì duyên diệt.

Nói về diệt chung: nghĩa là khi được đối trị thì vô minh diệt, do cảnh giới vô minh khởi hiện thức cũng theo đó diệt, nên nói nhân diệt thì duyên diệt.

Nhân diệt nên tâm bất tương ưng diệt, duyên diệt nên tâm tương ưng diệt.

Trình bày riêng về diệt: Trước nói nhân diệt, vì tâm tế đích thân nương ngay nhân vô minh mà sinh, khi vô minh diệt cũng diệt theo. Sau nói duyên diệt, vì ba thô nhiễm đích thân nương ngay duyên sinh mà sinh, khi cảnh giới diệt cũng diệt theo.

Đây nương đạo lý trước sau khởi tận để nói hai thứ nghĩa sinh diệt, chẳng phải nói theo nghĩa sát na sinh diệt.

D2. Giải thích nghi: Có hỏi và đáp.

Hỏi: Nếu tâm diệt làm sao nối tiếp, nếu nối tiếp làm sao nói rốt ráo diet?

Nói: “Nếu tâm diệt làm sao nối tiếp”, hoặc “Nếu khi cảnh giới diệt thì tâm thể cũng diệt” là vô minh ba tế chưa hết. Tâm thể đã mất lại nương pháp gì mà được nối tiếp? Đây là tương ưng với tâm nghi.

“Nếu nối tiếp làm sao rốt ráo diệt”, hoặc “Nếu vì tâm thể chẳng diệt khiến vô minh được nối tiếp” là tâm thể kia đã chẳng diệt, vô minh thì thường nối tiếp, làm sao đạo đối trị được rốt ráo diệt? Đây là bất tương ưng với tâm nghi.

Đáp: Sẽ đáp cả hai câu này, gồm có: Pháp, Dụ và Hợp. Trong phần pháp là nói chung, trong phần dụ, hợp là nói riêng.

Pháp: Đáp: Nói diệt là chỉ cho tâm tướng diệt, chẳng phải tâm thể diệt.

Nói “Chỉ tâm tướng diệt, chẳng phải tâm thể diệt”, là khi cảnh giới diệt chỉ tướng tâm thô diệt, chẳng phải tự thể tâm diệt. Lại khi vô minh diệt chỉ tướng tế của tâm diệt, cũng chẳng phải tâm thể diệt. Đây là đáp chung hai câu hỏi, trong phần dụ trình bày riêng hai câu này.

Dụ: Như gió nương nước mà có tướng động, nếu nước diệt thì tướng gió dứt sẽ không có chỗ để nương, vì nước chẳng diệt tướng gió nối tiếp, nhưng gió diệt nên tướng động diệt theo, chẳng phải nước diệt.

Như gió nương nước mà động là dụ cho gió vô minh nương tâm thể nên có tướng động. Ở đây chỉ bày vô minh lìa tâm thể, chẳng thể tự hiện tướng động.

“Nếu nước diệt” cho đến “Không có chỗ nương” là chỉ bày khi cảnh giới diệt, khiến tâm thể cùng diệt, thì gió vô minh không có chỗ động, các nghiệp ba tế sẽ phải dứt mất.

“Vì nước không diệt tướng gió nối tiếp” là vì khi cảnh giới diệt nhưng tâm thể chẳng diệt. Vô minh ba đời được nối tiếp lâu dài. Bởi vô minh diệt nên cảnh giới diệt, chẳng phải do cảnh giới diệt nên vô minh diệt. Do đó nghĩa này khi cảnh giới diệt vô minh tâm động, ba đời nối tiếp. Đây đáp câu hỏi đầu về nghĩa tâm tương ưng diệt.

“Nhưng gió diệt” cho đến “Chẳng phải nước diệt” là khi vô minh tận tướng động các nghiệp cũng diệt theo, chẳng phải thể của tâm tịnh cũng diệt. Ở đây đáp câu hỏi sau về nghĩa tâm bất tương ưng diệt.

Hợp: Thứ lớp hợp hai thứ tâm trước.

Vô minh cũng giống như vậy, nương tâm thể mà động. Nếu tâm thể diệt thì chúng sinh dứt bặt không có chỗ nương, do tâm thể bất diệt được nối tiếp, chỉ có Si diệt thì tướng tâm diệt theo, chẳng phải tâm trí diệt.

“Chẳng phải tâm trí diệt” là văn trên đối với bất giác nên gọi là giác, vì một thức có hai nghĩa. Nay để đối trị Si nên gọi là trí thì nhất tâm có thể và tướng. Tướng Si bất giác chuyển diệt thành Thỉ giác, trí thể Bản giác chẳng diệt, cùng trở về nguồn chẳng hai chẳng khác.

Từ trên đến đây giải thích tướng nhân duyên sinh diệt nhiễm tịnh đã xong.

Tiểu phần II. Nói về nhiễm tịnh nương nhau:

Từ đây trở xuống nói về nhiễm tịnh huân nhau sinh nhau chẳng dứt, tức hiển bày nghĩa sinh ra tất cả pháp trong phần chung ở trên:

Có bốn:

Chi I. Nêu số, nêu chung.

Chi II. Kể tên pháp nhiễm, tịnh.

Chi III. Giải thích rộng nghĩa nhiễm, tịnh huân tập.

Chi IV. Nói về nghĩa nhiễm, tịnh tâm không cùng tận.

Chi I. Nêu số, nêu chung:

Lại nữa, có bốn thứ nghĩa huân tập pháp nhiễm, pháp tịnh khởi chẳng dứt mất.

Vì pháp nhiễm tịnh nương nhau mà khởi chẳng dứt.

Chi II. Kể tên pháp nhiễm tịnh:

Bốn pháp ấy là:.

  1. Pháp tịnh gọi là chân như.
  2. Tất cả nhân nhiễm gọi là vô minh.
  3. Tâm vọng gọi là nghiệp thức.
  4. Cảnh giới vọng, gọi là sáu trần.

Pháp tịnh gọi là chân như đây là chân như trong môn Sinh diệt, vì có ba nghĩa nên nói là pháp tịnh:

1. Đứng về mặt thể xưa nay tịnh.

2. Đứng về mặt thể tướng, do bên trong huân tập khiến ngược nhiễm thành tịnh ban đầu. Nhiếp Luận dịch vào đời Lương chép: “Năng thành lập là pháp chân như có mười thứ công đức, sở thành lập là mười thứ chánh định mới sinh”.

3. Đứng về mặt dụng huân tập nên ứng cơ thành duyên tịnh.

Nhân nhiễm gọi là vô minh: là sáu thứ nhiễm và chín tướng đều do vô minh mà có.

Tâm vọng thông sự thức và nghiệp thức nay y cứ vào cội gốc nên chỉ nói nghiệp thức.

Vọng cảnh là sáu trần là chỗ cảnh do sự thức duyên.

Ba loại sau này đều là pháp nhiễm, vì pháp nhiễm này tự tánh khác nhau, nhờ vào nhân duyên nên nói đủ ba thứ. Pháp tịnh đối với nhiễm tuy thành nghĩa huân, nhưng thể dụng kia không hề riêng khác, nên nói rõ một thứ.

Chi III. Giải thích rộng nghĩa nhiễm tịnh:

Có hai:

Tiết 1. Chung.

Tiết 2. Riêng.

Tiết 1. Chung:

Có hai: – Dụ. – Hợp.

Nghĩa huân tập: như y phục thế gian thật sự không có mùi thơm. Nếu người dùng hương xông ướp thì có mùi thơm, ở đây cũng như thế, pháp tịnh chân như thật không ô nhiễm, chỉ vì vô minh huân tập nên có tướng nhiễm, pháp nhiễm vô minh thật không có nghiệp tịnh, chỉ do chân như huân tập mà có dụng tịnh.

Hợp, có hai:

1. Nghĩa là nhiễm huân tịnh: “Nói huân nên có tướng nhiễm” là hiển bày chân vô tướng theo huân tập mà hiện tướng. Lại nói pháp vọng không có tự thể, nên chỉ nói tướng. Lại ngay nơi tướng tự không có dụng ngược dòng, nên nói tướng chẳng nói dụng. Đây là nói theo dòng trong môn sinh diệt. Giải thích này trong kinh, Như Lai tạng bị tập khí xấu huân xông.

2. “Có dụng tịnh” đây là Bản giác chân như trong môn Sinh diệt, nên có nghĩa huân. Trong môn chân như thì không có nghĩa này. Vì Bản giác này bên trong huân bất giác khiến thành nhàm chán và ưa cầu. Ngược dòng thuận chân nên nói Dụng. Giải thích này trong kinh, là do có Như Lai tạng nên chán khổ sinh tử, ưa cầu Niết-bàn. Kinh Niết-bàn nói: “Hạng xiển-đề nhờ có năng lực Phật tánh, đời vị lai trở lại sinh gốc lành”. Kia nói năng lực Phật tánh tức năng lực huân tập bên trong của Bản giác này”. Bởi do một thức bao gồm hai nghĩa, lại huân biến lẫn nhau mà sinh nhiễm, tịnh. Trong đây Phật là giác, tánh là bổn, nên gọi Phật tánh là Bản giác.

Tiết 2. Giải thích Riêng: Từ đây trở xuống, v.v… Có hai:

A1. Nhiễm.

A2. Tịnh.

A1. Nhiễm:

Có hai:

B1. Lược.

B2. Rộng.

B1. Lược:

Thế nào là huân tập khởi pháp nhiễm chẳng dứt.

Nói chung về huân tập có hai thứ: Tập huân là huân xông tâm thể thành nhiễm, tịnh. Tự huân là tâm cảnh hiện hành và các hoặc giúp nhau.

Nghĩa là vì nương pháp chân như nên có vô minh, vì có nhân pháp nhiễm vô minh tức huân tập chân như, vì huân tập nên có vọng tâm, có vọng tâm tức huân tập vô minh. Vì chẳng rõ pháp chân như nên bất giác niệm khởi, hiện cảnh giới vọng. Vì có duyên pháp nhiễm cảnh giới vọng tức huân tập vọng tâm, khiến niệm kia mê đắm gây ra các thứ nghiệp, chịu tất cả khổ của thân tâm.

Ban đầu nói “Nương chân như có vô minh” là nêu pháp năng huân và pháp thể sở huân. Lại cũng có thể trong đây chỉ nêu năng huân vô minh, nhưng nương chân là theo gốc mà nêu. “Vì có vô minh” cho đến “huân chân như” là nghĩa căn bản vô minh huân tập.

“Vì huân tập nên có vọng tâm” là nương vô minh huân động chân như có tâm nghiệp thức, vì vọng tâm này lại giúp huân vô minh làm thêm lớn cái không rõ, khiến chuyển thành chuyển thức và hiện thức, nên nói bất giác niệm khởi hiện cảnh giới vọng. Cảnh giới này trở lại huân động biển tâm khởi các sóng thức, duyên niệm cảnh kia tức khởi sự thức.

Trong sáu thô ở trên, hai thô đầu gọi là niệm; hai thô giữa gọi là mê đắm; hai thô sau tên cũng đồng như ở đây. Nghĩa là nương hoặc tạo nghiệp, nương nghiệp chịu quả báo khổ.

B2. Giải thích Rộng:

Từ đây trở xuống là nói ba thứ trước, từ sau hướng về trước thứ lớp nói:

Trước nói về Cảnh giới huân động vọng tâm:

Nghĩa cảnh giới vọng huân tập này có hai thứ, hai thứ đó là:

1. Thêm lớn niệm huân tập. – 2. Thêm lớn chấp huân tập.

“Thêm lớn niệm” là do năng lực cảnh giới làm thêm lớn trí tướng, tương tục tướng trong sự thức là pháp chấp niệm phân biệt.

“Thêm lớn chấp” là thêm lớn chấp thủ tướng, kế danh tự tướng trong sự thức, là nhân, ngã, ái kiến phiền não.

Kế nói Nghĩa vọng tâm huân tập có hai thứ, thế nào là hai?

1. Nghiệp thức căn bản huân tập hay thọ sinh diệt khổ của tất cả Bồ-tát, A-la-hán, Bích-chi-phật.

2. Thêm lớn phân biệt sự thức huân tập, thọ khổ nghiệp hệ của phàm phu.

Trong phần Vọng tâm huân tập:

“Nghiệp thức căn bản huân tập”: vì nghiệp thức này giúp huân xông trụ địa vô minh, mê mờ vô tướng, sinh khởi chuyển tướng, hiện tướng, v.v… nối tiếp, khiến người Ba thừa tuy ra khỏi ba cõi, xa lìa phần khổ đoạn thô của sự thức, mà vẫn chịu hành khổ biến dịch của A-lại-da. Nhưng khổ tế có từ vô thỉ đến nay. Chỉ vì chọn lựa tế khác tho, nói về mặt khi đã lìa khổ thô chỗ tướng hiển bày.

“Sự thức huân tập” là do sự thức lúc giúp huân khởi vô minh, khởi kiến ái, thô hoặc phát động nơi thân miệng, tạo các thứ nghiệp, chịu khổ phần đoạn của phàm phu.

Nghĩa vô minh huân tập có hai thứ,hai thứ đó là:

1. Căn bản huân tập, vì thành tựu nghĩa nghiệp thức.

2. Chỗ khởi kiến ái huân tập: vì thành tựu nghĩa thức phân biệt sự.

Trong phần vô minh huân tập:

“Căn bản huân tập” là căn bản bất giác huân động chân như thành các thức nghiệp, v.v… Nhưng nay chỉ nêu ban đầu nên nói nghiệp thức. “Chỗ khởi kiến ái huân tập” là bất giác chi mạt huân tập tâm thể thành thức phân biệt sự.

Văn trên nói: “Thức này nương nghĩa ái kiến phiền não thêm lớn, vì ngọn theo gốc sinh nên nói chỗ khởi”. Trong kinh Thắng-man nói:

“Vô minh trụ địa sinh khởi tất cả bốn trụ phiền não”.

A2. Nói về Tịnh huân tập:

Có hai:

B1. Hỏi.

B2. Đáp.

B2..

Đáp: Có hai:

C1. Lược.

C2. Rộng.

C1. Lược:

Có hai:

D1. Chính nói về huân tập.

D2. Nói về công năng kia. “Tự tin tánh mình” trở xuống,

Làm sao huân tập khởi pháp tịnh chẳng dứt? Vì có pháp chân như nên huân tập vô minh, nhờ năng lực nhân duyên huân tập sẽ khiến vọng tâm chán khổ sinh tử, ưa cầu Niết-bàn. Vì vọng tâm này có nhân duyên nhàm chán và ưa cầu tức là huân tập chân như.

D1. Chính nói về nhân duyên huân tập:

Trước nói về chân như bên trong huân vô minh khiến thành nghiệp tịnh. Sau ngay dụng tịnh này ngược lại huân tập chân như, tăng thêm thế lực kia.Trước là huân cũ, sau là huân mới, y theo văn sẽ thấy.

D2. Nói về công năng nhân quả:

Chia làm hai:

E1. Nhân.

E2. Quả.

Tự tin tánh mình biết tâm vọng động không cảnh giới ở trước, tu pháp xa lìa. Do như thật biết không cảnh giới ở trước, nên các thứ phương tiện khởi hạnh thuận theo chẳng chấp, chẳng niệm, cho đến năng lực huân tập lâu xa.

E1. Nhân:

“Tự tin tánh mình” là tin ở địa vị Thập tín.

“Biết tâm vọng động” trở xuống, là tu ở địa vị Ba hiền.

“Biết tâm vọng động không cảnh giới ở trước” là giải thích.

“Tu pháp xa lìa” là nương vào giải thành tựu hạnh. Nghĩa là quán tầm tư, v.v… Hạnh là chỉ có thức, không có các trần, v.v…

“Vì như thật biết không có cảnh” là bậc Sơ địa kiến đạo chứng lý duy thức. Vì khác tỷ quán ở trước, nên nói như thật biết.

“Các thứ” trở xuống, v.v… cho đến “Huân tập lâu xa” là nói trong địa vị Thập địa tu đạo, rộng tu muôn hạnh, khéo hiển bày chân như.

“Chẳng chấp” là sở thủ vô tướng.

“Chẳng niệm” là năng niệm chẳng sinh.

“Lâu xa” là ba a-tăng-kỳ huân xông.

E2. Quả: Từ đây trở xuống là nói rõ.

Có hai:

G1. Dứt hoặc.

G2. Chứng lý.

Vô minh sẽ diệt, vì vô minh diệt nên tâm không khởi, vì không khởi nên cảnh giới diệt theo. Do nhân duyên đều diệt nên tâm tướng đều hết, gọi là được Niết-bàn, thành tựu nghiệp tự nhiên.

G1. Dứt hoặc:

“Vô minh diệt” là vô minh căn bản dứt.

“Vì vô minh diệt, tâm không khởi” là vọng tâm dứt.

“Vì không khởi cảnh giới diệt” là cảnh vọng diệt.

Tức ngược lại ba thứ pháp nhiễm ở trước.

G2. Chứng lý:

“Do nhân duyên” trở xuống cho đến “Nghiệp tự nhiên” là nói về đức chứng pháp.

Nhân: Nghĩa là vô minh.

Duyên: Nghĩa là vọng cảnh.

Tâm tướng: Nghĩa là tâm nhiễm.

Đây đều dứt nên tâm thể chuyển y gọi là được Niết-bàn. Khỡi nghiệp dụng không thể nghĩ bàn gọi là nghiệp tự nhiên.

C2. Rộng. Từ đây trở xuống:

Có hai:

D1. Nói về vọng tâm huân tập.

D2. Nói về chân như huân tập.

D1. Vọng tâm huân tập là nêu và giải thích:

Nêu:

Nghĩa vọng tâm huân tập có hai thứ, hai thứ ấy là:

1. Thức phân biệt sự huân tập: nương theo phàm phu, nhị thừa chán khổ sinh tử, tùy theo năng lực mà dần dần thú hướng về đạo Vô thượng.

Giải thích:

“Thức phân biệt sự” là ý thức ở trên, vì thức này không biết các trần chỉ là thức, chấp ngoài tâm có cảnh giới thật. Phàm phu, Nhị thừa tuy có phát tâm thú hướng giải thoát, vẫn còn chấp có sinh tử để chán, có Niết-bàn để ưa, không rõ lý duy tâm. Nhưng nhờ năng lực tác ý này lâu sau được trở lại Bồ-đề, nên nói thức phân biệt sự huân tập, cho đến dần dần hướng về đạo vô thượng.

2. Ý huân tập: Nghĩa là các Bồ-tát phát tâm mạnh mẽ, mau chứng Niết-bàn.

“Ý huân tập” nếu nói về mặt gốc thì, gọi là nghiệp thức. Nói chung tức năm thứ ý trước. Vì các Bồ-tát biết tất cả pháp chỉ là thức lượng, xả bỏ ngoài chấp thức phân biệt sự kia. Đã rõ duy tâm hướng lý mau chóng, khác với tiệm ngộ ở trước, cho nên nói, chóng hướng về Niết-bàn.

Hỏi: Trong đây vọng tâm đã huân tập chân như khởi hạnh ngược dòng, ý huân đã thuộc A-lại-da, vì sao mỗi hạng có thể tự phát tâm tu 10 hành?

Đáp: Trước nói phàm phu, Nhị thừa không biết A-lại-da, chỉ nương thức phân biệt sự giúp sức giữ gìn mà phát tâm tu hành. Do không đạt được cội gốc hướng về đại Bồ-đề, vả lại còn xa nên nói chậm. Bồ-tát này đã rõ A-lại-da bổn thức, tức nương thức này giúp sức giữ gìn mới được phát tâm tu hành. Vì rõ được gốc hướng về đại Bồ-đề, thân mà lại gần nên nói là mau. Đây đứng về chỗ giúp nương nhau mà nói về huân tập.

“Chẳng phải mỗi mỗi tự phát tâm” đây như trong văn sau trong phần chứng phát tâm nói.

D2. Chân như huân tập:

Có ba:

E1. Nêu số.

E2. Kể tên, là bên trong huân, bên ngoài duyên.

E3. Nói về tướng.

Có hai:

G1. Giải thích riêng.

G2. Nói chung.

G1. Giải thích riêng:

Có hai:

H1. Thể tướng.

H2. Dụng đại.

H1. Thể tướng:

Có hai:

I1. Chính hiển bày.

I2. Dứt nghi ngờ.

I 1. Chính hiển bày: Trước nói về huân tập:

Nghĩa chân như huân tập, có hai thứ, hai thứ ấy là:

1. Tự thể tướng huân tập. – 2. Dụng huân tập.

Tự thể tướng huân tập là từ vô thỉ đến nay có đủ pháp vô lậu, có đủ không thể nghĩ bàn nghiệp, tạo tánh cảnh giới, nương hai nghĩa này thường được huân tập. Do có năng lực nên khiến cho chúng sinh chán khổ sinh tử, ưa cầu Niết-bàn, tự tin thân mình có pháp chân như phát tâm tu hành.

Nói “Từ vô thỉ” đền “không thể nghĩ bàn” là Bản giác bất không, gọi là pháp vô lậu. Pháp này thầm huân chúng sinh, chúng sinh chẳng thể rõ, nên nói không thể nghĩ bàn. Trong đây nghiệp là tác dụng ngầm huân xông.

“Tạo tánh cảnh giới” là nói chẳng phải trực tiếp huân vọng tâm kia, khiến chúng sinh chán cầu thành trí năng quán, cũng chính là cùng trí quán tạo cảnh giới sở quán.

“Do hai pháp này” trở xuống, là trình bày công năng huân tập, nghĩa là hai pháp tâm cảnh này cũng có thể là hai pháp thể tướng này, thầm huân xông chúng sinh có năng lực khiến khởi hạnh chán cầu.

“Tự tin…” là nói nương huân tập khởi tướng tu hành.

I 2. Dứt nghi:

Có hai: Hỏi – Đáp.

Hỏi: Nếu nghĩa như thế, tất cả chúng sinh đều có chân như, đều có huân tập. Vì sao vô lượng sai biệt như có tin, không tin, trước sau đều nêu, một lúc tự biết có pháp chân như, siêng tu phương tiện nhập Niết-bàn?

– Đứng về mặt hiện tại tin tâm có không.

– Đứng về mặt vị lai tin tâm, trước sau bên trong huân xông đã như nhau, đâu được như thế?

“Đều nêu một lúc” trở xuống: là tổng kết thành câu hỏi, đây là chấp nghi riêng, hỏi chung.

Đáp. Có hai:

Đáp: Chân như vốn một mà có vô lượng vô biên vô minh. Từ xưa đến nay tự tánh khác nhau, dày mõng khác nhau, trải qua hằng sa các phiền não ở trên, nương vô minh khởi sai biệt. Ngã kiến, ái kiến, phiền não nương vào vô minh mà khởi ra tất cả phiền não sai biệt. Nương vô minh mà khởi như thế trước sau vô lượng sai biệt, chỉ có Như Lai mới biết được.

Một câu đầu chung cho thể, nói rõ bên trong huân chẳng phải không. Văn này có hai:

– Đứng về mặt nhiễm hoặc, đối duyên khởi có dày mỏng.

– Đứng về mặt pháp tịnh, nhờ duyên trước sau có khác nhau.

Trong phần trước nói: “Có vô lượng” cho đến “Chẳng đồng” là căn bản vô minh trụ địa, xưa nay tự tánh khác nhau theo người mà nghiệp có dày mõng. Dày thì chẳng tin, mõng thì có tin. Trước sau cũng như thế, chẳng phải bên trong huân khiến như vậy.

“Trải qua hằng sa các phiền não trên, nương vô minh mà khởi khác nhau”, là theo mê vô minh khởi các pháp môn do đối với sự không biết. Trong sở tri chướng là thuộc về phần thô.

“Ngã kiến ái nhiễm phiền não” là tướng trụ vô minh khởi phiền não, thuộc về phiền não chướng.

“Như thế” trở xuống là kết luận hai thứ phiền não ở trước, đều nương căn bản vô minh mà khởi. Do nghĩa này trước sau chẳng phải một, như thế tánh mê lầm khác nhau vô lượng trước sau khó biết. Cho nên chỉ Phật mới rõ được.

Sau đây nói về Pháp tịnh, theo duyên nên có trước sau.

Lại, pháp chư Phật có nhân có duyên, nhân duyên đầy đủ mới được thành tựu.

Nếu chỉ có nội nhân không nhờ duyên ngoại thì thật đáng trách. Nhưng, nay nhờ dụng huân bên ngoài và chánh nhân bên trong mới được thành tựu, cho đến trước sau không thể cùng lúc. Vì thế trên khai mở hai thứ huân tập, chẳng nói là một.

Trong đây có: Pháp, Dụ và Hợp.

Pháp: Chỉ nói rõ nhân duyên đầy đủ mà thành tựu “Được”, lược đều đầy đủ về “Mất”.

Dụ: Nghiêng về một bên nói chẳng đầy đủ “mất”, lược không đầy đủ duyên “được”.

Trong phần Hợp nói cả hai nghĩa pháp, dụ, rất dễ hiểu.

Như tánh lửa trong cây, lửa là chánh nhân. Nếu không ai biết, chẳng nhờ cách thức mà lửa ấy tự đốt cây, thì không việc đó. Chúng sinh cũng giống như vậy, tuy có năng lực chánh nhân huân tập, nhưng nếu không gặp chư Phật, Bồ-tát, thiện tri thức để làm duyên, mà tự dứt phiền não, nhập Niết-bàn thì không có việc đó. Nếu có năng lực ngoại duyên mà bên trong pháp tịnh không có sức huân tập, cũng không thể rốt ráo chán khổ sinh tử, ưa cầu Niết-bàn.

Hợp: Là hợp chúng sinh và cây, chánh nhân hợp với tánh lửa, nếu không gặp chư Phật, Bồ-tát là hợp không có ai biết.

“Hay tự dứt” trở xuống là hợp với tự đốt, không có việc đó. Đây là nói lên thiếu duyên nên mất.

“Nếu tuy có” trở xuống là nói thiếu nhân thì chẳng thành là dòng vô minh dày nặng. Tuy Bản giác huân bên trong nhưng chưa có năng lực, nên tuy gặp năng lực ngoại duyên của bạn lành cũng không thể giúp cho được đạo, đây là nói về nhân duyên thiếu qua lại lẫn nhau nên mất.

“Nếu nhân duyên đầy đủ” trở xuống là nói tánh dụng tương ưng nên được, có hai:

– Nói duyên đầy đủ.

– “Hay khởi” trở xuống, v.v… là nói lợi ích huân tập.

Nếu nhân duyên đầy đủ, là tự có năng lực huân tập, lại được chư

Phật, Bồ-tát từ bi nguyện giúp.

Trong phần lợi ích, có hai:

– Trước nói về tự phần.

– “Vì tu gốc lành” trở xuống, là nói tinh tấn thù thắng.

Khởi tâm chán khổ, tin có Niết-bàn, tu tập gốc lành. Vì tu gốc lành thuần thục, nên gặp chư Phật, Bồ-tát chỉ dạy lợi ích vui mừng mới có thể hướng về con đường Niết-bàn.

Chỉ cho nghĩa dạy khiến thực hành, được nghĩa lợi ích thực hành thành vui mừng.

H2. Dụng đại: Theo dụng huân tập.

Có hai:

I 1. Nêu chung về sự.

I 2. Theo duyên hiển bày riêng. “Duyên ngoại như thế” v.v… trở xuống,

I 2. Theo duyên trình bày riêng:

Có ba: – Nêu, kể, giải thích.

Dụng huân tập tức là năng lực của duyên bên ngoài của chúng sinh, như thế duyên bên ngoài có vô lượng nghĩa. Lược nói hai thứ, hai thứ là:

1. Duyên khác nhau. 2. Duyên bình đẳng.

Nêu: Nói “Duyên khác nhau” là ở phàm phu, Tiểu thừa huân tập sự thức mà tạo duyên. Nghĩa là hiện thân khác nhau nên nói như vậy, cũng có thể khác nhau làm duyên với căn cơ bậc Hàng Tam hiền trở lên cho đến chư Phật hay tạo duyên này.

“Duyên bình đẳng” là chư Phật nghiệp thức huân tập mà tạo duyên, chỉ hiện thân Phật bình đẳng không hai nên nói như vậy. Cũng có thể làm duyên với căn cơ tâm bình đẳng bậc Sơ địa trở lên cho đến chư Phật phải nương trí lực đồng thể tạo ra duyên này.

Giải thích: Có hai:

K1. Duyên khác nhau.

K2. Duyên bình đẳng.

K1. Duyên khác nhau:

Có hai:

L1. Chung.

L2. Riêng.

L1. Chung:

Có hai:

M1. Nói về nhân cảm dụng.

M2. Nói về tướng dụng.“Hoặc làm quyến thuộc v.v…” trở xuống,

M1. Nhân cảm dụng:

Duyên khác nhau là người này nương chư Phật, Bồ-tát từ lúc mới phát tâm cầu đạo, cho đến được địa vị Phật, trong đó hoặc thấy, hoặc nhớ nghĩ.

“Người này”, là người có căn cơ muốn cầu đạo.

“chư Phật, Bồ-tát” là xuất phát thể của duyên bên ngoài.

“Từ mới phát tâm, v.v…” trở xuống là nói lúc có thể chiêu cảm căn cơ được duyên mà tu hành.

“Hoặc thấy hoặc nhớ nghĩ” là nói tâm hành giả cảm được dụng khí, nghĩa là thấy thân kia, nhớ nghĩ đến công đức kia.

M2. Tướng dụng:

Có hai:

– Nói về dụng khác nhau.

– Nói lợi ich của dụng, “do khởi đại bình đẳng” v.v… trở xuống,

Hoặc làm những người thân quyến thuộc như cha mẹ, hoặc làm tôi tớ, hoặc làm bạn lành, hoặc làm kẻ thù, hoặc khởi bốn thứ nhiếp.

Nói về dụng khác nhau:

Có hai:

– Năm câu đầu khai chung thành riêng.

– Nhiếp riêng thành chung, “cho đến”, v.v… trở xuống,Năm câu đầu khai chung thành riêng.

– Từ ái để nhiếp chúng sinh.

– Ở chỗ thấp hèn để dẫn dắt chúng sinh.

– Đồng loại để khuyến phát.

– Sợ hãi để vào đạo.

– Dùng ngay bốn pháp nhiếp khiến tu lợi ích.

Y theo văn rầt dễ hiểu.

Cho đến tất cả chỗ tạo tác vô lượng hạnh duyên, do khởi năng lực đại bình đẳng huân tập, khiến cho chúng sinh gốc lành thêm lớn, hoặc thấy hoặc nghe được lợi ích.

L2. Khai mở riêng:

Có hai:

– Đứng về mặt căn cơ thuần thục, chẳng thuần thục mà mở ra hai duyên gần xa.

– Đứng về mặt gần xa ở trước, lại mỗi việc chia ra làm hai, mỗi thứ có nêu và giải thích.

Duyên này có hai thứ, hai thứ ấy là:

1. Duyên gần mau được độ. 2. Duyên lâu xa mới được độ.

Cho nên, phân biệt hai duyên gần xa. Lại có hai thứ, hai thứ ấy là:

2. Duyên tăng trưởng hạnh. 2. Duyên thọ đạo.

“Tăng trưởng hạnh”, là hạnh phương tiện tức tự phần.

“Thọ đạo” là nương phương tiện trước, tương ưng chánh quán, tức thắng tấn. Cũng có thể ban đầu là thuộc về bốn pháp hạnh lợi tha, sau là hạnh tự lợi ba không.

K2. Duyên bình đẳng: – Nói về năng tạo duyên.

Duyên bình đẳng là tất cả chư Phật, Bồ-tát đều nguyện độ thoát tất cả chúng sinh, tự nhiên huân tập thường hằng không xa. Do đồng thể trí lực, tùy ứng thấy nghe mà tạo nghiệp.

Trong đó “nguyện độ sinh” là tâm bình đẳng.

“Tự nhiên” là thường dụng xứng với căn cơ.

“Do đồng thể trí lực” là giải thích thành thường dụng.

“Tùy ứng” là nói lên tướng dụng kia.

Nói rõ đối cơ, là nói lên nghĩa bình đẳng.

Nghĩa là chúng sinh nương vào Tam-muội mà được bình đẳng thấy chư Phật.

Nghĩa là các Bồ-tát hàng Thập Trụ trở đi, nương vào năng lực Tam-muội, tất cả thấy chư Phật thân lượng bình đẳng, không có tướng giới hạn kia đây, nên nói thấy bình đẳng.

Từ trên đến đây nói riêng về thể dụng đã xong.

G2. Đứng về người hợp mà giải thích thể dụng: Từ đây trở xuống, có hai: – Nêu và giải thích.

Thể dụng này huân tập phân biệt. Lại có hai thứ, hai thứ ấy là:

1. Chưa tương ưng là người phàm phu, Nhị thừa, Bồ-tát sơ phát tâm, v.v … Do ý, ý thức huân tập nương vào sức tin có thể tu hành.

Giải thích: Nói về chưa tương ưng.

Có ba:

– Đứng về địa vị mà nêu người.

– Nói về hạnh thấp kém.

– Nói về chưa tương ưng.

Trong hạnh ý thức phàm phu, Tiểu thừa huân tập, Bồ-tát dùng năm ý huân tập, đều chưa khế hợp với chân như, nên nói nương Tín tu hành.

Chưa được tâm vô phân biệt tương ưng với thể, cho nên chưa được nghiệp tự tại tu hành tương ưng với dụng.

Chưa tương ưng có hai:

– “Chưa được tâm vô phân biệt tương ưng với thể” là nói không có thể trí chân chánh, nên chưa tương ưng với thể Pháp thân.

– Sau do không chứng trí hậu đắc chân thật, nên chưa dụng ứng tương ưng với hoá thân.

2. Đã tương ưng, nghĩa là Bồ-tát Pháp thân được tâm vô phân biệt tương ưng với tự thể chư Phật, được nghiệp tự tại trí dụng tương ưng với của chư Phật. Chỉ nương pháp lực tự nhiên tu hành huân tập chân như, diệt trừ vô minh.

Đã tương ưng, cũng có ba:

– Nói lên địa vị người là Bồ-tát Địa thượng.

– Nói tương ưng được tâm vô phân biệt, nghĩa là như lý trí mà tương ưng với thể, tương ưng với trí dụng của chư Phật là do có trí như lượng nên được như thế.

– Nói về hạnh thù thắng kia, từ Sơ địa trở lên chứng pháp chân như mà tu hành, chẳng phải như địa vị trước, chỉ có tín lực nên nói “nương pháp lực”.

“Tự nhiên tu hành” là từ Bát địa trở lên tu hạnh vô công dụng.

“Huân chân như diệt vọng” là nói lên hạnh đã thành.

Phần biện rõ ràng pháp huân đã xong: từ trên đến đây riêng nói rõ, kế là giải thích. Trong phần nói chung nghĩa nhiễm, tịnh huân tập đến đây đã xong.

Chi IV. Nói về nghĩa tận và bất tận:

Từ đây trở xuống:

Có hai:

A1. Nói pháp nhiễm trái chân, không thỉ mà có chung.

A2. Nói về pháp tịnh thuận lý, có thỉ mà không chung.

A1. Nói về pháp nhiễm trái chân, không thỉ mà có chung:

Lại nữa, pháp nhiễm từ vô thỉ đến nay huân tập chẳng dứt, cho đến được thành Phật rồi sẽ có dứt.

A2. Nói về pháp tịnh thuận lý, có thỉ mà không chung:

Có hai:

B1. Chính thức hiển bày.

B2. Giải thích thành.

B1. Chính thức hiển bày:

Pháp tịnh huân tập thì không dứt hết ở đời vị lai, nghĩa này thế nào? Vì pháp chân như thường huân tập, nên vọng tâm diệt, Pháp thân hiển hiện khởi dụng huân tập nên không dứt.

B2. Giải thích thành:

Vì huân chân diệt vọng nên dụng tịnh vô tận, y theo văn rất dễ hiểu.

Từ trên đến đây giải thích pháp nghĩa năng hiển trong môn Sinh diệt đã xong.

Tiểu đoạn II. Giải thích Nghĩa đại sở hiển trong môn Sinh diệt: Từ đây trở xuống.

Có hai:

A1. Giải thích hai thứ đại là thể và tướng.

A2. Giải thích riêng dụng đại.

A1. Giải thích hai đại là thể và tướng:

Có hai:

B1. Nêu chung tên hai đại.

B2. Giải thích riêng nghĩa hai đại.

B2. Giải thích riêng nghĩa hai đại:

Có hai:

C1. Nói về nghĩa Thể đại. C2. Giải thích nghĩa Tướng đại

C1. Nói về nghĩa Thể đại:

Lại nữa, chân như tự thể tướng là tất cả phàm phu, Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát, chư Phật không thêm bớt, chẳng phải mé trước sinh, chẳng phải mé sau diệt, rốt ráo thường hằng.

Nghĩa là đứng về địa vị người tuy chia ra hơn kém, nhưng chân thể theo người không hề thêm bớt, nên nói không thêm bớt.

“Chẳng phải mé trước” cho đến “thường hằng” là nói lên nguyên do chẳng thêm bớt, chẳng phải mé trước sinh nên là thường, chẳng phải mé sau diệt nên hằng, địa vị phàm phu là mé trước, quả Phật là mé sau.

C2. Giải thích nghĩa Tướng đại: “Từ xưa” v.v… trở xuống.

Có hai:

D1. Nói về tánh đức.

D2. Hỏi đáp nói trở lại.

D1. Chính nói về tánh đức:

Có hai:

E1. Nói về tướng đức.

E2. Nói về đặt tên.

E1. Nói về tướng đức:

Có ba: – Chung, riêng, kết luận.

– Chung: Từ xưa đến nay tự tánh đầy đủ tất cả công đức.

– Riêng: Là sáu câu trong phần riêng.

Nghĩa là, tự thể có nghĩa trí tuệ rộng lớn sáng suốt, nghĩa cùng khắp pháp giới, nghĩa chân thật tức tri, nghĩa tự tánh thanh tịnh tâm, nghĩa thường lạc ngã tịnh, nghĩa mát mẻ, không thay đổi, tự tại.

– Nghĩa Bản giác trí minh.

– Nghĩa Bản giác chiếu rõ pháp giới.

– Nghĩa khi chiếu rõ không điên đảo.

– Nghĩa tánh lìa hoặc nhiễm.

– Nghĩa tánh đức tròn đủ.

– Nghĩa tánh đức không thay đổi.

Đầy đủ như thế trải qua hằng sa Phật pháp chẳng lìa, chẳng dứt, chẳng khác không thể nghĩ bàn. Cho đến nghĩa đầy đủ không có chỗ thiếu, nên gọi Như Lai tạng, cũng gọi là Pháp thân Như Lai.

– Kết luận: Nghĩa là tánh đức trần sa chẳng lìa chân thể, nên nói chẳng lìa. Vô thỉ nối tiếp nên nói chẳng dứt, cũng có thể nói trị đạo chẳng mất. Đồng vị với thể nên nói chẳng khác, chẳng khác mà có nghĩa Hằng sa nên nói không thể nghĩ bàn. Chỉ có Phật thông đạt tột cùng nên nói là Phật pháp, cũng có thể đây là pháp sở giác. Nếu chân thể này không có tánh đức, là Như Lai chứng tánh này lẽ ra không nên đủ đức. Đã chứng tánh rồi muôn đức đầy đủ, tức xét thấy chân như vốn đầy đủ Hằng sa đức, nên nói đầy đủ không có thiếu sót.

E2. Nói về đặt tên:

Sau đây đặt hai tên:

– Khi ẩn thì sinh ra Như Lai, gọi là Như Lai tạng.

– Khi hiển thì muôn đức nương đây, gọi là Pháp thân.

D2. Hỏi đáp nói lại:

Có hai:

  1. Hỏi về vấn về chấp thể, nghi về tướng.
  2. Đáp tướng không trái thể.

Hỏi: Ở trên nói thể chân như kia bình đẳng, lìa tất cả tướng, vì sao lại nói thể có các công đức như thế?

Đáp: Tuy thật có các nghĩa công đức này mà không có tướng khác nhau. Đồng một vị chỉ một chân như, lại do nghĩa này vì không phân biệt, lìa tướng phân biệt cho nên không hai.

Văn đáp có hai:

E1. Nói tuy khác nhau mà không hai.

E2. Nói tuy chẳng hai mà khác nhau. “lại do nghĩa này”v.v… trở xuống,

E1. Nói tuy khác nhau mà không hai:

Có hai:

– Nói thật đức tuy nhiều mà đồng một vị như.

– Giải thích thành chẳng hai.

Do vô phân biệt chẳng phải là năng phân biệt, lìa tướng phân biệt là chẳng phải sở phân biệt, kế đến không năng sở phân biệt nên không hai.

E2. Nói tuy chẳng hai mà khác nhau:

Có hai: G1. Lược G2. Rộng.

G1. Lược:

Lại do nghĩa nào mà được nói khác nhau. Do nương tướng sinh diệt của nghiệp thức mà chỉ bày.

Nghi: Khi đã chẳng hai, do đâu mà nói khác nhau?

Giải thích: Do nương thức tướng sinh diệt hằng sa pháp nhiễm, ngược lại đây tiêu biểu chỉ bày chân như tịnh đức hằng sa khác nhau.

Vả lại, nêu gốc nhiễm kia nên chỉ nói nghiệp thức.

G2. Rộng:

Có hai:

H1. Hỏi tướng đối nhiễm để chỉ bày.

H2. Nêu pháp nhiễm kia mỗi thứ đối đãi hiển bày.

H1. Hỏi tướng đối nhiễm để chỉ bày:

Vì sao chỉ bày? Vì tất cả pháp xưa nay duy tâm thật vô niệm, mà có vọng tâm bất giác khởi niệm thấy các cảnh giới, nên nói tâm tánh, vô minh chẳng khởi, tức nghĩa trí tuệ rộng lớn sáng suốt.

“Vì tất cả pháp” cho đến “Vô niệm” là nêu chỗ mê lý.

“Mà có vọng tâm, v.v…” là nương chân khởi vọng, nghĩa là tâm nhiễm thô tế, gốc ngọn bất giác.

H2. Nêu pháp nhiễm kia mỗi thứ đối đãi hiển bày:

Sắp giải thích tịnh, trước nêu nhiễm đối lại để hiển bày. Các câu sau đây kể ra rõ ràng.

Làm sao hiển bày? Là do tâm tướng khởi niệm, tức vô minh bất giác. Biết tâm tánh chẳng khởi tức Bản giác trí minh, nên nói nghĩa trí tuệ rộng lớn sáng suốt.

Nếu tâm khởi thấy thì có tướng chẳng thấy, tâm tánh lìa thấy tức

10 là nghĩa trùm khắp pháp giới.

“Nếu tâm khởi thấy, v.v…” là nói vọng kiến chẳng khắp.

“Nếu tánh lìa thấy, v.v…” là hiển bày chân chiếu tròn sáng.

Nếu tâm có động chẳng phải chân thức tri không có tự tánh.

“Nếu tâm có động chẳng phải chân thức tri” là nói vọng biết điên đảo, ngược lại là nói lên chân chiếu không điên đảo.

“Không có tự tánh” là nói rõ vọng nhiễm không tự thể. Ngược lại là nói lên tự tánh thanh tịnh tâm.

Chẳng thường, chẳng lạc, chẳng ngã, chẳng tịnh, nóng bức thay đổi thì không tự tại.

“Chẳng thường, v.v…” là nói bốn lỗi vọng. Ngược lại là hiển bày bốn đức chân như. Các mê lầm thiêu đốt tâm là rất nóng bức, nên nói chân như là mát mẻ.

“Vọng nhiễm thay đổi” là tướng suy biến, tức ngược lại nói lên chân như là bất biến. Vì nghiệp quả trói buộc không tự tại, tức nói lên chân như là tự tại, nên văn trên nói: “Nghĩa mát mẻ bất biến tự tại”.

Cho đến đầy đủ nghĩa vọng nhiễm nhiều hơn số cát sông, đối lại nghĩa này nên tâm tánh không động, thì có hà sa nghĩa tướng công đức các tịnh hiển bày.

“Cho đến đầy đủ, v.v…” là nêu chung rất nhiều vọng nhiễm, trái ngược với đây nên tâm tánh chẳng động, tức có đức tướng nhiều như cát sông.

Nếu tâm có khởi lại thấy pháp trước, có thể nhớ nghĩ thì có chỗ thiếu. Như thế pháp tịnh vô lượng công đức tức là nhất tâm, lại không có chỗ nhớ nghĩ nên đầy đủ, gọi là Pháp thân Như Lai tạng.

“Nếu tâm có khởi lại thấy pháp trước, v.v…” là ngoài tâm vọng nhớ tìm cầu chẳng đủ.

“Như thế pháp tịnh,v.v…” là nói tánh tịnh đức đầy đủ không nhờ tìm cầu bên ngoài.

Kết luận tên rất dễ hiểu.

A2. Dụng đại:

Văn có hai:

B1. Nói chung.

B2. Giải thích riêng. “Dụng này có hai” trở xuống,

B1. Nói chung:

Có hai:

C1. Đối quả để nêu nhân.

C2. Trình bày nhân để nói quả.

C1. Đối quả để nêu nhân:

Lại nữa, dụng chân như nghĩa là chư Phật, Như Lai vốn ở nhân địa, phát tâm đại từ bình đẳng, tu các Ba-la-mật nhiếp hóa chúng sinh.

“chư Phật, v.v…” cho đến “giáo hóa chúng sinh” là nêu chánh hạnh xưa.

Lập lại thệ nguyện tất cả muốn độ thoát cõi chúng sinh, không hạn cuộc kiếp số tận ở vị lai.

“Lập thệ nguyện rộng lớn” cho đến “tận vị lai” là nêu đại nguyện xưa.

Trong đây, ban đầu là tâm rộng lớn, kế là tâm lâu dài.

Vì cho tất cả chúng sinh như thân mình, mà cũng không giử tướng chúng sinh. Đây do nghĩa gì? Là như thật biết tất cả chúng sinh cùng thân mình là chân như bình đẳng không khác nhau.

“Vì cho tất cả, v.v…” cho đến “chân như bình đẳng”, là nêu đại phương tiện bi trí cũng chẳng phải tâm điên đảo. Trong đây cho chúng sinh như mình, nói lên lòng từ bi sâu xa, cũng giải thích lý do lâu dài ở trước mà được. Chẳng chấp tướng chúng sinh là nói về trí sâu xa.

“Đây là do nghĩa gì” là gạn bày nguyên do bi trí sâu xa ở trước, nghĩa là “Như thật biết” trở xuống, nương môn Chân như để đáp hiển bày sâu xa.

C2. Nói về trình bày nhân để hiển quả: “Vì có như thế”v.v… trở xuống.

Trong đó cũng có ba:

Vì có trí đại phương tiện như thế.

D1. Trình bày nhân trước.

Dứt trừ vô minh thấy bổn Pháp thân.

D2. Dứt vô minh thấy Pháp thân là quả tự lợi.

D3. Chính hiển bày tướng dụng tức quả lợi tha. “Tự nhiên” trở xuống.

Trong đây có ba câu:

Tự nhiên có các thứ nghiệp dụng không thể nghĩ bàn, tức cùng chân như khắp tất cả chỗ. Lại cũng không có tướng dụng để được. Vì sao? Nghĩa là chư Phật, Như Lai chỉ là thân trí tướng Pháp thân nghĩa đế đệ nhất, không có cảnh giới thế đế, lìa nơi tạo tác chỉ tùy theo sự thấy nghe của chúng sinh mà được lợi ích, nên nói là Dụng.

E1. Nói về dụng sâu xa, chẳng đợi tác ý. Như Nhiếp Luận nói: “Như trống trời như ý không suy nghĩ mà thành việc của mình”. “Tức cùng chân như khắp tất cả chỗ” là hiển bày dụng rộng lớn, vì dụng xứng với lý.

E2. Nói dụng mà thường tịch: “Lại cũng” v.v…trở xuống.

E3. “Vì sao?” là trách rằng: Phật có đủ ba thân, vì sao lại nói không có tướng dụng?

Giải thích: Nếu bỏ căn cơ chiêu cảm, Như Lai chỉ là diệu lý bổn trí, lại không có tướng ứng hoá thế đế sinh diệt, chỉ khởi dụng theo duyên, dụng tức là không dụng. Như sóng tức nước, nên dụng thường vắng lặng. Kinh Niết Bàn nói: “Thân này của ta tức là Pháp thân”. Nhiếp Luận dịch vào đời Lương chép: “chỉ riêng như như và trí như như còn, gọi là Pháp thân”.

“Nên nói chư Phật Như Lai” cho đến “Lìa nơi tạo tác”, tuy chân lý diệu trí xưa nay thường vắng lặng mà tùy căn cơ cảm ứng, dụng lợi ích vô biên, tức tịch mà thường dụng, nên nói “chỉ tùy theo chúng sinh” cho đến “là Dụng”.

B2. Giải thích riêng về dụng:

Có hai:

C1. Nêu.

C2. Giải thích.

C2. Giải thích:

Có hai:

D1. Hiển bày tướng dụng.

D2. Hỏi, đáp, giải thích nghi ngờ.

D1. Nói về tướng dụng:

Có hai:

E1. Trực tiếp nói lên dụng kia.

E2. Phân biệt lần nữa.

E1. Trực tiếp hiển bày:

Dụng này có hai thứ, hai thứ ấy là:

Có hai:

G1. Nói về ứng thân.

G2. Nói về Báo thân.

G1. Nói về Ứng thân:

Nương thức phân biệt sự tâm sở kiến của phàm phu, tiểu thừa gọi là ứng thân. Vì không biết chuyển thức hiện nên thấy từ ngoài đến, lấy một phần hạn của sắc mà không thể biết hết.

“Nương thức phân biệt sự” là phàm phu, Tiểu thừa chưa biết Duy thức, chấp có trần bên ngoài, tức nghĩa thức phân biệt sự. Nay thấy thân

Phật cũng cho là ngoài tâm, thuận theo phân biệt sự thức mà tính toán, nên nói nương thức phân biệt sự mà thấy. Cũng có thể người này chỉ biết sáu thức mà không biết thức thứ bảy và thức thứ tám, nên chỉ nói nương sự thức. nương thức thô này phân biệt thân Phật, chỉ thấy tướng thô ứng hoá mà không thấy tướng tế Báo thân, nên nói là ứng thân.

“Vì không biết chuyển thức hiện” cho đến “Không thể biết tận cùng” là giải thích lý do thấy thô, mê đối với duy tâm nên nói từ ngoài. Chẳng thông đạt tức sắc là tâm không có phần hạn, nên nói lấy một phần hạn của sắc, không thể biết tận cùng.

Hỏi: Vì sao thân Phật chỉ là thức của chúng sinh?.

Đáp: Chân tâm chúng sinh và thể của chư Phật bình đẳng không hai, chỉ vì chúng sinh mê chân tâm của mình mà khởi vọng niệm, lúc ấy chân như chỉ hiện tướng nhiễm mà không hiển bày dụng kia. Vì Bản giác kia bên trong huân vọng tâm nên có chán cầu, có chán cầu nên chân dụng liền hiện, chán cầu yếu thì tướng dụng sẽ thô, chán cầu dần dần thêm lớn thì dụng cũng dần dần tế. Như thế dần dần cho đến nguồn tâm, vô minh đã hết chán cầu cũng đều dứt, Thỉ giác đồng Bản giác, dụng trở về thể bình đẳng bình đẳng, chẳng hai chẳng khác. Chưa đến nguồn tâm, trở về trước dụng ở trong thức, theo căn hiển hiện, nên nói hiện trong thức.

Hỏi: Nếu y cứ nghĩa này dụng từ chân khởi, vì sao nói chuyển thức hiện ư?.

Đáp: Chuyển thức tức chuyển tướng trong A-lại-da, nương chuyển tướng này mới khởi hiện thức hiện các cảnh giới. Thức này do chân và vọng hòa hợp, nếu theo dòng sinh tử thì vọng có công năng, vọng tuy có công năng mà lìa chân không lập. Nếu ngược dòng xuất triền thì chân có công năng, chân tuy có công năng mà lìa vọng không hiển. Cho nên theo duyên khởi hòa hợp trong thức nói dụng kia (dụng từ chân khởi).

Hỏi: Nếu y cứ nghĩa này thì là dụng và chân như trong tự tâm của chúng sinh, vì sao nói Phật báo hóa ư?.

Đáp: Chân tâm chúng sinh tức thể của chư Phật không có khác nhau, nên Kinh Hoa Nghiêm chép: “Nếu người muốn cầu biết tất cả chư Phật trong ba đời, nên phải quán sát như thế. Tâm tạo các Như Lai lại không thêm không bớt”. Kinh nói: “Pháp thân tức chúng sinh, chúng sinh tức Pháp thân, Pháp thân cùng chúng sinh nghĩa một mà tên khác”. Đã từ Pháp thân khởi dụng báo hóa, đâu được chẳng phải là chân tâm chúng sinh?

Hỏi: Nghĩa nếu như vậy, Phật trong tâm chúng sinh trở lại tự giáo hóa chúng sinh, vì sao nói Phật có năng lực nguyện từ bi?.

Đáp: Tức chân tâm này là năng lực nguyện từ bi của Phật, nghĩa là đại bi vô duyên cùng nguyện không chướng ngại tự thể, tức tánh khởi đại dụng.

Hỏi: Chúng sinh đã có tâm từ vô thỉ, vì sao không sớm khởi dụng giáo hóa để dứt bỏ vô minh?.

Đáp: Chưa có chán cầu.

Hỏi: Đã sẳn có Bản giác, tại sao không sớm huân tập khiến khởi chán cầu?.

Đáp: Vô minh dày mỏng khác nhau, nhân duyên thiếu sót lẫn nhau chẳng đồng. Như phần trên nói.

Hỏi: Nếu chân tâm tức Phật, vì sao văn sau nói: “Từ nhân các Bala-mật sinh ra”?

Đáp: Đây theo nghĩa Bản giác tùy duyên mà nói. Nhưng Thỉ giác kia, giác đến nguồn tâm bình đẳng một mé thì đâu có khác nhau.

Từ trên đến đây nói mặt Chung giáo. Nếu nói về mặt Thỉ giáo tức chư Phật lấy bi trí làm duyên tăng thượng, chủng tử căn cơ cảm ứng của chúng sinh làm nhân duyên, nên gá trên bản chất Phật, tự tâm biến ảnh tượng, nên nói ở trong tự thức hiện. Ngoài ra như luận Du-già, Duy Thức nói.

G2. Nói về Báo thân:

Có ba:

H1. Theo thức nêu người.

H2. “Thân có vô lượng”, v.v… trở xuống, là nói rõ chỗ thấy báo tướng.

H3. Kết quả do nhân, giải thích hiển bày tên gọi Báo thân.

Nương vào nơi nghiệp thức, nghĩa là chỗ thấy của tâm các Bồ-tát từ Sơ phát ý, cho đến Bồ-tát địa vị rốt ráo, gọi là Báo thân.

Nói “nương nghiệp thức” là hàng Bồ-tát Thập giải trở lên hiểu được duy thức không có các trần bên ngoài, thuận nghĩa nghiệp thức, vì thấy thân Phật nên nói Báo thân.

H2. Chỗ thấy tướng Báo thân: Có hai: – Chánh báo và Y báo.

Thân có vô lượng sắc, sắc có vô lượng tướng, tướng có vô lượng vẻ đẹp. Chỗ trụ nương quả cũng có vô lượng các thứ trang nghiêm, tùy chỗ mà thị hiện, tức không có bờ mé không thể cùng tận, lìa tướng phần hạn, theo chỗ cảm ứng kia mà thường giữ gìn chẳng hoại, chẳng mất.

Chánh báo: Thân không phần hạn nên có vô lượng sắc, nương thân có tướng, tướng cũng vô biên. Nương tướng có đẹp đẹp cũng vô tận. Nhưng tướng để tiêu biểu đức, khiến người kính đức để niệm Phật. Đẹp để trang nghiêm thân, khiến người ưa thích ham muốn gần gũi.

Y báo: “Vô lượng các thứ trang nghiêm” là hay nương vô biên, chổ nương đất ruộng cũng lại vô biên. Của báo cao quý thường phát ra ánh sáng vô ngại trang sức, nên nói các thứ trang nghiêm.

“Tùy chỗ thị hiện” cho đến “Lìa tướng phần hạn” là khác với sắc Hóa thân phần hạn ở trước. Bồ-tát này biết phần hạn tức không phải phần hạn, mỗi sắc tướng đều khắp pháp giới, vô ngại lẫn nhau, tự tại khó nghĩ bàn.

“Theo chỗ cảm ứng kia,” cho đến “Chẳng hủy chẳng mất” là theo chỗ nghiệp hạnh cảm ứng tức đều thường trụ, ba tai chẳng thể hoại được.

H3. Kết quả do nhân, giải thích hiển bày tên gọi Báo thân:

Như thế, công đức đều nhân hạnh vô lậu các ba-la-mật huân là chỗ thành tựu, và bất tư nghì huân đầy đủ vô lượng lạc tướng, nên gọi là Báo thân.

Nói trong nhân: Chánh báo và y báo không thể nghĩ bàn vô chướng ngại như thế, đều là hai nhân hạnh mười độ sâu xa huân và Bản giác không thể nghĩ bàn huân được thành tựu, lạc tướng tròn đủ nên gọi là Báo thân. Nên nói “công đức như thế” cho đến “gọi là Báo thân”.

E2. Phân biệt lần nữa:

Có hai:

G1. Ứng thân

G2. Báo thân.

G1. Ứng thân: Phân biệt phàm phu khác với Tiểu thừa.

Lại vì chỗ thấy của phàm phu là sắc thô kia, theo sáu đường mỗi loại thấy khác nhau, các loại khác chẳng thọ lạc tướng nên nói là Ứng thân.

Như sự huân tập của ba đường ác, thấy thân Phật cao ba thước như chân voi đen… Lại như Đề Vị, do địa vị trời, người thấy thân Phật là thân thần cây và thần trời. Theo đây tức chúng sinh trong sáu đường đều thấy Phật khác nhau, đều chẳng phải tướng xuất thế, nên chẳng phải vui. Như người nhị thừa v.v… thấy thân Phật là xuất thế, là thân bậc Thánh A-la-hán, nên nói “Cái thấy của phàm phu” v.v… cho đến “ứng thân”.

G2. Báo thân: So sánh khác chứng.

Có hai:

– Nói về chỗ thấy trước Sơ địa.

– Hiển bày chỗ thấy từ Sơ địa trở lên.

Lại nữa, sự thấy biết của Bồ-tát mới phát tâm là do tin sâu pháp chân như nên thấy ít phần. Biết sắc tướng trang nghiêm, v.v… không đến không đi lìa nơi phần hạn, chỉ nương tâm hiện không lìa chân như. Nhưng Bồ-tát này vẫn tự phân biệt, vì chưa nhập địa vị Pháp thân. Nếu được tâm tịnh, sự thấy biết mầu nhiệm, dụng kia càng cao siêu, cho đến Bồ-tát địa tận thì thấy rốt ráo. Nếu lìa nghiệp thức thì không có tướng thấy, ví Pháp thân Phật không có sắc tướng kia đây, đắp đổi nhau thấy.

Nói “Tin sâu pháp chân như thấy được chút phần”, là Bồ-tát Thập giải, nương vào môn tỷ quán thấy lý chân như là tương tự giác nên nói ít phần, khác với Bồ-tát Thập tín ở trước, nên lại nói là “sâu”, khác với chân chứng ở sau, nên chỉ nói “Tin”.

“Biết sắc tướng kia” cho đến “lìa phần hạn”, vì thấy chân như khác phàm phu, Tiểu thừa, cho nên được biết những việc sắc tướng, v.v … tánh vô phân biệt.

“Chỉ nương tâm hiện chẳng lìa chân như”, là giải thích lý do vô phân biệt. Trong Nhiếp Luận từ Sơ địa trở lên thấy Báo thân là nói theo chỗ thành tựu tương ưng chứng nhập. Nay Bồ-tát trước Sơ địa thấy chút phần là do biết cảnh sắc chỉ là hiện thức, chẳng lìa chân như, tức không phần hạn, nên được thấy chút phần. Đã chẳng thấy hoàn toàn nên chẳng trái nhau, chỉ vì khác với phàm phu, Tiểu thừa chấp cảnh ngoài tâm thấy ứng thân, Hóa thân. Nên đứng về mặt duy tâm thấy được chút phần.

“Bồ-tát này vẫn tự phân biệt” là phân biệt khác từ Sơ địa trở lên.

“Nếu được tâm tịnh” trở xuống, là nói lên chỗ thấy từ Sơ địa trở lên, tướng dụng vượt hơn trước Sơ địa, nên nói càng cao siêu. Dần dần sâu kín đến kim cương hậu, tướng nghiệp đều dứt, dụng trở về thể nên nói thấy rốt ráo. Vì tột cùng nguồn kia nếu lìa nghiệp thức thì không có tướng thấy, phải nương nghiệp thức mới có chuyển tướng và hiện tướng.

“Vì chư Phật” cho đến “Đắp đổi nhau thấy” là nếu lìa nghiệp thức vô minh thì chỉ là chân như, nên Phật không có phân biệt kia đây.

D2. Dứt nghi ngờ:

Có hai: – Hỏi – Đáp.

Hỏi rằng: Nếu Pháp thân chư Phật lìa sắc tướng, vì sao nay hiện sắc tướng?.

Đáp rằng: Tức Pháp thân này là sắc thể cho nên hiện sắc, nghĩa là, từ xưa đến nay sắc tâm không hai, vì sắc tánh tức trí nên sắc thể không hình, gọi là trí thân. Vì trí tánh tức sắc nên gọi là Pháp thân ở khắp tất cả chỗ.

Đáp: Cũng có hai:

E1. Giải thích Pháp thân năng hiện.

E2. Giải thích sắc sở hiện.

E1. Giải thích Pháp thân:

Có hai: – Chung và riêng. Từ “Nghĩa là” v.v… trở xuống là:

Riêng: “Từ xưa đến nay sắc tâm chẳng hai” là chỗ sắc hiện báo hóa kia, chẳng khác chân tâm Pháp thân. Như sóng và nước xưa nay không hai.

“Vì sắc tánh tức trí, v.v…” là nói sắc tức tâm, nói lên chẳng hai ở trước, vì sắc tức tâm nên khiến sắc tướng đều dứt, y theo cội gốc chỉ nói trí thân. Trí nghĩa là tâm trí Bản giác.

“Vì trí tánh tức sắc nên gọi là Pháp thân trùm khắp tất cả chỗ” là nói tâm tức sắc, nói lên ý chẳng hai ở trước. Như nước trùm khắp trong sóng ấy.

Chỗ sắc hiện ra không có phần hạn, tùy theo tâm hay thị hiện, vô lượng Bồ-tát ở các thế giới, mười phương vô lượng Báo thân, vô lượng trang nghiêm, mỗi mỗi sai biệt đều không phần hạn mà không ngại nhau. Ở đây tâm thức phân biệt chẳng thể biết được, do nghĩa dụng chân như tự tại.

Sắc hiện ra do chân tâm kia trùm khắp vô ngại, chỗ hiện sắc cũng lại viên dung tự tại vô ngại, nên nói “Chỗ sắc hiện ra”, cho đến “Chẳng ngại nhau”.

Trong vô lượng Bồ-tát cũng là tác dụng của Báo thân, cũng có thể tức cơ duyên cảm ứng Báo thân đại dụng, đều hay chóng đến. Vì mỗi căn đều khắp pháp giới, nhưng đắp đổi chẳng trái nhau. Dụng của chân như này vọng thức chẳng thể biết, nên nói “Chẳng phải tâm thức phân biệt” cho đến “Nghĩa dụng”.

Từ trên đến đây giải thích hai thứ pháp nghĩa trong môn Sinh diệt đã xong. Ban đầu giải thích môn Chân như, kế đến giải thích môn Sinh diệt. Chung là đoạn lớn. Thứ nhất giải thích Riêng hai môn, nói lên nghĩa chẳng phải thứ nhất đã xong.

Đoạn II. Đối tướng hội tướng nhập thật: (tức hội nhập chân như). Trình bày nghĩa chẳng khác. Từ đây trở xuống, v.v… Có ba:

A1. Nêu.

A2. Giải thích.

A3. Kết luận.

Lại nữa, hiển bày từ môn Sinh diệt tức nhập môn Chân như. Nghĩa là suy tìm năm sắc ấm và tâm, cảnh giới sáu trần rốt ráo vô niệm. vì tâm không hình tướng, tìm cầu mười phương rốt ráo không thật có.

A1. Nêu: “Tìm cầu năm sắc ấm và tâm” sắc ấm là sắc, còn lại bốn thứ kia là tâm.

A2. Giải thích:

Có hai:

B1. Quán sắc pháp: B2. Quán tâm pháp

B1. Quán sắc pháp:

“Sáu trần vô niệm” là cảnh từ tâm khởi, rốt ráo không tự thể, lìa tâm không có tướng niệm.

“Vì tâm không hình, tìm cầu không thật có, chẳng phải ngay ngoài tâm không có các sắc sáu trần, v.v… khác. Theo tâm bên trong tìm cầu hình chất các sắc, v.v… cũng không thật có. Ở trước là sở duyên vô tướng, đây là năng duyên bất sinh.

B2. Quán Tâm pháp: Từ đây trở xuống:

Có hai: – Dụ và Hợp.

Như người mê cho phương Đông là phương Tây mà thật chẳng chuyển đổi. Chúng sinh cũng giống như thế, vô minh mê mờ cho tâm là niệm, mà tâm thật chẳng động.

Hợp: “Tâm thật chẳng động” là tìm cầu động niệm, trong đã diệt và chưa sinh không có chỗ trụ. Không có chỗ trụ nên chẳng khởi, nên biết tâm tánh thật chẳng động.

Nếu quán sát biết tâm vô niệm liền được thuận theo nhập môn Chân như.

Kết luận: “Nếu hay”, v.v… trở xuống.

“Tức được thuận theo” là phương tiện quán.

“Nhập môn chân như” là chánh quán.

Từ trên đến đây bày chánh nghĩa đã xong.

QUYỂN HẠ (Phần Đầu)

 

QUYỂN HẠ

(Phần Cuối)

Mục II. Đối trị tà chấp. Có hai:

A1. Nói riêng chướng và trị.

A2. Theo gốc mà nêu Chung.

Đối trị tà chấp là tất cả tà chấp đều nương vào ngã kiến. Nếu lìa ngã thì không có tà chấp.

A1. Nói riêng chướng và trị. Có hai:

B1. Đối trị lìa.

B2. Rốt ráo lìa.

A2. Theo gốc mà nêu Chung. Có ba:

B1. Nêu số.

B2. Nêu tên.

B3. Nói tướng.

B1. Nêu số:

Là ngã kiến, có hai thứ, hai thứ là:

1. Nhân ngã kiến. 2. Pháp ngã kiến.

B2. Kể tên:

Nói: “Nhân ngã kiến” là chấp có tướng chung của chủ tể, đây là kẻ sơ học Đại thừa mê giáo vọng khởi trong Phật pháp, chẳng phải là chỗ khởi của ngoại đạo.

“Pháp ngã kiến” là chấp tất cả pháp mỗi pháp có thể tánh, đây là chỗ khởi của người Nhị thừa.

B3. Nói về tướng. Có hai:

C1. Nhân

C2. Pháp

C1. Nhân ngã. Có hai:

D1. Nêu chung.

D2. Giải thích riêng.

D1. Nêu chung:

Nhân ngã kiến là theo phàm phu mà nói thì có năm thứ, năm thứ là:

D2. Giải thích riêng:

Nghe kinh nói Pháp thân Như Lai rốt ráo vắng lặng, giống như hư không. Vì không biết đó là lời phá chấp nên nói hư không là tánh Như Lai.

Năm thứ chấp này có gì khác? Một thứ đầu là quả, bốn thứ sau chung cả nhân và quả. Lại hai thứ đầu là đối với không mà lầm chấp, ba thứ sau là đối với có mà biết điên đảo. Trong hai phần trước, ban đầu là vọng chấp sự không, lấy làm pháp thể, kế là vọng chấp pháp thể chỉ là rỗng không, chấp có ba:

– Chấp tánh đức đồng với sắc tâm.

– Chấp pháp tánh sẵn có nhiễm.

– Chấp nhiễm tịnh có trước sau.

Hỏi: Những thứ này đều chấp trên pháp chân như, vì sao nói nhân ngã chấp?

Đáp: Ở đây có hai cách giải thích:

Cách thứ nhất: Đây là phàm phu mới học có nhân ngã, khởi ra chấp này, nên nói chấp nhân ngã.

Cách thứ hai: Do Như Lai tạng có hai nghĩa:

– Nghĩa Bản giác, tức là ngay nơi người mà vọng chấp, nên nói chấp nhân.

– Nghĩa lý thật, đối với pháp sở quán, nay y cứ nghĩa đầu nên nói nhân chấp.

Trong năm thứ, mỗi thứ đều có ba, nghĩa là:

– Kinh nói, v.v… là khởi duyên chấp.

– Do không biết chính nói về tướng chấp.

– Làm sao đối trị là nói về tướng đối trị.

Phần đầu là tướng chấp: Nói “Do không biết phá chấp đắm, v.v…” là do chấp tướng chất ngại của sắc thân Phật.

Nói “Pháp thân như hư không” là ý lầm nói chấp đồng với hư không.

Đối trị thế nào để nói tướng hư không là vọng kia, pháp thể đều thật.

Đối trị. Có hai:

– Nói hư không này là vọng, chẳng phải chân.

– “Chỉ một chân tâm” trở xuống, là nói Pháp thân kia, là chân, chẳng phải vọng.

Vọng chẳng phải chân: Có ba: – Lập, giải thích, tổng kết.

Lập: Có hai: – Lập tình có, thể đều thật là lập lý không.

Do đối với sắc nên có tướng để thấy, khiến tâm sinh diệt.

Giải thích. Có hai:

Nói về tình có: Trong tánh biếnkế đối đãi mà có, là chỗ vọng niệm duyên theo, nên chẳng phải Pháp thân, cho nên nói “do đối sắc” cho đến”tâm sinh diệt”.

Do tất cả sắc pháp xưa nay là tâm, thật không có sắc ngoài. Nếu không có sắc thì không có tướng hư không.

Giải thích lý không: Xưa do đối đãi sắc mà không, nay đã do tâm thì không có sắc, đâu được lại có ở không, nên nói “do tất cả sắc pháp”, cho đến “tướng hư không”.

Nghĩa là tất cả cảnh giới do tâm vọng khởi mà có, nếu tâm lìa vọng động thì tất cả cảnh giới mất, chỉ một chân tâm cùng khắp. Đây là nghĩa tánh trí rốt ráo rộng lớn của Như Lai, chẳng phải như tướng hư không.

Tổng kết. Có hai:

– Tổng kết tình có là “nếu tâm lìa” trở xuống.

– Tổng kết lý không là chân chẳng ở trong vọng.

“Chỉ một chân tâm, v.v…” là nói về pháp đồng dụ, do trùm khắp như hư không, nên lấy hư không làm dụ.

“Đây là Như Lai, v.v…” là phân biệt pháp khác dụ. Nghĩa là tánh trí Bản giác của Như Lai đâu đồng với hư không lại là luống dối ư!

Nghe kinh nói các pháp thế gian rốt ráo thể không, cho đến pháp chân như Niết-bàn cũng rốt ráo không. Từ xưa đến nay tự không, lìa tất cả tướng. Do chẳng biết là phá chấp nên cho rằng tánh Niết-bàn chân như chỉ là hư không kia.

Nói “Cho đến pháp chân như Niết-bàn, v.v…” rốt ráo không, lìa tất cả tướng là kinh Đại Phẩm nói: “Cho đến Niết-bàn như huyễn như mộng. Nếu có pháp nào hơn Niết-bàn, ta cũng nói là như huyễn như mộng. Do không biết là phá tình chấp có, tức chấp tánh đức chỉ là hư không kia, nên nói “do không biết, v.v…

Làm sao đối trị? Là nói về Pháp thân chân như tự thể chẳng không, đầy đủ vô lượng tánh công đức.

Đối trị rất dễ biết.

Nghe kinh nói Như Lai tạng không có thêm bớt, thể đầy đủ tất cả pháp công đức. Do không hiểu nên cho rằng Như Lai tạng có sắc tâm pháp tự tướng khác nhau.

Chấp tánh đức đồng với pháp vọng.

Làm sao đối trị? Do nương nghĩa chân như mà nói. Nhân nghĩa nhiễm sinh diệt thị hiện mà nói khác nhau.

Phần Đối trị nói: “Nương nghĩa chân như mà nói” là hai mà chẳng hai. “Nhân nghĩa nhiễm sinh diệt mà thị hiện” là chẳng hai mà hai. Như văn trên nói: “Do nương nghiệp thức tướng sinh diệt mà thị hiện, v.v…”

Nghe kinh nói tất cả pháp nhiễm sinh tử ở thế gian đều nương Như Lai tạng mà có tất cả các pháp chẳng lìa chân như. Vì không hiểu nên cho rằng Như Lai tạng tự thể đầy đủ có tất cả pháp sinh tử thế gian.

Do không hiểu tùy duyên nên cho rằng tự tánh có nhiễm.

Trong phần Đối trị: Trước đoạt phá, sau túng phá.

Làm sao đối trị? Do Như Lai tạng từ xưa đến nay chỉ có nghĩa chân như, các công đức thanh tịnh nhiều hơn Hằng sa, chẳng lìa, chẳng đoạn, chẳng khác. Do các pháp nhiễm phiền não nhiều hơn Hằng sa chỉ là vọng có, tánh tự vốn không. Từ đời vô thỉ đến nay không hề tương ưng với Như Lai tạng. Nếu thể Như Lai tạng có pháp vọng mà khiến chứng hội dứt hẳn vọng, thì không hề có việc đó.

“Do Như Lai tạng, v.v…” là nói về tịnh đức mầu nhiệm.

“Do nhiều các phiền não nhiều hơn hà sa, v.v…” là nói vọng nhiễm lý không.

“Từ vô thỉ” trở xuống, là nói vọng chẳng vào chân.

“Nếu thể Như Lai tạng có pháp vọng, v.v…” là nói túng phá, có thể biết.

Trong phần năm ở kế sau:

– Trong giáo nói có hai pháp.

– Trong chấp cũng có hai chấp.

– Trong đối trị cũng có hai đối trị. đó là sinh tử và niết-bàn.

Nghe kinh nói: Nương Như Lai tạng có sinh tử, nương Như Lai tạng được Niết-bàn. Do không hiểu nên cho rằng chúng sinh có cái ban đầu. Vì có cái ban đầu nên lại cho rằng Như Lai được Niết-bàn là có cái tận cùng kia, lại tạo ra chúng sinh.

Trong phần chấp: Nghe nương chân có vọng, lại cho rằng chân trước vọng sau, nên khởi có cái thấy ban đầu. Như ngoại đạo lập từ minh sơ sinh giác, v.v… Chúng sinh đã có cái ban đầu mà sau nương chân.

“Chứng được Niết-bàn lại tạo ra chúng sinh”, thành nghĩa có cái ban đầu, như ngoại đạo lập chúng sinh, có cái cùng tận, trở về nơi minh sơ gọi là Niết-bàn. Từ minh sơ khởi giác lại tạo ra chúng sinh. Ở đây cũng như thế.

Đối trị, có hai:

– Nói về pháp thể lìa cái ban đầu là hiển bày sinh tử không có cái ban đầu. Nhiếp Luận dịch vào đời Lương chép: “Sinh tử không có ban đầu”.

– Nói về pháp thể lìa cái sau cùng, là nói lên Niết-bàn không cùng tận.

Làm sao đối trị? Do Như Lai tạng không có mé trước, nên tướng vô minh cũng không có cái ban đầu. Nếu nói ngoài ba cõi lại có chúng sinh khởi cái ban đầu, tức là kinh ngoại đạo nói. Lại Như Lai tạng không có mé sau, chư Phật được Niết-bàn cùng tương ưng thì không có mé sau.

Trong phần Pháp thể lìa cái ban đầu, kinh ngoại đạo là như kinh Nhân Vương nói: “Ta nói ngoài ba cõi có riêng một cõi chúng sinh, là ngoại đạo”, là trong kinh Đại Hữu của ngoại đạo nói, chẳng phải bảy Đức Phật nói.

C2. Pháp ngã kiến:

Có ba:

– Nguyên do khởi chấp.

– Hiển bày tướng chấp. “Do nói chẳng rốt ráo” v.v… trở xuống

– Hiển bày đối trị kia. “Vì sao?”, v.v… trở xuống. Xem văn sẽ hiểu.

Pháp ngã kiến là nương vào Nhị thừa độn căn, nên Như Lai chỉ vì họ mà nói nhân vô ngã. Do nói chẳng rốt ráo, thấy có pháp năm ấm sinh diệt, sợ hãi sinh tử, vọng chấp Niết-bàn. Đối trị thế nào? Vì pháp năm ấm tự tánh chẳng sinh, thì không có diệt, xưa nay là Niết-bàn.

Rốt ráo lìa, có hai:

– Đứng về mặt pháp nói về đối trị.

– Hợp giải thích để phá nghi.

Pháp cũng có hai:

– Đứng về pháp hiển bày chung.

– Nêu rộng để so sánh tìm cầu. “Cho nên”, v.v… trở xuống.

Lại nữa, rốt ráo lìa vọng chấp, nên biết pháp nhiễm, pháp tịnh đều đối đãi nhau, không có tự tướng để nói. Cho nên tất cả pháp từ xưa đến nay chẳng phải sắc, chẳng phải tâm, chẳng phải trí, chẳng phải thức, chẳng phải có, chẳng phải không, rốt ráo không thể nói tướng. Nếu có nói thì nên biết Như Lai kheó dùng phương tiện, giả dùng lời nói đẫn dắt chúng sinh. Chỉ thú kia vì lìa niệm trở về chân như. Vì niệm tất cả pháp khiến tâm sinh diệt, chẳng vào được trí chân thật.

Phần đầu nói pháp nhiễm tịnh đối đãi không có tự tướng. Trung Luận chép: “Nếu pháp nhân đối đãi mà thành, là pháp trở lại thành đối đãi”. Nay thì không đối đãi cũng không có chỗ pháp hành, y theo giải thích sẽ hiểu. Đối đãi hay không đối đãi, pháp thể vốn như vậy, chẳng phải do ngộ rồi mới khiến như vậy. Nên nói: “Từ xưa đến nay, v.v…”. Trí và thức hiển bày chẳng phải tâm ở trên, có và không hiển bày chẳng phải sắc ở trên.

Giải thích nghi:

Nghi: Bậc thánh rõ biết các pháp lìa tánh, chẳng có nói tướng, vì sao có các thứ nói năng?

Giải thích: Mượn lời khéo dẫn dắt, chỉ ở lời nói. Trong đây có ba:

Chánh hợp để phá nghi.

Giải thích đúng thánh ý. “Chỉ thú ấy, v.v…” trở xuống, là

Ngược lại để giải thích thành tựu. “Vì niệm tất cả pháp”, v.v… trở xuống,

Mục III. Phát thú đạo tướng:

Có hai:

A1. Nêu chung đại ý để nói về tên kia.

A2. Phân biệt riêng.

A1. Nêu chung đại ý để hiển bày tên kia:

Phân biệt phát thú đạo tướng là nghĩa thú hướng về đạo của chư Phật, Chư Bồ-tát đã chứng, phát tâm tu hành thú hướng.

Nói: “Tất cả chư Phật…” là nêu giáo đạo được hướng về.

“Tất cả Bồ-tát, v.v…” trở xuống, là hiển bày nhân hành hay thú hướng. Muốn nói Bồ-tát phát tâm thú hướng đến đạo chứng ngộ của Phật, các thứ bậc khác nhau, nên nói phân biệt phát thú đạo tướng. A2. Phân biệt riêng:

Có ba:

B1. Nêu số B2. Kể tên

B3. Nói tướng.

B1. Nêu số:

Lược nói phát tâm có ba thứ, ba thứ là:

1. Tín thành tựu phát tâm. 2. Giải hạnh phát tâm. 3. Chứng phát tâm.

B2. Kể tên:

Có hai:

C1.Tín thành tựu phát tâm:

C2. Giải hạnh phát tâm:

C3. Chứng phát tâm:

C1.Tín thành tựu phát tâm:

Địa vị Thập trụ, gồm cả Thập Tín. Trong địa vị Thập tín, tu tập tín tâm thành tựu, phát tâm quyết định, tức vào Thập trụ. Sơ tâm Thập Trụ gọi là Phát tâm trụ, tức Thập tín tu hành viên mãn, gọi là Tín thành tựu tiến vào sơ Thập Trụ, nên nói Phát tâm.

C2. Giải hạnh phát tâm:

Địa vị Thập Hồi hướng, gồm cả Thập Hạnh. Trong địa vị Thập Hạnh hiểu được pháp không, thuận hành mười độ, hạnh thành thuần thục, phát tâm hồi hướng vào địa vị Thập Hồi Hướng, nên nói Giải hạnh phát tâm.

C3. Chứng phát tâm:

Từ địa vị Sơ địa trở lên cho đến Thập địa.

Hai phần trước là tương tự phát tâm, một phần sau là phát tâm chân thật.

B3. Nói về tướng:

Nói ba tên ở trên tức là ba đoạn: C1. Tín thành tựu phát tâm C2. Giải hạnh phát tâm:

C3. Chứng phát tâm:

C1.Tín thành tựu phát tâm:

Cũng có ba:

D1. Nói về hạnh tín tâm thành tựu.

D2. Nói tướng phát tâm.

D3. Nói lợi ích phát tâm.

D1. Hạnh tín tâm thành tựu:

Có hai:

E1. Hỏi.

E2. Đáp.

Tín thành tựu phát tâm là nương vào những người nào? Tu theo những hạnh gì? Được tín thành tựu có khả năng phát tâm.

E1. Hỏi: Có ba:

G1. Hỏi người năng tu hành.

G2. Hỏi hành để tu.

G3. Được tín thành tựu, là hỏi hạnh thành rồi, có khả năng phát tâm.

E2. Đáp:

Có hai:

G1. Chính đáp câu hỏi trước.

G2. Nêu kém để bày hơn.

Nghĩa là trước tín viên mãn nên thắng, sau tín chưa thành nên lui sụt.

G1. Chánh Đáp:

Có hai:

H1. Đáp ba câu hỏi.

H2. Kết luận thành tựu địa vị.

H1. Đáp ba câu hỏi:

Nghĩa là nương chúng sinh nhóm Bất định.

“Nương chúng sinh nhóm bất định” là đáp câu hỏi đầu. Phân biệt ba nhóm chính là nhiều môn. Nay trong văn này nói thẳng Bồ-tát Thập trụ trở lên quyết định chẳng lui sụt, gọi là nhóm Chánh định. Chưa vào Thập tín không tin nhân quả, gọi là nhóm Tà định. Giữa hai hạng này là địa vị Thập Tín, muốn cầu quả lớn mà tâm chưa quyết định, hoặc tiến hoặc lui. Trong kinh Bổn Nghiệp chép: “Bồ-tát Thập tín như sợi lông trong hư không, gọi là nhóm Bất định” Nay nương hạng người này nói về hạnh tu hành kia.

Có năng lực huân tập gốc lành nên tin nghiệp quả báo. Nay khởi tu mười điều lành, chán khổ sinh tử, muốn cầu vô thượng Bồ-đề, được gặp chư Phật, đích thân cúng dường, tu hành tín tâm.

“Có huân tập”, v.v… trở xuống, là đáp câu hỏi thứ hai, trong đây, trước nói về nhân tu hành, nghĩa là có văn huân và năng lực bản giác nội huân, nương năng lực tu gốc lành đời trước, hay tin nghiệp quả, nên bỏ ác theo thiện, tu phần phước đức.

“Chán khổ sinh tử cầu Bồ-đề” là thành tựu phần Bồ-đề và phần giải thoát.

“Được gặp chư Phật tu tín tâm” là nói về duyên tu hành, nghĩa là theo duyên này tu hành mười thứ tín tâm.

Trải qua một muôn kiếp tín tâm thành tựu, nên chư Phật, Bồ-tát dạy bảo phát tâm, hoặc do tâm đại bi nên tự phát tâm, hoặc nhân chánh pháp sắp diệt, vì nhân duyên hộ pháp nên tự phát tâm.

“Trải qua một muôn kiếp”, v.v… trở xuống, là đáp câu hỏi thứ ba, trong đây có hai:

– Nói về thời gian viên mãn, thành tựu tu hành.

– Y theo thắng duyên nói về phát tâm kia.

Ban đầu nói “Một muôn kiếp” nghĩa là mười ngàn kiếp tu tín tâm thành tựu.

“Phật và Bồ-tát dạy bảo phát tâm”: nghĩa là phát Thập Trụ sơ tâm. Như kinh Anh Lạc Bổn Nghiệp chép: “Bồ-tát có lòng tin trong mười ngàn kiếp tu hành mười giới pháp sẽ nhập vào Thập Tín tâm, vào địa vị Sơ Trụ”.

Giải thích: Trong đây nói: “Vào địa vị Sơ trụ” nghĩa là địa vị Sơ phát tâm trụ trong Thập Trụ, vì đến địa vị này mới được Tín tâm không lui sụt, cho nên cũng gọi là Thập Tín tâm, chẳng cho là Thập Tín của Thập giải trở xuống. Làm sao biết? Vì kinh Nhân Vương nói: “Tập Chủng tánh có mười tâm, đã vượt khỏi tất cả địa vị thiện của người Nhị thừa. Từ Bồ-tát Tập nhẫn thực hành mười điều thiện trở xuống này có tiến có lùi. Giống như sợi lông nhẹ theo gió bay đông tây”. Tuy do mười ngàn kiếp thực hành chánh đạo phát tâm Bồ-đề, cũng là địa vị Tập Nhẫn. Dùng văn này dẫn chứng nên được biết mười thứ tướng tâm và các thứ ủy khúc, như trong Hoa Nghiêm sớ nói, duyên tốt tuy nhiều nhưng lược nêu có ba thứ:

– Tha lực.

– Tự lực.

– “Cũng có thể đồng ba tâm”, v.v… trở xuống: nghĩa là giáo nên được trực tâm, hộ pháp nên được thâm tâm, ngoài ra đều đồng.

Tín tâm như thế thành tựu được phát tâm là vào nhóm chánh định, rốt ráo chẳng lui sụt, gọi là trụ trong chánh nhân, tương ưng hạt giống Như Lai.

H2. Kết luận thành tựu địa vị: “Tín tâm như thế”, v.v… trở xuống là.

“Nhập nhóm chánh định chẳng lui sụt” là nói lên không mất ở phần sau. Nghĩa là vào địa vị Sơ phát tâm trụ của Thập trụ, chẳng rơi vào địa vị phàm phu, Tiểu thừa.

“Gọi là trụ chánh nhân tương ưng hạt giống Như Lai” là nói về chỗ có được ở trên. Nghĩa là trụ địa vị Tập Chủng tánh, thực hành thuận nhân huân tập bên trong, nên nói chánh nhân. Lại địa vị này trở lên quyết định sẽ được quả, nên nói chánh nhân, vì không lui sụt.

Nếu có chúng sinh gốc lành nhẹ mỏng, từ lâu xa đến nay phiền não sâu dày, tuy gặp Phật, được cúng dường, nhưng khởi hạt giống trời người, hoặc khởi hạt giống nhị thừa, dù có cầu căn cơ Đại thừa cũng bất định, hoặc tiến hoặc lui.

G2. Nói về nêu kém để bày hơn:

“Nếu có”, v.v… trở xuống: là cao siêu như tiến ở trước, kém như lùi ở đây. Nhiếp luận chép: “Các Bồ-tát trong địa vị Thập Tín tu Đại thừa chưa vững chắc, phần nhiều chán sợ sinh tử, tâm từ bi đối với chúng sinh vẫn còn kém mỏng, muốn xả bỏ bổn nguyện Đại thừa, tu đạo Tiểu thừa” Cho nên nói muốn tu hành không có ý Đại thừa.

Trong đây có hai:

H1. Nói về tướng kém.

H2. Kết luận lui sụt, “Như thế, v.v…” trở xuống,

H1. Nói về tướng kém:

Có hai:

K1. Năng lực nội nhân kém.

K2. Nói về năng lực duyên ngoại kém, “Hoặc có cúng dường”, v.v…trở xuống,

K1. Năng lực nội nhân kém:

Có bốn câu: Một câu đầu là mê lầm nặng.

Ba câu sau là đức mỏng.

Đức mỏng có:

– Điên đảo cầu trời, người.

– Cầu tiểu quả khác.

– Do dự về Đại thừa.

Hoặc có cúng dường chư Phật, chưa trải qua một muôn kiếp, trong thời gian đó gặp duyên cũng sẽ phát tâm. Nghĩa là, thấy sắc tướng Phật mà phát tâm, hoặc do cúng dường chúng tăng mà phát tâm, hoặc do người Nhị thừa dạy bảo khiến phát tâm, hoặc bắt chước người khác mà phát tâm.

K2. Năng lực duyên ngoại kém:

Có hai:

– Nói về các hạnh chưa viên mãn.

– Gặp duyên chẳng tốt. Trong đây có bốn câu:

Quán sắc Phật.

Cúng dường đại chúng.

Bạn kém yếu được khuyến khích.

Học với người khác mà phát tâm.

H2. Kết luận lui sụt:

Những thứ này đều chẳng phải tâm bi trí của Bồ-tát, cho nên lui sụt.

Phát tâm như thế đều chẳng nhất định gặp nhân duyên xấu, hoặc lại lui sụt rơi vào giai vị Nhị thừa.

Văn kết luận rất dễ hiểu.

D2. Tướng phát tâm:

Có hai:

E1. Chính nói về ba tâm.

E2. Hỏi, đáp, dứt nghi.

E1. Nói về ba tâm:

Có hai: – Hỏi. – Đáp.

Đáp có: Nêu số và giải thích riêng.

Nêu số: Lại nữa, Tín thành tựu phát tâm là phát những tâm nào?

Lược nói có ba thứ, ba thứ là:

Trực tâm chánh niệm pháp chân như.

Thâm tâm ưa tu tập tất cả các hạnh lành.

Tâm đại bi muốn cứu vớt tất cả khổ cho chúng sinh.

Giải thích: “Trực tâm” nghĩa là tâm hướng lý không có lối tẻ khác, nên nói chánh niện chân như, tức cội gốc của hai hạnh.

“Thâm tâm” là đầy đủ muôn đức, quy hướng nguồn tâm, nên nói ưa tu tập, v.v….

Hai thứ trên đây là gốc hạnh tự lợi.

“Tâm đại bi” là rộng cứu khổ chúng sinh giúp cho được Bồ-đề, nên nói “muốn cứu, v.v…” tức gốc hạnh lợi tha. Diệu hạnh tuy rộng nhưng ba hạnh đều nhiếp hết, cho nên ở trên nói lược có ba. Đây tức ba nhóm giới, ba đức, ba thân đều do đây, cũng tức là ba hồi hướng kia.

– Hồi hướng mé thật.

– Hướng về Bồ-đề.

– Hướng về chúng sinh.

Đều nên phối hợp nhau để giải thích.

E2. Hỏi, đáp, dứt nghi:

Có hai:

G1. Hỏi.

G2. Đáp.

G1. Hỏi: Hỏi rằng: Trên nói Nhất tướng pháp giới, thể của Phật không hai. Vì sao chẳng phải chỉ niệm chân như, mà còn nhờ cầu học các hạnh lành.

G2. Đáp: Có hai:

H1. Đáp câu hỏi trước.

H2. Trình bày lại phương tiện.

H1. Đáp câu hỏi trước:

Có hai: – Dụ và Hợp.

Đáp rằng: thí như báu đại ma ni tánh trong sáng mà có vết nhơ, như người nhớ có tánh báu chẳng dùng các thứ phương tiện lau chùi, thì không bao giờ được sạch.

Trong hợp có ba:

Pháp chân như thể tánh thanh tịnh rỗng rang của chúng sinh, như thế mà có vô lượng phiền não cấu nhiễm. Như người tuy niệm chân như mà chẳng dùng các thứ phương tiện huân tu cũng không được thanh tịnh.

Giải thích lý do tu các hạnh. Vì cấu vô lượng vô biên khắp tất cả pháp, cho nên tu tất cả hạnh lành để đối trị, v.v…. Trở xuống.

Nói rõ hạnh lành thuận chân, vì các hạnh lành bên ngoài trái vọng nhiễm, bên trong thuận chân như. Như người tu hành tất cả pháp lành, tự nhiên quy thuận pháp chân như, v.v… Trở xuống.

H2. Trình bày lại phương tiện:

Có hai:

I 1. Nêu số.

I 2. Giải thích riêng.

I 1. Nêu số:

Nói lược phương tiện có bốn thứ, bốn thứ ấy là:

Trong đây giải thích bốn môn: Một môn đầu là Bất trụ đạo, hai môn kế là hạnh tự lợi, một môn sau là hạnh lợi tha. Trong phần Tự lợi có Đoạn đức và Trí đức, trong bốn môn này mỗi môn có ba nghĩa.

I 2. Giải thích riêng: K1. Kể tên.

K2. Giải thích tướng.

K3. Nói về ý tu hành, “Vì thuận theo pháp tánh”, v.v… trở xuống,

K1. Kể tên. Và K2. Giải thích tướng:

Thực hành phương tiện căn bản: Nghĩa là quán tất cả pháp tự tánh bất sinh, xa lìa vọng kiến chẳng trụ sinh tử. Quán tất cả pháp nhân duyên hòa hợp nghiệp quả chẳng mất, khởi tâm đại bi, tu các phước đức, nhiếp hóa chúng sinh, chẳng trụ Niết-bàn, vì thuận theo pháp tánh cho nên không trụ.

– Môn thứ nhất, Giải thích tướng có hai: Trí và Bi, là hạnh vô trụ.

Phương tiện hay dừng: nghĩa là hổ thẹn hối lỗi, dứt tất cả việc ác, chẳng để cho tăng trưởng. Vì thuận theo pháp tánh nên lìa các lỗi.

– Môn thứ hai, Siêng dứt hai ác, là môn chỉ trì.

Phát khởi gốc lành phương tiện tăng trưởng: Nghĩa là siêng năng cúng dường lễ bái Tam bảo, khen ngợi tùy hỷ, khuyến thỉnh chư Phật. Vì tâm thuần hậu qúi kính Tam bảo nên lòng tin được thêm lớn, mới có thể chí cầu đạo vô thượng. Lại do năng lực Phật pháp thêm che chở nên tiêu trừ nghiệp chướng, gốc lành chẳng lui sụt, vì thuận theo pháp tánh nên lìa si chướng.

– Môn thứ ba siêng tu hai điều lành, tức môn tác trì, Ở Đây giải thích tướng có hai:

Theo duyên mà tu hành.

Nói rõ tu hành thành tựu lợi ích, “Vì ưa thích Tam bảo”, v.v… trở xuống,

Nói về tu hành thành tựu lợi ích, có hai:

Sinh trí được lợi ích.

Nói rõ diệt chướng được lợi ích. “Lại nhờ năng lực Phật, pháp, tăng”, v.v… trở xuống,

Lại cung kính cùng quy kính, có bốn câu:

– Quý mà chẳng kính như mẹ đối với con.

– Kính mà chẳng qúi như người ở đối với chủ.

– Vừa kính vừa qúi như người tu hành đối với Tam bảo.

– Chẳng kính chẳng qúi như kẻ thù.

Phương tiện đại nguyện bình đẳng: Nghĩa là phát nguyện tận cùng ở đời vị lai hóa độ tất cả chúng sinh, không để dư sót, đều khiến rốt ráo Niết-bàn vô dư. Vì thuận theo pháp tánh không dứt mất, nên pháp tánh rộng lớn khắp tất cả chúng sinh bình đẳng không hai, chẳng nghĩ kia đây rốt ráo vắng lặng.

– Môn thứ tư, giải thích trong tướng:

“Tận vị lai, v.v…” là tâm lâu dài.

“Độ tất cả chúng sinh không để dư sót, v.v…” là tâm rộng lớn.

“Khiến được Niết-bàn vô dư” là tâm bậc nhất.

K1. Ý tu hành:

Có hai:

– Hiển bày tánh thuận.

– Nói về ý khởi nguyện lớn:

“Pháp tánh rộng lớn”, v.v… trở xuống: Cũng tức tâm thường hằng.

D3. Lợi ích phát tâm:

Có bốn:

E1. Hiển bày đức cao quý.

E2. Nói về lỗi nhỏ nhiệm.

E3. Chung cả quyền giáo.

E. Khen ngợi thực hành.

Bồ-tát phát tâm này thì được thấy chút phần Pháp thân. Vì thấy Pháp thân nên theo nguyện lực mà hiện tám thứ lợi ích chúng sinh. Nghĩa là từ trời Đâu-suất xuống vào thai, trụ thai, xuất thai, xuất gia, thành đạo, xoay bánh xe pháp, nhập niết-bàn. Nhưng Bồ-tát chưa gọi là Pháp thân, vì từ vô lượng quá khứ đến nay, nghiệp hữu lậu chưa thể quyết đoạn, theo chỗ sinh kia tương ưng với khổ vi tế, cũng chẳng phải nghiệp trói buộc, vì có năng lực đại nguyện tự tại.

E1. Hiển bày đức cao quý, có hai:

– Công đức tự lợi. Nghĩa là thực hành Bồ-tát Thập giải, nương vào môn tỷ quán thấy pháp giới, nên nói thấy chút phần. Cũng có thể nương vào môn nhân, không thấy Pháp thân.

– Nói về tám tướng lợi ích chúng sinh. “Vì thấy Pháp thân, v.v…” trở xuống, tức công đức lợi tha, trong hàng mới phát tâm trụ của Thập giải, hay làm việc này.

E2. Nói về lỗi sâu kín: “Nhưng, Bồ-tát”, v.v… trở xuống Có hai: – Khác địa thượng và Khác phàm phu.

– Khác địa thượng: Nói “Chưa gọi là Pháp thân” là vì chưa chứng chân, chỉ nương vào đức tin thấy một phần. (từ Sơ địa trở lên).

Giải thích lý do khác nhau “Vì kia từ quá khứ”, v.v… trở xuống.

Nghiệp cũ chưa quên. – Khổ sâu kín vẫn tiếp tục.

– Nói lên khác phàm phu: đã nghe nghiệp khổ chưa mất thì cho rằng không khác với phàm phu. Nay nói Bồ-tát ở nơi quả dài ngắn mà được tự tại, chẳng do hoặc nghiệp, nên nói chẳng phải nghiệp trói buộc. Vì lưu hoặc dùng năng lực bi nguyện làm lợi ích chúng sinh, nên nói dùng năng lực đại nguyện.

E3. Chung cho cả quyền giáo:

Có hai: – Nêu giáo và Giải thích chung.

Như trong kinh hoặc nói có lui sụt rơi vào đường ác, là chẳng phải kia thật lui sụt, chỉ vì Bồ-tát mới học chưa vào chánh vị mà biếng nhác, nên làm cho sợ hãi khiến kia mạnh mẻ lên.

Theo văn sẽ hiểu. Như kinh Anh Lạc Bổn Nghiệp chép: “Hành Thất trụ trở xuống, gọi là Thoái phần. Nếu không gặp thiện tri thức hoặc một kiếp cho đến mười kiếp lui sụt tâm Bồ-đề. Như trời Tịnh Mục, vương tử Pháp Tài, Xá-lợi-phất, v.v… muốn lên đệ Thất Trụ trong khoảng kia nhân duyên gặp ác tri thức, nên trở lại phàm phu trong đường bất thiện”. Cho đến nói rộng. Nay giải thích ý kinh này là lời phương tiện chẳng phải thật lui sụt, chỉ làm cho những người ấy sợ hãi, khiến không biếng nhác ngã mạn.

E4. Khen ngợi thực hành, có hai:

Lại, Bồ-tát này một phen phát tâm, sau xa lìa yếu hèn, rốt ráo chẳng sợ rơi vào hàng Nhị thừa.Nếu nghe vô lượng vô biên a-tăng-kỳ kiếp siêng năng khổ nhọc làm điều khó làm, mới được Niết-bàn, cũng không yếu hèn, vì tin biết tất cả pháp từ xưa đến nay tự là Niết-bàn.

Trong phần đầu: là đối với bất biến ở dưới, “Nếu nghe” trở xuống, là chẳng yếu hèn ở trên. “Vì tin biết, v.v…” trở xuống, là giải thích lý do chẳng yếu hèn. Đây là hiển bày văn kinh kia là quyền, chẳng phải thật.

C2. Giải hạnh phát tâm:

Có hai:

D1. Nêu chung khen ngợi sự cao quý:

Giải hạnh phát tâm nên biết càng cao quý.

Nghĩa là địa vị Tin viên mãn nhập giải ở trước, nay đây là hạnh viên mãn nhập Hồi hướng, lại phát tâm sâu xa, nên biết càng cao siêu.

D2. Nói về tướng cao siêu kia:

Có hai:

E1. Nêu thời nói lên sự cao siêu:

Vì Bồ-tát từ Sơ chánh tín đến nay ở a-tăng-kỳ thứ nhất kiếp sắp viên mãn.

Nghĩa là trong địa vị Thập Hướng so với Sơ địa kề mà gần, nên nói sắp được viên mãn.

E2. Nói về hạnh cao siêu kia:

Có hai: – Chung. – Riêng.

Chung: Đối với pháp chân như hiểu sâu hiện tiền chỗ tu lìa tướng.

“Đối với pháp chân như hiểu sâu hiện tiền” là nói về giải cao siêu, khác địa vị trước, nên nói là sâu. Khác địa vị sau nên nói là Giải.

“Chỗ tu lìa tướng” là nói về hạnh cao quý.

Riêng: Rộng về sáu độ nói hai phần này.

Vì biết thể pháp tánh không san tham, nên thuận theo tu hành đànba-la-mật. Vì biết pháp tánh không nhiễm lìa lỗi năm dục, nên thuận theo tu hành thi-ba-la-mật. Vì biết pháp tánh không khổ lìa sân não, nên thuận theo tu hành sằn-đề-ba-la-mật. Vì biết pháp tánh không có tướng thân tâm lìa biếng nhác, nên thuận theo tu hành tỳ-lơi-da-ba-la-mật. Vì biết pháp tánh thể thường định không loạn động, nên thuận theo tu hành thiền Ba-la-mật, vì biết pháp tánh thể sáng suốt lìa vô minh, nên thuận theo tu hành bát-nhã-ba-la-mật.

Nghĩa là: “Biết pháp tánh không san tham, v.v…” là nói lên hiểu sâu ở trên.

“Thuận theo tu hành, v.v…” là nói lên chỗ tu hành lìa tướng ở trên.

Nghĩa là tướng ba luân, vì từ giai vị Thập Hạnh trở lên, Bồ-tát được pháp không, thuận theo pháp giới tu hạnh sáu độ tức nương giải hạnh phát tâm. Vì cấu chướng trái chân, tu hành lìa chướng để thuận với Như. Ngoài ra văn khác rất dễ hiểu.

C3. Chứng phát tâm:

Có ba:

D1. Nói chung thể phát tâm.

D2. Nói về tướng phát tâm.

D3. Nói về đức thành tựu viên mãn.

D1. Nói chung Thể phát tâm:

Có ba:

E1. Nêu giai vị.

E2. Nói về hạnh thể, tức trí Căn bản.

E3. Nói về dụng cao siêu, tức trí Hậu đắc.

E1. Nêu địa vị:

Chứng phát tâm là từ tâm thanh tịnh địa, cho đến Bồ-tát ở giai vị rốt ráo, chứng được cảnh giới gì? Nghĩa là chân như, vì nương chuyển thức nói là cảnh giới, mà người chứng ngộ này không có cảnh giới, chỉ có trí chân như gọi là Pháp thân.

E2. Hạnh thể:

“Vì nương chuyển thức, v.v…” cảnh giới tức hiện thức, phải nương chuyển tướng mà khởi. Nhưng bổn trí chính lúc ngộ thật không có năng sở. Đâu thể được nói là làm cảnh giới. Nay chỉ đứng về mặt nghiệp thức chưa dứt trí Hậu đắc, nên chuyển thức, hiện thức vẫn còn. Tạm theo thức này nói chính trong lúc chứng ngộ quyết định có chân như làm cảnh sở chứng. Dùng trí Hậu đắc duyên ngược chính chứng ngộ cũng có hiện tương tự như cảnh, nên nói chuyển thức hiện, mà thật chân chứng năng sở bình đẳng, nên nói chỉ trí chân như gọi là Pháp thân.

E3. Dụng cao siêu của trí Hậu đắc, có bốn:

Thỉnh pháp là trên hết:

Có hai:

– Nói về thỉnh pháp và nói lên ý thỉnh kia. “Chỉ là”, v.v… trở xuống.

– Nói về tùy căn cơ, đức nhiều ít “Hoặc chỉ bày” trở xuống.

Có hai: – Ít và Nhiều. Trong mỗi thứ lại có hai: + Nêu dụng và Nói về ý.

– Tổng kết. “Năng chỉ bày như thế”

Nghĩa là Bồ-tát trong khoảng một niệm có thể đến các thế giới ở mười phương không sót một phương nào để cúng dường chư Phật, thỉnh Phật xoay xe pháp. Chỉ vì khai mở dẫn dắt chúng sinh được lợi ích, chẳng nương văn tự, hoặc thị hiện chóng thành Chánh giác vượt khỏi địa vị, để vì chúng sinh yếu hèn, hoặc nói: Ta trong vô lượng a-tăng-kỳ kiếp sẽ thành Phật đạo. Vì chúng sinh biếng nhác cho nên hay thị hiện vô số phương tiện không thể nghĩ bàn như thế.

– Nói về hạnh thật chẳng khác đức. “Mà thật” trở xuống.

Mà thật Bồ-tát chủng tánh căn phát tâm thì đồng, chỗ chứng cũng đồng, không có pháp vượt hơn. Vì tất cả Bồ-tát đều trải qua ba a-tăngkỳ kiếp.

Trong đó chủng tánh đồng tức nhân đồng, phát tâm đồng tức hạnh đồng, chỗ chứng đồng tức chứng chân đồng. “Không có” trở xuống, là nói về thời gian đồng. “Chỉ tùy” trở xuống, là nói ứng cơ dụng đức khác.

Chỉ tùy theo chúng sinh ở các thế giới khác nhau, chỗ thấy chỗ nghe căn dục tánh khác nhau, cho nên thị hiện chỗ thực hành cũng khác nhau:

D2. Nói về Tướng phát tâm:

Có hai:

E1. Khen ngợi nêu số nhỏ nhiệm.

E2. Kể tên giải thích tướng.

E1. Khen ngợi nêu số nhỏ nhiệm:

Lại tướng phát tâm của Bồ-tát có ba tướng tâm nhỏ nhiệm, ba tướng ấy là:

Chân tâm không phân biệt.

Phương tiện tâm tự nhiên biến hành lợi ích chúng sinh.

Nghiệp thức tâm nhỏ nhiệm khởi diệt.

E2. Giải thích tướng:

“Chân tâm” là trí Căn bản vô phân biệt.

“Phương tiện tâm” là trí Hậu đắc.

“Nghiệp thức” là hai trí, thức A-lại-da nương lý thật cũng có chuyển hiện, nay chỉ lược nêu tướng căn bản nhỏ nhiệm, đây chẳng phải đức phát tâm, chỉ nói lên Bồ-tát này lúc hai trí khởi, có lỗi sinh diệt nhỏ nhiệm, chẳng đồng với đức thuần tịnh của địa vị Phật, cho nên hợp thành tướng phát tâm.

Có hai:

E1. Chính hiển bày đức cao quý.

E2. Hỏi đáp dứt nghi.

E1. Nói về đức cao quý:

Có ba:

G1. Nói chung đức viên mãn để hiển bày vị.

G2. Nói riêng đức viên mãn, “Nghĩa là do một niệm”, v.v… trở xuống

G3. Dứt nghi ngờ.

G1. Nói chung đức viên mãn:

Lại công đức thành tựu viên mãn này của Bồ-tát, ở chỗ sắc rốt ráo thị hiện thân rất cao lớn ở tất cả thế gian.

Nói “Lại công đức thành tựu viên mãn này của Bồ-tát”, là tột cùng nhân vị, nên Điạ Luận nói:

“1. Hiện báo lợi ích, là thọ địa vị Phật”. Nói ở sắc rốt ráo, là quả vị hiển rõ. “2. Hậu báo lợi ích, là chỗ sinh trí của Ma-hê-thủ-la”. Vì sao? Vì tha thọ dụng báo thân ở cõi trời này.

Nghĩa thứ nhất cho rằng: Do nương Thập Vương hiển bày riêng Thập địa. Nhưng Bồ-tát hàng Thập địa nương ở Thiên vương này, ngay thân kia thị hiện thành Bồ-đề, nên ở cõi trời kia. Ngoài ra các nghĩa như trong phần nói riêng.

Nghĩa là do một niệm tương ưng tuệ, vô minh chóng dứt gọi là trí Nhất thiết chủng, tự nhiên mà có nghiệp không thể nghĩ bàn, hiện khắp mười phương làm lợi ích chúng sinh.

G2. Nói riêng đức viên mãn:

Nói: “Một niệm, v.v…” là nói hạnh tự lợi viên mãn, tức nói lên chân tâm ở trên thành tựu. Nghĩa là một niệm Thỉ giác khi đến nguồn tâm khế hợp Bản giác, nên nói là tương ưng. Do vô minh dứt, nên chiếu soi rõ các pháp, gọi là trí Nhất thiết chủng. Cũng có thể “Một niệm tương ưng tuệ” ở trước Vô gián đạo, “trí Nhất thiết chủng trí” là đạo giải thoát.

“Tự nhiên” trở xuống, là đức lợi tha, nói lên tâm phương tiện ở trên, chẳng đợi công dụng. Lại cũng có thể ban đầu là tướng trí tịnh, sau là nghiệp tướng không thể nghĩ bàn, nên nói biển giác theo nhiễm thành tựu.

G3. Dứt nghi ngờ: có hai: Hỏi và Đáp.

Hỏi có hai:

H1. Hỏi chủng trí ở trên.

H2. Hỏi nghiệp dụng tự nhiên ở trên.

H1. Hỏi chủng trí: Có hai: I 1. Hỏi I 2. Đáp.

Hỏi: Hư không vô biên nên thế giới vô biên. Thế giới vô biên nên chúng sinh vô biên. Chúng sinh vô biên nên tâm hành khác nhau cũng vô biên. Cảnh giới như thế không có giới hạn, khó biết khó hiểu. Nếu vô minh dứt không có tâm tưởng, làm sao rõ được danh từ trí nhất thiết chủng trí.

I 1. Hỏi có hai: Trình bày nghi: Nghĩa là tất cả hư không đều có thế giới, tất cả thế giới đều có chúng sinh, tất cả chúng sinh đều có tâm hành. Như thế giới hạn cảnh giới khó biết.

Đặt ra câu hỏi: “Nếu vô minh”, v.v… trở xuống, hỏi rằng: Chẳng phải ngay giới hạn vô biên cảnh ngoại khó biết, cũng ở bên trong dứt tâm tưởng làm sao được rõ?

I 2. Đáp: Đáp: Tất cả thế giới xưa nay nhất tâm lìa tưởng niệm.

Ý đáp rằng: Chỉ do bên trong dứt tâm vọng tưởng, bên ngoài sẽ biết rộng. Trong đây có ba:

K1. Lập chánh ý K2. Nêu phi để nói mất.

K3. Nêu thị để nói được.

K1. Lập chánh ý:

Nói: “Cảnh tuy vô biên” nhưng chẳng ngoài nhất tâm, đã chứng nguồn tâm sao không rõ được tức cảnh của tâm lìa vọng niệm, dứt tưởng niệm mới hay biết, nên nói tất cả cảnh giới.

Do chúng sinh vọng thấy cảnh giới, nên tâm có giới hạn. Do vọng khởi tưởng niệm, chẳng xứng pháp tánh, nên chẳng thể quyết rõ.

K2. Nêu phi để mất:

Có hai: – Cảnh vọng thấy có giới hạn.

Do vọng khởi tưởng. Giải thích thành nguyên do không thấy, tức nói có vọng thấy, nên có chỗ chẳng thấy.

Chư Phật Như Lai lìa tướng thấy, không chỗ nào chẳng trùm khắp.

Tâm chân thật tức là tánh tự thể của các pháp, hhiển chiếu tất cả pháp vọng, có dụng đại trí vô lượng phương tiện, tùy theo chỗ ứng của chúng sinh mà được hiểu, đều mở bày các thứ pháp nghĩa, nên được gọi là trí nhất thiết chủng.

K3. Nêu thị để rõ được:

Nói “Lìa tướng thấy, không chỗ nào mà chẳng trùm khắp” là nói không có vọng kiến nên đều thấy.

Nói “Tâm chân thật tức là tánh của các pháp”, là tâm Phật lìa vọng, thể một nguồn tâm, chẳng khác với vô thỉ, nên nói là “chân thật”. Nhưng, bản giác này ở trong môn Sinh diệt là thể của pháp vọng, nên nói “các pháp tánh”. Tất cả pháp vọng đều là tướng bản giác Phật tâm. Tướng đã hiện ở trên tự thể, do thể chiếu dụng kia, có gì khó rõ mà chẳng rõ biết, nên nói “tự thể hiển bày chiếu soi”. Trong văn trên nói: Nói dụng báo hóa của Phật là ở trong tâm chúng sinh”. Nay nói pháp vọng của chúng sinh thì ở trong tâm Phật. Bởi nguồn tâm không hai nên được như vậy. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Như tâm, Phật cũng thế, như Phật, chúng sinh cũng vậy” là nghĩa này.

Do đồng thể tri lực khởi phương tiện cao siêu, nhiếp hóa hữu tình, nên nói: “Có dụng đại trí, cho đến gọi là trí nhất thiết chủng”.

E3. Hỏi, đáp dứt nghi: Có hai:

G1. Hỏi G2. Đáp.

G1. Hỏi có: – Trình bày nghi và đặt câu hỏi. “Thế nào”, v.v… trở xuống.

Lại hỏi: Nếu chư Phật có nghiệp tự nhiên thì hiện tất cả sự lợi ích chúng sinh, tất cả chúng sinh hoặc thấy thân kia, hoặc biến, hoặc nghe kia nói đều được lợi ích. Vì sao thế gian phần nhiều không thấy được?

Đáp: chư Phật, Như Lai Pháp thân bình đẳng khắp tất cả chỗ, không có tác ý, mà nói tự nhiên. Chỉ nương chúng sinh hiện tâm chúng sinh. Giống như gương, nếu gương dính bụi thì sắc tượng không hiện. Cũng giống như thế, tâm chúng sinh có nhơ cấu thì Pháp thân không hiện.

G2. Đáp có: Pháp – Dụ – Hợp.

Do Pháp thân trùm khắp trong tâm chúng sinh, chỉ có căn cơ cảm ứng chán cầu, tức hiển bày dụng thô tế, chẳng phải do dụng công. Trong văn trên đã nói lên nghĩa này.

“Gương dính bụi” là nói căn cơ không cảm ứng với Phật, chẳng cho rằng phiền não hiện hành. Như Thiện Tinh trong tâm phiền não được thấy Phật.

Nói “Pháp thân chẳng hiện” là Pháp thân hay hiện dụng báo hóa. Nay y cứ cội gốc mà nói, nên nói Pháp thân chẳng hiện. Như mười hai thứ sâu xa trong Nhiếp Luận đều là đức của Pháp thân hiển bày sâu xa. Trong ấy nói: “Do mất nên Đức Thế tôn chẳng hiện, như trăng trong chậu bể”.

Giải thích: Chư Phật ở thế gian chẳng hiển hiện mà thân chư Phật ở thế gian thường trụ. Vì sao không hiển hiện? Thí như trong chậu bể, không giữ nước được. Vì không giữ nước được nên trong chậu bể thật có mặt trăng mà chẳng hiển hiện được. Như thế, chúng sinh không tu Xa-ma-tha (Chỉ) trôi chảy nối nhau, chỉ có lỗi lầm nối nhau. Ở kia thật có chư Phật cũng không hiển hiện. Nước ví như Xa-ma-tha, tánh mềm mại trôi chảy. Trong đây nương theo định được thấy Phật. Thấy Phật là thời quá khứ phải tu tập Tam-muội niệm Phật, đời này mới được thấy thân Phật. Chẳng cho rằng đời này phải nương vào định tâm mới được thấy Phật. Vì trong tâm tán loạn cũng thấy Phật.

Trong Nhiếp Luận kia, đứng về tụ định làm nhân thời quá khứ, so với hiện tại. Trong luận này đứng về căn cơ thuần thục làm nhân, chẳng phải đứng về không có hoặc mà có những việc này. Phần giải thích đã xong.

Chương IV. TU HÀNH TÍN TÂM

Từ trên đến đây nói Đại thừa, nay là nói về khởi tín.

Có ba:

A1. Đứng về người mà nêu ý.

A2. Đứng về pháp mà nói rộng.

A3. Nói lên phương tiện phòng sự lui sụt.

Đã nói xong phần giải thích, kế là nói phần tu hành tín tâm, là do chúng sinh chưa nhập chánh định, nên nói tu hành tín tâm.

A1. Đứng về người mà nêu ý:

Nói “Theo người chưa nhập chánh định tu hành tín tâm là người thuộc nhóm Bất định, có hai:

Tu tín viên mãn: Vì họ nói phát thú đạo tướng khiến nhập chánh định, là người cao quý ở trước.

Tu tín chưa viên mãn: người thấp kém ở trước, tức mục đích của văn này. Dùng bốn tín, năm hạnh khiến kia tu hành, khiến lòng tin thành tựu viên mãn. Tin thành tựu viên mãn rồi, trở lại nương vào phát 200 thú nhập chánh định.

A2. Đứng về pháp mà nói rộng:

Có hai:

B1. Hỏi hai câu.

B2. Lại đáp hai câu.

B1. Hỏi hai câu:

Thế nào là tín tâm? Làm sao tu hành?

B2. Lại đáp hai câu:

C1. Nói về tín tâm, nghĩa là nêu số và giải thích

C2. Đáp trong phần tu hành

C1. Nói về tín tâm, nghĩa là nêu số và giải thích:

Giải thích: Có bốn thứ chẳng hoại tín tâm.

Lược nói tín tâm có bốn thứ, bốn thứ tín tâm là:

Tin căn bản: Có chỗ cho rằng, Ưa niệm pháp chân như.

Trong phần đầu: Nói “Tín căn bản” là pháp chân như, là thầy của chư Phật, là nguồn cội sinh ra các hạnh, nên nói “căn bản”; chẳng phải ngay đây mới khởi tín tâm, cũng là ưa niệm quán sát, nên nói “ưa niệm”.

Trong phần kế là: Đứng về cảnh cao quý của Tam bảo để khởi tín tâm. Trong Tam bảo, mỗi bảo có hai là: Nêu đức cao quý của tín, và Khởi nhân cao quý để nguyện cầu, y theo văn sẽ thấy.

Tin Phật có vô lượng công đức, thường nhớ nghĩ gần gũi, cúng dường cung kính, phát khởi gốc lành mong cầu trí Nhất thiết.

Tin Pháp có lợi ích, lớn thường nhớ nghĩ tu hành các ba-la-mật.

Tin Tăng hay chân chánh tu hành tự lợi lợi tha, thường ưa gần gũi chúng Bồ-tát, cầu học hạnh như thật.

C2. Đáp trong phần tu hành:

Có ba:

D1. Nêu số, nêu ý.

D2. Hỏi số nêu tên.

D3. Nương câu hỏi giải thích riêng.

D1. Nêu số:

Tu hành có năm môn giúp thành tựu tín tâm này.

Nói “Thành tựu tín tâm này” là có lòng tin mà không thực hành thì lòng tin không vững chắc, lòng tin không vững chắc thì gặp duyên liền lui sụt, nên tu năm hạnh để thành tựu bốn tín tâm, không để lui sụt. Năm môn là:

1. Thí môn. 2. Giới môn. 3. Nhẫn môn. 4. Tinh tấn môn. 5. Chỉ

quán môn.

D2. Nêu tên:

Dùng chỉ quán hợp tu cùng vận hành mà chẳng hai, chỉ có năm môn.

D3. Giải thích riêng:

Có hai:

E1. Bốn hạnh là nói lược.

E2. Một hạnh là nói rộng.

E1. Bốn hạnh:

Có hai:

G1. Trình bày tướng bốn hạnh.

G2. Riêng đứng về môn tinh tấn nói phương tiện dứt chướng.

G1. Trình bày tướng bốn hạnh, bốn môn là bốn phần:

Thế nào là tu hành Thí môn? Nếu thấy tất cả chúng sinh đến mong cầu, hễ có tài vật gì thì tùy khả năng mà bố thí, để tự xả bỏ tâm tham, khiến họ vui mừng. Nếu thấy ách nạn sợ hãi ép ngặt, theo sức mình kham nhận mà bố thí vô úy. Nếu có chúng sinh đến cầu pháp, theo sức mình đã hiểu, phương tiện vì họ nói, chẳng nên tham cầu danh lợi cung kính, chỉ nghĩ tự lợi lợi tha hồi hướng Bồ-đề.

Thí môn. Có ba thứ là: thí tài, thí Vô úy và thí Pháp, y theo văn sẽ thấy.

Thế nào là tu hành giới môn? Có chỗ cho là: Không sát sinh, không trộm cắp, không dâm dục, không nói hai lưỡi, không nói lời ác, không nói thêu dệt; lìa bỏ tham lam, ganh ghét, dối trá, cong vạy, sân nhuế, tà kiến. Như người xuất gia chiết phục các phiền não, cũng nên xa lìa chỗ ồn náo, thường ở nơi vắng vẻ, tu tập ít muốn biết đủ và hạnh đầu-đà, v.v… Cho đến tội nhỏ tâm cũng sinh sợ hãi hổ thẹn, cầu sám hối không được coi thường. Đối với giới cấm của Như Lai phải giữ gìn sự chê bai, không để cho chúng sinh vọng khởi tội lỗi. Giới môn. Có ba là:

– Giới nhiếp luật nghi

– Giới nhiếp thiện pháp. “Nếu xuất gia” trở xuống. Trong đây cho đến “tội nhỏ” trở xuống, là nói rõ tâm hộ trì giới.

– Giới nhiếp chúng sinh. “Phải giữ gìn sự chê bai” trở xuống.

Thế nào là tu hành Nhẫn môn? Có chỗ cho là nên nhẫn nhục tâm não hại của người, không có tâm trả thù, cũng nên nhẫn các pháp: Lợi, suy, hủy, dự, xưng, cơ, khổ, lạc.

Nhẫn môn. Có hai:

– Nhẫn vì người khác không mong cầu có sự lợi ích.

– Nói về cảnh trái thuận tâm kia hỷ nộ bất động, an vui chịu đựng.

“Cũng nên nhẫn”, v.v… trở xuống.

+ Lợi là tài vật đem đến cho mình.

+ Suy là tổn hao lấn bức.

+ Hủy là vượt hơn lỗi để hủy nhục.

+ Dự là trội hơn đức mà khen ngợi.

+ Xưng là y nơi thật đức mà khen.

+ Cơ là y lỗi thật mà che bai.

+ Khổ là ép ngặt thân mình.

+ Lạc là tinh thần vui tươi.

Thế nào là tu hành Tinh tấn môn? Có chỗ cho là đối với các việc lành tâm không biếng nhác lui sụt, lập chí vững chắc, xa lìa yếu hèn, nên nhớ từ quá khứ lâu xa đến nay, luống thọ tất cả khổ lớn ở thân không có lợi ích, nên phải siêng năng tu các công đức, tự lợi lợi tha để chóng lìa các khổ.

Môn tinh tấn. Có ba:

– Siêng năng tinh tấn mạnh mẽ.

– Nói về khó hoại được tinh tấn. “Lập chí” trở xuống,

– Nói về không có tinh tấn. “Phải nhớ”, v.v… trở xuống, Do nhớ mình lâu dài, luống chịu khổ lớn để tự mình siêng năng khích lệ tu điều lành không nhàm chán.

“Vì thế” trở xuống, là tổng kết Khuyến khích lợi ích tu hành.

G2. Trình bày phương tiện ngăn ngừa sự lui sụt:

Có hai:

H1. Chướng.

H2. Đối trị.

H1. Chướng:

Lại nữa, nếu người tuy tu hành tín tâm, do từ đời trước đến nay, thường có tội nặng, có nghiệp gây ra chướng ngại nên bị tà ma ác quỉ làm cho phiền não, hoặc bị các việc thế gian trói buộc, hoặc bị bệnh khổ, nên có nhiều chướng ngại như thế.

– Nói bên trong có nghiệp chướng làm nhân.

– Nói bên ngoài chiêu cảm tà ma não loạn, là báo chướng.

H2. Đối trị:

Vì thế nên phải tinh tấn mạnh mẽ, ngày đêm siêng năng sáu thời lễ bái chư Phật, thành tâm quán tưởng sám hối, khuyến thỉnh tùy hỷ hồi hướng Bồ-đề, nên chẳng dừng bỏ mới khỏi các chướng, gốc lành thêm lớn.

“Sáu thời lễ bái…” là nói chung phương tiện dứt chướng, như người mắc nợ, cậy vào sức vua thì người chủ nợ không làm sao đòi được. Cũng thế, người tu hành lễ bái chư Phật, chư Phật che chở sẽ thoát khỏi các chướng. “Sám hối”, v.v… trở xuống, là trừ riêng bốn chướng:

Các nghiệp ác làm chướng nên sám hối trừ diệt.

Hủy báng chánh pháp làm chướng nên phải khuyến thỉnh trừ diệt.

Ganh tỵ vì người hơn mình làm chướng nên lấy tùy hỷ để đối trị.

Ưa ba cõi làm chướng nên dùng hồi hướng để đối trị.

Do bốn chướng này làm cho người tu hành không phát khởi các hạnh, không hướng về Bồ-đề, cho nên tu bốn hạnh để đối trị.

Một câu đầu là đối trị nghiệp chướng dùng môn chỉ trì, ba câu sau là gốc lành lâu bền dùng môn tác trì.

E2. Môn Chỉ Quán: (Một hạnh là nói rộng) Có hai:

G1. Nương câu hỏi.

G2. Giải thích tướng.

G2. Giải thích tướng:

Có hai:

H1. Lược nói.

H2. Nói rộng.

H1. Lược:

Có ba: Chỉ. – Quán và thuận cả hai.

Thế nào là tu hành môn Chỉ Quán? Cái gọi chỉ là dừng tất cả tướng cảnh giới, thuận theo nghĩa Xa-ma-tha quán.

“Dừng tất cả tướng cảnh giới” là trước do phân biệt tạo các trần bên ngoài, nay dùng giác tuệ đạo lý duy thức phá tướng các trần bên ngoài, tướng trần đã dừng thì không còn phân biệt, nên nói là Chỉ. Đây là phương tiện.

“Thuận Xa-ma-tha, v.v…” chính trình bày về Chỉ. Xa-ma-tha, Hán dịch là Chỉ. Đứng về phương tiện nên còn ngôn ngữ của xứ này, đứng về chánh chỉ còn là tiếng Phạn. Tỳ-bà-xá-na cũng giống như thế. Lúc dùng cả hai đều hiện tiền mới gọi là Chỉ quán. Nay chỉ nói thuận theo.

Cái gọi là Quán, nghĩa là phân biệt tướng nhân duyên sinh diệt, thuận theo nghĩa Tỳ-bà-xá-na quán.

“Phân biệt tướng sinh diệt” là nương vào môn Sinh diệt quán sát pháp tướng, nên nói là phân biệt. Như phẩm Bồ-tát Điạ trong luận Du-già nói: “Bồ-tát ở đây tức đối với các pháp không hề phân biệt”, nên biết gọi là Chỉ.

Nếu đối với các pháp thắng nghĩa lý thú và an lập vô lượng lý thú, trí tuệ mầu nhiệm của thế tục gọi là Quán. Biết nương môn Chân như dừng các cảnh tướng không phân biệt, tức thành trí căn bản vô phân biệt. Nương môn Sinh diệt phân biệt các tướng, quán các lý thú tức thành trí hậu đắc. Nhưng hai môn này chỉ nhất tâm, cho nên vận dụng cả hai mới được gọi là chánh Chỉ quán.

“Thế nào?”, v.v… trở xuống, là giải thích nghĩa Thuận cả hai.

Thế nào là thuận theo? Vì hai nghĩa này dần dần tu tập không xa lìa nhau, cả hai hiện tiền.

“Dần dần tu tập” là nói lên phương tiện hay tùy thuận.

“Cả hai hiện tiền” là nói Chỉ quán thuận theo, tướng thuận theo mà luận.

Chỉ gọi là Định, Quán gọi là Tuệ. Thật ra mà nói thì định chung cho cả Chỉ quán, tuệ cũng như thế. Như Nhiếp Luận dịch vào đời Lương chép: “Thập ba-la-mật chung cho cả hai thể là: Chẳng tán loạn làm thể, nghĩa là chỉ định; và Chẳng điên đảo làm thể, nghĩa là quán tuệ”.

H2 Rộng:

Có ba: I 1. Chỉ. – I 2. Quán – I 3. Song vận.

I 1. Chỉ:

Có năm:

K1. Phương pháp tu Chỉ.

K2. Nói về công năng cao siêu của Chỉ.

K3. Nói về việc ma.

K. Phân biệt ngụy khác chân.

K5. Chỉ bày khuyến tu lợi ích.

K1. Phương pháp tu Chỉ:

Có hai:

L1. Người cao siêu sẽ có thể vào được L2. Vì có chướng nên không được.

L1. Người cao siêu sẽ vào được:

Có hai:

M1. Nhờ phương tiện vắng lặng dứt tâm tu Chỉ.

M2. Nói về Chỉ thành tựu được định, trừ chướng không lui sụt. “Tu tập lâu được thuần thục” trở xuống.

M1. Nhờ phương tiện vắng lặng dứt tâm tu Chỉ:

Có hai:

N1. Theo duyên bên ngoài.

N2. Nội tâm an tịnh.

N1. Theo duyên bên ngoài:

Nếu người tu Chỉ ở chỗ an tĩnh, nhiếp niệm ngồi thẳng.

“Ở chỗ an tĩnh” là duyên tu Chỉ, nói đầy đủ có năm duyên:

+ Ở chỗ an tĩnh vắng vẻ, nghĩa là ở núi rừng và các nơi an tịnh. Nếu ở trong xóm làng sẽ bị ồn náo.

+ Giữ giới thanh tịnh, nghĩa là lìa nghiệp chướng. Nếu không thanh tịnh thì phải sám hối.

+ Y phục, ăn uống đầy đủ.

+ Gặp được thiện tri thức.

+ Dứt các duyên.

Nay lược nêu phần đầu nói là chỗ an tĩnh. “Ngồi thẳng” là điều phục thân kia. “Nhiếp niệm” là điều phục tâm kia. Điều phục thân là trước ở chỗ vắng ngồi yên, để được an ổn lâu không ngăn ngại. Kế là ngồi ngay ngắn hoặc ngồi kiết già, hoặc ngồi bán già. Nếu ngồi kiết già trước đặt chân trái lên đùi phải, kéo sát gần thân, khiến ngón chân ngang với đùa. Kế đến đặt chân phải lên đùi trái, kê khăn cho thẳng đều, không để khi ngồi bị lệch lạc. Kế là đặt tay trái lên tay phải, chồng tay lên nhau đặt trên lòng bàn chân, kéo sát gần thân, tâm được an. Kế là nhiếp niệm, trước lay động thân kia, khai các chi tiết làm bảy hoạc tám lần, như tự xoa bóp, cũng chớ để tay chân lệch chỗ khác, vững mình ngồi thẳng cho xương sống cân đối, chớ cong chớ quá thẳng. Kế đến đầu cổ khiến mũi và rốn cân đối, không nghiêng không lệch, không cúi không ngửa, mặt mũi chánh trụ. Kế là đặt lưỡi lên ổ gà, mắt vừa khép, không nhắm hoàn toàn. Rộng như Thiền sư Trí Khải nói trong Chỉ Quán hai quyển, thuộc tông Thiên Thai. Nay lược nói chung, nên nói là ngồi thẳng.

“Điều tâm” là người tu hành đời mạt pháp, người chánh nguyện thì ít, người cầu tà thì nhiều, dối hiện nghi thức vắng lặng. Nếu cầu danh lợi, tâm đã không chánh, thì không do đâu được định. Lìa cầu tà này nên nói nhiếp niệm. Ý muốn cho tâm quán kia tương ưng với lý, tự độ độ tha đến đạo Vô thượng, gọi là Nhiếp niệm.

Từ trên đến đây là nói chung nghi thức tu Chỉ.

N2. Nội tâm tự an Từ đây trở xuống là nói về tu Chỉ:

Có hai:

O1. Theo ngồi tu Chỉ.

O2. Theo oai nghi tu Chỉ.

O1. Ngồi tu chỉ:

Có hai:

– Lìa cảnh điên đảo.

– Dứt tâm vọng tuởng.

Lìa cảnh điên đảo:

Chẳng nương hơi thở, chẳng nương hình sắc, chẳng nương hư không, chẳng nuơng đất nước gió lửa, cho đến không nương sự thấy nghe hiểu biết. Tất cả tưởng theo niệm đều dứt, cũng dẹp ý tưởng dứt. Do tất cả pháp xưa nay không tướng, niệm niệm chẳng sinh, niệm niệm chẳng diệt.

Nói “Chẳng nương hơi thở” là cảnh quán sổ tức.

“Hình sắc” là nương bốn tướng xương xanh, vàng, đỏ, trắng.

“Năm tướng hư không, đất, nước…” đều là cảnh giới của định duyên.

“Thấy nghe hiểu biết” là thức nhất thiết xứ, chung ở trước thành mười nhất thiết xứ. Cũng có thể là thấy nghe, v.v… là nêu lúc tán tâm chấp sáu trần, đối với các trần này tìm cầu được thấu đạt. Biết chỉ tự tâm, không nhờ duyên nên nói chẳng nương.

Dứt tâm vọng tưởng nương cảnh điên đảo ở trước:

Sinh tâm cũng dẹp nên nói tất cả các tưởng theo niệm đều dứt. Bị trừ đã xong thì cái năng trừ cũng không lập, rõ ràng được vắng lặng mới gọi là Chỉ. Nên nói cũng dẹp luôn tưởng trừ. Vì sao? Vì tất cả tâm tưởng năng trừ sở trừ đều chẳng còn.

Giải thích: Vì tất cả pháp xưa nay không tưởng, nay muốn thuận theo pháp tánh nên phải như vậy.

“Niệm niệm chẳng sinh diệt, v.v…” là chuyển qua giải thích lý do pháp tánh vô tướng, bởi tưởng không có tự tánh, xét đến cùng là không, nên tự thể không sinh diệt để được. Đây tức sinh mà không sinh, tức diệt mà không diệt, như nước sóng nắng vốn tự khô.

Cũng thường chẳng được theo ngoài tâm nhớ nghĩ cảnh giới, sau dùng tâm trừ tâm, nếu tâm rong ruổi tán loạn, thì phải nhiếp trụ ở chánh niệm, chánh niệm này nên biết chỉ duy tâm không có cảnh giới bên ngoài. Ngay tâm này cũng không có tự tướng, niệm niệm không thật có.

“Cũng không được theo tâm” cho đến “dùng tâm trừ tâm”, nếu ngoài tâm có cảnh thật, lúc tâm duyên cảnh này đè nén không để duyên cũng không được, nên sau dùng tâm trừ tâm. Nay ngoài tâm đã không có trần, thì chỗ chấp không tướng, chỗ chấp không tướng, cái hay chấp tự nhiên chẳng sinh, đâu nhọc sau lấy tâm mới được trừ.

“Nếu tâm rong ruổi tán loạn, thì nhiếp trụ chánh niệm”, lúc mới tập có nhiều rong ruổi, cho nên khiếnnhiếp chánh trụ. Cái gì chánh niệm mà nói khiến trụ? Nghĩa là duy tâm không có cảnh ngoài, vọng cảnh đã không duy tâm cũng vắng lặng, nên nói “ngay cả tâm này cũng không tự tướng, niệm niệm không thật có”.

O2. Theo oai nghi tu Chỉ:

Từ chỗ ngồi đứng dậy, qua lại, tiến dừng, tất cả động tác ở bất cứ lúc nào, thường nhớ phương tiện thuận theo quán sát.

“Từ chỗ ngồi đứng dậy” cho đến “thuận theo quán sát”, chẳng phải ngay lúc ngồi thường tu chỉ này, mà trong tất cả oai nghi khác, trong bất cứ lúc nào cũng thường suy tư phương tiện, thuận theo nơi đạo lý pháp tánh bất động.

M1. Chỉ thành tựu được định:

Có ba câu:

Tu tập từ lâu thuần thục tâm kia được trụ, do tâm trụ nên dần dần nhạy bén thuận theo, được vào Tam-muội chân như, hàng phục sâu phiền não tín tâm thêm lớn, mau được chẳng lui sụt.

– Chỉ thành tựu

– Nói về sắc chỉ giúp tâm, tâm nhạy bén được tịnh. “Do tâm trụ, v.v…” trở xuống,

– Nói phá mê lầm được vào địa vị, tức tín viên mãn được nhập trụ, lược biện lợi ích của định. “Hàng phục sâu phiền não”, v.v… trở xuống,

Từ trên đến đây là nói có thể vào, sau đây nói chẳng thể vào.

L2. Vì chướng nên không được:

Chỉ trừ những người nghi ngờ chẳng tin, phỉ báng, tội nặng, nghiệp chướng, ngã mạn, biếng nhác. Những người như thế không thể vào được.

Có sáu chướng nên không vào được:

Nghi ngờ là đối với lý còn do dự.

Người chẳng tin là xiển-đề.

Người phỉ báng là ngoại đạo.

Tội nặng nghiệp chướng là người phạm năm tội nghịch, bốn tội trọng.

Ngã mạn là cậy mình tự cao.

Biếng nhác là buông lung, không siêng năng.

Trong sáu thứ này, người nào vướng một thứ cũng không được vào.

K2. Nói về Công năng cao quý của Chỉ:

Có hai:

– Sinh ra Tam-muội và nhất hạnh.

– Sinh vô lượng Tam-muội. “Nên biết”, v.v… trở xuống.

Lại nữa, nương Tam-muội này thì biết được nhất tướng pháp giới. Nghĩa là tất cả Pháp thân chư Phật, cùng thân chúng sinh bình đẳng không hai, tức gọi là Tam-muội Nhất hạnh. Nên biết chân như là căn bản Tam-muội, nếu người tu hành thì dần dần sẽ sinh vô lượng Tammuội.

Hay sinh ra Tam-muội nhất hạnh: Có ba:

– Lập:

– Giải thích, nêu bày tướng kia. “Nghĩa là tất cả”, v.v… trở xuống.

– Nêu bày tên kia. “Tức gọi”, v.v… trở xuống.

“Tam-muội nhất hạnh, như phẩm Văn-thù kinh Bát-nhã nói: “Thế nào gọi là Tam-muội Nhất hạnh? Phật dạy nhất tướng pháp giới duyên với pháp giới, gọi là Tam-muội Nhất hạnh”. Vào Tam-muội Nhất hạnh là biết tất cả Hằng xa pháp giới chư Phật không có tướng khác nhau, cho đến nói rộng, vì Tam-muội chân như này sinh ra vô lượng Tam-muội như thế, gọi là Tam-muội căn bản.

K3. Nói về việc ma:

Có hai:

L1. Lược.

L2. Rộng.

L1. Lược:

Có hai:

M1. Chướng.

M2. Đối trị.

M1. Chướng:

Hoặc có chúng sinh không có năng lực gốc lành, bị các ma ngoại đạo, quỷ thần làm hoặc loạn. Nếu trong lúc ngồi hiện hình làm cho sợ hãi, hoặc hiện các tướng nam nữ đẹp đẽ.

Ma là ma trời, Hán dịch là chướng ngại. Quỷ là quỷ đôi dịch, thần là thần tinh mị. Các quỷ thần như thế nhiễu loạn Phật pháp, khiến vào đường tà, nên gọi là ngoại đạo. Ba loài như thế biến tạo ra ba thứ, năm trần phá hoại tâm lành của người.

“Ở nơi chỗ ngồi hiện hình làm cho sợ hãi” là thị hiện thân đáng sợ làm cho sợ hãi để thất chí.

“Hoặc nam nữ đẹp đẽ” là hiện hình dáng đáng yêu làm mê hoặc để sinh nhiễm.

“Các tướng” là hiện năm trần chẳng trái chẳng thuận bình đẳng, động loạn tâm người.

M2. Đối trị:

“Nên nhớ” trở xuống là thứ lớp nói về Đối trị:

Nên nhớ cảnh giới duy tâm thì diệt, không hề bị não loạn.

Tất cả các cảnh còn chỉ ở nơi tâm, huống chi trong lúc ngồi mà hiện các cảnh này ư! Nên quán sát duy tâm, cảnh ma diệt theo, không thể não loạn, vì duy tâm này chẳng phải chỗ biết của ma. Đây là pháp dẹp chung, môn dẹp riêng để đối trị các ma, nên tụng Bát-nhã Đại thừa và thầm tụng chú trị ma.

“Quỷ Đôi dịch” hoặc như trùng kiến bám vào đầu mặt người, châm chích, hoặc đánh đập hai bên hông người trở xuống, ôm giữ nơi người. Hoặc nói những âm thanh ồn náo và tạo các hình thú, tướng lạ chẳng phải một, đến khuấy rối hành giả, thì nên nhắm mắt nhất tâm thầm quở mắng, nói rằng: “Nay ta biết ngươi, ngươi la loại ăn mùi hôi thối trộm thịt cá trong cõi Diêm-phù-đề, tà kiến ưa phá các giới, nay ta trì giới không hề sợ ngươi”. Nếu người xuất gia nên tụng giới luật, nếu người tại gia nên tụng giới bổn Bồ-tát, hoặc tụng ba quy y, năm giới cấm, quỷ liền bỏ đi.

“Thần tinh mị” nghĩa là đi tuần mười hai thời, hay biến các thứ hình sắc, hoặc hiện tướng nam nữ trẻ, hoặc hiện hình người già và thân tướng đáng sợ. Chẳng phải một mà rất nhiều, đến khuấy rối hành giả, kia muốn não loạn người, đúng giờ sẽ đến. Nếu phần nhiều đến vào giờ dần thì đó là loài hổ dữ, nếu thường đến vào giờ mão thì đó là thỏ nai, cho đến thường đến vào giờ sửu thì đó là loài trâu. Hành giả thường dụng công phu giờ này thì biết tinh mị kia đi tuần, gọi tên chúng quở trách, thì chúng liền biến mất. Những thứ này đều như trong thiền kinh và Chỉ Quán của Thiền sư Trí Khải có nói rộng.

Từ trên đến đây lược nói đã xong.

L2. Nói rộng về việc ma:

Có hai:

M1. Hiển bày việc ma.

M2. Nói về đối trị: “Vì nghĩa này”, v.v… trở xuống,

M1. Hiển bày việc ma:

Có: Mười việc và Năm đối.

Hiện hình nói pháp:

“Hoặc khiến người”, v.v… trở xuống, được khởi biện chung.

“Lại khiến người”, v.v… trở xuống, là khởi hoặc tạo nghiệp.

“Cũng khiến cho người”, v.v… trở xuống, lãnh thọ định được thiền.

“Hoặc khiến người ăn không phần hạn”, v.v… trở xuống, thọ thực nhan sắc thay đổi.

Hoặc hiện hình trời, hình Bồ-tát, cũng tạo hình Như Lai, tướng tốt đầy đủ. Hoặc nói đà-la-ni, hoặc nói bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ. Hoặc nói bình đẳng không, vô tướng, vô nguyện, vô oán, vô thân, vô nhân, vô quả, rốt ráo vắng lặng là chân Niết-bàn. Hoặc khiến người biết việc túc mạng thời quá khứ, cũng biết việc vị lai được tha tâm trí, biện tài vô ngại, làm cho chúng sinh tham đắm việc danh lợi thế gian. Lại khiến người lúc sân, lúc hỷ tánh bất thường, hoặc nặng về từ ái, ngủ nhiều, bệnh nhiều, tâm biếng nhác. Hoặc mới khởi tinh tấn, sau liền dừng bỏ sinh tâm bất tín, thường nghi thường lo. Hoặc xả bỏ hạnh cao quý ở trước, lại tu tạp nghiệp. Nếu đắm trước việc thế gian, các thứ lôi kéo trói buộc, cũng khiến người được các Tam-muội, chút phần tương tự, đều là chỗ được của ngoại đạo, chẳng phải Tam-muội chân thật, hoặc lại khiến người một ngày, hai ngày, ba ngày cho đến bảy ngày, trụ trong định, được ăn uống thức thơm ngon tự nhiên, thân tâm khoan khoái, không đói không khát, khiến người ưa đắm. Hoặc cũng làm cho ăn không phần hạn, chợt nhiều chợt ít, nhan sắc thay đổi.

Y theo văn sẽ thấy.

Hỏi: Như hiện hình Phật, Bồ-tát nói pháp sâu xa, hoặc là gốc lành đời trước phát khởi. Làm sao phân biệt được tà hay chánh?

Đáp: Việc này thật khó. Vì sao? Nếu là việc làm của ma cho là tướng lành mà tâm chấp trước thì rơi vào lưới tà, nếu là cảnh giới gốc lành phát khởi cho là việc ma, nên tâm nghi xa lìa thì lui sụt gốc lành, không bao giờ tiến thú được. Thế nên, tà chánh thật khó phân biệt. Nay lại y theo người xưa tương truyền lược dùng ba pháp để nghiệm.

  1. Dùng định nghiền ngẫm.
  2. Nương tu xưa mà đối trị.
  3. Dùng trí tuệ quán sát.

Như kinh nói: “Muốn biết vàng ròng nên dùng ba pháp để thử. Nghĩa là đốt, đập, mài”. Người tu hành cũng như thế, khó có thể phân biệt biết được. Nếu muốn phân biệt cũng phải dùng ba pháp để nghiệm.

Nên cùng cộng sự, cộng sự chẳng biết thì nên ở chung, ở chung cũng chẳng biết thì nên dùng trí huệ quán sát. Nay mượn ý này để nghiệm tà chánh, như cảnh tướng trong định khi phát khởi thì tà chánh khó biết, nên vào sâu tâm định, ở trong cảnh kia chẳng lấy chẳng bỏ, chỉ trụ định bình đẳng. Nếu là chỗ phát khởi của gốc lành thì sức định càng sâu, gốc lành càng phát khởi. Nếu do ma làm ra thì chẳng bao lâu sẽ tự hoại.

Nương vào tu xưa để đối trị, như tu xưa là thiền quán bất tịnh, nay nương theo xưa tu quán bất tịnh, nếu tu như thế mà cảnh giới càng sáng thì chẳng luống dối, nếu dùng tu xưa đối trị mà dần dần hoại diệt, thì nên biết là tà.

Dùng trí tuệ quán sát, quán chỗ tướng phát khởi suy nghiệm cội nguồn chẳng thấy chỗ sinh, biết sâu vắng lặng tâm không mê đắm, tà sẽ tự diệt, chánh sẽ tự hiện. Như đốt vàng ròng sắc kia càng sáng, nếu là vàng giả thì sẽ tan hoại. Trong đây thật giả nên biết cũng giống như thế. Định ví như mài, tu xưa đối trị cũng như đập, trí tuệ quán sát cũng như đốt. Dùng ba pháp này để nghiệm thì sẽ biết được tà, chánh.

Vì nghĩa này nên hành giả thường phải dùng trí tuệ quán sát, chớ để cho tâm này rơi vào lưới tà, phải siêng năng chánh niệm chẳng chấp, chẳng mê đắm, thì sẽ xa lìa các nghiệp chướng này.

M2. Đối trị:

“Trí tuệ quán sát”, là nương giác tuệ tùy phần của mình, quán các việc ma xét mà đối trị. Nếu không quán sát thì rơi vào đường tà, nên nói chớ để rơi vào lưới tà. Đây là nghiệm phần thứ ba trí tuệ quán sát trong ba thứ.

“Phải siêng năng chánh niệm chẳng chấp chẳng mê đắm là nói chung hai pháp trước trong ba pháp. Dùng môn Chỉ của Đại thừa này tu lý mà định lại không có hướng khác. Phần đầu là nghiền ngẫm định đều nương tu xưa, lại không có pháp khác, do đó hợp pháp để nói, vì nương môn Chỉ xưa.

“Không chấp, không mê đắm”: là tà chẳng liên can với chánh, tự nhiên tan biến. Nếu chấp trước thì trái chánh mà vào tà, nếu không chấp trước thì do tà mà hiển chánh. Cho nên phân chia tà chánh quan trọng ở chỗ mê đắm hay không mê đắm. Không mê đắm thì không chướng không lìa, nên nói xa lìa các nghiệp chướng. Như luận Trí Độ chép: “Trừ thật tướng các pháp kia ra, các loại khác đều là việc ma. Kệ rằng:

Nếu phân biệt nhớ tưởng

Tức là lưới của ma

Chẳng động chẳng phân biệt

Đây tức là pháp ấn.

Chính là nghĩa này vậy.

K4. Phân biệt ngụy khác chân:

Có hai:

L1. Nêu hai thứ định trong và ngoài để phân biệt tà chánh.

L2. Đối với hai định lý và sự để nói chân ngụy.

“Nếu các phàm phu”, v.v… trở xuống,

L1. Nêu hai thứ định trong và ngoài để phân biệt tà chánh:

Nói về Tà định:

Nên biết Tam-muội của ngoại đạo, đều chẳng lìa tâm ái kiến, ngã mạn, tham đắm danh lợi cung kính ở thế gian.

Nghĩa là sử ngã kiến, ngã ái, ngã mạn khiến thường tương ưng. Nói: “Tham, v.v…” là bên trong mê đắm tà định, bên ngoài tham danh lợi. Lại tất cả thiền định không thể giảm bớt phiền não, đều không thể y cứ.

Nói về Chánh định.

Chân như Tam-muội chẳng trụ tướng thấy, chẳng trụ tướng được, cho đến xuất định cũng không biếng nhác, tất cả phiền não dần đần cạn mỏng.

Nghĩa là khi ở định mà không mê đắm vị, do quên tâm nên không trụ chỗ thấy, do quên cảnh nên không trụ chỗ được. Xuất định cũng không kiêu mạn, nhờ vào định nên tham sân si dần mỏng, tức là tướng chánh định, nên nói “chân như” cho đến “dần mỏng”.

L2. Đối với hai định lý và sự để chân ngụy:

Nói về Lý định:

Nếu các phàm phu không tu tập pháp Tam-muội này, mà được vào chủng tánh của Như Lai thì không có việc đó.

Nghĩa là hành giả Bồ-tát tu Đại thừa, phải nương Tam-muội chân như này mới vào chủng tánh trong địa vị bất thoái. Trừ đây không còn con đường nào để vào, nên nói: “Nếu các phàm phu” cho đến “không có việc đó”.

Trong đây chủng tánh là đứng về địa vị không lui sụt của hàng Thập Trụ trở lên mà biện.

Nói về Sự định. “Do tu thế gian, v.v…” trở xuống.

Do tu các thiền Tam-muội thế gian, phần nhiều sinh đắm trước vị, nương vào ngã kiến, lệ thuộc hai cõi, cùng chung với ngoại đạo. Nếu lìa chỗ hộ trì của thiện tri thức thì khởi kiến chấp ngoại đạo.

Nghĩa là các định bốn thiền, bốn không, v.v… của thế gian và bất tịnh an ban. Nêu định chấp cảnh tướng đều gọi là định thế gian. Càng định đắm trước vị nên chẳng lìa ngã, nên nói: “cùng chung với ngoại đạo. Cùng là đồng được sự định này. Do kia cùng nên nếu được năng lực giúp đỡ của bạn lành hoặc có thể được vào Phật pháp. Nếu lìa bạn lành thì vào đường tà.

K2. Chỉ bày khuyến tu lợi ích:

Đời sau lợi ích vô lượng vô biên, hiện đời cũng được lợi ích. Lược trình bày mười thứ.

Có hai: – Giải thích riêng:

Nêu chung: Lại nữa, tinh tấn siêng năng tu học Tam-muội này, hiện đời sẽ được mười thứ lợi ích, mười thứ là:

Giải thích riêng:

1. Thường được chư Phật, Bồ-tát hộ niệm.

Bạn lành được lợi ích nhiếp hộ: Do tu Tam-muội Chân như này, mà được pháp chư Phật, Bồ-tát hộ niệm, được tinh tấn mạnh mẽ, không lui sụt.

Có bốn câu được lợi ích lìa chướng:

Hai câu đầu là lìa chướng duyên ác bên ngoài.

Chẳng bị các ma quỷ ác làm cho sợ hãi.

Không bị chín mươi lăm thứ ngoại đạo, quỷ thần làm hoặc loạn.

Nghĩa là ban đầu lìa ma trời hiện hình, sau lìa ngoại đạo tà hoặc.

Hai câu kế là lìa nghiệp chướng mê lầm bên trong.

Xa lìa phỉ báng pháp sâu xa, tội nặng nghiệp chướng dần dần cạn mỏng.

Dứt tất cả nghi và các ác giác quán.

Nghĩa là trước lìa nghiệp ác, sau diệt hoặc chướng.

Trong phần Nghiệp: “Lìa phỉ báng, v.v…” là không khởi nghiệp mới. “Tội nặng dần dần cạn mỏng” là nghiệp nặng được nhẹ. Kế là Năm hạnh thành tựu vững chắc:

Đối với cảnh giới của các Như Lai lòng tin được thêm lớn.

Xa lìa lo buồn hối hận, đối với sinh tử mạnh mẽ không yếu đuối.

Tâm kia nhu hòa, xả bỏ kiêu mạn, không làm người khác phiền não.

Tuy chưa được định, nhưng bất cứ lúc nào, đối với tất cả cảnh giới làm tổn giảm phiền não, không ưa thích thế gian.

Nếu được Tam-muội, không bị tất cả âm thanh duyên bên ngoài làm kinh động.

Đối với lý lòng tin thêm vững chắc.

Đối với nhiễm không yếu hèn.

Không bị duyên làm boại.

Không thấm nhuần vị thế gian.

Được vào sâu thiền định.

Tu riêng môn Chỉ đã xong.

L 2. Quán:

Có ba:

K1. Nói rõ ý tu quán.

K2. Nói về tướng Quán.

K3. Tổng kết phần hạn Quán. “Chỉ trừ”, v.v… trở xuống.

K1. Nói về ý tu Quán:

Lại nữa, nếu người chỉ tu môn Chỉ thì tâm chìm lặng, hoặc khởi biếng nhác không ưa các điều lành, xa lìa đại bi, cho nên phải tu quán.

“Chẳng tu các điều lành” là mất phần tự lợi, “Xa lìa đại bi” là mất phần lợi tha.

K2. Nói về tướng quán:

Có bốn:

L1. Quán pháp tướng, tức đối trị lỗi mất phần tự lợi ở trước.

L2. Quán đại bi, tức đối trị lỗi mất phần lợi tha ở trước, “như thế phải niệm”, v.v… trở xuống,

L3. Quán nguyện lớn, tức thành tựu hạnh đại bi ở trước. “Suy nghĩ như thế”, v.v… trở xuống

L. Quán tinh tấn, tức thành hạnh tự lợi ở trước. “Do khởi như thế”, v.v… trở xuống, là nói rõ

L1. Quán pháp tướng là nói bốn thứ chẳng phải thường quán:

Người tu tập quán là nên quán tất cả pháp hữu vi ở thế gian không được bền lâu, phút chốc biến hoại, tất cả tâm hành niệm niệm sinh diệt. Do khổ nên quán các pháp nhớ nghĩ quá khứ, chợt thấy như mộng. Nên quán các pháp nhớ nghĩ hiện tại giống như điện chớp. Nên quán các pháp nhớ nghĩ vị lai như mây bất chợt khởi.

Quán vô thường:

Quán khổ. “Tất cả tâm hành”, v.v… trở xuống.

Quán vô ngã. “Nên quán”, v.v… trở xuống. Trong đây quá khứ không có tự thể nên khó truy tìm, hiện tại sát-na không trụ, vị lai vốn không chứa nhóm, chỉ duyên hợp mà chợt có, không từ mười phương đến.

Nên quán tất cả có thân ở thế gian đều là các thứ nhơ uế bất tịnh, không một vật gì đúng ưa thích.

Quán bất tịnh. “Nên quán thế gian”, v.v… trở xuống, là nói Trừ bốn thứ điên đảo thường, lạc, ngã, tịnh, phối hợp giải thích rất dễ hiểu.

L2. Quán đại bi:

Như thế nên niệm tất cả chúng sinh từ vô thỉ đến nay đều do vô minh huân tập, khiến tâm sinh diệt, vì thọ tất cả khổ lớn nơi thân tâm, hiện tại có vô lượng ép ngặt, chỗ khổ ở đời vị lai cũng không phần hạn, khó bỏ khó lìa mà chẳng hay biết, chúng sinh như thế thật đáng thương xót.

Trước quán khổ lớn trong ba đời của chúng sinh.

Kế là “Khó bỏ”, v.v… trở xuống, không có tâm nhàm chán chống trái nên khiến cho khổ vô hạn.

Sau cùng “Chúng sinh như thế”, v.v… trở xuống, là phát sâu tâm đại bi.

L3. Quán đại nguyện là nhân bi lập nguyện:

Suy nghĩ như thế liền nên mạnh mẽ lập thệ nguyện rộng lớn, nguyệnkhiến tâm ta lìa phân biệt, nên trùm khắp mười phương tu hành tất cả các công đức lành, tận đời vị lai dùng vô lượng phương tiện nhổ tất cả gốc khổ cho chúng sinh, khiến được vui Niết-bàn đệ nhất nghĩa.

– Thệ nguyện.

– Tâm lâu dài. “Trùm khắp”,v.v… trở xuống

– Tâm rộng lớn. “Dùng vô lượng”, v.v… trở xuống- Tâm đệ nhất. “Khiến được”, v.v… trở xuống

L4. Quán tinh tấn có thể thấy:

Do khởi nguyện như thế nên bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu các việc tu hành tùy khả năng gánh vác không bỏ, tâm tu học không biếng nhác, chỉ trừ lúc ngồi chuyên niệm tu Chỉ.

K3. Tổng kết ở trên:

Ngoài ra, tất cả phải quán sát nên làm hay không nên làm.

Thuận lý thì nên làm, trái lý thì không nên làm.

Từ trên đến đây tu riêng Chỉ Quán đã xong.

I 3. Song vận (Chỉ quán đồng hành):

Từ trên đến đây mới tu chưa thuần thục nên tu riêng động tĩnh. Nay định tuệ tu thành tựu nên có thể song vận.

Có ba:

K1. Nêu chung.

K2. Nói riêng.

K3. Tổng kết.

K1. Nêu chung:

Hoặc đi, hoặc đứng, hoặc ngồi, hoặc nằm, hoặc thức đều nên tu Chỉ quán đồng hành.

K2. Nói riêng:

Có hai:

L1. Theo pháp nói về đồng hành.

L2. Đối trị chướng nói về đồng hành.

L1. Theo pháp nói về đồng hành:

Có hai: – Ngay nơi Chỉ mà Quán, ngay nơi Quán mà Chỉ.

Nghĩa là tuy nhớ nghĩ các pháp tự tánh chẳng sinh, mà lại nhớ nghĩ nhân duyên hòa hợp nghiệp thiện ác, quả báo khổ vui không mất, không hoại. Tuy nhớ nghĩ nhân duyên quả báo thiện ác, mà ngay cả tánh niệm cũng không thật có.

Ban đầu nói “Tự tánh không sinh” là theo nghĩa chẳng thật có để nói về Chỉ.

“Nghiệp quả chẳng mất” là theo nghĩa chẳng phải không để nói về Quán.

Ở đây hai mà chẳng hai nên nói là tức, đây thuận chẳng động mé chân mà kiến lập các pháp. Bởi chẳng có tức là chẳng không, có thể không xả Chỉ mà tu Quán.

Kế là nói “Tuy nhớ nghĩ nhân duyên tức tánh không thật có” là nói ngay nơi Quán mà Chỉ. Đây thuận chẳng hoại giả danh mà nói thật tướng các pháp, vì chẳng phải không tức chẳng phải có, có thể chẳng xả Quán mà tu Chỉ. Đây lúc nói có trước sau, nhưng tại tâm hành dung chứa không hai, tánh chẳng hai tức là thật tánh. Lý vị ở đây nên phải suy nghĩ.

L1. Đối trị chướng nói về đồng hành:

Nếu tu Chỉ để đối trị chấp trước thế gian của phàm phu, hay xả kiến chấp yếu kém của Nhị thừa.

Tu Chỉ để đối trị hai lỗi, nghĩa là chính đối trị hai chấp tham ưa thế gian về nhân và pháp của phàm phu, gồm đối trị chấp của Nhị thừa về pháp năm ấm và thấy khổ sinh sợ, dùng môn Chỉ vô sinh nên trừ chấp này.

Nếu người tu quán để đối trị lỗi tâm hạn hẹp, chẳng khởi đại bi của người Nhị thừa, xa lìa phàm phu chẳng tu gốc lành.

Tu Quán cũng đối trị hai lỗi, nghĩa là chính đối trị tâm hạn hẹp của người Nhị thừa, khiến quán khắp chúng sinh mà khởi đại bi, gồm đối trị tâm biếng nhác của phàm phu khiến quán vô thường, sách tấn tu hạnh lành.

Vì nghĩa này cho nên hai môn Chỉ Quán cùng giúp đỡ lẫn nhau, thành tựu không hề xa lìa. Nếu Chỉ Quán không đầy đủ thì không thể vào con đường Bồ-đề.

K3. Tổng kết:

“Giúp nhau thành tựu, v.v…” như người phàm phu chẳng phải không ưa thế gian mà không siêng tu hạnh lành. Người Nhị thừa chẳng phải không sợ sinh tử mà không khởi tâm đại bi, cho nên hai hạnh không lìa nhau.

“Chỉ Quán chẳng đủ thì không thể vào hạnh Bồ-đề” là Chỉ Quán cần nhau như hai cánh của con chim, hoặc như hai bánh của chiếc xe, nếu không đầy đủ thì không có công năng chuyên chở, thiếu một cánh thì chim không thể bay lượn giữa hư không được. Nên nói không đủ thì không thể vào (con đường bồ đề).

A3. Nói về phương tiện ngăn ngừa sự lui sụt: Từ đây v.v… trở xuống.

Có hai:

B1. Nói người có thể lui sụt.

B2. Nói rõ phương pháp ngăn ngừa lui sụt: “Nên biết Như Lai”, v.v… trở xuống.

B1. Nói người có thể lui sụt:

Có hai:

– Nêu hạnh thấp kém.

– Nêu chỗ giải thích thành tựu. “Do trụ ở đây v.v… trở xuống,

Lại nữa, chúng sinh mới học pháp này muốn cầu chánh tín mà tâm kia yếu hèn, do trụ ở thế giới Ta-bà này, tự sợ không thể thường gặp chư Phật đích thân kính thờ cúng dường, lo sợ là ý tín tâm không thể thành tựu.

Muốn lui sụt là tâm kia yếu hèn, bên ngoài thiếu duyên cao quý, tin hạnh khó thành nên muốn lui sụt.

B2. Nói về phương pháp ngăn ngừa sự lui sụt:

Có hai:

– Nêu chung Thánh ý:

– Riêng dẫn chứng kinh.

Trong phần nêu thánh ý có hai là: Nêu phương tiện khéo léo của Thánh, và “Nghĩa là do chuyển ý”, v.v… trở xuống, là giải thích tướng khéo léo.

Nên biết Như Lai có phương tiện cao siêu nhiếp giữ tín tâm. Nghĩa là do chuyên ý nhân duyên niệm Phật, tùy nguyện được sinh về cõi Phật ở phương khác, thường thấy Phật, lìa hẳn đường ác.

Dẫn chứng kinh:

Có hai là:

– Trước dẫn chứng kinh.

– Giải thích văn kinh: “Thường thấy Phật”, v.v… trở xuống.

Như kinh nói: “Nếu người chuyên niệm Phật A-Di-đà ở thế giới Cực Lạc phương Tây, tu các gốc lành hồi hướng nguyện cầu sinh về thế giới kia, liền được vãng sinh thường thấy Phật, nên không bao giờ lui sụt. Nếu quán Pháp thân chân như của Phật kia, thường siêng tu tập, rốt ráo được sinh trụ chánh định.

“Nếu quán Pháp thân được rốt ráo vãng sinh, v.v…” là nếu người vãng sinh, về địa vị có ba:

Như hoa sen lúc chưa nở, là tín hạnh chưa viên mãn, chưa được không lui sụt. Nhưng vì gặp duyên không lui sụt, nên nói là không lui sụt.

Địa vị tín viên mãn trở đi, như hoa sen nở được thấy Phật, vào địa vị Thập trụ, được thấy chút phần Pháp thân, trụ địa vị Chánh định.

Địa vị Tam hiền viên mãn nhập Sơ địa trở đi, chứng Pháp thân cùng khắp, sinh về cõi Phật vô biên. Như Phật thọ ký cho Bồ-tát Long Thọ trụ Sơ địa, sinh về cõi Tịnh độ.

Trong đây, chỗ rốt ráo là hai địa vị sau.

Chương V. KHUYẾN TU LỢI ÍCH:

Đã nói phần tu hành tín tâm, kế đến nói phần khuyến tu lợi ích. Như thế Đại thừa bí tạng của chư Phật, ta đã nói xong.

Có ba:

A1. Tổng kết: Như trước nói.

A2. Nêu lên kính tin và phỉ báng có tổn giảm, lợi ích.

“Nếu có chúng sinh” trở xuống,

A3. Tổng kết khuyến tu. “Nên biết quá khứ”, v.v… trở xuống.

A2. Kính tin và phỉ báng:

Có hai:

B1. Tin thọ phước cao siêu.

B2. Nói phỉ báng tội nặng, “Có chúng sinh”, v.v… trở xuống.

B1. Tín nhiệm phước cao quý:

Đứng về mặt ba tuệ nêu chung lợi ích kia.

Nếu có chúng sinh muốn ở cảnh giới sâu xa của Như Lai được sinh chánh tín, xa lìa phỉ báng, vào đạo Đại thừa, nên trì luận này, nhớ nghĩ tu tập, rốt ráo đến được đạo vô thượng.

“Nếu người nghe”, v.v… trở xuống, là hiển bày riêng tướng ba tuệ được lợi ích.

Khi nghe được lợi ích:

Nếu người nghe pháp này rồi không sinh tâm yếu đuối, nên biết người này chắc chắn nối tiếp hạt giống Phật, được chư Phật thọ ký.

“Nếu có người”, v.v… trở xuống, là nói tư duy được lợi ích.

Nếu có người giáo hóa chúng sinh khắp trong Tam Thiên đại thiên thế giới khiến thực hành mười điều lành, chẳng bằng có người trong một bữa ăn tư duy đứng về pháp này, đây vượt hơn công đức ở trước, không thể ví dụ được.

“Lại nữa, nếu người”, v.v… trở xuống, là nói khi tu hành được lợi ích ở trong ba câu:

+ Thời gian ít mà công đức nhiều

+ So sánh tướng nhiều, “dù khiến, v.v…” trở xuống.

+ Giải thích lý do của tướng nhiều. “Vì sao”, v.v… trở xuống.

Lại nữa, nếu người thọ trì luận này quán sát tu hành, trong khoảng một ngày một đêm, có công đức vô lượng vô biên không thể nói được. Dù cho tất cả chư Phật trong mười phương, mỗi vị ở một phương khen ngợi công đức kia trong vô lượng vô biên a-tăng-kỳ kiếp cũng không thể cùng tận. Vì sao? Vì công đức pháp tánh không cùng tận, nên công đức của người này cũng giống như thế, không có bờ mé.

B2. Phỉ báng thành tội nặng. Có bốn:

Nếu chúng sinh đối với luận này phỉ báng chẳng tin, bị tội báo trải qua vô lương kiếp chịu khổ não dữ dội.

Câu 1: Phỉ báng thành tội nặng.

Cho nên chúng sinh chỉ nên kính tín, không nên phỉ báng.

Câu 2: Khuyên nhắc dừng phỉ báng. “Cho nên”, v.v… trở xuống.

Bởi tự hại rất sâu, cũng hại người khác, người này mất tất cả hạt giống Tam bảo.

Câu 3: Ý giải thích về tội nặng. “Bởi tự haị rất sâu”, v.v… trở xuống.

Vì tất cả Như Lai đều nương pháp này mà được Niết-bàn, tất cả Bồ-tát do đây tu hành mà nhập trí Phật.

Câu : Chuyển giải thích nghĩa đoạn Tam bảo. “Vì tất cả Như Lai”, v.v… trở xuống.

Trong hai câu sau, câu đầu là quả của người được Niết-bàn, câu sau là nhân của người được Bồ-đề. Bồ-đề, Niết-bàn tức là Pháp bảo. Phật và tăng thì phải biết. Vì phỉ báng trái với đây nên gọi là đoạn Tam bảo.

Nên biết Bồ-tát thời quá khứ đã nương pháp này mà được thành tịnh tín, Bồ-tát ở hiện tại đang nương pháp này được thành tịnh tín, Bồtát thời vị lai sẽ nương pháp này mà được thành tịnh tín. Cho nên chúng sinh phải siêng tu học.

A3. Tổng kết:

Khuyến là khuyến khích tu hành, Bồ-tát trong ba đời đồng thực hành pháp này, không còn có con đường nào khác. Cho nên phải siêng tu học.

Xong phần chánh tông.

PHẦN LƯU THÔNG

Chư Phật sâu xa nghĩa rộng lớn,

Nay ta thuận theo nói tổng trì,

Hồi hướng công đức như pháp tánh,

Lợi ích khắp cả cõi chúng sinh.

Bài kệ trong phần lưu thông, hai câu đầu là tổng kết những điều nói trên. Trong hai câu đầu này, câu trên là tổng kết nghĩa, câu dưới là tổng kết văn. Hai câu sau là lợi ích hồi hướng, trong hai câu sau này, câu đầu nói về đức rộng lớn, câu sau là nhuần thấm khắp cả.

QUYỂN HẠ (Phần Cuối)

(HẾT)

Pages: 1 2 3