LUẬN CHÚNG SỰ PHẦN A TỲ ĐÀM
Tác giả: Tôn giả Thế Hữu
Hán dịch: Đời Lưu Tống, Đại sư Cầu Na Bạt Đà La và Bồ Đề Da Xá
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 11

Phẩm 7: THIÊN VẤN LUẬN, phần 4

6. Căn: Là hai mươi hai căn.

Hỏi: Những gì là hai mươi hai?

Đáp: Là nhãn căn cho đến vô tri căn.

*

Hỏi: Hai mươi hai căn nầy: Bao nhiêu thứ là sắc, bao nhiêu thứ là không phải sắc v.v…?

Đáp: Bảy thứ là sắc, mười lăm thứ là không phải sắc.

Hết thảy là không thể thấy.

Bảy thứ là có đối, mười lăm thứ là không đối.

Mười thứ là hữu lậu, ba thứ là vô lậu, chín thứ cần phân biệt: Ý căn hoặc là hữu lậu, hoặc là vô lậu. Thế nào là hữu lậu? Là ý hữu lậu tư duy tương ưng với ý căn. Thế nào là vô lậu? Là ý vô lậu tư duy tương ưng với ý căn.

Như ý căn, các căn: lạc, hỷ, xả, tín, tinh tấn, niệm, định, tuệ cũng như vậy.

Hết thảy là hữu vi.

Một thứ là có báo, mười một thứ là không báo, mười thứ cần phân biệt: Ý căn hoặc là có báo, hoặc là không báo. Thế nào là có báo? Là ý căn hữu lậu thiện, bất thiện. Thế nào là không báo? Là ý căn vô lậu, vô ký.

Như ý căn, các căn: lạc, hỷ, xả cũng như vậy.

Khổ căn hoặc là có báo, hoặc là không báo. Thế nào là có báo? Là khổ căn thiện, bất thiện. Thế nào là không báo? Là khổ căn vô ký.

Tín, tinh tấn, niệm, định, tuệ căn nếu hữu lậu là có báo, nếu vô lậu là không báo.

Hết thảy là từ nhân duyên sinh thuộc về thế gian.

Bảy thứ là thuộc về sắc, mười lăm thứ là thuộc về danh.

Tám thứ là thuộc về nội nhập, mười một thứ là thuộc về ngoại nhập, ba thứ cần phân biệt: Vị tri đương tri căn, dĩ tri căn, vô tri căn gồm thâu tâm ý thức là thuộc về nội nhập, còn lại là thuộc về ngoại nhập.

Hết thảy là trí nhận biết.

*

* Hai mươi hai căn nầy: Mười thứ là đoạn tri nhận biết và đoạn, ba thứ là không phải đoạn tri nhận biết và không đoạn, chín thứ cần phân biệt: Chín thứ nếu hữu lậu là đoạn tri nhận biết và đoạn, nếu vô lậu là không phải đoạn tri nhận biết và không đoạn.

Tám thứ là nên tu, tám thứ là không nên tu, sáu thứ cần phân biệt: Ý căn hoặc nên tu, hoặc không nên tu. Thế nào là nên tu? Là ý căn thiện. Thế nào là không nên tu? Là ý căn bất thiện, vô ký.

Như ý căn, các căn: lạc, khổ, hỷ, xả cũng như vậy.

Ưu căn hoặc nên tu, hoặc không nên tu. Thế nào là nên tu? Là ưu căn thiện. Thế nào là không nên tu? Là ưu căn bất thiện.

Mười sáu thứ là không cấu uế, sáu thứ cần phân biệt: Ý căn hoặc là cấu uế, hoặc là không cấu uế. Thế nào là cấu uế? Là ẩn mất. Thế nào là không cấu uế? Là không ẩn mất.

Như ý căn, các căn: lạc, khổ, hỷ, ưu, xả cũng như vậy.

Hết thảy là quả cùng có quả.

Mười lăm thứ là không thọ, bảy thứ cần phân biệt: Nhãn căn hoặc là thọ, hoặc là không thọ. Thế nào là thọ? Là tự tánh thọ nhận. Thế nào là không thọ? Là không phải tự tánh thọ nhận.

Như nhãn căn, các căn: nhĩ, tỷ, thiệt, thân, nam, nữ cũng như vậy.

Bảy thứ là do bốn đại tạo, mười lăm thứ là không phải do bốn đại tạo.

Hết thảy là hữu thượng.

Mười thứ là hữu, ba thứ là không phải hữu, chín thứ cần phân biệt: Chín thứ nếu hữu lậu là hữu, nếu vô lậu là không phải hữu.

Tám thứ là nhân không tương ưng, mười bốn thứ là nhân tương ưng.

*

* Hai mươi hai căn nầy: Hoặc xứ thiện gồm thâu không phải là căn, có bốn trường hợp: 1. Là xứ thiện gồm thâu không phải là căn: Là sắc ấm, tưởng ấm thiện. Căn không gồm thâu hành ấm thiện và số diệt. 2. Là căn gồm thâu không phải là xứ thiện: Là tám căn và phần ít của sáu căn. 3. Là xứ thiện gồm thâu cũng là căn: Là tám căn và phần ít của sáu căn. 4. Không phải là xứ thiện gồm thâu cũng không phải là căn: Là sắc ấm, tưởng ấm bất thiện. Căn không gồm thâu hành ấm bất thiện. Căn không gồm thâu sắc ấm, tưởng ấm vô ký. Căn không gồm thâu hành ấm vô ký và hư không, phi số diệt.

Hoặc xứ bất thiện gồm thâu không phải là căn, có bốn trường hợp: 1. Là xứ bất thiện gồm thâu không phải là căn: Là sắc ấm, tưởng ấm bất thiện. Căn không gồm thâu hành ấm bất thiện. 2. Là căn gồm thâu không phải là xứ bất thiện: Là mười sáu căn và phần ít của sáu căn. 3. Là xứ bất thiện gồm thâu cũng là căn: Là phần ít của sáu căn. 4. Không phải là xứ bất thiện gồm thâu cũng không phải là căn: Là sắc ấm, tưởng ấm thiện. Căn không gồm thâu hành ấm thiện và số diệt. Căn không gồm thâu sắc ấm, tưởng ấm vô ký. Căn không gồm thâu hành ấm vô ký và hư không, phi số diệt.

Hoặc xứ vô ký gồm thâu không phải là căn, có bốn trường hợp: 1. Là xứ vô ký gồm thâu không phải là căn: Là căn không gồm thâu sắc ấm, tưởng ấm vô ký. Căn không gồm thâu hành ấm vô ký và hư không, phi số diệt. 2. Là căn gồm thâu không phải là xứ vô ký: Là chín căn và phần ít của năm căn. 3. Là xứ vô ký gồm thâu cũng là căn: Là tám căn và phần ít của năm căn. 4. Không phải là xứ vô ký gồm thâu cũng không phải là căn: Là sắc ấm, tưởng ấm thiện. Căn không gồm thâu hành ấm thiện cùng số diệt và sắc ấm, tưởng ấm bất thiện. Căn không gồm thâu hành ấm bất thiện.

Không gồm thâu xứ lậu.

Hoặc xứ hữu lậu gồm thâu không phải là căn, có bốn trường hợp: 1. Là xứ hữu lậu gồm thâu không phải là căn: Là căn không gồm thâu sắc ấm, tưởng ấm hữu lậu. Căn không gồm thâu hành ấm hữu lậu. 2. Là căn gồm thâu không phải là xứ hữu lậu: Là ba căn và phần ít của chín căn. 3. Là xứ hữu lậu gồm thâu cũng là căn: Là ba căn và phần ít của chín căn. 4. Không phải là xứ hữu lậu gồm thâu cũng không phải là căn: Là sắc ấm, tưởng ấm vô lậu. Căn không gồm thâu hành ấm vô lậu và vô vi.

Hoặc xứ vô lậu gồm thâu không phải là căn, có bốn trường hợp:

1. Là xứ vô lậu gồm thâu không phải là căn: Là sắc ấm, tưởng ấm vô lậu. Căn không gồm thâu hành ấm vô lậu và vô vi. 2. Là căn gồm thâu không phải là xứ vô lậu: Là mười căn và phần ít của chín căn. 3. Là xứ vô lậu gồm thâu cũng là căn: Là ba căn và phần ít của chín căn. 4. Không phải là xứ vô lậu gồm thâu cũng không phải là căn: Là căn không gồm thâu sắc ấm, tưởng ấm hữu lậu. Căn không gồm thâu hành ấm hữu lậu.

Hết thảy hoặc là quá khứ, vị lai, hiện tại.

Tám thứ là thiện, tám thứ là vô ký, sáu thứ cần phân biệt: Ý căn hoặc là thiện, hoặc là bất thiện, hoặc là vô ký. Thế nào là thiện? Là ý thiện tư duy tương ưng với ý căn. Thế nào là bất thiện? Là ý bất thiện tư duy tương ưng với ý căn. Thế nào là vô ký? Là ý vô ký tư duy tương ưng với ý căn.

Như ý căn, các căn: lạc, khổ, hỷ, xả cũng như vậy.

Ưu căn hoặc là thiện, hoặc là bất thiện. Thế nào là thiện? Là ý thiện tư duy tương ưng với ưu căn. Thế nào là bất thiện? Là ý bất thiện tư duy tương ưng với ưu căn.

Bốn thứ thuộc cõi Dục, ba thứ không hệ thuộc, mười lăm thứ cần phân biệt: Nhãn căn hoặc thuộc cõi Dục, hoặc thuộc cõi Sắc. Thế nào là thuộc cõi Dục? Là nhãn căn thuộc cõi Dục do bốn đại tạo nên. Thế nào là thuộc cõi Sắc? Là nhãn căn thuộc cõi Sắc do bốn đại tạo nên.

Như nhãn căn, các căn nhĩ, tỷ, thiệt, thân cũng như vậy.

Mạng căn hoặc thuộc cõi Dục, hoặc thuộc cõi Sắc, hoặc thuộc cõi Vô sắc. Thế nào là thuộc cõi Dục? Là thọ mạng thuộc cõi Dục. Thế nào là thuộc cõi Sắc? Là thọ mạng thuộc cõi Sắc. Thế nào là thuộc cõi Vô sắc? Là thọ mạng thuộc cõi Vô sắc.

Ý căn hoặc thuộc cõi Dục, thuộc cõi Sắc, hoặc thuộc cõi Vô sắc, hoặc không hệ thuộc. Thế nào là thuộc cõi Dục? Là ý thuộc cõi Dục tư duy tương ưng với ý căn. Thế nào là thuộc cõi Sắc? Là ý thuộc cõi Sắc tư duy tương ưng với ý căn. Thế nào là thuộc cõi Vô sắc? Là ý thuộc cõi Vô sắc tư duy tương ưng với ý căn. Thế nào là không hệ thuộc? Là ý vô lậu tư duy tương ưng với ý căn.

Như ý căn, các căn: xả, tín, tinh tấn, niệm, định, tuệ cũng như vậy.

Lạc căn hoặc thuộc cõi Dục, hoặc thuộc cõi Sắc, hoặc không hệ thuộc. Thế nào là thuộc cõi Dục? Là ý thuộc cõi Dục tư duy tương ưng với lạc căn. Thế nào là thuộc cõi Sắc? Là ý thuộc cõi Sắc tư duy tương ưng với lạc căn. Thế nào là không hệ thuộc? Là ý vô lậu tư duy tương ưng với lạc căn.

Như lạc căn, hỷ căn cũng như vậy.

Hai thứ là học, một thứ là vô học, mười thứ là phi học phi vô học, chín thứ cần phân biệt: Ý căn hoặc là học, hoặc là vô học, hoặc là phi học phi vô học. Thế nào là học? Là ý học tư duy tương ưng với ý căn. Thế nào là vô học? Là ý vô học tư duy tương ưng với ý căn. Thế nào là phi học phi vô học? Là ý hữu lậu tư duy tương ưng với ý căn.

Như ý căn, các căn: lạc, hỷ, xả, tín, tinh tấn, niệm, định, tuệ cũng như vậy.

*

* Hai mươi hai căn nầy: Chín thứ là do tu đoạn, ba thứ là không đoạn, mười thứ cần phân biệt: Ý căn hoặc do kiến đoạn, hoặc do tu đoạn, hoặc không đoạn. Thế nào là do kiến đoạn? Là như ý căn nơi người tùy tín hành, tùy pháp hành tạo nhẫn vô gián cùng đoạn, đã nói rộng như trong phẩm Phân Biệt Các Nhập. Thế nào là do tu đoạn? Là như trước đã nói rộng. Thế nào là không đoạn? Là ý căn vô lậu.

Như ý căn, xả căn cũng như vậy.

Lạc căn hoặc do kiến đoạn, hoặc do tu đoạn, hoặc không đoạn. Thế nào là do kiến đoạn? Là như lạc căn nơi người tùy tín hành, tùy pháp hành tạo nhẫn vô gián cùng đoạn. Đoạn trừ những gì? Là kiến đạo đoạn trừ hai mươi tám sử tương ưng với lạc căn. Thế nào là do tu đoạn? Là như lạc căn nơi bậc học kiến tích tu đoạn. Đoạn trừ những gì? Là tu đạo đoạn trừ năm sử tương ưng với lạc căn và lạc căn hữu lậu không cấu uế. Thế nào là không đoạn? Là lạc căn vô lậu

Hỷ căn hoặc do kiến đoạn, hoặc do tu đoạn, hoặc không đoạn. Thế nào là do kiến đoạn? Là như hỷ căn nơi người tùy tín hành, tùy pháp hành tạo nhẫn vô gián cùng đoạn. Đoạn trừ như thế nào? Là kiến đạo đoạn trừ năm mươi hai sử tương ưng với hỷ căn. Thế nào là do tu đoạn? Là như hỷ căn nơi bậc học kiến tích tu đoạn. Đoạn trừ những gì? Là tu đạo đoạn trừ sáu sử tương ưng với hỷ căn và hỷ căn hữu lậu không cấu uế. Thế nào là không đoạn? Là hỷ căn vô lậu.

Ưu căn hoặc do kiến đoạn, hoặc do tu đoạn. Thế nào là do kiến đoạn? Là như ưu căn nơi người tùy tín hành, tùy pháp hành tạo nhẫn vô gián cùng đoạn. Đoạn trừ những gì? Là kiến đạo đoạn trừ mười sáu sử tương ưng với ưu căn. Thế nào là do tu đoạn? Là ưu căn nơi bậc học kiến tích tu đoạn. Đoạn trừ những gì? Là tu đạo đoạn trừ hai sử tương ưng với ưu căn và ưu căn không cấu uế.

Tín, tinh tấn, niệm, định, tuệ căn nếu là hữu lậu là do tu đoạn, nếu là vô lậu là không đoạn.

Tám thứ là không phải tâm, không phải tâm pháp, không phải tâm tương ưng. Mười thứ là tâm pháp, tâm tương ưng. Một thứ tức là tâm. Ba thứ cần phân biệt: Vị tri đương tri căn, dĩ tri căn, vô tri căn gồm thâu chín căn, tức tám căn là tâm pháp và tâm tương ưng, một căn tức là tâm.

Tám thứ không phải là tâm tùy chuyển cũng không tương ưng với thọ, một thứ tương ưng với thọ không phải là tâm tùy chuyển, năm thứ là tâm tùy chuyển không tương ưng với thọ, năm thứ là tâm tùy chuyển cũng tương ưng với thọ, ba thứ cần phân biệt: Vị tri đương tri căn, dĩ tri căn, vô tri căn gồm thâu ba căn là tâm tùy chuyển không tương ưng với thọ, một thứ tương ưng với thọ không phải là tâm tùy chuyển, năm thứ là tâm tùy chuyển cũng tương ưng với thọ.

Tám thứ không phải là tâm tùy chuyển không tương ưng với tưởng, hành. Một thứ là tương ưng với tưởng, hành không phải là tâm tùy chuyển. Mười thứ là tâm tùy chuyển cũng tương ưng với tưởng, hành, trừ tự tánh của nó. Ba thứ cần phân biệt: Vị tri đương tri căn, dĩ tri căn, vô tri căn gồm thâu chín căn, tám căn là tâm tùy chuyển cũng tương ưng với tưởng, hành, trừ tự tánh của nó, một căn là tương ưng với tưởng, hành không phải là tâm tùy chuyển.

Hai thứ là có giác có quán, tám thứ là không giác không quán, mười hai thứ cần phân biệt: Ý căn hoặc có giác có quán, hoặc không giác có quán, hoặc không giác không quán. Thế nào là có giác có quán? Là ý có giác có quán tư duy tương ưng với ý căn. Thế nào là không giác có quán? Là ý không giác có quán tư duy tương ưng với ý căn. Thế nào là không giác không quán? Là ý không giác không quán tư duy tương ưng với ý căn.

Như ý căn, các căn: xả, tín, tinh tấn, niệm, định, tuệ, vị tri đương tri căn, dĩ tri căn, vô tri căn cũng như vậy.

Lạc căn hoặc có giác có quán, hoặc không giác không quán. Thế nào là có giác có quán? Là ý có giác có quán tư duy tương ưng với lạc căn. Thế nào là không giác không quán? Là ý không giác không quán tư duy tương ưng với lạc căn.

Như lạc căn, hỷ căn cũng như vậy.

Một thứ là kiến cũng là xứ kiến, chín thứ là xứ kiến không phải là kiến, mười hai thứ cần phân biệt: Ý căn nếu là hữu lậu là xứ kiến không phải là kiến, nếu là vô lậu không phải là kiến cũng không phải là xứ kiến.

Như ý căn, các căn: lạc, hỷ, xả, tín, tinh tấn, niệm, định cũng như vậy.

Tuệ căn hoặc là kiến không phải là xứ kiến, có bốn trường hợp: 1. Là kiến không phải là xứ kiến: Là tận trí, vô sinh trí không gồm thâu tuệ căn vô lậu. 2. Là xứ kiến không phải là kiến: Là kiến không gồm thâu tuệ căn hữu lậu. 3. Là kiến cũng là xứ kiến: Là chánh kiến thế tục. 4. Không phải là kiến cũng không phải là xứ kiến: Là kiến không gồm thâu tuệ căn vô lậu.

Vị tri đương tri căn, dĩ tri căn gồm thâu kiến không phải là xứ kiến, còn lại không phải là kiến cũng không phải là xứ kiến. Vô tri căn gồm thâu tận trí, vô sinh trí, không gồm thâu tuệ căn vô lậu, là kiến không phải là xứ kiến, ngoài ra là không phải là kiến cũng không phải là xứ kiến.

Mười sáu thứ không phải là nhân của thân kiến, thân kiến cũng không phải là nhân của chúng. Sáu thứ cần phân biệt: Ý căn, lạc căn, hỷ căn, xả căn, nói rộng như ở thọ niệm xứ.

Khổ căn nếu cấu uế thì nó là nhân của thân kiến, thân kiến không phải là nhân của nó. Nếu không cấu uế thì nó không phải là nhân của thân kiến, thân kiến cũng không phải là nhân của nó.

Ưu căn hoặc là nhân của thân kiến, thân kiến không phải là nhân của nó, có ba trường hợp: 1. Là nhân của thân kiến, thân kiến không phải là nhân của nó: Là trừ sử do kiến khổ đoạn tương ưng với ưu căn quá khứ, hiện tại. Trừ sử do kiến tập đoạn hiện bày khắp hết thảy tương ưng với ưu căn quá khứ hiện tại, còn lại là ưu căn cấu uế. 2. Là nhân của thân kiến, thân kiến cũng là nhân của nó: Là những điều đã trừ như trên đã nêu. 3. Không phải là nhân của thân kiến, thân kiến cũng không phải là nhân của nó: Là ưu căn không cấu uế.

Chín thứ không phải là nghiệp cũng không phải là nghiệp báo, một thứ là nghiệp báo không phải là nghiệp, mười hai thứ cần phân biệt: Nhãn căn hoặc là nghiệp báo không phải là nghiệp, hoặc không phải là nghiệp cũng không phải là nghiệp báo. Thế nào là nghiệp báo không phải là nghiệp? Là báo sinh nơi nhãn căn, ngoài ra không phải là nghiệp cũng không phải là nghiệp báo.

Như nhãn căn, các căn: nhĩ, tỷ, thiệt, thân, nam, nữ, ý, lạc, hỷ, xả, khổ cũng như vậy.

Tám thứ không phải là nghiệp cũng không phải là nghiệp tùy chuyển, mười bốn thứ là nghiệp tùy chuyển không phải là nghiệp.

Bảy thứ là sắc tạo sắc không phải là sắc có thể thấy, mười lăm thứ không phải là sắc tạo sắc cũng không phải là sắc có thể thấy.

*

* Hai mươi hai căn nầy: Bảy thứ là sắc tạo sắc cũng là sắc có đối, mười lăm thứ không phải là sắc tạo sắc cũng không phải là sắc có đối.

Hết thảy là rất thâm diệu khó hiểu rõ, khó hiểu rõ vì rất thâm diệu.

Tám thứ là thiện cũng là nhân thiện, mười bốn thứ cần phân biệt: Nhãn căn hoặc là nhân thiện không phải là thiện, hoặc không phải là nhân thiện cũng không phải là thiện. Là nhân thiện không phải là thiện: Là báo thiện sinh nơi nhãn căn, ngoài ra không phải là nhân thiện cũng không phải là thiện.

Như nhãn căn, các căn: nhĩ, tỷ, thiệt, thân, nam, nữ, mạng cũng như vậy.

Ý căn hoặc là nhân thiện không phải là thiện, có ba trường hợp: 1. Là nhân thiện không phải là thiện: Là báo thiện sinh nơi ý căn. 2. Là thiện cũng là nhân thiện: Là ý căn thiện. 3. Không phải là thiện cũng không phải là nhân thiện: Là trừ báo thiện sinh nơi ý căn và thiện ý căn, còn lại là ý căn bất thiện, vô ký.

Như ý căn, các căn: lạc, hỷ, xả cũng như vậy.

Khổ căn hoặc là thiện cũng là nhân thiện, hoặc không phải là thiện cũng không phải là nhân thiện. Là thiện cũng là nhân thiện: Là khổ căn thiện. Không phải là thiện cũng không phải là nhân thiện: Là khổ căn bất thiện, vô ký.

Ưu căn hoặc là thiện cũng là nhân thiện, hoặc không phải là thiện cũng không phải là nhân thiện. Là thiện cũng là nhân thiện: Là ưu căn thiện. Không phải là thiện cũng không phải là nhân thiện: Là ưu căn bất thiện.

Tám thứ không phải là bất thiện cũng không phải là nhân bất thiện, mười bốn thứ cần phân biệt: Nhãn căn hoặc là nhân bất thiện không phải là bất thiện, hoặc không phải là bất thiện cũng không phải là nhân bất thiện. Là nhân bất thiện không phải là bất thiện: Là báo bất thiện sinh nơi nhãn căn, còn lại không phải là bất thiện cũng không phải là nhân bất thiện.

Như nhãn căn, các căn: nhĩ, tỷ, thiệt, thân, nam, nữ, mạng cũng như vậy.

Ý căn hoặc là nhân bất thiện không phải là bất thiện, có ba trường hợp: 1. Là nhân bất thiện không phải là bất thiện: Là báo bất thiện sinh nơi ý căn cùng thân kiến, biên kiến tương ưng với ý căn nơi cõi Dục. 2. Là bất thiện cũng là nhân bất thiện: Là ý căn bất thiện. 3. Không phải là bất thiện cũng không phải là nhân bất thiện: Là trừ báo bất thiện sinh nơi ý căn. Trừ thân kiến, biên kiến tương ưng với ý căn nơi cõi Dục và ý căn bất thiện, còn lại là ý căn thiện và vô ký.

Lạc căn hoặc là bất thiện không phải là nhân bất thiện, hoặc không phải là bất thiện cũng không phải là nhân bất thiện. Là bất thiện không phải là nhân bất thiện: Là lạc căn bất thiện. Không phải là bất thiện cũng không phải là nhân bất thiện: Là lạc căn thiện, vô ký.

Khổ căn hoặc là nhân bất thiện không phải là bất thiện, có ba trường hợp: 1. Là nhân bất thiện không phải là bất thiện: Là báo bất thiện sinh nơi khổ căn. 2. Là bất thiện cũng là nhân bất thiện: Là khổ căn bất thiện. 3. Không phải là bất thiện cũng không phải là nhân bất thiện: Là trừ báo bất thiện sinh nơi khổ căn cùng khổ căn bất thiện, còn lại là khổ căn thiện và vô ký.

Hỷ căn hoặc là nhân bất thiện không phải là bất thiện, có ba trường hợp: 1. Là nhân bất thiện không phải là bất thiện: Là thân kiến, biên kiến nơi cõi Dục tương ưng với hỷ căn. 2. Là bất thiện cũng là nhân bất thiện: Là hỷ căn bất thiện. 3. Không phải là bất thiện cũng không phải là nhân bất thiện: Là trừ thân kiến, biên kiến nơi cõi Dục tương ưng với hỷ căn, trừ hỷ căn bất thiện, còn lại là hỷ căn thiện và vô ký.

Như hỷ căn, xả căn cũng như vậy.

Ưu căn hoặc là bất thiện cũng là nhân bất thiện, hoặc không phải là bất thiện cũng không phải là nhân bất thiện. Là bất thiện cũng là nhân bất thiện: Là ưu căn bất thiện. Không phải là bất thiện cũng không phải là nhân bất thiện: Là ưu căn thiện.

Tám thứ không phải là vô ký cũng không phải là nhân vô ký, tám thứ là vô ký cũng là nhân vô ký, sáu thứ cần phân biệt: Ý căn hoặc là nhân vô ký không phải là vô ký, có ba trường hợp: 1. Là nhân vô ký không phải là vô ký: Là ý căn bất thiện. 2. Là vô ký cũng là nhân vô ký: Là ý căn vô ký. 3. Không phải là vô ký cũng không phải là nhân vô ký: Là ý căn thiện.

Như ý căn, các căn: lạc, khổ, hỷ, xả cũng như vậy.

Ưu căn hoặc là nhân vô ký không phải là vô ký, hoặc không phải là vô ký cũng không phải là nhân vô ký. Là nhân vô ký không phải là vô ký: Là ưu căn bất thiện. Không phải là vô ký cũng không phải là nhân vô ký: Là ưu căn thiện.

Hết thảy là duyên của nhân duyên cùng có nhân.

Tám thứ không phải là thứ đệ cũng không phải là duyên của thứ đệ duyên, mười bốn thứ cần phân biệt: Ý căn hoặc là thứ đệ không phải là duyên của thứ đệ duyên, như đã nói rộng nơi thọ niệm xứ.

Như ý căn, xả căn cũng như vậy.

Lạc căn hoặc là thứ đệ không phải là duyên của thứ đệ duyên, có ba trường hợp: 1. Là thứ đệ không phải là duyên của thứ đệ duyên: Là lạc căn tất khởi ở hiện tiền, vị lai. 2. Là thứ đệ cũng là duyên của thứ đệ duyên: Là lạc căn quá khứ, hiện tại. 3. Không phải là thứ đệ cũng không phải là duyên của thứ đệ duyên: Là trừ lạc căn tất khởi ở hiện tiền, vị lai, còn lại là lạc căn vị lai.

Như lạc căn, các căn: khổ, hỷ, ưu, tín, tinh tấn, niệm, định, tuệ, vị tri đương tri căn, dĩ tri căn, vô tri căn cũng như vậy.

Tám thứ là duyên của duyên duyên không có duyên, mười bốn thứ là duyên của duyên duyên cùng có duyên.

Hết thảy là duyên của tăng thượng duyên cùng có tăng thượng.

Mười thứ là tùy lưu không phải là lưu, ba thứ không phải là lưu cũng không phải là tùy lưu, chín thứ cần phân biệt: Chín thứ nếu hữu lậu là tùy lưu không phải là lưu, nếu vô lậu không phải là lưu cũng không phải là tùy lưu.

**

7. Nhập: Là mười hai nhập.

Hỏi: Những gì là mười hai nhập?

Đáp: Như trước đã nói rộng.

*

Hỏi: Mười hai nhập nầy: Bao nhiêu thứ là sắc, bao nhiêu thứ là không phải sắc v.v…?

Đáp: Mười thứ là sắc, một thứ là không phải sắc, một thứ cần phân biệt: Trong pháp nhập hoặc là sắc, hoặc là không phải sắc. Nghiệp thân, khẩu trong pháp nhập là sắc, còn lại là không phải sắc.

Một thứ là có thể thấy, mười một thứ là không thể thấy.

Mười thứ là có đối, hai thứ là không đối.

Mười thứ là hữu lậu, hai thứ cần phân biệt: Ý nhập hoặc là hữu lậu, hoặc là vô lậu. Thế nào là hữu lậu? Là ý hữu lậu tư duy tương ưng với ý nhập. Thế nào là vô lậu? Là ý nhập vô lậu tư duy tương ưng với ý nhập.

Pháp nhập hoặc là hữu lậu, hoặc là vô lậu. Thế nào là hữu lậu? Là nghiệp thân, khẩu hữu lậu, thọ ấm, tưởng ấm, hành ấm hữu lậu. Thế nào là vô lậu? Là nghiệp thân, khẩu vô lậu, thọ ấm, tưởng ấm, hành ấm vô lậu và vô vi.

Mười một thứ là hữu vi, một thứ cần phân biệt: Pháp nhập hoặc là hữu vi, hoặc là vô vi. Thế nào là hữu vi? Là nghiệp thân, khẩu cùng thọ ấm, tưởng ấm, hành ấm trong pháp nhập. Thế nào là vô vi? Là hư không, số diệt và phi số diệt.

Tám thứ là không báo, bốn thứ cần phân biệt: Sắc nhập hoặc là có báo, hoặc là không báo. Thế nào là có báo? Là sắc nhập thiện, bất thiện. Thế nào là không báo? Là trừ sắc nhập thiện, bất thiện, là sắc nhập còn lại.

Như sắc nhập, thanh nhập cũng như vậy.

Ý nhập hoặc là có báo, hoặc là không báo. Thế nào là có báo? Là ý nhập hữu lậu thiện, bất thiện. Thế nào là không báo? Là ý nhập vô lậu và vô ký.

Như ý nhập, pháp nhập cũng như vậy.

Mười một thứ là từ nhân duyên sinh thuộc về thế gian, một thứ cần phân biệt: Pháp nhập nếu là hữu vi là từ nhân duyên sinh thuộc về thế gian, nếu là vô vi không từ nhân duyên sinh không thuộc về thế gian.

Mười thứ là thuộc về sắc, một thứ là thuộc về danh, một thứ cần phân biệt: Nghiệp thân, khẩu trong pháp nhập là thuộc về sắc, còn lại là thuộc về danh.

Sáu thứ là thuộc về nội nhập, sáu thứ là thuộc về ngoại nhập.

Hết thảy là trí nhận biết.

*

* Mười hai nhập nầy: Mười thứ là đoạn tri nhận biết và đoạn, hai thứ cần phân biệt: Hai thứ nếu hữu lậu là đoạn tri nhận biết và đoạn, nếu vô lậu là không phải đoạn tri nhận biết và không đoạn.

Tám thứ là không nên tu, bốn thứ cần phân biệt: Sắc nhập hoặc nên tu, hoặc không nên tu. Thế nào là nên tu? Là sắc nhập thiện. Thế nào là không nên tu? Là sắc nhập bất thiện và vô ký.

Như sắc nhập, thanh nhập, ý nhập cũng như vậy.

Pháp nhập như đã nói rộng ở phẩm Phân biệt các nhập.

Tám thứ là không cấu uế, bốn thứ cần phân biệt: Nói rộng như ở trên.

Mười một thứ là quả cùng có quả, một thứ cần phân biệt: Trong pháp nhập hoặc là quả không phải là có quả, có ba trường hợp: 1. Là quả không phải là có quả: Là số diệt. 2. Là quả cũng là có quả: Là pháp nhập hữu vi. 3. Không phải là quả cũng không phải là có quả: Là hư không và phi số diệt.

Ba thứ là không thọ, chín thứ cần phân biệt: Nhãn nhập hoặc là thọ, hoặc là không thọ. Thế nào là thọ? Là tự tánh thọ nhận. Thế nào là không thọ? Là không phải tự tánh thọ nhận.

Như nhãn nhập, các thứ nhĩ nhập, tỷ nhập, thiệt nhập, thân nhập, sắc nhập, hương nhập, vị nhập, xúc nhập cũng như vậy.

Mười hai nhập hoặc do bốn đại tạo, hoặc không phải do bốn đại tạo. Do bốn đại tạo là chín nhập và phần ít của hai nhập. Không phải do bốn đại tạo là một nhập và phần ít của hai nhập.

Mười một thứ là hữu thượng, một thứ cần phân biệt: Pháp nhập hoặc là hữu thượng, hoặc là vô thượng. Thế nào là hữu thượng? Là nghiệp thân, khẩu trong pháp nhập cùng thọ ấm, tưởng ấm, hành ấm, hư không, phi số diệt. Thế nào là vô thượng? Là số diệt.

Mười thứ là hữu, hai thứ cần phân biệt: Hai thứ nếu là hữu lậu là hữu, nếu là vô lậu là không phải hữu.

Mười thứ là nhân không tương ưng, một thứ là nhân tương ưng, một thứ cần phân biệt: Pháp nhập nếu là tâm pháp là nhân tương ưng, nếu không phải là tâm pháp là nhân không tương ưng.

*

* Mười hai nhập nầy: Xứ thiện gồm thâu phần ít của bốn nhập, phần ít của bốn nhập cũng gồm thâu xứ thiện.

Xứ bất thiện gồm thâu phần ít của bốn nhập, phần ít của bốn nhập cũng gồm thâu xứ bất thiện.

Xứ vô ký gồm thâu tám nhập và phần ít của bốn nhập, tám nhập và phần ít của bốn nhập cũng gồm thâu xứ vô ký.

Xứ lậu gồm thâu phần ít của một nhập, phần ít của một nhập cũng gồm thâu xứ lậu.

Xứ hữu lậu gồm thâu mười nhập và phần ít của hai nhập, mười nhập và phần ít của hai nhập cũng gồm thâu xứ hữu lậu.

Xứ vô lậu gồm thâu phần ít của hai nhập, phần ít của hai nhập cũng gồm thâu xứ vô lậu.

Mười một thứ hoặc là quá khứ, vị lai, hiện tại. Một thứ cần phân biệt: Pháp nhập nếu là hữu vi, hoặc là quá khứ, vị lai, hiện tại. Nếu là vô vi là không phải quá khứ, vị lai, hiện tại.

Tám thứ là vô ký, bốn thứ cần phân biệt: Như đã nói rộng nơi phẩm Phân biệt các nhập.

Hai thứ là thuộc cõi Dục, mười thứ cần phân biệt: Như đã nói rộng nơi phẩm Phân biệt các nhập

Hỏi: Mười hai nhập nầy: Bao nhiêu thứ là học, bao nhiêu thứ là vô học, bao nhiêu thứ là phi học phi vô học v.v…?

Đáp: Như đã nói rộng nơi phẩm Phân biệt các nhập.

*

* Mười hai nhập nầy: (Thiếu phần do kiến đoạn, do tu đoạn, không đoạn).

Mười thứ là không phải tâm, không phải tâm pháp, không phải tâm tương ưng. Một thứ tức là tâm. Một thứ cần phân biệt: Pháp nhập nếu là có duyên là tâm pháp, tâm tương ưng. Nếu là không duyên là không phải tâm pháp, không phải tâm tương ưng.

Mười thứ không phải là tâm tùy chuyển cũng không tương ưng với thọ, một thứ tương ưng với thọ không phải là tâm tùy chuyển, một thứ cần phân biệt: Pháp nhập hoặc là tâm tùy chuyển không tương ưng với thọ, có ba trường hợp: 1. Là tâm tùy chuyển không tương ưng với thọ: Là tâm tùy chuyển nơi nghiệp thân, khẩu, tâm tùy chuyển nơi tâm bất tương ưng hành và thọ. 2. Là tâm tùy chuyển cũng tương ưng với thọ: Là tưởng ấm tương ưng với hành ấm. 3. Không phải là tâm tùy chuyển cũng không tương ưng với thọ: Là trừ tâm tùy chuyển nơi nghiệp thân, khẩu, là nghiệp thân, khẩu còn lại, trừ tâm tùy chuyển nơi tâm bất tương ưng hành, là tâm bất tương ưng hành còn lại và vô vi.

Như thọ, tưởng, hành cũng như vậy, trừ tự tánh của nó.

Mười thứ không phải là giác tùy chuyển cũng không tương ưng với quán, hai thứ cần phân biệt: Ý nhập hoặc là có giác có quán, hoặc là không giác có quán, hoặc là không giác không quán. Thế nào là có giác có quán? Là ý có giác có quán tư duy tương ưng với ý nhập. Thế nào là không giác có quán? Là ý không giác có quán tư duy tương ưng với ý nhập. Thế nào là không giác không quán? Là ý không giác không quán tư duy tương ưng với ý nhập.

Pháp nhập hoặc là giác tùy chuyển không tương ưng với quán, có bốn trường hợp: 1. Là giác tùy chuyển không tương ưng với quán: Là giác tùy chuyển nơi nghiệp thân, khẩu, giác tùy chuyển nơi tâm bất tương ưng hành và giác tương ưng với quán. 2. Là quán tương ưng không phải là giác tùy chuyển: Là giác. Như giác không tương ưng với quán, là tương ưng với tâm, tâm pháp. 3. Là giác tùy chuyển cũng tương ưng với quán: Là giác, quán tương ưng với tâm, tâm pháp. 4. Không phải là giác tùy chuyển cũng không tương ưng với quán: Là trừ giác tùy chuyển nơi nghiệp thân, khẩu, là nghiệp thân, khẩu còn lại, trừ giác tùy chuyển nơi tâm bất tương ưng hành, là tâm bất tương ưng hành còn lại, và giác không tương ưng với quán, cùng không phải giác quán tương ưng với tâm tâm pháp nơi pháp nhập và vô vi.

Một thứ là kiến cũng là xứ kiến, chín thứ là xứ kiến không phải là kiến, hai thứ cần phân biệt: Ý nhập nếu là hữu lậu là xứ kiến không phải là kiến, nếu là vô lậu không phải là kiến cũng không phải là xứ kiến.

Pháp nhập hoặc là kiến không phải là xứ kiến, có bốn trường hợp: 1. Là kiến không phải là xứ kiến: Là pháp nhập gồm thâu tận trí, vô sinh trí, không gồm thâu tuệ vô lậu. 2. Là xứ kiến không phải là kiến: Là kiến không gồm thâu pháp nhập hữu lậu. 3. Là kiến cũng là xứ kiến: Là năm kiến cùng chánh kiến thế tục. 4. Không phải là kiến cũng không phải là xứ kiến: Là kiến không gồm thâu pháp nhập vô lậu.

Tám thứ không phải là nhân của thân kiến, thân kiến cũng không phải là nhân của chúng, bốn thứ cần phân biệt: Sắc nhập nếu cấu uế là nhân của thân kiến, thân kiến không phải là nhân của nó, nếu không cấu uế, không phải là nhân của thân kiến, thân kiến cũng không phải là nhân của nó.

Như sắc nhập, thanh nhập cũng như vậy.

Ý nhập như đã nói rộng nơi phần thọ niệm xứ. Pháp nhập như đã nói rộng nơi phần pháp niệm xứ.

Hỏi: Mười hai nhập nầy: Bao nhiêu thứ là nghiệp không phải là nghiệp báo v.v…?

Đáp: Hết thảy nên phân biệt: Nhãn nhập hoặc là nghiệp báo không phải là nghiệp, hoặc không phải là nghiệp cũng không phải là nghiệp báo. Là nghiệp báo không phải là nghiệp: Là báo sinh nơi nhãn nhập, ngoài ra không phải là nghiệp cũng không phải là nghiệp báo.

Như nhãn nhập, các nhập tỷ, nhĩ, hương, thiệt, vị, thân, xúc, ý cũng như vậy.

Sắc nhập hoặc là nghiệp không phải là nghiệp báo, có ba trường hợp: 1. Là nghiệp không phải là nghiệp báo: Là thân tạo sắc. 2. Là nghiệp báo không phải là nghiệp: Là báo sinh nơi sắc nhập. 3. Không phải là nghiệp cũng không phải là nghiệp báo: Là trừ nghiệp sắc và nghiệp báo sinh nơi sắc nhập, là sắc nhập còn lại.

Thanh nhập hoặc là nghiệp không phải là nghiệp báo, hoặc không phải là nghiệp cũng không phải là nghiệp báo. Là nghiệp không phải là nghiệp báo: Là khẩu tạo tác, ngoài ra không phải là nghiệp cũng không phải là nghiệp báo.

Pháp nhập hoặc là nghiệp không phải là nghiệp báo, có bốn trường hợp: 1. Là nghiệp không phải là nghiệp báo: Là nghiệp thân, khẩu và báo không gồm thâu nghiệp tư. 2. Là nghiệp báo không phải là nghiệp: Là tư không gồm thâu báo sinh nơi pháp nhập. 3. Là nghiệp cũng là nghiệp báo: Là báo sinh nơi tư nghiệp. 4. Không phải là nghiệp cũng không phải là nghiệp báo: Là trừ nghiệp và nghiệp báo sinh nơi pháp nhập, là pháp nhập còn lại.

Tám thứ không phải là nghiệp cũng không phải là nghiệp tùy chuyển, một thứ là nghiệp tùy chuyển không phải là nghiệp, ba thứ cần phân biệt: Sắc nhập hoặc là nghiệp không phải là nghiệp tùy chuyển, hoặc không phải là nghiệp cũng không phải là nghiệp tùy chuyển. Là nghiệp không phải là nghiệp tùy chuyển: Là thân tạo tác sắc, còn lại không phải là nghiệp cũng không phải là nghiệp tùy chuyển.

Như sắc nhập, thanh nhập cũng như vậy.

Pháp nhập hoặc là nghiệp không phải là nghiệp tùy chuyển, có bốn trường hợp: 1. Là nghiệp không phải là nghiệp tùy chuyển: là trừ nghiệp tùy chuyển nơi nghiệp thân, khẩu, là nghiệp thân, khẩu còn lại và nghiệp tư. 2. Là nghiệp tùy chuyển không phải là nghiệp: Là thọ ấm, tưởng ấm. Hoặc tư không gồm thâu hành ấm của nghiệp tùy chuyển. 3. Là nghiệp cũng là nghiệp tùy chuyển: Là nghiệp tùy chuyển nơi nghiệp thân, khẩu. 4. Không phải là nghiệp cũng không phải là nghiệp tùy chuyển: Là trừ nghiệp và nghiệp tùy chuyển nơi pháp nhập, là pháp nhập còn lại.

Mười hai nhập hoặc là sắc tạo sắc không phải là sắc có thể thấy, có ba trường hợp: 1. Là sắc tạo sắc không phải là sắc có thể thấy: Là tám nhập và phần ít của hai nhập. 2. Là sắc tạo sắc cũng là sắc có thể thấy: Là một nhập. 3. Không phải là sắc tạo sắc cũng không phải là sắc có thể thấy: Là một nhập và phần ít của hai nhập.

*

* Mười hai nhập nầy: Mười hai nhập hoặc là sắc tạo sắc không phải là sắc có đối, có bốn trường hợp: 1. Là sắc tạo sắc không phải là sắc có đối: Là phần ít của một nhập. 2. Là sắc có đối không phải là sắc tạo sắc: Là phần ít của một nhập. 3. Là sắc tạo sắc cũng là sắc có đối: Là chín nhập và phần ít của một nhập. 4. Không phải là sắc tạo sắc cũng không phải là sắc có đối: Là một nhập và phần ít của một nhập.

Hết thảy là rất thâm diệu khó hiểu rõ, khó hiểu rõ vì rất thâm diệu.

Hỏi: Mười hai nhập nầy: Bao nhiêu thứ là thiện cũng là nhân thiện v.v…?

Đáp: Hết thảy nên phân biệt: Nhãn nhập hoặc là nhân thiện không phải là thiện, hoặc không phải là thiện cũng không phải là nhân thiện. Là nhân thiện không phải là thiện: Là báo thiện sinh nơi nhãn nhập, còn lại không phải là thiện cũng không phải là nhân thiện.

Như nhãn nhập, các nhập: nhĩ, tỷ, hương, thiệt, vị, thân, xúc cũng như vậy.

Sắc nhập hoặc là nhân thiện không phải là thiện, có ba trường hợp: 1. Là nhân thiện không phải là thiện: Là báo thiện sinh nơi sắc nhập. 2. Là thiện cũng là nhân thiện: Là sắc nhập thiện. 3. Không phải là thiện cũng không phải là nhân thiện: Là sắc nhập bất thiện và vô ký.

Như sắc nhập, ý nhập cũng như vậy.

Thanh nhập hoặc là thiện cũng là nhân thiện, hoặc không phải là thiện cũng không phải là nhân thiện. Là thiện cũng là nhân thiện: Là thanh nhập thiện, còn lại không phải là thiện cũng không phải là nhân thiện.

Pháp nhập hoặc là thiện không phải là nhân thiện: Như đã nói rộng nơi pháp niệm xứ.

Hỏi: Mười hai nhập nầy: Bao nhiêu thứ là bất thiện cũng là nhân bất thiện v.v…?

Đáp: Hết thảy nên phân biệt: Nhãn nhập hoặc là nhân bất thiện không phải là bất thiện, hoặc không phải là bất thiện cũng không phải là nhân bất thiện. Là nhân bất thiện không phải là bất thiện: Là báo bất thiện sinh nơi nhãn nhập, ngoài ra không phải là bất thiện cũng không phải là nhân bất thiện.

Như nhãn nhập, các nhập: nhĩ, tỷ, hương, thiệt, vị, thân, xúc cũng như vậy.

Sắc nhập hoặc là nhân bất thiện không phải là bất thiện, có ba trường hợp: 1. Là nhân bất thiện không phải là bất thiện: Là báo bất thiện sinh nơi sắc nhập. 2. Là bất thiện cũng là nhân bất thiện: Là sắc nhập bất thiện. 3. Không phải là bất thiện cũng không phải là nhân bất thiện: Là sắc nhập thiện và vô ký.

Thanh nhập hoặc là bất thiện cũng là nhân bất thiện, hoặc không phải là bất thiện cũng không phải là nhân bất thiện. Là bất thiện cũng là nhân bất thiện: Là thanh nhập bất thiện, còn lại không phải là bất thiện cũng không phải là nhân bất thiện.

Ý nhập như ý căn. Pháp nhập như pháp niệm xứ.

Tám thứ là vô ký cũng là nhân vô ký, bốn thứ cần phân biệt: Sắc nhập hoặc là nhân vô ký không phải là vô ký, có ba trường hợp: 1. Là nhân vô ký không phải là vô ký: Là sắc nhập bất thiện. 2. Là vô ký cũng là nhân vô ký: Là sắc nhập vô ký. 3. Không phải là vô ký cũng không phải là nhân vô ký: Là sắc nhập thiện.

Như sắc nhập, thanh nhập, ý nhập cũng như vậy.

Pháp nhập hoặc là vô ký không phải là nhân vô ký, có bốn trường hợp: 1. Là vô ký không phải là nhân vô ký: Là hư không và phi số diệt. 2. Là nhân vô ký không phải là vô ký: Là pháp nhập bất thiện. 3. Là vô ký cũng là nhân vô ký: Là pháp nhập hữu vi vô ký. 4. Không phải là vô ký cũng không phải là nhân vô ký: Là pháp nhập thiện.

Mười một thứ là duyên của nhân duyên cùng có nhân, một thứ cần phân biệt: Pháp nhập nếu là hữu vi là duyên của nhân duyên cùng có nhân, nếu là vô vi, không phải là duyên của nhân duyên không có nhân.

Mười thứ không phải là thứ đệ cũng không phải là duyên của thứ đệ duyên, hai thứ cần phân biệt: Ý nhập hoặc là thứ đệ không phải là duyên của thứ đệ duyên, có ba trường hợp: 1. Là thứ đệ không phải là duyên của thứ đệ duyên: Là ý nhập tất khởi ở hiện tiền, vị lai, là ý nhập nơi thọ mạng tối hậu của bậc A-la-hán ở quá khứ, hiện tại. 2. Là thứ đệ cũng là duyên của thứ đệ duyên: Là trừ ý nhập nơi thọ mạng tối hậu của bậc A-la-hán ở quá khứ, hiện tại, là ý nhập quá khứ, hiện tại còn lại. 3. Không phải là thứ đệ cũng không phải là duyên của thứ đệ duyên: Là trừ ý nhập tất khởi ở hiện tiền, vị lai, còn lại là ý nhập vị lai.

Pháp nhập hoặc là thứ đệ không phải là duyên của thứ đệ duyên, có ba trường hợp: 1. Là thứ đệ không phải là duyên của thứ đệ duyên: Là pháp nhập của tâm pháp tất khởi ở hiện tiền, vị lai, là pháp nhập của tâm pháp nơi thọ mạng tối hậu của bậc A-la-hán ở quá khứ, hiện tại, và chánh thọ (định) vô tưởng, chánh thọ diệt tận nơi pháp nhập đã khởi, sẽ khởi. 2. Là thứ đệ cũng là duyên của thứ đệ duyên: Là trừ pháp nhập của tâm pháp nơi thọ mạng tối hậu của bậc A-la-hán ở quá khứ, hiện tại, còn lại là pháp nhập của tâm pháp ở quá khứ, hiện tại. 3. Không phải là thứ đệ cũng không phải là duyên của thứ đệ duyên: Là trừ pháp nhập của tâm pháp tất khởi ở hiện tiền, vị lai, còn lại là pháp nhập của tâm pháp vị lai. Trừ thứ lớp nơi tâm bất tương ưng hành, còn lại là tâm bất tương ưng hành nơi nghiệp thân, khẩu và vô vi.

Mười thứ là duyên của duyên duyên không có duyên, một thứ là duyên của duyên duyên cũng có duyên, một thứ cần phân biệt: Pháp nhập nếu là tâm pháp là duyên của duyên duyên cũng có duyên, còn lại không phải là duyên của duyên duyên cũng không có duyên.

Mười một thứ là duyên của tăng thượng duyên cùng có tăng thượng, một thứ cần phân biệt: Pháp nhập nếu là hữu vi là duyên của tăng thượng duyên cùng có tăng thượng, nếu là vô vi là duyên của tăng thượng duyên không có tăng thượng.

Mười thứ là tùy lưu không phải là lưu, hai thứ cần phân biệt: Ý nhập nếu là hữu lậu là tùy lưu không phải là lưu, nếu là vô lậu không phải là lưu cũng không phải là tùy lưu.

Pháp nhập hoặc là tùy lưu không phải là lưu, có ba trường hợp: 1. Là tùy lưu không phải là lưu: Là lưu không gồm thâu pháp nhập hữu lậu. 2. Là lưu cũng là tùy lưu: Là bốn lưu. 3. Không phải là lưu cũng không phải là tùy lưu: Là lưu không gồm thâu pháp nhập vô lậu.

HẾT – QUYỂN 11