LUẬN CHÂN CHÁNH

Thời Tiền Đường, Sa-môn Huyền Nghi ở chùa Bạch Mã soạn.
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản

 

QUYỂN THƯỢNG

Công tử Trệ Tục hỏi tiên sinh Chân Chánh rằng: “Tôi lớn lên từ quê kệch điếc câm, tình chưa hiểu ở phương lớn, sinh ở cuối đời, tâm còn lầm mê với Lý thông. Từng rong ruổi trong thấy nghe, dùng dằng muốn đạp lên đường núi, trọn vẫn ngưng trệ mê lầm ở ngôn thuyết, ngưỡng tìm đường mà ngã vấp, tự ôm hoài lầm hoặc ấy đã thời gian lâu. Hy vọng có được chỉ Nam để thấu được phương Bắc vậy?”

Tiên sinh mới ẩn cơ mà đáp: “Tôi từ thuở nhỏ từng nghe Thi Lễ, lớn lên lại ưa thích phần tịch, đam mê tập học có mấy năm, tìm xem không nhọc mệt. Mọi biên nghi của giản sách, viết chép của văn tự, chính hóa của Đế vương, giáo môn của phàm tục, không gì chẳng mong nung đúc rõ rành, phải quấy biện lầm sai. Từ lâu tích chứa xét soi của Linh đài, hận không đo đắn khởi động tôi. Nay ông vặn hỏi nghi ngờ không mất lời nói vậy”.

Công tử quỳ mà nói vậy: Phàm, sách của ký sự, sử của nhiều đời, thuật cặn bả của người xưa, thật là cừ lô của Tiên vương, đó mới là đàm nói của Mạt tục, sao đủ để luận bàn! Đến như Phật Thích-ca để lại khuôn phép, Pháp vương diễn giảng giáo hóa vượt hẳn chín phái mà riêng bước, trải cả muôn kiếp mà xem cao. Ngôn tượng chẳng thuyên vức lũy ấy, ngu trí không trông nhìn mầm điềm đó, rực rỡ như mười cảnh chiếu sáng giữa trời xanh, mênh mông tợ chín bể nổi trên biển biếc. Đó mới là Thánh chỉ xuất thế, chẳng phải một vài đàm nói của hàng sĩ bộc. Phàm, lập giáo của đạo từ xưa lại vẫn còn, viện dẫn từ sách của Hoàng đế, cho đến Điển của Bá vương, cốt yếu của tu thân trị nước, công khó kéo dài mạng sống tuổi thọ, khuôn phép lắng lùi thanh hư, đức hạnh mềm mại điềm đạm, dụng của Từ kiệm giới cương, khả năng bẻ bén nhọn mở rối ren, thật có ích với phàm tình, hẳn không khuyết với thời đại chính cuộc nào. Từ gia đình đến hình luật nước, ước hẳn có nguyên do vậy.

Gần đây, từ thời nhà Ngô nhà Thục phân chia cương giới, nhà Tống nhà Tề nối tiếp trị vì, riêng lập Thiên Tôn, dùng làm giáo chủ. Căn cứ các kinh luận ấy biên ghi: “Thiên Tôn là Tông tượng của đạo pháp, ngôi vị cùng tột của Huyền môn, chỗ kính phụng của trời người, nên xưng gọi là Thiên Tôn. Nguồn gốc có trước tạo hóa, đứng đầu cả âm dương, sinh thành đất trời, dưỡng nuôi càn khôn, muôn vật nhờ đó mà lập hình, ba thứ ánh sáng bẩm thụ đó để thành tượng”. Căn cứ sự nêu bày ấy thì Thiên Tôn là trước cả đất trời. Tiên sinh học hơn cả Bồng sơn, tài nghệ gồm cả Thạch thất, nói bàn gồm cả Nho sử, nhận biết rành rẽ sâu xa, gương sáng treo cao, hình vật đến soi hiện đó, Hồng Chung chờ đợi gióng dám ngoi lên hạ phong, xin phân quyết nghi ngờ sâu, ngõ hầu không mê lầm lại!”

Tiên sinh mới ngữa mặt lên trời mà than rằng: “Kẻ mê lầm như thế hẳn đông nhiều, nào chỉ riêng mình ông! Hãy ngồi xuống, tôi sẽ vì ông mà luận bàn đó.

Phàm, lập giáo của đạo phát xuất từ Hoàng đế cho đến thời Bá Dương, thật như điều ông nói. Còn về Thiên Tôn, hư vọng gì ư? Hư dối gì ư? Ông nên lắng nghe đó, tôi sẽ vì ông mà phân chiết biện rành. Phàm, ngoài vũ trụ chỗ ngôn từ bàn luận chẳng thể đến, người không thể biết được. Trong đất trời, nơi tai mắt ghé kịp, đều có thể nghiên tầm mà rõ ràng vậy.

Tôi mở xem sách sử, người xưa nêu bày dấu vết, giảng đọc biên ghi, mực bút lưu truyền đều thấy đó vậy. Nay sẽ vì ông mà căn cứ nơi sách sử, dựa vào Điển Ký mà nói đó. Căn cứ Chu Dịch Câu Mạng Quyết nói: “Trước lúc đất trời chưa phân, có Thái dịch, Thái sơ, Thái thủy, Thái tố và Thái cực, gọi đó là ngũ vận”. Xin giải thích rằng: Khí tượng chưa phân thì gọi đó là Thái dịch; nguyên khí mới nẩy mầm gọi là Thái sơ; đầu mối của khí hình gọi là Thái thủy; hình biến có chất gọi là Thái tố; chất hình đã đầy đủ gọi là Thái cực. Năm thứ khí dẫn biến gọi là ngũ vận. Đó là nói về khí hình và chất đầy đủ mà chưa tương ly, đều gọi là Thái dịch, Thái tố v.v…

Lại căn cứ Dịch Vĩ Thông Quái nói: “Dịch có Thái dịch là sinh Lưỡng nghi, hơi khí trong sạch nhẹ nhàng nổi lên làm trời, hơi khí dơ đục nặng nề chìm xuống thành đất. Trời đất hòa hợp mà sinh ra người, đem người dự tham cùng đó, thì gọi đó là Tam tài”. Lại căn cứ Dịch Tự Quái nói: “Có đất trời muôn vật, sau đó lập nên vua tôi, định chế lễ nghi của cha con, vợ chồng, già trẻ, tôn ty trên dưới riêng biệt”. Trước Thái dịch, khí sắc chưa phân, hình tượng chưa hiển trước, tướng trạng lẫn lộn đắm chìm mờ mịt không hình trạng. Nhị nghi đã phán định, hình tướng đất trời đầy đủ, ba thứ ánh sáng đã rõ ràng, chất khí tượng hiện, âm dương giao hợp người mới sinh vậy. Từ đó về sau, Tam tài mới đầy đủ, đó đều là chỗ thuyên của thư ký như ngón tay trên bàn bày. Thiên Tôn nếu vốn không hình sắc tức cùng Thái dịch v.v… không khác, không được sinh trước ngũ vận. Nếu có hình sắc tức sinh tại trong Tam tài, không được trước Thái dịch. Vả lại, trước Thái cực không hình không tượng, Thiên Tôn chẳng nên có hình rõ ràng vậy. Nếu cùng đồng khí với Thái dịch, đến sau Thái cực cùng Tam tài đồng bẩm thọ hình mà sinh. Đó mới là chỗ sinh của âm dương đất trời, đâu có thể trước đất trời ư? Xin nghiên cứu lý ấy, hư thật rõ ràng, không đợi tìm xét nơi kinh sử’.

Công tử hoảng nhiên kinh sợ mà thưa: “Như lời đàm nói của tiên sinh thật là hư vọng, chỉ bởi tập tục chuyển dời lâu dài, xúc chạm đường, lắm rõ ràng, chỉ vì ngu không rõ, còn có lầm hoặc vậy. Lại xin nêu bày mối nghi ngờ, cúi mong chỉ bày dạy răn. Căn cứ các kinh Linh Bảo, v.v… của Đạo gia, không phải là không chứng cứ, đều là do Thiên Tôn giảng nói, pho bộ hiện còn đầy đủ. Nếu vốn không có Thiên Tôn, kinh giáo từ đâu mà có? Linh Bảo ghi chép sự tích rõ ràng. Kẻ hèn lại xin nêu bày, cầu mong một lần soi xét. Trong kinh nói: “Thiên Tôn ở núi Ngọc kinh tại Huyền đô trời Đại la, hoặc đi đến trong rừng xanh trống rỗng, hoặc ngồi dưới trại cây gỗ, ở trên Tam thạnh, gồm lớn hơn cả chín tiên, trăm linh chầu hội, muôn phẩm thềm cấp vời các thần biến kỳ dị”. Nêu bày đủ trong kinh văn. Nếu không ảnh hưởng, sao có thể được như vậy, lắm nhiều nghe cao, mong tạm giải thích điều nghi!”.

Tiên sinh mỉm cười mà bảo: “Ông sao ngưng trệ lầm hoặc quá lắm vậy? Tôi lại vì ông vạch bày xác quyết mà luận bàn, ông nên xét đỡ. Phàm ngôn từ không thể phát ra bừa bãi mà phải y cứ ở Lễ kinh; bút mực không thể biên ghi dối vọng, mọi sự phải tuân thao điển tịch. Vậy biết Lễ kinh không biên ghi thì đều chẳng phải đàm nói của Nhã chánh. Điển tịch không thuyên giải, đều là điều nói sai lầm hư dối. Sách vở có thể kiểm nghiệm, đen trắng khó dối lừa. Giáo khác phương ngoài, tích khác trong vức. Khảo xét sử sách đó như hình tượng đến nơi gương sáng; tìm cầu ở Đế tải, như quyền hành xác chuẩn vật, tự không ôm hoài vì văn xưa cũ chưa dung. Từ đời Viêm Hoàng trở lại, thư ký mới dần, mãi đến đời Hoàng đế Thiếu Hạo, triều Chuyên Húc Đế Khô, Quân Đường Ngu Nghiêu Thuấn, Hậu Hạ Võ Ân Thang, Chu Võ Tần Dương đã gián, Hán Ngụy Tấn Tống trở về trước. Trên từ Thượng thư xa vời, Tả truyện Tư Mã đổi thay sử ký, sách của Hoàng Phủ Mật, Đế Vương Kỷ, Vĩ Diệu Đổng Kỷ, Dương Hoa Bùi Giới, nhiều đời tương thừa tiếp nối, niên đại rõ ràng. Lớn không gì chẳng biên ghi, nhỏ chẳng gì không viết chép. Đế của thuyền nhượng chiến tranh, Hoàng của Thuần kiêu bộ sậu, trưng bày của thần kỳ biến hiện, ứng của tai dị tốt lành, cảm thông của rồng phụng rùa rắn, tinh lình của cá miết Hủy Hổ. Cho đến cây đá kỳ quái, yêu quỷ ly mỵ, không gì chẳng biên ghi đầy đủ, sao riêng Thiên Tôn không rõ ràng việc ấy? Từ Thiên hoàng hậu vận, Đế nghiệp quyền hưng, cho đến Nhân hoàng niên đại lâu xa. Năm họ lấy đó làm tông bản, bảy mươi hai họ phái từ đó lưu xuất nhiều, đến có việc sào toại nhân, trải qua sáu kỷ chín mươi sáu đời, hơn một triệu tám mươi hai ngàn bảy trăm sáu mươi ngàn (1.082.0) năm, thời gian đó văn tự chưa sinh, tục còn thuần phác. Từ Thái Hoàng đến dòng họ Vô Hoài gồm mười sáu đời, cả thảy mười bảy ngàn sáu trăm tám mươi ba năm (1.83) năm số lịch ba kỷ bảy mươi hai thuyền. Từ dòng họ Viêm Đế Thần Nông cho đến con cháu Hoàng đế tiếp nối có mười tám đời, cả thảy một ngàn năm trăm ba mươi (1.530) năm, văn tự đã sinh dần có thể ghi rõ. Từ đó trở xuống, sử quan được thành lập, rõ ràng có thể xem thấy, đủ các phương sách. Nghĩa của Thiên Tôn vắng vẻ không nghe. Lấy đó mà suy, đủ để chứng minh là hư vọng, rõ ràng có thể nghiệm, nghi ngờ chỗ nào ư?”

Công tử nói: Tiên sinh biện luận như Huyền Hà, nhả ngôn từ liền chuỗi, vẻ sạch tâm linh, lắng tẩy tai mắt. Tự có thể giấu tiếng đều dứt, xét lý thông suốt sâu mầu, mà nghi trệ cao sâu, không gì chẳng ít lầm hoặc, lại nhàm chán nghe cao, có thẹn nơi sâm. Lại xin được rõ ràng đó, mong được tỏ bày lắm mờ tối. Căn cứ giáo tích của Đạo gia, nghĩa chỉ rất nhiều, danh số pháp môn, sự lý không ít. Kinh có ba mươi sáu bộ, tên bao gồm cả ba động. Chữ ngọc, sách vàng, hòm bạc, dao oách, bút tía, túi đảy chu, đầy đủ có phô bày, đâu phải toàn hư dối vậy?

Tiên sinh bảo: Ông mê mờ ở gốc lại lầm hoặc ở ngọn, tôi sẽ vì ông luận bàn đầy đủ, chọn lực một ít thì có thể tỏ ngộ. Đạo kinh đều suy do Thiên Tôn giảng nói. Chủ giảng nói vốn tự nương cậy hư trống, giáo tích thành có được ư? Da đã không thực còn lông vảy sao bám víu? Tuy có ba mươi sáu bộ nhưng đều là ngụy thư. Nhọc xưng ba động đều chẳng thật lục. Chữ ngọc sách vàng, trong ngụy sinh ra ngụy. Hòm bạc, từng ngọc dao, trong hư tạo dựng nên hư, tên gọi của bút tích đã là kiểu từ mà vọng lập, thuyết của túi chu, cũng giả trang sức mà không đề, nói việc tợ mê hoặc vong tình, vỗ thật đủ làm hư vọng. Vả lại, kinh giáo của Đạo gia nói là Thiên Tôn thuyên giảng. Giáo chủ rốt cục chẳng còn có, rõ ràng kinh không chủ có thể nói. Kinh đã không chủ thì nên tự hiểu là đầu mối hư ngụy. Nhổ gốc bít nguồn, nào phải nhọc nói nhiều? Nay ông còn chưa tỏ ngộ, trọn đợi vạch chiết luận bàn đó.

Đạo kinh xưng là có ba mươi sáu bộ, nghĩa ấy có nguyên do, tên gọi ấy phát xuất từ kinh Phật, Đạo sĩ nhân đó mà sáng tác, hàng dong tục ngu tình dùng tăng thêm làm thắng. Vì kinh Phật có mười hai bộ loại, mới thêm hai mươi bộ, tổng hợp thành ba mươi sáu bộ. Thấy Phật giảng nói pháp, mắt tai v.v… sáu căn nhiễm trần nhân đó mà kết tội, bèn ở trên sáu căn mỗi căn lại mở sáu môn, sáu lần sáu là ba mươi sáu, nên nêu là ba mươi sáu. Xưng gọi tuy có tên đó mà trọn không có nghĩa đó. Trong mỗi bộ, sự lý trái bày, đó chẳng phải chỗ thuyên giảng của Thánh nhân, vọng tạo há có thể đều khít kín! Nên ba mươi sáu bộ ngụy vọng, có thể biết vậy.

Lại nữa, tên gọi của ba động lại phỏng theo ba tạng của kinh Phật. Ba động: Một là Động chân, hai là Động huyền và ba là Động thần. Đó gọi là ba động, động có nghĩa là thấu suốt sáng tỏ, tức nói tập học ba kinh ấy, sáng tỏ được đạo lý, nên gọi đó là ba động. Động chân là học Phật pháp kinh Đại thừa, thuyên giảng pháp, hiểu rõ thật tướng. Động huyền là giảng nói Lý nghĩa khế hợp chân. Động thần là các loại phù cấm chương tiếu. Nay khảo xét kinh văn ba động thì chỉ có Lão Tử hai quyển có phần nhỏ khế hợp với mục của Động huyền. Còn bộ Động chân tức là Linh bảo, kinh sớ đều là do đời gần đây, trong bốn triều đại Ngô, Tống, Tề, Lương, do các Đạo sĩ Cát Huyền, Tống Văn Minh, Lục Tu Tĩnh và Cố Hoan v.v… ngụy tạo, đều không điển thật. Còn một bộ Động thần là do Trương Đạo Lăng là người đất Thục ở cuối thời Hậu Hán tự nói là ở núi Nga my tu Đạo chứng quả, Lão Tử từ cung Tử vi giáng xuống trao cho Trương Đạo Lăng đảm nhậm làm Thiên sư và thuật phú cấm chương tiếu sai gọi quỷ thần. Trương Đạo Lăng mới tự ngụy tạo Đạo kinh vài trăm quyển. Trong kinh nói về Trương Đạo Lăng cùng với Thiên Tôn giảng nói kinh. Kinh văn phần nhiều nói: Thiên sư bảo Đạo Lăng rằng: “Sau khi vua Võ Đế (Tư của Viêm 250-290) thời Tây Bình trị thời Đông Ngô rồi, kinh pháp của Đạo Lăng mới lưu truyền đến Giang tả”. Tống Văn Minh v.v… mới ở trong các Ngụy kinh do Trương Đạo Lăng tạo ra mà sáng chế nghĩa sớ để giải thích đó, nhân đó lại tạo ngụy kinh để tăng thêm số lượng, tướng trạng giả ngụy của ba động đủ để có thể biết vậy.

Chữ ngọc Kinh vàng; trong kinh nói: “Thiên Tôn ở Ngọc Kinh Huyền Đô giảng nói kinh xong, các trời chân nhân bện ngọc làm chữ để biên tả văn ấy”. Một thuyết khác lại nói, chữ ngọc là các trời viết tên, còn kinh vàng là khắc chạm vàng làm chữ. Nay các Đạo sĩ thọ pháp Chân Văn và từ Thượng Thanh ấy đều lấy chữ ngọc làm văn, chữ ấy tợ như tiểu triện lại chẳng phải tiểu triện. Đạo gia minh chân hành đạo, ở năm phương trong đàn tràng, một phương thiết đặt một chân văn, văn ấy viết làm chữ ngọc. Tống Văn Minh v.v… viết theo lối chữ Lệ để dịch đó. Căn cứ tướng trạng ấy của Tống Văn Minh càng rõ ràng là chữ hư ngụy. Nếu chữ ngọc vốn do các trời Chân nhân viết nên, thì Tống Văn Minh là Đạo sĩ sống trong đời gần đây, chẳng dự hội giảng pháp, lại không giao tiếp tương quan với các Chân nhân kết tập kinh, làm sao Tống Văn Minh biết được chữ ngọc mà dùng lối chữ Lệ để phiên dịch? Tức rõ ràng chữ ngọc do Tống Văn Minh làm ra cải đổi thể chữ Lệ và dối ngụy lập nên tên của chữ ngọc, do đó trở lại tự dùng lối chữ Lệ dịch chữ hư ngụy đó. Lấy đó mà xét nghiệm, rõ ràng biết được vậy.

Lại nói, hòm bạc từng ngọc dao thì, hòm là rương tráp đựng kinh, từng là tạng chứa dựng kinh. Ở đây nói kinh Thiên Tôn giảng nói trời người kính trọng nên dùng hòm bạc để chứa đựng cất giấu kỹ trong kho ngọc. Vì bạc và ngọc là quý nên dùng đó để chứa đựng kinh. Căn cứ hư từ đó đều là lừa dối. Chỉ thời đại của con người và ở Thiên cung, sự quý chuộng mỗi nơi có khác. Nếu dùng bạc ngọc của nhân gian làm vật trân quý ở Thiên cung, thì thanh sắc ở nhân gian có thể làm chỗ quý trọng cho chốn Thiên cung. Ngụy kinh vọng nói Bạc ngọc, sao là tài sắc chân thật, đối cảnh là đồng, đây kia có gì khác biệt, lập của cải phá sắc dáng, chưa biết nguyên do ấy thế nào?

Lại nói bút tía, túi chu. Đó lại hư ngụy, chỉ khởi xưng của bút phát xuất ở thời sáu nước, do Mông Điền người thời nhà Tần mới bắt đầu tạo bút. Từ thời nhà Tần trở về trước đều vót cây gỗ mà viết chép, hoặc gọi đó là Tạm, hoặc gọi đó là Trác, hoặc gọi đó là Cô, nguyên không gọi là bút. Há có Thiên Tôn đã xưng làm bút? Huống gì năm sắc chẳng phải thật, sáu trần đều hư giả. Mê lầm tâm chấp buộc vọng lấy làm sắc, ở nơi Hiền thánh vốn không thấy vậy, Tống Văn Minh v.v… lấy son tía là chỗ quý trong thế tục dùng để trang sức tên của Thiêm Đề. Vả lại, Túi (Thao) vì phỏng theo sáu túi vọng trận hiệu Binh thư của Thái Công, là tên gọi khác của sách thế tục, mục khác của Binh chỉ, chẳng lìa cảnh trần lao, mới đắm chìm trong dòng sinh tử, nói sự tợ danh xưng tốt đẹp, xét Lý toàn là vết tích dối Ngụy”.

Nghe Tiên sinh nói như thế, Công tử tâm mê mang, chỉ rối loạn, chẳng biết làm sao, mới nói với Tiên sinh rằng: “Cúi nghe lắm miệng vàng sáng, tích chứa hủy hoại tiêu cốt. Tiên sinh bàn luận đó, không là thật ư? Chưa giải được điều nghi, lại xin giải thích tiếp. Trong kinh nói: “Sắc mây ráng sáng kết tụ giữ hư không thành chữ, khói ùn sương móc nhỏ giọt kết khí thành văn, rộng rãi tám góc, chữ vuông một trượng”. Linh bảo hiển bày rõ đủ, là chỗ lầm hoặc ư?”

Tiên sinh bảo: Người tình tệ chấp khó đổi thay, người tánh minh xác dễ tỏ ngộ. Phàm ông chìm đắm chết đi mà chẳng trở lại, chẳng tư duy mình lầm hoặc, lật lại chỗ thấy đặt để nghi ngờ. Ông xét nghe đó, tôi vì ông thuật, ý chỉ kinh ấy từ lâu đã rõ hiểu. Bởi mở đầu chân văn vốn là ngụy lạm, hiển bày Linh bảo là dấu vết hư vọng. Đã nói Thiên Tôn đầu mối ngậm một hơi khí, bao gồm mới đầu của Lưỡng nghi, sinh hóa vật tượng, mang dưỡng các hình. Nói kinh chẳng gá không nghe, tạo chữ nào suy hơi khí kết. Đó là do Tống Văn Minh ngụy tạo nhân văn, dối lập tướng trạng duyên khởi, mới nói Thiên Tôn cảm hơi khí của mây ráng tụ kết thành văn, chữ vuông một trượng, tức mong khác sách của phàm tục; rộng rủ tám góc, tức dùng khác thể của lối chữ Lệ chữ Triện. Nếu vậy thì chân văn ấy nên thấy ở Hạ phương đây để kỉnh ngộ phàm tục phải hiện bày tướng trạng Linh dị, còn Chân văn ấy nếu ở Thượng phương nơi Thiên Tôn Đô hóa, nào cần văn ấy rộng lớn, để bày dấu vết hư dối quái lạ? Nhọc trình bày luận của Hải Táo, thà tư duy hư vọng của Đa giác. Đó lại là dối ngụy vậy”.

Công tử nói: “Văn của chữ ngọc kết hơi khí giữa hư không, đã nói là hư dối, thật như chỗ nói. Còn trời Đại La cảnh Huyền đô, ngọc kinh nhà tiên cửa vàng cung trời, rừng báu không thanh, cây linh trại mộc, Tam thanh thượng giới, cửu Tiên linh phủ, các hàng đạo tục đều thuyên giải, há đều chẳng thật ư?”

Khi ấy, Tiên sinh mỉm cười mà bảo: “Vừa muốn vì ông mà nói đó, ông quả có thấy hỏi, nay sẽ vì ông nêu bày đầy đủ hư vọng ấy. Xét Linh Bảo, kinh dối ngụy nói: “Có ba mươi hai tầng trời, trời đó từ dưới mà lên trùng điệp xếp đặt đó. Từ dưới thấp tầng thứ nhất là trời Thái Hoàng Hoàng Hoàng Hội, thứ hai là trời Thái Minh Ngọc Mạo, thứ ba là trời Thanh Minh Hà Đồng, thứ tư là trời Huyền Thai Bình Dục, thứ năm là trời Nguyên Minh Văn cử, thứ sáu là trời Thượng Minh Thất Diệu, thứ bảy là trời Hư Vô Việt Hành, thứ tám là trời Thái Cực Mông Ế, thứ chín là trời Xích Minh Hòa Dương, thứ mười là trời Thượng Chân Huyền Minh, thứ mười một là trời Huy Minh Phong Phiêu, thứ mười hai là trời Trúc Lạc Hoàng Già, thứ mười ba là trời Hư Minh Đường Huy, thứ mười bốn là trời Quán Minh Đoan Tỉnh, thứ mười lăm là trời Huyền Minh Cung Khánh, thứ mười sáu là trời Thái Hoán Cực Dao, thứ mười bảy là trời Nguyên Tải Khổng Thăng, thứ mười tám là trời Thái An Hoàng Nhai, thứ mười chín là trời Hiển Định Cực Phong, thứ hai mươi là trời Thủy Hoàng Khảo Mang, thứ hai mươi mốt là trời Thái Hoàng Ông Trọng, thứ hai mươi hai là trời Nguyên Tư Giang Do, thứ hai mươi ba là trời Thượng Phác Nguyên Lạc, thứ hai mươi bốn là trời Vô Cực Đàm Thể, thứ hai mươi lăm là trời Hạo Đình Tiêu Độ, thứ hai mươi sáu là trời Uyên Thông Nguyên Động, thứ hai mươi bảy là trời Thái Văn Hàn Sủng, thứ hai mươi tám là trời Thái Tố Tú Lạc, thứ hai mươi chín là trời Thái Hư Vô Thượng, thứ ba mươi là trời Thái Thích Đằng Thắng, thứ ba mươi mốt là trời Long Biến Phạm Độ, thứ ba mươi hai là trời Thái cực Bình Dục”.

Cẩn trọng xét về ba mươi hai tầng trời của Đạo gia, lược không có tên hiệu của Đại La, tức rõ ràng vốn không có trời Đại La. Đó lại là vọng tạo, thì ba mươi hai tầng trời ấy đều là ngụy lập. Cớ sao biết thế? Nay y cứ trời thứ hai mươi bốn tên Đàm Thệ, trời thứ ba mươi mốt tên là Phạm Độ, trộm tìm hai chữ Phạm Đàm, tại xứ này trước kia vốn không, Ngọc Thiên thuyết văn tự lâm tự đều trọn không chữ ấy. Hai chữ Đàm Phạm vốn rút từ kinh Phật, cùng người khác phiên dịch, hạng không thấy tạo dùng thuyên giải âm của Thiên Trúc, diễn thuật ý chỉ của Thích-ca, ở phương này trước vốn không chữ đó. Về sau, Cát Hồng đến trên kinh Phật ghi lục chữ Phạm, lực dạy răn dùng làm Tịnh Lục (đất sạch), pháp ngôn nhân đó chọn đưa vào Thiết vận. Nếu Thiên Tôn giảng nói kinh Linh Bảo v.v… trước khi Phật pháp lưu truyền đến phương Đông thì chữ ấy chưa tạo, cớ sao tên trời dự dùng? Còn nếu sau Phật pháp lưu truyền tức là trộm lấy kinh Phật, gần đây mới ngụy tạo, tiến lùi không bằng cứ. Dấu vết hư ngụy rõ bày, tên của Đại La, thật thuộc loại ấy, xét nghiệm một tiết đó, phô bày cả ba góc.

Lại nữa, Huyền Đô Tiên Cung, Ngọc Kinh Linh Trụ, căn cứ trong kinh nói: “Huyền Đô là tên cung ở trên núi Ngọc kinh, cửa vàng (kim khuyết) là tên cửa ở cung Huyền Đô”. Tìm xét tông chỉ, hư vọng lại rõ bày. Vả lại, Đạo pháp là giáo của phương này, Thiên Tôn là Thánh nhân ở cõi này, thuyên giảng giáo hóa chẳng ở ngoài phiên, ở chỉ hợp tại đất này. Từ theo văn tự trở lại, cảnh vức của Đế vương, trên từ đời Hiên Hoàng, dưới đến triều Cơ Chu, phía Đông chẳng vượt quá Thần hàn, phía Tây chưa qua Đại hạ, phía Nam mới tới Tượng quận, phía Bắc còn hạn cục ở Nhạn môn. Trong đó, rộng hẹp cơ thể biết, xa gần còn ở đó. Lại căn cứ Cửu Châu ký, Tứ Di truyện, Địa Lý Chí, Dư Địa Chí, Quát Địa Chí, cấp gia thư đều không thành lũy của Ngọc Kinh Huyền Đô. Không biết Thiên Tôn ở xứ nào mà giáo hóa. Nếu ở trên các cõi trời, thì trên trời và trong loài người cảnh giới toàn riêng biệt. Chẳng chỉ có dơ sạch có khác mà rõ ràng ngữ ngôn cũng chẳng đồng, đến như văn tự còn đẹp. Việc ấy cách biệt xa vời, chỉ có đất trời nhật nguyệt núi sông, vàng ngọc châu bối rừng chầm núi đá v.v…, đồng nghiệp cùng cảm, vọng tình khởi chấp có quý tiện sang hèn. Ở trên trời mới đầu không các việc ấy dùng theo nhân gian vọng chấp vàng ngọc trân quý, dùng nêu tên của Tiên đô Tiên khuyết, nhục gọi là Thánh nhân, nhận định chẳng đồng đó. Đó lại là hư dối vậy, chỉ có ngôn từ của Phương vức, tùy xứ mà cải cách, chỉ trong vòng muôn dặm âm chỉ còn chẳng thông, huống gì ở trên trời hẳn khác thanh vận.

Giả sử có Thiên Tôn thật ở trên núi Ngọc kinh giảng nói pháp, trọn nhờ người lưu truyền mới đến phương này, lại phải phiên dịch mới có thể lưu hành. Nghiệm xét thì không thấy có người truyền kinh, lại không chỗ phiên dịch. Giả sử lời kinh là âm từ của xứ này, hẳn phải đợi người truyện được đến nước này. Sau khi Thiên Tôn giảng nói kinh phải có môn nhân gom góp ghi, giáng từ trên trời truyền xuống đời dưới, phát cảnh ưu thắng của Huyền Đô, đến Thần châu của Xích huyện, thuyên giải Linh văn của ba mươi sáu bộ, diễn giảng khoa cách của mười hai phẩm. Việc của nhân gian thật là trang quán, cớ sao sử sách bỏ sót mà chẳng biên ghi? Phàm là hữu tình, biết đó không thể. Đó lại là hư vọng vậy.

Lại nữa, rừng không thanh, cây trại mộc, chỗ mà Tam nhã chẳng biên ghi, nơi Cửu khâu chưa rõ biết, dối bày Dị Danh, mong khác vật tục. Chỉ có kinh Linh Bảo nói, trọn không điển kỷ đáng y cứ, mọi sự đồng như soi xét hư không, ngôn từ tợ như bắt bóng. Đó lại là hư dối vậy. Lại nói, trời của Tam thanh, phủ của Cửu tiên, càng thêm dấu vết ngụy bày lại lắm Hư tông. Xét kinh Linh bảo nói tên trời Tam Thanh lại đồng như trước đã nói, trên dưới an đặt đó. Dưới gọi là Thượng Thanh, giữa gọi là Thái Thanh, trên gọi là Ngọc Thanh. Ba Thanh ấy là ba trời 20 dàn trải dưới trời Đại La mà trên ba mươi hai tầng trời.

Xin giải thích rằng: Trời Ngọc Thanh là nơi Thiên Tôn ở, trời Thái Thanh là nơi Đại Đạo Quân ở, trời Thượng Thanh là nơi Lão Tử ở. Căn cứ vào giáo mà suy tìm, lại thành hư ngụy. Kinh Linh Bảo xếp bày ba mươi hai tầng trời, ngôi vị của trời đã định trước. Nếu thêm ba Thanh và Đại La, thì có ba mươi sáu tầng trời, không hợp chỉ có ba mươi hai ngôi vị. Đó lại là không thể vậy. Nếu ba Thanh và Đại La là trong ba mươi hai tầng trời, thì ba Thanh và Đại La là biệt hiệu, thì xếp bày tên ba mươi hai tầng trời số mục hợp nêu. Còn tên của Biệt hiệu, kinh không xưng gọi riêng, rõ ràng chẳng phải số của ba mươi hai tầng trời. Đó lại là hư dối vậy. Lại kinh ấy xưng là do Thiên Tôn giảng nói. Chủ giảng nói nguyên từ hư cấu, nhọc có tên của Tam Thanh, vốn không Thiên Tôn đáng lập, cảnh của Ngọc Thanh lại là hư vọng luận bàn. Chỗ xưng gọi Đại Đạo Quân, thì Đạo là Lý của hư không, nghĩa là không có vật, Thái thượng Đạo Quân đâu đáng có hình tượng, lại không thể lập trời của Thái Thanh. Đó lại là hư dối vậy. Lão Quân rong xe đến Tây Vức, không nguyên do lên trời, dối nêu ngôi vuị của Thượng Thanh, sự việc đồng như thuyết buộc gió. Vài ba hư vọng, dấu vết ngụy bày càng rõ. Sở dĩ nói Cửu tiên, căn cứ trong kinh nói: “Tiên có chín đẳng, đẳng cấp sai giáng vì nêu ngôi vị ấy”. Thiên Tôn nếu ở và lớn lên trong đó, chẳng vượt ngoài loại Thần tiên, trong truyện Thần tiên cớ sao không ghi chép? Giả sử như vậy là thật, tức chưa khỏi sinh tử, trọn sẽ bị kiếp lửa thiêu đốt. Chẳng vào ngôi vị chứng thánh, rốt cùng tướng trạng hư ngụy đó tức hạng ấy vậy”.

Công tử nói: “Vườn biện luận tiên sinh mở rộng, ngôn từ tinh ba sáng ngời mời đầu lưỡi, suối ngôn từ trút đổ rót văn chảy xiết ở đầu mối nói bàn, như ánh sáng cảnh xuân chiếu tan băng tuyết, tợ gió thu vút thổi lá nguy ách. Biện luận tức là biện luận, nghi ngờ vẫn còn nghi ngờ. Căn cứ kinh Linh Bảo Độ Nhân nói: “Thiên Tôn ở chốn Bích lạc Không ca Đại phù lê trong cung trời Thủy Thanh”. Đó tức là chỗ ở có chứng cứ, giảng nói pháp không nghi ngờ, trời Thủy Thanh hiển nhiên, cung Bích lạc rõ ràng. Không ca là nêu về cảnh xưng đó, còn Phù Lê là tên xứ ấy. Cớ sao cao luận đều bài bác, cho là hư ngụy?”

Tiên sinh mới vỗ tay cười lớn mà bảo Công tử rằng: “Nghe một biết mười, Nhan Hồi được xưng ở Khổng Phụ; sáng ba chiều bốn, Thư Công đêm phẫn hận đến Trang sinh. Ngày trước tôi lấy làm quái lạ mà nay tin đó vậy. Vả lại, trời Thủy Thanh cùng với Đại La nào khác? Hiệu Bích Lạc so với Thượng Thanh đâu khác? Trước đã xướng ngôn, nay lại đặt để lầm hoặc. Căn cứ trong ba mươi hai tầng trời, không có danh xưng của Thủy Thanh, ngôi vị của Tam Thanh, không có cảnh của Phù Lê, đặt để ngôi vị sâm sai, thủy chung trái lầm, chỉ trên các đều là người trời. Trời trong cõi Dục, nam nữ sống xen tạp, tuy có việc dục nhưng nặng nhẹ chẳng đồng. Từ trời cõi Sắc trở lên không có nữ, chỉ riêng nam, tu nhân bốn vô lượng tâm mới cảm quả đó, đều không thật có đất đai, chỉ do các vật báu hợp thành. Nay nói đất đại Phù lê, sao xa vời gian dối, tướng trạng hư ngụy? Tham xét chiêm nghiệm có thể biết đó, từ tình ông mê hoặc, chẳng phải tôi biện giải sai lầm”.

 

QUYỂN TRUNG

Công tử nói: “Trên trời không đất, thật cũng có đó. Nhưng do sức thần của Thiên Tôn thì không thể không có thật. Căn cứ kinh văn ấy nói thì lúc Thiên Tôn đang giảng kinh độ người, suốt bảy ngày bảy đêm, các trời nhật nguyệt, tuyền có ngọc hành đồng một lúc ngưng xoay chuyển, thần gió lắng yên, núi biển ẩn tàng mây, trời không nổi ngăn che, bốn thứ hơi khí sáng trong. Đó là do sức thần khiến nên, linh cảm của Thánh đức nên được nhật nguyệt ngưng cảnh để đừng xoay chuyển, gió mây gom ùn tỏa để lắng trong. Nếu không phải Đại thánh thì ai có thể khiến nên như vậy?

Tiên sinh bảo: “Không trời còn giả tạo trời, không đất còn có thể dựng đất, nhật nguyệt mặc tình theo ngọn bút vót đó, gió mây tùy chỉ huy đó. Xác thực mà luận bàn, đều không có các việc đó. Vả lại, Tuyền Cơ xoay chuyển, vàng hỗn ứng tượng, ba trăm sáu mươi lăm độ là một trong bốn phân độ, mười hai lần giao hội, ngày đêm một trăm khắc, xoay quanh ngầm chuyển, chẳng phải có ít ngừng, Xuân phân Thu phân, Đông chí Hạ chí, giả sử có dệt đầy, số lớn chẳng khuyết như vậy.

Nhật thực sai thời, hàng thứ mất độ, sử hẳn biên ghi đó, để chỉ bày việc trời. Chỉ Nhật độ hơi dài còn là cát ứng, còn ghi vào sử sách để chỉ bày cho tương lai, huống gì trời bảy ngày không xoay chuyển trải qua bảy trăm khắc. Từ lúc có đất trời đến nay chưa từng có điềm lớn như vậy. Tự gán hợp các riêng biệt trang sức sử từ sáng nơi giản điệp, điển tải không biên ghi, rõ ràng đều là hư ngụy vậy. Như nói Tuyền cơ nhật nguyệt gió mây núi sông v.v… đó đều là luận bàn trời ở trên trời, chẳng phải trời của trong nhân gian. Vả lại, các trời cõi trên đều không có nhật nguyệt, ánh sáng tự nhiên xa gần cùng ánh ngời, lấy hoa nở hoa tàn làm ngày đêm, chẳng tương đồng như ở cõi này, Tống Văn Minh v.v… chỉ thấy nhật nguyệt núi biển ở cõi này mà cho là trên các trời đồng như cảnh đây, cũng có các vật nhật nguyệt gió mây núi biển v.v…, mà không biết rằng trên các trời vốn không những thứ ấy. Thánh giáo nói rõ ràng đầy đủ, đây có thể lược nêu bày hư vọng như vậy lại rõ ràng đó”.

Công tử nói: “Trên trời không có nhật nguyệt v.v…, như tiên sinh đã biện giải đó. Đến như Thiên Tôn giảng nói kinh, lợi ích rộng lớn, trong kinh nói: “Thiên Tôn giảng nói kinh độ nhân, giảng một biến thì trong một nước kẻ nam người nữ mắc bệnh điếc đều được khai thông, giảng hai biến thì người mù được sáng mắt, giảng ba biến thì người câm có thể nói, giảng bốn biến thì người què có thể đi được. Đến đủ mười biến thì phụ nữ mang thai, chim thú mang thai, các loài đã sinh hay chưa sinh đều được sinh thành. Đất ngầm chứa phát tiết, vàng ngọc lộ bày hình, cốt khô sống lại đều dậy thành người”. Lấy đó mà nói thì Thần công rất lớn vậy!

Tiên sinh bảo: “Tôi nghe đó. Có người ngủ nằm mộng, trong giấc mộng lại chiêm đoán mộng ấy, quả nhiên như vậy. Từ trước đến đây đã luận bàn đầy đủ, nhưng ông vẫn chấp chặt, nào khác chiêm đoán mộng ư? Tôi nói với ông trên trời và cảnh dưới hơn kém chẳng đồng, đâu có các thứ bệnh tật mù điếc câm què, cũng không mồ mả hài cốt dơ uế. Tuy có việc sống chết, nhưng đều chỉ là biến hóa, không có sinh của sản sinh, không có chết của thây chết. Nay kinh ấy nói Thiên Tôn ở trong trời Thủy Thanh giảng nói pháp, cho đến nói kẻ nam người nữ trong một nước v.v…, thì trên trời đâu có nước ư? Lại nói: Các thứ bệnh mù điếc v.v… Trên trời vốn không các bệnh ấy. Căn cứ kinh văn ấy, vốn chẳng theo mọi sự thiện ác trên trời, phát xuất từ ức đoán mà tạo kinh hư ngụy ấy. Đó là do theo đàm nói phù phiếm cạn hẹp, chẳng phải nhã luận của điển thật, tướng trạng hư ngụy ở đó lại rõ vậy”.

Công tử nói: “Tiên sinh thuyên giải không gì chẳng hư ngụy, nhưng mà Đạo pháp lưu hành thời đã lâu ngày, giáo tích chẳng phải một, nghĩa lý lắm nhiều môn. Chỉ như nhân quả quả ba đời, nghiệp duyên trong lục đạo, địa ngục Thiên đường, tội phước báo ứng, rõ ràng không mờ tối, đâu nói trống không ư?”

Tiên sinh bảo: “Đó lại là hư ngụy vậy. Việc của Thiên Tôn, kinh của Linh Bảo, đầu đuôi hư ngụy, không thể làm chứng. Tông chỉ của Đạo gia đều chẳng vượt quá Lão kinh. Hơn nữa, có sách của Trang Chu, cũng chỉ góp nhặt từ cá luận khác, trọn không có thuyết của ba đời, cũng không văn nói nhân quả, chẳng rõ tông của Lục đạo, há thuật nghĩa của nghiệp duyên? Địa ngục Thiên đường, trọn không nơi biện giải, tội phước báo ứng, chẳng hiển bày nguyên do. Ngoài ra, các thứ Tạp kinh đều do Lục Tu Tĩnh v.v… trộm lấy kinh Phật, dối vọng an đặt. Tuy có danh mục, nhưng rất không chỉ quy.

Tôi lại nêu bày riêng biệt mà luận bàn đó. Đạo gia xưng Thiên Tôn giảng nói kính ở đời Thượng Hoàng trước thời Nghiêu Thuấn. Thời đó thuần phong còn chất, tục xấu chưa nẩy mầm, con người không tâm kiểu vọng, thời ấy có hóa của vô vi. Lão Trang giảng nói kinh đáng cuối đời của Suy Chu, cuối thời Đế vương. Vua mờ tối ở trên, tôi làm loạn ở dưới, chinh phạt chẳng do Thiên tử, Lễ nhạc xuất phát từ chư hầu. Cậy lớn lấn nhỏ, ỷ mạnh đánh yếu, lòng người dối trá, tục biến nổi trôi. Nhân gì Thiên Tôn đang ở ngày thuần phác mới giảng nói Địa ngục Thiên đường, tội phước nhân quả, ứng báo nghiệp duyên trong lục đạo ba đời. Lão Tử đang ở thời xấu bạc, mới giảng nói nghĩa lý vô vi vô sự, điềm đạm thanh hư, mềm mại ít muốn. Sao sai lầm vậy ư? Lấy lý mà suy đó hư ngụy càng sai lầm vậy”.

Công tử nói: “Thiên Tôn ở đời trước, tiên sinh chấp là hư ngụy, Tĩnh Tín ở sau đâu lại hư vọng ư? Xin chút ít rõ ràng đó, vô vi càng lãng. Căn cứ Đạo kinh nói: “Nhạc Tĩnh Tín xưa trước bẩm thụ tiên tài, sớm gieo gốc đức. Công mãn hạnh thành, Đạo chứng Thiên Tôn, hoằng dương giáo tích, diễn giảng kinh luận”. Đâu phải đều là hư ngụy ư?”

Tiên sinh bảo: “Từ thời Thượng cổ vốn không, mà còn có thể ngụy tạo nguyên thủy; đời sau đồng hư ngụy, há chẳng hiểu giả lập Thiên Tôn? Công tử trước lầm hoặc ở gốc nay lại mê mờ ở ngọn, lừa dối nguồn ấy mà ngoi lên dòng ấy, sao có thể được ư? Đó đều do Tống Văn Minh v.v… làm nguyên thủy, lập Thiên Tôn, tự biết không chứng cứ. Vì thấy kinh Phật nói, Thích-ca vất bỏ ngôi vị của Trử Hậu xuất gia tu đạo chứng đắc quả Phật, bèn ngụy lập Nhạc Tĩnh Tín tu đạo chứng đắc Thiên Tôn, và gồm nói kinh giáo luận đủ các việc nhân quả v.v… rong ruổi dưới mặt nhật, trốn lánh bóng ảnh, lại cảm thấy tâm nhọc mệt muốn ẩn, mà rõ ràng dấu vết hư ngụy càng hiển bày. Chẳng chỉ ngoài không tục học, chẳng rõ biết dòng họ nhân do, mà trong cũng không trí biết, chẳng rõ dựng lập chủ hư ngụy. Vả lại, dòng họ Nhạc xuất phát từ Nhạc Chánh Tử Xuân, Tử Xuân làm quan trông coi nhạc ở thời nhà Ân, nhân làm quan nên bảo dòng tộc về sau làm dòng họ Nhạc. Năm tháng gần xa, kiểm nghiệm có thể biết vậy. Nếu Tĩnh Tín thật đắc Thiên Tôn ở cuối đời nhà Ân đầu đời nhà Chu, cớ sao Thượng sách nhà Chu đều chẳng biên ghi? Sử ký động kỷ cớ sao không viết chép? Lại xét cảnh vức của Tĩnh Tín hoằng hóa trọn không có cơ sở, phía Đông chỉ đến Nam Quật, phía Tây tận cùng Nguyệt thúy, phía Bắc chỉ tới Huyền châu, phía Nam gần đến Đan phổ. Suy cứu về cảnh vức đều không nơi ở của Tĩnh Tín. Có thể gọi là nói Bế Lệ ở nơi sông dài, giảng nói đủ làm kinh sợ thấy nghe, máng hoa sen trên cây cao, bàn luận rất là ngoài lý. Tâm không ôm hoài cặp đàn, sao biết lấp vùi giếng đến chết”.

Công tử nói: “Nguyên thủy là Pháp thân, Tĩnh Tín là báo quả, mà đều cho là giả ngụy không một chân thật, tồn tại ở Hạ ngu, không gì chẳng hai lầm hoặc. Trộm cậy vào sử sách, dám lập Thật tông, khinh nghịch cao hoài, cúi mong tha thứ”.

Tiên sinh bảo: “Sao ông nói quá lắm vậy? Tôi thuở nhỏ đọc xem phần điển, lớn lên xét khảo danh lý, tuổi ngoài năm mươi nghiên tầm chẳng nhọc mệt. Bên cạnh đó lại trông xem giữa khoảng vũ trụ, than không gặp ngôn luận; cúi xem trên thời đại, hận bởi ít tri âm. Vừa rồi tôi cùng ông bàn luận, chưa lao theo hoài bảo. Nếu hay giả hư thành thật, biến ngụy làm chân, thì công đó sánh bằng công của tạo hóa, sức xa vượt sức của Đào Quân, mong một lần sạch tai, ông nói lời mỏng dạt vậy”.

Công tử nói: “Tiên sinh đem Thiên Tôn vì sử sách không biên ghi, mà cho là hư vọng. Đối với kẻ hèn mọn cũng thật như vậy. Chỉ như kinh Linh Bảo, Điển ký biên ghi đầy đủ, há cũng hư ngụy ư? Căn cứ Ngô Sở Xuân Thu và cả sách của viết tuyệt đều nói: “Võ Thị Hồng Thủy đến núi Mục đức, thấy gặp Thần nhân bảo cùng Võ rằng: “Nhọc hình hài con, sai sử con phải lo lắng để trị Hồng Thủy, không là biếng lười ư?” Võ biết đó là Thần nhân, bèn kính bái cầu xin dạy răn. Thần nhân bảo: “Ta có năm phù Linh Bảo dùng để sai sử rắn rồng thủy báo, ông có thể thọ trì đó, không bao lâu sẽ thành đạt”. Võ cúi đầu mà cầu xin. Nhân đó, Thần nhân trao cho mà răn dạy Võ rằng: “Sự việc hoàn tất có thể đem giấu kín ở núi Linh, chớ truyền cho người đời”. Võ bèn sử dụng đó, công phu thành đạt lớn, sự việc hoàn tất mới đem cất giấu ở hang Động đình Bao sơn. Đến thời Ngô Vương Hạp Lư, có rồng oai trượng nhân đến nơi Bao sơn Động đình mà được năm phù đó, đem dâng hiến Ngô Vương. Hạp Lư Ngô Vương được đó chỉ bày hỏi các bề tôi nhưng không ai biết gì cả. Nghe nói có Khổng Khâu ở đất Lỗ là người khéo giỏi việc xưa, lắm chỗ đều xét xem, nên sai kẻ sứ đem năm phù đến hỏi Khổng Khâu rằng: “Ngô Vương nhàn cư, có chim sắc đỏ ngậm sách này đến nơi Ngô Vương, chẳng biết văn ấy nói gì nên sai bảo xa đến tìm hỏi”. Khổng Khâu trông thấy đó mà trả lời với kẻ sứ rằng: “Khâu tôi nghe là Võ Thị Hồng Thủy đến núi Mục đức gặp được Thần linh trao cho năm phù Linh bảo, về sau cất giấu ở Bao sơn Động đình, Ngô Vương được 2 đây, không là đó ư? Còn việc chim sắc đỏ, thì Khâu tôi chưa rõ biết”. Trước kia ở Giang tả có trẻ con đùa hát lời vè rằng: “Võ Thị Hồng Thủy được năm phù, đem cất giấu đó ở Bao sơn Động đình, hồ Rồng oai trượng nhân trộm sách, Võ được sách ta tan mất nước nhà”. Sau đó nhà Ngô quả nhiên hoại diệt vậy. Đó tức là sự tích rõ ràng, sách sử biên ghi đầy đủ. Đó mà gọi là hư dối, nói sao điếm nhục vậy ư?”

Khi ấy tiên sinh thương cảm cười mà bảo công tử rằng: “Vừa rồi ông trút đổ ngôn từ của Hà Hán, phát ra tiếng vang vọng của sấm sét, có nghĩa là phóng túa biện luận chắc sạch, là bày biện đàm nói nhốm trắng. Lấy đó mà xét xem, nói rõ dễ dàng vậy. Vừa rồi cùng ông luận bàn về Linh Bảo là kinh hư ngụy, chưa từng nói đến Phù Linh Bảo là giả quấy. Nếu được dẫn nêu Phù để làm chứng kinh, cũng có thể như chỉ lửa làm nước. Huống gì Ngô Việt Xuân Thu, đời gần đây mới soạn, sách của Việt tuyệt, sửa chẳng còn xưa, giả sử đem lấy làm thật cũng chẳng được xếp bày kinh. Vả lại, Phù-đề là Linh Bảo, hiển bày Phù ấy có Linh, xét nghiệm có thể có bằng chứng, kham làm vật báu trọng. Đó là phô bày công năng của Phù, chẳng phải vẩy diệu tông của kinh, tự là sách của Quỷ thần, việc của thuật số, há dùng Phù của Trương Đạo Lăng mà vọng nói là do Lão Tử truyền trao? Mới đem bản Phù của Hạ Hậu Khắc làm Phù của Lão Tử, mong thành Linh Bảo, kinh thật sánh loại mà nói, đủ có thể biết đó. Vả lại, ba phần năm điển là việc của thời Đường Ngu trở về trước. Thuật Dịch sửa Thi, Khổng Khâu ở cơ triều mới soạn. Há đem Phần Điển đều cho là sánh tục? Chứng thật là do Tuyên Ni làm ra. Lấy đây mà dụ kia, rõ ràng có thể biết đó. Lại nữa, việc của Linh bảo có hai nghĩa đó. Nếu sách của Việt Tuyệt v.v… được tạo trước thời Tống Văn Minh, thì Tống Văn Minh v.v… lấy Phù đặt để danh mục của Linh Bảo dối ngụy ghi vào kinh đã ngụy tạo. Nếu có sau thời Tống Văn Minh thì hai sách ấy cũng đều hư ngụy, vọng bày đặt vết tích của năm phù, dùng để chứng minh đề kinh Linh Bảo, đem việc thêm vào đó, trước sau đều hư ngụy. Lại nói: “Ngô Vương có được Phù, bỗng chốc diệt mất nước nhà”, thì đó là sách của hung yêu, há nói là giáo của từ bi? Chết thân mất nước, thật là do Phù của Linh Bảo. Phàm ông nhọc muốn khua sáng, há có thể lấp bít tai họa ấy ư? Trang sức ngôn từ sùng quý hư ngụy như được ngọc ly, nhưng xét cứu nguồn gốc mới thành mắt cá, điếm nhục của ngôn từ ấy trại lại thuộc về ông”.

Công tử nói: “Linh Bảo là kinh giáo hư ngụy đã như chỗ nói, còn sách của Lão Tử há cũng gọi là hư ngụy? Đến như hóa Hồ thành Phật, sự tích hiển nhiên, trong truyện của Duẫn Hỷ nêu bày đủ thuyết ra ải, biên ghi đầy đủ ở nguyên thủy nội truyện. Kinh Hóa Hồ đều có người biên thuật, chẳng phải không cớ thật”.

Tiên sinh bảo: “Đó lại là hư ngụy ở Linh Bảo vậy, Lão Tử làm quan Trụ hạ Sử ở thời nhà Chu, sau bèn vượt lưu sa ở phương Tây, đến ải Hàm Cốc, vì Quan lệnh Duẫn Hỷ mà diễn giảng sách của Hoàng đế, thuật rộng văn ấy làm thành hai thiên Đạo Đức, phân hai quyển thượng hạ. Luận bàn về Đạo tu thân trị nước, răn cứng giữ mềm, bẻ bén nhọn mở rối ren, hành từ cung kiệm khiêm hạ, thành hơn năm ngàn ngôn từ. Duẫn Hỷ lại biến ghi ngôn chỉ của Lão Tử cùng mình đàm luận, làm thành Tây Thăng ký. Trong đó người sau lại thêm lời văn xen lạm nghĩa lý nhà Phật, đại khái là cùng Đạo kinh hơi đồng. Phần nhiều nói về việc thân người tâm tình tánh bẩm sinh, lý tu dưỡng, nguyên do của thọ yểu. Người sau lại cải đổi ký làm thành kinh. Chương đầu kinh ấy nói: “Lão Tử bảo Duẫn Hỷ rằng: “Tiên sinh xưa trước là thầy của tôi vậy. Lại là không tên, tôi nay lên đến cũng trở về một nguồn”. Tham cứu nghiệm xét lời nói ấy đủ rõ Lão Tử biết có Thích-ca, do đó từ bỏ quan vị rảo tìm đến phương Tây. Nói “Lại là không tên”, đó là lý của Niết-bàn, trở về một nguồn là xưng của không hai. Gốc của trang một là thể của Chân như vậy. Nói “thầy của tôi”, tức Lão Tử sắp đến chỗ Đức Thích-ca rủ áo mà học đạo, nên xa tôn kính xưng gọi là Thầy. Lão Tử trong văn kinh Tây Thăng đã xưng gọi Phật là Thầy mình, cớ sao phiên chuyển nói là hóa Hồ làm Phật? Nếu Lão Tử vốn định đến Thiên Trúc hóa Hồ, trốn lánh nơi nào mà nói: “Nghe nói ở Trúc càn xưa trước có tiên sinh khéo vào vô vi”. Nghĩa của hóa Hồ như vậy là hư ngụy. Chỉ trong văn đó đáng nên nói là Càn trúc. Càn nghĩa là Thiên. Nên hai quẻ của dịch dùng làm biểu tượng đất trời. Đủ biết Càn nghĩa là trời (Thiên) vậy. Người sau sao viết lầm lẫn chữ Thăng trúc ở trên chữ Càn, nên nói là Trúc càn. Lại xét, Tây phiên thông lãnh trở về hướng Tây đến tận Tây hải thì Đông, Tây, Nam, Bắc chỉ có năm Thiên, không có nước Trúc Càn, rõ ràng là đời sau truyền ghi sai lầm vậy. Lão Tử không vết tích hóa Hồ, rõ ràng có thể biết. Còn Duẫn Hỷ truyện, Lão Tử Xuất Tải ký và Nguyên Thủy Nội truyện, đều do các Đạo sĩ v.v… ở thời gần đây thấy Phật pháp hưng thạnh, người đời xem thường giáo điển của Đạo gia, nên mối ôm hoài đố kỵ mà ngụy tạo nên sách ấy, nói là Lão Tử hóa Hồ làm Phật. Nay căn cứ ngay văn Hóa Hồ đủ để rõ bày kinh vốn là hư ngụy.

Căn cứ sử ký và Tiền Hán thư, Tây Di truyện, các phiên bộ lạc tên gọi khác nhau. Trong một phiên lại phân nhiều bộ. Nước của Tây phiên 28 đều là đất ở, hiệu nước tên Phiên số đó rất nhiều, như Nguyệt Chi, Sơ Lặc, Toái Diệp, Thiết Lặc, Đại Hạ, Đại Uyển, Cư Diên, Hưu xà, Ba Tư, Thiên Trúc. Lược nêu số lớn, còn nhỏ nhiệm thì có lắm nhiều. Trong Thiên Trúc bốn phía Đông, Tây, Nam, Bắc và giữa phân chia làm năm nước. Quốc hiệu là Thiên Trúc, người gọi là Bà-la-môn, cách xa cảnh vức nước Hồ cả muôn dặm. Nếu Lão Tử thân gần hóa Bà-la-môn làm Phật, thì trong kinh không nên nói là hóa Hồ. Huống gì Thích-ca vốn là Thái tử nước trung Thiên Trúc, nguyên tự chưa lên ngôi vua, cớ sao trong kinh nói Phật là vua nước Hồ? Nghiệm xét, kinh văn ấy vài ba phen đều là hư vọng. Chỉ bởi do Tống Văn Minh v.v… thấy Phật pháp đến xứ này trăm họ đều quy y, bèn ngụy tạo kinh Hóa Hồ, nói Phật là do Lão Tử hóa làm, lừa dối mê hoặc các hàng dung tục, muốn khiến họ kính phụng. Lại nữa, Tống Văn Minh v.v… sống ở bến Trường giang, không am tường về Tây Vức, truyền nghe ở phương Tây là nước Hồ, mới nghi Phật cũng là Hồ. Lại nghe Phật thuộc chủng tộc làm vua, nên cho rằng Phật là Quốc vương. Trông ngóng phong mà ngụy tạo kinh luận ấy, nói việc Hóa Hồ, tên nước hiệu vua rất không tương đương, nào khác gan Sở mật Việt? Lấy kinh nghiệm nước, hư ngụy tự phân rành, chẳng đợi nói bàn, mới biện rành giả vọng”.

Công tử nói: “Nếu vậy thì kinh ấy là hư ngụy, sao được nói Lão Tử vì vua Hồ và quần thần mà giảng nói các kinh Niết-bàn, Pháp Hoa, Hoa Nghiêm, Kim Quang Minh v.v… Các kinh ấy nay hiện thật, đâu nói là hư ngụy ư?”

Tiên sinh bảo: “Hóa Hồ là vọng nói, kinh ấy là hư ngụy, hẳn không còn phải nghi ngờ, sao ông tệ quá vậy? Vả lại, kinh Niết-bàn v.v… đều là do Phật giảng nói, mỗi mỗi tự có duyên khởi, luận bàn pháp tướng đầy đủ, thuyên giảng nhân quả cả ba đời, rành rẽ tội phước trong Lục đạo. Biện biệt nghiệp báo ứng, hiển bày lý chân như, ý chỉ chẳng luận Hóa Hồ, nào liên quan đến chỗ giảng nói của Lão Tử? Tống Văn Minh v.v… từ trước chưa trộm Phật pháp cho rằng như nghĩa thú của Đạo kinh, vọng nói là Lão Tử giảng nói. Suy tầm đến gốc tích sao nhảy cuồng quá lắm. Phàm chỗ thuật làm phải uốn theo giềng mối, nên ở song lâm Đức Phật thị hiện diệt độ, Tam Tạng mở tông kết tập, hai gian mộng điện, mười triết soạn luận kỷ ngôn. Có văn Bắt Khương, Nghĩa Minh Di biên ghi phô bày, Mã Thiên xuống ngục, sách Thái sử mới trước thuật, đều có nguyên do, không phải chẳng bày rõ. Bọn Lục Tu Tĩnh v.v… là hạng dong ngu ở Giang tả vốn tích chứa tà kiến, không biết tâm nắn thẳng đâu tỏ ngộ dấu vết hư dối.

Căn cứ Tiền Hán thư nói. Trong niên hiệu Nguyên Thú (122-11 trước Tây lịch) thời Tây Hán, vua Võ Đế (Lưu Triệt 10-8 trước Tây lịch) sai Hoắc trừ bệnh đánh dẹp Hung nô, đến Cao lan qua Cư diên chém đầu Đại Hoạch. Vua Côn Da giết vua Hưu Xà, dẫn đem binh lính có năm mươi ngàn (50.000) đến hàng, được người vàng. Vua cho đó là Thần nên tôn trí ở cung Cam tuyền. Đến mở Tây Vức, sai Trương Khiên đi sứ Đại Hạ, trở về nói bên đó có nước Thân Độc. Thân Độc là tên Thiên Trúc, mới đầu nghe có giáo pháp của Phù Đồ. Đến năm Nguyên Thọ thứ nhất (hai trước Tây lịch) đời vua Ai Đế (Lưu Hàn) thời Tây Hán, Bác sĩ Cảnh Hiến nhận vua nước Đại Nguyệt chi sai miệng đọc truyền kinh của Phù Đồ, đó đều là Phật pháp dần lưu truyền đến phương Đông. Nhân gì chẳng nói việc Lão Tử hóa Hồ? Nếu hóa Hồ không hư dối, sử sách tự nhiên đáng nên ghi lục. Thật vì vốn không việc đó, tướng trạng hư ngụy không thể vọng biên ghi”.

Công tử nói: “Kinh Hóa Hồ, tiên sinh gọi là hư ngụy, cớ sao trong thời nhà Đường, Đạo sĩ Duẫn Văn Tháo ở Đạo Quán Thiên Hạo vâng phụng sắc chiếu tu chỉnh Thánh kỷ của Lão Tử. Dẫn nêu các kinh truyện Hóa Hồ v.v… nói: “Lão Tử hóa thân cưỡi voi trắng sáu ngà từ trong mặt nhật giáng xuống cung vua Tịnh Phạn, vào trong bào thai phu nhân Mada, sinh ra mà làm Phật”. Căn cứ điều nói đó thì Phật tức là Lão Tử ứng thân, sao phòng ngại thật nói kinh vậy?”

Bất chợt tiên sinh thở ra giây lâu mà than rằng: “Sai lầm của lời nói ấy, khiến ông mê hoặc vậy! Chỉ Lão Tử ngay ngày qua ải, tự nói: “Trúc Càn xưa trước có tiên sinh”, mới sắp vất bỏ đảy kim hà cứng chắc, tinh ngọc bít lấp, trải qua sa thạc, đạp giẫm núi sông, trăm nhà quên nhọc mệt, nhất tâm phỏng hỏi đạo. Xa kính mộ Thánh đức, nên tên xưng là thầy. Nay trong kinh Hóa Hồ nói tự thân làm Phật, trước sau sai trái, tôi biết theo ai? Nghiệm xét, chương đầu của Tây Thăng thuộc loại câu cuối của Hóa Hồ, kia bàn đây nói thủy chung sâm sai, bởi vì hư cấu, lắm ngôn từ lầm sai.

Vả lại, việc đến Trúc Càn của Lão Đam là do mến mộ thạnh đức của Thích-ca, căn cứ đó thì Phật sinh đã lâu, tiếng tăm vang vọng khắp cùng xa đến Đông Chu. Lão Đam mến mộ nghĩa, khâm chuộng phong hóa nên đánh xe đi đến Tây đô. Nay lại nói sau khi đến đó thân mới vào thai, hư ngụy ngay trước mắt, há phiền phải nói bàn, làm hư ngụy, tâm khổ nhọc theo vết bày rõ. Đã nói cưỡi voi vào thai, biến thân làm Phật, cớ sao lại nói Lão Tử hóa Hồ? Phải chăng việc Lão Tử vào thai là không hư dối, giáng là sinh có thật? Thân Lão Tử đã làm Phật, sai bảo ai cùng giáo hóa? Tức là Bá Dương tự sinh làm Phật đâu liên quan gì đến Bá Dương hóa Hồ thành Phật. Xét chuyện Hóa Hồ và vào thai đó cả hai đều là nói hư dối. Việc của kinh đều đồng một loại hư ngụy. Giả sử Lão Tử thật vào thai mẹ thọ sinh làm Phật, thì Phật là Ứng thân của Lão Tử, tức là Tông tổ của Đạo môn. Vậy các Đạo sĩ v.v… tự nên cắt tóc nhuộm áo, nên theo các Sa-môn, biến đổi tiếng chim kêu nơi vang vọng dơ uế, thay đổi cách nhìn lang sói ở tà tâm. Sao trái lại, khinh hủy Thánh văn của Ngũ thừa, ca ngợi bỉ giáo của Tam Trương, giẫm đạp đường mê mà què chân, bước vào biển dục mà chìm thuyền, chẳng trở lại gốc để về tông? Đáng là hư ngụy của kinh ấy vậy”.

Công tử nói: “Đó lại nói là hư ngụy, kẻ hèn biết nói sao đây? Chỉ bởi nền tảng dấy khởi của đạo pháp từ xa xưa, giáo môn rộng xa, tông trí sâu mầu. Đàm vịnh đó lắm văn, quy hướng đó Tam bảo, Chánh chân đại đạo Vô thượng phước điền, tu mà hành đó đều được lợi ích. Hoặc khống chế chim loan xanh ở thượng Hán, hoặc giá cưỡi hạc trắng để bay lên trời. Ngự hơi khí biện để tuyên rao đi, đạp lưới mâu mà bay bước. Đó đều là chỗ biên ghi của sử truyện, ông tôi sao có thể cật nạn ư?”

Tiên sinh thông dong mà đáp rằng: “Vừa rồi ông nêu lập đều là xả bỏ thật để nương cậy hư, cũng là trái với Chánh mà nâng đỡ ngụy. Tôi cho rằng, ông biết mê lầm trước mà tỏ ngộ sau, biết nay phải mà trước kia quấy. Trái lại, bưng ánh sáng đom đóm mà sánh với mặt nhật, đánh ngựa què để muốn ngang bằng ngựa giỏi, dùng đó để bàn nghị, sao chẳng lường sức ấy ư? Vả lại, Đạo lập giáo thật cũng có lắm đường, vốn từ một khí phái thành muôn vựng. Ông nói xa xưa, đó thật chẳng hư đàm. Từ tượng Nhị nghi hiển trước, vị Tam Tài thành hình, đồng bẩm một đạo hư mà hay thông. Biện giải đó ở nơi con người, ngoài con người không có đạo. Dùng đó thì hiện, bỏ đó thì ẩn, khế hội lý ấy, gọi đó là đắc đạo. Người có khả năng hiểu đó tức khỏi mắc tai ương, thuận sinh mà thọ, giả sử trái với lý ấy hẳn mắc phải lỗi ương, nghịch sanh mà yểu. Nên Lão Tử nói: “Ngoài thân ấy mà thân tồn tại”. Trang Tử nói: “Sát sinh mà chẳng chết”. Đó tức là thuận sinh. Lão Tử nói: “Sở dĩ tôi có hoạn lớn vì tôi có thân”. Trang Tử nói: “Dưỡng sinh mà chẳng sống”. Đó tức là nghịch sinh. Ngoài thân tức là chẳng tự quý có thân mình, chẳng lấn hiếp người khinh ngạo vật, chẳng tham thanh sắc. Ta và người đều đượm pháp vị bình đẳng, đông nhiều cùng suy kính, khỏi các hoạn nạn trọn được hưởng thọ. Đó tức là sát sinh mà chẳng chết. Có thân tức là tự quý có thân mình, lấn hiếp người khinh ngạo vật, tham thanh sắc tài lợi để cung phụng thân ấy, sinh ích lợi cho sự sống ấy là chỗ tổn hại của vật, thân phải chịu bẻ nhục, mắc phải họa hoạn, chết yểu tuổi trời. Đó tức là dưỡng sinh mà chẳng sống vậy. Đó là nhân hạnh mà luận đạo, còn nếu lấy nước nhà mà luận bàn, thì Quân vương bỏ xa xỉ, lắng đọng thanh sắc, thấp kém cung thất, mỏng manh phú kiệm, bớt bắt làm việc, khuyên mở nông tạng. Vua trên rủ khoanh mà khỏi, tôi dưới vỗ bụng mà vui, trên dưới cùng an thái, gió mưa đúng mùa, nhật nguyệt tỏa sáng, lịch vận dài xa. Đó là ngoài thân ấy mà thân tồn tại, tức là Nghiêu Thuấn vậy.

Còn như Quân chủ xa xỉ kiêu thái, trang sức cung thất cao quý, đam mê mến thích Thanh sắc, sai sử thâu thuế nhiều nặng, nhụm đầu cờ bài, nhọc khổ sinh nhân, pháp lệnh bày chương, giết hại người không tội, gió mưa trái mùa, muôn sao mất độ. Vua mờ tối ở trên, tôi nhiễu loạn ở dưới, giặc cướp dấy nổi, tông xã nghiêng đổ diệt mất. Đó là có thân, tức như Kiệt Trụ vậy. Tu sửa đó ở hạnh, thì gọi đó là Thân đạo, thực hành đó ở nước nhà thì gọi là là Hóa đạo.

Nên Khổng An Quốc nói: “Sách của Phục Hy, Thần Nông, Hoàng đế, gọi đó là Tam phần, nói đó là đại đạo. Sách của Thiếu Hạo, Chuyên Húc, Cao Dương, Đường Ngu, gọi đó là Ngũ Điển, nói đó là Đế Đạo”. Nên Lão Kinh nói: “Đạo có thể nói chẳng phải đạo thường”, tức nói đó vậy. Vua hay hiểu đạo vô vi thì thời ung tục thái. Người hay hiểu đạo vô vi thì toàn sống bảo thọ. Thọ có ba bậc: Thượng thọ là một trăm hai mươi năm; Trung thọ là một trăm năm; Hạ thọ là tám mươi năm. Chỗ gọi là không chết tức trọn đủ ba thọ ấy, chẳng là chết yểu. Ông nói Đàm Vịnh Trọng Huyền, tức Lão kinh nói: “Huyền đó lại Huyền”. Đó rõ xét diệu, hai quán đồng ra vọng của một tâm, thấy đây thấy kia tâm biết biện sinh, suy tầm tâm biết biện, trọn không đích chủ, việc ấy mù mờ chưa thể rõ biết, nên nói là Huyền vậy. Huyền là xưng của sâu xa mờ mịt. Lại nữa, huyền tức lý của mù mờ ấy cũng không thể được, mà lại mù mờ soi xét, nên nói là “Lại huyền”. Đó là Lão Tử không có tuệ tâm thanh trí, chẳng thể soi xét sâu xa thấu đạt tinh vi, nên đặt để nghi ấy vậy.

Ông nói: “Quy y Tam bảo”, thì Đạo gia kinh điển hư ngụy không có nghĩa của Tam bảo. Chỉ trong kinh văn Lão Tử có Tam bảo. Kinh nói: “Ta có ba báu (Tam bảo), quý báu mà gìn giữ đó: Một là từ, hai là kiệm, ba là chẳng dám trước thiên hạ”. Ở đó ý nói “Từ” tức là lý từ bi mẫn niệm, “Kiệm” nghĩa là liêm thứ không tham; “chẳng dám làm trước thiên hạ” là hạnh nhường lùi thấp kính. Với ba báu ấy, nương tựa mà thực hành đó thật cũng có lợi ích với hạnh. Đó là Đạo Nhân thứ liêm nhượng, đức khiêm quang tế vật. Quy y với ba bảo ấy thật là người thiện ở trong loài người, nhưng trọn không lý của nhân quả nghiệp báo. Đạo gia mỗi sớm mai kính lễ Tam bảo đó, không biết có công đức gì. Lại nói: “Chánh chân đại đạo, chánh nghĩa là không thiên lệch, chân là tướng trạng chẳng phải giả”. Đại là tên của rộng lớn. Đạo là lý hư thông. Nói hành đạo ấy, chánh mà không thiên, chân mà không giả, lớn mà hay rộng, suy mà nghiệm đó, đều là giả hiệu. Đạo là thông lý, vốn không thức tánh, do người thực hành đó có thể thiên có thể chánh, nên nói đạo có thể tả có thể hữu. Rõ ràng không cố định là chánh, tướng trạng của chân hay giả, do người đặt để đó, chứ ở ngay trong lý nào có chân có giả. Đó là chẳng phải chân vậy, tướng của rộng hẹp, buộc nó tại tâm, ngoài tâm không đạo. Lại không đại (lớn) vậy. Nên nói: “Đạo đại, Trời đại, Đất đại, Vua đại. Trong vức có bốn đại, mà vua ở thứ nhất”. Vức nghĩa là giới vức, tức là cảnh của con người dừng ở. Đạo không chất cố định, nhân người hành mà hiển bày chẳng vượt ngoài cảnh người, nên cùng trời, đất và người Tam Tài ngang bằng lớn nhỏ đó, xoay quanh trong vức sinh tử, đàn hồi trong vòng Thế đế. Vọng xưng gọi là chân chánh, hư dối nói là đại đạo. Có tên không thật, sao sai lầm ấy ư? Lại nói: “Vô thượng phước điền”. Phàm, đạo dùng xả do người không khác biệt, chủ tể chu toàn, chẳng vượt cảnh người, sao có khả năng của Vô thượng? Lại nữa, danh từ phước điền, sách Đạo không ghi chép, vốn rút từ sách Phật, trộm mà ngụy đặt. Đạo có phóng túa tu hành cũng chẳng lìa sinh tử, cưỡi hạc bay lên trời, trong năm ngàn (5.000) ngôn từ nguyên không có thuyết ấy. Khống ngự chim loan thượng Hán, trong bảy thiên nào có lời giẫm qua. Đó là rút từ trong truyện Thần Tiên, đâu liên quan gì ý chỉ của Lão Trang? Chỉ Tiên do sức của chi truật, gồm nhờ công của Đan dịch, chẳng phải là huân tu, nào liên quan đến Đạo. Vả lại, truyện Thần Tiên phần nhiều xen tạp hư dối.

Như Hoài Nam Vương An ở thời nhà Hán, bị phạm pháp hạ ngục mà tự giết, mà trong truyện Thần Tiên nói là được thuật của tám ông, giữa ban ngày bay lên trời. Lại như, Kê Thúc ở thời nhà Tấn, ban đêm bị chung hội sàm tấu nên bị chém chết tại chợ Đô, mà truyện Thần Tiên nói là được Tiên. Hán thư Tấn thư đều có nêu bày loại truyện Thần Tiên, tức là hạng ấy vậy. Chẳng đủ để tin cậy.

Lại nữa, ông nói ngự biện khí để tuyên bày đi, ở thiên Tiêu Dao của Trang Chu, phá tình của Kiện Khương, dẹp thuật của Thần Tiên. Tuy nói Liệt Tử cưỡi gió, không gió thì dừng, chẳng thể không đợi, huống gì là rồng phụng ư? Tự chẳng nương chánh của đất trời, ngự biện của sáu khí, mới đầu không chờ đợi. Đó là ngụ ngôn của Trang Chu, giả mượn mà nói dùng chấm dứt tâm mong cầu, chẳng phải thật có vậy. Đạp lưới mây, trong Linh Bảo Ngọc Kinh Sơn Ngụy Kinh Bộ Hư Từ nói: “Toàn đi đạp lưới mây, cưỡi hư bước huyền kỷ”. Đó là do Trương Đạo Lăng, Lục Tu Tĩnh v.v… ngụy tạo nói rằng, Thiên Tôn ở tại Huyền đô núi Ngọc kinh giảng nói pháp xong, các trời Chân nhân vây quanh Thiên Tôn, đạp trên ráng mây tán vịnh mà đi, gọi đó là bộ hư (bước đi giữa hư không). Đó là kinh dối ngụy, trước đã phá xong, sao lược dẫn ngụy trở lại xác chứng cho ngụy ư?”

Công tử lại nói: “Đó hư ngụy, dám chẳng vâng mạng. Nếu căn cứ kinh thật để xác chứng, tiên sinh có hứa chăng?”

Tiên sinh bảo: “Sao chẳng hứa ư?”

Công tử nói: “Trong kinh Tây Thăng, Lão Tử giảng nói chẳng đồng, Linh Bảo Thiên Tôn hư ngụy cùng kinh Phật, sự tích cũng có phần xen lẫn. Lão Tử nói: “Học đạo thành Thánh chứa hạnh khó khổ”. Nên nói: “Cần thì trải đến kiếp sau, tự tư duy rất khổ cần”. Đó là luận bàn đầy đủ về việc kiếp số, sao có thể khác ư?”

Tiên sinh bảo: “Tây Thăng ký, thật là do Lão Tử giảng nói, người sau thêm vào việc kiếp, xen tạp trong văn ấy. Căn cứ hai thiên Đạo Đức của Lão Tử, vốn không yếu chỉ về kiếp số. Nhân gì trong Tây Thăng ký có tên của kiếp số? Lại nữa, sách sử xứ này đều không nói việc kiếp số, điều nói của Đạo gia cùng thế tục hơi tương đồng. Đều nói trước lúc trời đất chưa phân, hỗn độn không hình, sau khi Nhị nghi đã khai mở, vật tượng mới hiển trước, vốn không nghĩa của kiếp hoại kiếp thành. Vả lại, Phật pháp trước lúc chưa truyền đến Đông Hạ, xứ này chỉ có việc của kiếp giết, kiếp giặc, chứ không có văn từ nói kiếp số kiếp thạch. Tây Thăng ký bàn luận về kiếp, sau khi kinh Phật lưu truyền đến đây, các Đạo sĩ v.v… trộm lấy việc kiếp trong kinh Phật để thêm vào trong Tây Thăng ký, văn muốn xen loạn chữ kiếp nhà Phật để thay thuyết hỗn độn. Căn cứ Đạo Đức kinh nói: “Đạo sinh một, một sinh hai, hai sinh ba, ba sinh muôn vật”. Đó là Lão Tử nói. Mới đầu trời đất mở hé, lúc đầu muôn vật hiển hình, nên nói Đạo sinh nguyên khí, nguyên khí sinh trời đất, trời đất sinh người và âm dương, âm dương sinh ra muôn vật. Đó là một sinh hai, hai sinh ba, ba sinh muôn vật, thì cùng chỗ nói trong sách tục, đại khái tương đồng. Lão Tử nếu biết nhân của kiếp sơ, cớ sao chẳng nói kiếp hoại trước mà kiếp này sinh, mà nói Đạo sinh một? Lấy đó chứng nghiệm thì đây rõ ràng là xen lẫn chữ kiếp trong nhà Phật chẳng lầm hoặc vậy. Đến như Linh Bảo kinh hư ngụy cũng luận đủ về việc kiếp, đều là do Lục Tu Tĩnh v.v… trộm biên ghi kinh Phật pháp để tăng thêm số ấy. Đó cũng có thể biết vậy”.

Công tử nói: Tây Thăng luận bàn về kiếp, ông cho là điều nói của người sau thêm vào. Còn như nhân quả tội phước, tu thiện trừ tai, đâu không có việc ấy? Đến như hành đạo thiết trai, oai nghi chỉnh túc thì có Tam lục cầu thỉnh, Tam nguyên đại biến, tiếp đến thì minh chân đồ thán Linh Bảo tự nhiên, khoa nghi nghiêm mật, chẳng rơi vào Phật giáo, muốn lấy làm quấy, há có thể lìa khỏi?”

Tiên sinh bảo: “Đạo gia nói nhân quả, Lão Tử không thuyên giải, mà chỉ thấy nói ở kinh Hư Ngụy, trong bộ Linh Bảo. Sự việc chẳng phải trong sách Đạo, mà vết tích ở nơi kinh Phật, Lục Tu Tĩnh, Tống Văn Minh ngầm trộm lấy trước để biện bày đầy đủ, không đợi phải nói lại. Còn chỉ như Tam lục minh chân, Tam nguyên đồ thán, Trai pháp tự nhiên đều rút từ văn của Linh Bảo, vốn chẳng phải giáo của Lão Trang, do Tống Văn Minh, Lục Tu Tĩnh v.v… tạo nên. Việc đó đều là hư dối chỉnh tu, tướng trạng dấu vết hiển bày trước, chẳng phiền phải giải thích lại. Chỉ bởi ông quá lầm hoặc, phải phá tích chứa nghi ngờ. Căn cứ trai nghi trong Linh Bảo kinh Hư Ngụy nói: Tam lục: Một là ngọc lục, hai là Kim lục, ba là Hoàng lục. Ngọc lục là Thiên tử tu đó, Kim lục là Vương công tu đó, Hoàng lục là thứ nhân tu đó. Hoặc kính bái nhật nguyệt tinh linh, hoặc kính bái muôn sao khí tượng, hoặc kính bái ngũ nhạc tiên cung, hoặc kính bái thủy phủ bôn ngôi, cúi đầu ai khẩn, dập trán cầu phước, lắm khoa văn thể, tình khuôn phép ở tài lợi, giăng rộng đốt đèn, ý ở dầu đuốc, lấy vọng cùng khinh thường. Thực hành việc đó mãi đến nay, so với tà dối giải cầu, có gì khác lạ? Hành tà cầu phước, thần đâu hưởng đến? Tự nhiên đồ thán đều thuộc loại ấy. Tam nguyên là: Thượng nguyên, Trung nguyên và Hạ nguyên. Ngày Rằm tháng giêng là Thượng nguyên, ngày 15 tháng 0 là Trung nguyên, ngày Rằm tháng mười là Hạ nguyên. Xin giải thích rằng: Ngày Thượng nguyên là ngày Thiên quan tính xét, ngày Trung nguyên là ngày của Địa quan tính xét. ngày Hạ nguyên là ngày Thủy quan tính xét. Đó là ba ngày của ba quan Thiên địa thủy tính xét. Ngày của ba quan Thiên địa thủy tính xét việc công quá, đều là do Lục Tu Tĩnh v.v… giá hư ngụy uốn nắn lập nên, vốn không có việc ấy, giả sử là thật tức là việc của Quỷ thần Minh đạo. Chỗ nhiếp của Quỷ đạo, đối với Đạo sĩ sao được dự cùng ư? Lại nói ba ngày đó, ba quan tính xét việc tội phước hạnh nghiệp trong nhân gian, nên phải thiết trai sám hối, để diệt tội đó. Đó lại càng hư ngụy vậy. Kiểm xét tìm trong văn của Lão Trang, vốn không có việc ấy, đều xuất phát từ kinh Linh Bảo hư ngụy. Vả lại, Lý của minh ty, nghiêm ngặt đối với tục pháp. Đến như trong pháp Thế đế, người phàm phạm tội, chưa từng phát giác từ đầu tức nguyên sự việc đã rõ bày, tuy đầu chẳng khỏi. Nếu chưa đến ngày của ba Quan tính xét trở về trước, mà định lập lễ sám Tam nguyên, dung tha đó miễn khỏi tội. Đến ngày tính xét, tướng trạng mắc phạm đã hiển bày, tội bày mới sám. Đó là phục thức mong khỏi bị đó, định hẳn không thể được nguyên. Ở thế gian thô thiển còn chẳng thể khỏi tội, nơi Minh đạo nhỏ kín làm sao có thể tha? Hư dối bày có văn trai sám, trọn không lý miễn khỏi tội. Lấy vọng làm vọng, tâm tình dong ngu không tỏ ngộ, nhọc thiết bày khoa nghiêm cấp, rõ ràng không ích lợi rửa sạch oan khiên”.

 

QUYỂN HẠ

Công tử nói: “Tiên sinh buông biện luận của Đàm Thiên, khua âm vang dậy đất, ân cần thuyên giải. Cốc rét lắng mốc xuân ấy, lời khuyên trùm khắp, ao lạnh đóng băng Đông đó. Vì kẻ hèn đem ánh sáng đầu ngọn đuốc so cùng mặt nhật thường sáng, tự có thể tiêu tiếng chồng chân, hớp khí chất vai, trầm nghi chưa trừ, bèn mong Diệu thích. Chỉ có điều thuyên giải trong Linh Bảo đều kết quy thuộc hư ngụy dối vọng. Sự tích của Lão Tử đáng nên không hư dối.

Hà Thượng Công là người Thần tiên, xưa kia ở thời vua Hiếu Văn Đế (Lưu Hằng 19-15 trước Tây lịch) thời Tây Hán, kết cỏ làm am ở trên bến sông. Vua Văn Đế ưa thích kinh Đạo Đức, ban sắc các hàng Vương công Khanh tướng, và ba ngàn (3.000) thạch đều khiến tập đọc. Lão kinh có vài câu không hiểu, Văn Đế chẳng thể thông đó, có người nói Hà Thượng Công thường tu tập và đọc Lão kinh, có thể hiểu đó. Văn Đế mới sai sứ mang điều không rõ nghĩa ấy đến hỏi. Hà Thượng Công bảo: “Đạo tôn đức quý không thể xa hỏi”. Khi ấy Văn Đế tự thân đến trên sông dò hỏi điều nghi ngờ, Hà Thượng Công thấy Văn Đế, mới chống đầu, nằm trên cao. Văn Đế rất lấy làm lạ, mới nói cùng Hà Thượng Công rằng: “Khắp trong thiên hạ không đâu chẳng là đất vua, khách ở khắp chốn, không ai chẳng là tôi của vua. Trẫm có thể khiến người sống chết giàu sang. Ông tuy là đức trọng nhưng sao lại tự cao ư?” Hà Thượng Công mới vỗ tay cười lớn, đạp giữa hư không, cách đất vài trượng, ngồi trên khí mây năm sắc, trông nhìn xuống Văn Đế mà bảo: “Tôi trên không tới trời, dưới chẳng tới đất, giữa chẳng lụy người. Bệ hạ sao có thể khiến tôi giàu sang hay nghèo hèn ư?” Văn đế mới nhận biết đó là Thần nhân, mới xuống kiệu kính bái mà tạ tội rằng: “Trẫm vì không đức, nhục nắm giữ tiên nghiệp, đau đáu răn dạy cẩn trọng, thường sợ phế đọa. Chí tánh ngu muội, không biết Thánh nhân, cúi đầu dẫn nêu lỗi qua”. Hà Thượng Công mới trao cho Văn Đế hai quyển Tố Thư, và bảo: “Ai đọc sách này, điều nghi sẽ tự giải. Từ khi tôi chú giải sách này đến nay đã trải qua hơn một ngàn bảy trăm (1.00) năm, truyền trao được ba người, thêm ông nữa là người thứ tư. Ông chớ truyền chẳng phải người đó”. Nói xong, Hà Thượng Công ẩn biến mất.

Căn cứ linh tích ấy, nếu chẳng phải Thánh nhân thì ai biết đó? Do vì vua Văn Đế dốc tin tinh thành cảm thông minh triệt. Lão Quân sai Thần nhân ấy trao cho Văn Đế Đạo Đức chương cú. Văn Đế đã nhận xong, Hà Thượng Công mới ẩn bóng trở lại chân về phương trên. Đó là Thần dị rõ ràng hiển trước, há cũng là hư dối ư?”

Tiên sinh bảo: “Lời ông nói đó lại thành hư vọng, nghe đầu đường nói đầu chợ, sao đủ đáng tin cậy? Ông luận bàn vừa rồi là do Cát Huyền làm Tựa Lão kinh, ngụy dối nghiêm sức ngôn từ ấy để mê hoặc vùng Giang tả. Nhân theo chẳng tỏ ngộ, khiến ông nghi ngờ vậy. Trộm phỏng Hán thư Đế kỷ, phàm có đi cầu may, không gì chẳng biên ghi. Đến như từ cung Cam Tuyền cách Kinh đô hơn trăm dặm, mỗi lần vua Văn Đế (Lưu Hằng 19-15 trước Tây lịch) thời Tây Hán đi cầu may thảy đều biên ghi đó. Vả lại, ở thời vua Cảnh Đế (Lưu Khải 15-10 trước Tây lịch) thời Tây Hán, Ngô, Việt v.v… có bảy nước cùng phản. Vì Thái hậu ở Đông cung, Cảnh Đế luôn lui tới thăm hỏi. Hán Thư nói: “Khoảng thời gian vua Cảnh Đế lui tới Đông cung thì vua Văn Đế cầu may ở cung Ngũ tộ, và cầu may nơi đền thờ Hậu Thổ ở Hà đông”, sử đều biên ghi đó. Xét Đạo sĩ Thành Huyền Anh soạn thuật Lão Kinh Sớ nói là: “Hà Thượng Công ở cách thành Thiểm châu ba dặm về phía Nam”. So với đền Ngũ tộ, Cam tuyền, Hà đông xa gấp bội, cớ sao Hán Thư không nói? Huống gì Hà Thượng Công đạp ngồi giữa hư không ngự trên mây khí, trao sách cho Văn Đế hoằng dương sáng tỏ đạo đức, so với việc của Giao kỷ Thần quang và Lý phu nhân, thì đó là rất nổi bậc, lại bỏ mà không biên ghi. Lý ấy chưa thể có được.

Lại nữa, Hà Thượng Công nói: “Tôi chú sách này đã một ngàn bảy trăm (1.00) năm”. Lời nói đó lại là hư vọng. Căn cứ từ sau khi Thành Vương (cơ tụng 103-102 trước Tây lịch) thời Tây Chu đánh dẹp Hoài di mới chế định pháp Tỉnh Điền. Ruộng vua ngàn dặm, xuất cách xe muôn thừa. Thiên tử muôn thừa phát khởi từ Thành vương. Từ Thành vương trở về trước không có chế định muôn thừa. Căn cứ Thành vương lúc tại vị cùng Chu Công nhiếp chánh có được ba mươi bảy năm. Đến thời Noãn Vương (Cơ Diên 31-255 trước Tây lịch) thời Chiến Quốc, bị Chiêu Tương Vương (Doanh Tắc 30-250 trước Tây lịch) thuộc nhà Tần giết hại, thì cả thảy có được tám trăm sáu mươi năm. Nhà Tần từ Chiêu Tương Vương đến đời Tử Anh (?) cả thảy có năm mươi năm là bị Hạng Vũ diệt mất. Qua thời Tây Hán, Cao Tổ (Lưu Ban) ở ngôi được mười hai năm (20-19 trước Tây lịch). Vua Huệ Đế (Lưu Doanh) ở ngôi được bảy năm (19-18 trước Tây lịch), Lã Thái hậu (Cao Hậu – Lã Trỉ) ở ngôi được tám năm (18-19 trước Tây lịch), rồi đến Văn Đế (Lưu Hằng) ở ngôi được hai mươi ba năm (19-15 trước Tây lịch). Từ đời Thành Vương thời Tây Chu đến năm cuối của Văn Đế thời Tây Hán có cả thảy chín trăm ba mươi hai năm. Căn cứ Lão kinh nói: “Làm sao Chúa cưỡi xe muôn thừa mà đem thân khi thường thiên hạ?” Thì rõ Lão Tử đang lúc giảng nói kinh này phải là sau đời của Thành Vương. Chỉ kinh hư ngụy, chú vốn là giải thích kinh, kinh còn chưa có, sao chú thuật trước? Một ngàn bảy trăm (1.00) năm đó lại là hư dối vậy.

Lại nữa, Hà Thượng Công tự chú Lão kinh rằng: “Thuấn Dao ở Hà tân, Chu Công xuống Bạch ốc”. Rõ ràng lời chú ấy toàn ở sau đời Chu công, nên một ngàn bảy trăm (1.00) năm lại càng hư dối. Sự tích đã hư ngụy, cảm ứng đâu thật, thuyết ẩn ảnh là vọng đàm, dời trở lại chân sao uốn nắn?”

Công tử nói: “Sử sách không biên ghi, thật cũng khó cậy nương, vì ngu dốt, trông nhìn hẹp hòi nên khiến mê hoặc như vậy. Giáo của Lão Trang hoằng truyền lại đã lâu, hiệu của Đạo sĩ chẳng chỉ nay mới có, Đạo quán tôn dung thiết trí trang nghiêm ở đó, mũ sao khăn trắng, áo mây, xiêm cầu vồng, mắt xem nghiệm xét có thể biết, há tất cả đều hư ngụy ư?”

Tiên sinh bảo: “Với giáo điển của Lão Trang, tôi đâu hủy phá ư? Vừa rồi phỏng định nghĩa lý kinh Phật thì toàn khác biệt. Luận bàn về thiện thì đồng đường mà mỗi tự chạy quàng, bàn tông thì khác vết mà phân khu. Yếu chỉ của Lão giáo ở nơi mềm dịu, với Phật pháp thì mọi sự rõ ràng nơi nhân quả. Áo nghĩa của hai pho bảy thiên, quên được mất ở nơi trường ngang bằng vật, tám mươi bốn ngàn (8.000) pháp môn khế hợp tịch diệt ở nơi cảnh Niết-bàn, cốt yếu của tu thân trị nước, trong kinh Đạo Đức đều nói rõ ràng. Xả phàm chứng Thánh quả, văn Bát-nhã càng hiển bày. Đến như dứt chấp phá cảnh, dứt trí quên thân, Lão kinh không gì chẳng nói đó. Ở Hạnh chẳng lập, chỗ tu Tông ấy chỉ ở quả vị cùng cực nói nhân gian mới lên thọ khảo.

Phật lập giáo điển ứng vật theo duyên, tùy loại phân môn, nhân cơ mở hạnh, từ gần đến xa, từ cạn vào sâu. Vượt một niệm tâm chứng quả chân như, hiển bày như đất trời, rõ ràng đồng nhật nguyệt, văn thô xem lượt tợ như tương tham. Diệu lý ngầm nghiên cứu rõ ràng toàn khác.

Lại nữa, ông nói hiệu của Đạo sĩ chẳng chỉ có ở ngày nay cũng gì sai lầm ư? Từ lúc mở mang trở lại cho đến cuối thời nhà Tấn, vốn không đội mũ ban cốc, trùm màn lụa vàng, lập tượng Thiên Tôn, tập học kinh Linh Bảo, xưng là Đạo sĩ ấy vậy. Sở dĩ có hiệu Đạo sĩ là do bọn Quảng Thành, Vụ Quang, Sào Do, Quyên Cức, Thoát Lạc thời đại khinh ngạo Vương hầu, chẳng đồng người đời, cao chuộng chí riêng, tiếp đến có để lại vẻ vang quan miện, quấn quít chốn suối rừng, Ca Tử Chi để tự mua vui, đanh khảy tố cầm mà buông tuồng, đến cuối đời thì có tánh tham bay biện chí thích thuật số, đều xưng là Đạo sĩ. Vết dấu tuy khác tục mà y phục chẳng chế riêng.

Ở đời vua Minh Đế (Lưu Trang 58-) thời Đông Hán, Phật pháp lưu truyền khắp Trung Hạ. Đến trong niên hiệu Xích Ô (238-251) thời Đông Ngô, Cát Huyền là người pháp thuật dâng thư tấu trình Ngô Chủ Tôn Quyền rằng: “Phật pháp là giáo điển của Tây Vức, tại Trung Quốc chúng ta trước kia đã có Đạo giáo, xin nên hoằng dương pháp ấy”. Mới đầu sáng lập thiết đặt một Quán, đến nay gọi Quán là lạm chương vậy. Cát Huyền lại ngụy tạo Đạo kinh, tự xưng là Thái Cực Tả Tiên Công. Nêu Đề kinh ngụy tạo là Tiên Công Thỉnh Vấn Kinh. Tống Văn Minh v.v… lại thêm pháp ấy, tạo chín đẳng trai nghi, bảy bộ khoa lục, tu văn chầu lễ dâng hương, hành thức Đạo Đàn toản phục, chế y phục giầy mũ, dung quỳ bái chiết toàn. Người hành đạo ấy, mới đầu dứt đoạn hôn thú, cấm tuyệt tanh nồng. Lại ngụy tạo các kinh Linh Bảo v.v… vài ngàn quyển. Về sau, Lục Tu Tĩnh lại lập tên hiệu của y phục, áo choàng vầng nguyệt, khăn sao, xiêm cầu vồng, áo tụ ráng, lọng báu chín quang, phan linh mười tuyệt, từ đó hiển trước vậy.

Đến đầu đời vua Võ Đế (Tiêu Diễn 502-550) thời Nam Lương, vì Lục Tu Tĩnh làm mê hoặc, nên vua từng kính lễ tuân phụng, nhưng về sau tỏ ngộ đó chẳng phải pháp cứu cánh, nên đích thân vua chế tác văn xả bỏ Đạo giáo. Hiện còn trong Lương Võ Đế tập. Về sau, Lục Tu Tĩnh rong chạy đến Bắc tề. Thời ấy tại Đan dương có Đào Hoằng cảnh là người bẩm tánh hiểu biết nhiều, thông mẫn hơn người, tự thân làm Đạo sĩ ở tại Quán Chu Dương ở Mao sơn, lắng lùi vô vi, không dự tham việc đời. Người thời bấy giờ xưng gọi là Trinh Bạch tiên sinh, còn gọi là Đào Ẩn Cư, có lắm trước thuật, đều lưu hành ở đời, tự thân vận mặc đạo phục, mà tâm kính phụng Phật pháp. Tại chỗ ở tạo dựng một ngôi tháp, đắp họa tôn tượng Phật, tự thân gần cúng dường, đề hiệu là Thắng Lực Bồ-tát. Tháp đó nay hiện còn trong Quán Chu Dương ở Mao sơn. Đến nay chẳng bị chim thú làm dơ. Đào Hoằng Cảnh chế lại quan phục, cải đổi Quán ?? làm Quán ??, thực hành giáo của Hoàng đế Lão Tử, ghét chán pháp Linh Bảo hư ngụy xấu xa mà chẳng hành, tự tay viết luận mà bác bỏ đó. Đào Hoằng Cảnh rất được vua Võ Đế mến chuộng, từng đề cử ra làm quan, nhưng trọn chẳng dời đổi. Đào Hoằng Cảnh trước thuật thơ dâng tặng vua Võ Đế, đều đưa vào trong tập, sự tích rõ ràng tỏa sáng nơi trong sử nhà Lương, sao ông lầm hoặc đó”.

Công tử nói: “Đã nghe tiên sinh nói thế, tâm mở ý ngộ, đổi thay nhận biết mê lầm, như vạch nhạc trời rộng, tợ mở bày vượt sương”. Mới rời khỏi chỗ ngồi, cúi đầu bái lạy mà sám tạ rằng: “Kẻ hèn tôi từ lâu đắm chìm lưới tục, ít rõ được nơm chân, tại đắm dính trong âm thanh hoa vàng, chí mờ tối bởi tấu của tuyết trắng. Tuy từng tiếp thừa Diệu thích, nhưng lại càng kết buộc mối nghi ngờ sâu, hình trí điếc mù đến nỗi như vậy. May nhờ chỉ Nam nay theo vết Bắc. Linh Bảo Thiên Tôn hư vọng như vậy, đến như kinh giáo không gì chẳng là ngụy tu. Phàm mọi sai lầm, đều xin nhủ lòng dạy răn, mong dứt bệnh nặng vượt thoát trầm kha!”

Tiên sinh vui vẻ mà đáp: “Nay ông đã tỏ ngộ vậy, cũng chỉ sớm tối mà được. Hãy ngồi lại, có điều gì nghi ngờ cứ tiếp hỏi, tôi sẽ vì ông mỗi mỗi luận bàn đó”.

Công tử nói: “Trong Phật giáo có Tăng Ni hai chúng, trong Đạo pháp có Đạo sĩ và nữ quan hai hàng. Đây kia tương đối oai nghi đủ đầy. Chuẩn cứ theo luật Phật thì chư Tăng thọ hai trăm năm mươi giới, chư Ni thọ năm trăm giới. Nay các Đạo sĩ và nữ quan thọ trì pháp lục đồng đều ngang bằng nhau không có thêm bớt, đều thọ pháp của mười giới Chân văn Thượng Thanh và thọ sự phù lục, chưa biết pháp ấy do ai truyền”.

Tiên sinh bảo: “Đạo sĩ và nữ quan vốn không có giới luật, lại trộm lấy mười giới của nhà Phật để sung vào pháp Chân văn Thượng Thanh ấy, đều dùng lụa quyên mà làm. Trong đó họa làm Phù Đồ và viết chữ ngọc. Chân văn ấy gồm có ba pháp: Một là Tám cảnh tức họa vẽ hình tượng của nhật nguyệt muôn sao. Hai là Năm Lão tức họa vẽ năm lão thần. Ba là Năm nhạc tức họa vẽ làm tướng trạng núi Ngũ nhạc. Ba bản mỗi tự được thọ trì, không cần phải thọ trì tất cả. Thượng Thanh là trong đó viết về quan vị và Phù Đồ v.v… ở trong trời Thượng Thanh. Mới đầu thọ mười giới, tiếp đến thọ Chân văn và sau cùng thọ Thượng Thanh, pháp ấy đầy đủ vậy. Lục, số ấy rất nhiều, không sao nói đủ cả, sơ lược mà nói là có một ngàn năm trăm (1.500) tướng quân, ba – năm Đại tướng quân v.v… các thứ lục. Người thọ Lục ấy mới có thể hành các sự phi cầm chương tiếu. Phật vì Ni là người nữ tánh nhiều ái nhiễm, tùy căn cơ mà chế pháp, nên gấp bội nhiều hơn Tăng. Pháp lục của Đạo gia do người phàm vọng tạo, đã không biết căn tánh, do đó, Đạo sĩ và nữ quan không có khác biệt. Các pháp ấy đều do Trương Đạo Lăng ngụy tạo nên vậy”.

Công tử nói: “Lão Tử đã không nói thế, hẳn là hư ngụy không còn phải lầm hoặc. Đạo pháp trước vốn không có giới luật, Đạo sĩ không cưới vợ, dựa theo điển ký nào?”

Tiên sinh bảo: “Đạo gia không có luật cấm việc dâm dục. Nay các Đạo sĩ không cưới vợ là học theo chư Tăng mà àm đó, không một bằng cứ. Cho nên ở thời nhà Tùy, Đạo sĩ Lý Bá ở Trung dương quán dâng tấu biểu văn nói: “Chuẩn theo Đạo pháp, Đạo sĩ không điều lệ cấm cưới vợ”. Các Đạo sĩ đều xin cưới vợ. Biểu văn ấy hiện còn trong Lý Bá tập”.

Công tử nói: “Giáo điển không có khoa cấm dục. Cưới vợ đâu trái với giáo điển? Lý Bá xin như thế thật hợp với nghi ấy vậy. Vả lại tông của Đạo giáo; chủ chính ở Lão Tử. Lão Tử làm quan, về sau đến Tây Vức, trọn không dấu vết bỏ vợ xuất gia. Ngày nay các Đạo sĩ xuất gia tuân theo giáo của ai?”

Tiên sinh bảo: “Pháp xuất gia nền tảng ở Tây Vức, Đức Thích-ca từ bỏ ngôi vị Quân Vương sang quý, bỏ sự mến thương của Phi tần, xuất gia tu đạo, sáu năm khổ hạnh, một sớm mai thành Phật. Sau khi thành Phật mới độ Kiều Trần Như v.v… Ở xứ này nguyên không dấu vết xuất gia. Lão Tử vốn tự có vợ, làm quan Trụ sử ở thời nhà Chu, sau đó bỏ nhà Chu, xa đến phương Tây. Thân nguyên là người tục, vốn không tướng trạng bỏ vợ con gia đình thay đổi y phục mà xuất gia. Nên con của Lão Tử tên Tông; con của Tông tên là Hà, làm quan thời nhà Ngụy được phong là Đoạn can. Về sau làm Hán giao Đông phương thái phó, mỗi người đều có biệt truyện. Lại nữa, Lão kinh nói: “Con cháu tế tự không thôi dừng”. Đó là luận y theo giáo mà tu hành, thì con cháu nối dõi đông nhiều, đời đời không dứt, nên nói là không thôi. Đâu khiến đoạn dục ư? Ngày nay Đạo sĩ xuất gia, vốn học theo Phật giáo, không căn cứ gì riêng khác”.

Công tử nói: “Tuy học Phật giáo mà xuất gia, bản tông tự không có giáo ấy, Lão Tử chẳng cấm cưới vợ, Kinh văn lại nói về con cháu. Ngày nay giả sử học theo Phật tông, các người có sự nhận biết há chịu tin theo? Trộm chuông bít tai đâu khỏi người khác nghe. Vọng lập Thiên Tôn, vết tích trước lộ bày; ngụy tạo kinh giáo, lại đã phơi rõ. Linh Bảo, do Tống Văn Minh v.v… ngụy tạo, còn các kinh khác do người nào làm 282 ra? Cúi xin chỉ rõ, mong thấu suốt cội nguồn”.

Tiên sinh bảo: “Đạo kinh, trừ bộ Đạo Đức hai thiên, Tây Thăng một quyển. Lại có luận Hoàng Đình nội cảnh. Ngoài ra, các kinh đều là ngụy tạo. Lại có kinh Thái Bình một trăm tám mươi quyển, do Vu Cát người đất Thục tạo ra. Người ấy khéo lánh hình tích, chẳng lắm khổ lục kinh Phật, phần nhiều nói về pháp của Đế vương trị nước, việc âm dương sinh hóa v.v… đều biên giáp tý làm thành pho bộ đó. Lại có kinh Thái Thanh, Thượng Thanh v.v… đều thuật về các pháp bay luyện thuốc thang trắng vàng. Đến như Bản Tế năm quyển là do Đạo sĩ Lưu Tấn Hỷ ở thời nhà Tùy tạo nên. Đạo sĩ Lý Trọng Khanh tiếp tục biên soạn mà thành mười quyển, đều mô phỏng biên ghi kinh Phật, lạm trộm lấy việc tội phước, đặt để nhân quả xen loạn Phật pháp.

Từ đầu thời Tiền Đường đến nay, tức có Đạo sĩ Lê Hưng ở Ích châu, Đạo sĩ Phương Trường ở Lễ châu cùng chung tạo kinh Hải Không mười quyển. Đạo sĩ Lý Vinh lại tạo kinh Tẩy Dục để đối lại kinh Ôn Thất. Đạo sĩ Lưu Vô Đãi lại tạo kinh Đại Hiến để phỏng như kinh Vu Lan Bồn, và tạo kinh Cửu U xếp loại tội phước báo ứng. Ngoài ra chẳng phải các pho bộ lớn. Ngụy dối tức không thể lường tính hơn.

Đâu như Đức Thích-ca là Bậc Đại thánh riêng đáng ngôi vị vua pháp, thiết giáo hoằng hóa ở nước Tây Vức mà tiếng tăm lưu truyền đến Đông Hạ. Căn cứ Ngự Khấu Thư nói: “Thương Thái Tể hỏi Khổng Tử: “Tam Vương có phải là Thánh nhân ư?” Khổng Khâu đáp: “Tam vương khéo nhậm trí dõng, còn phải Thánh hay không Khổng Khâu tôi chẳng biết”. Lại hỏi: “Ngũ Đế có phải Thánh nhân ư?” Khổng Khâu đáp: “Ngũ đế khéo dùng nhân nghĩa, còn phải Thánh hay không Khổng Khâu tôi chẳng biết”. Lại hỏi: “Tam Hoàng có phải Thánh nhân ư?” Khổng Khâu đáp: “Tam Hoàng khéo dùng thời chánh, còn phải Thánh hay không, Khâu tôi chẳng biết”. Tái Tể kinh ngạc hỏi: “Vậy ai là Thánh nhân ư?” Khổng Khâu đáp: “Khâu tôi nghe ở phương Tây có Bậc Thánh nhân ấy vậy, không trị mà chẳng loạn, không nói mà tự tin. Mênh mông thay dân chẳng thể được mà xưng gọi vậy!” Xét lời nói đó của Tuyên Ni cùng với lời nói trong Tây Thăng của Lão Tử lược đồng. Bá Dương, Trọng Ni đều là người xứ này tôn xưng làm Thánh, hai người ấy đều biết ở phương Tây có Thánh nhân, thì rõ ràng đạo của Đức Thích-ca rộng lớn vậy”.

Công tử nói: “Kẻ hèn tôi từ thuở nhỏ ôm chí cao thượng, sớm trộm vinh dự của đương thời. Khi nói bàn đến đó dùng lấy từ khiến thấy ngợi khen. Cúi nhẹ cao luận có hỗ dụng về hết cây, ngửa trông Tuyên Ni cao vợi, thẹn tường bao quanh thấp xấu. Trịnh Hàm trông nhìn yên dụng của Tử Lâm mà rõ biết tâm thức mờ tối biếng lười. Vậy biết truyền lay chín vạn rủ cánh của trời mới lên, đánh nước ba ngàn (3.000) giăng vảy của biển mới vận. May tiếp nhận chỉ giáo mà nghi trệ đều hết. Trộm thấy, những vị Hồng Nho bạch ốc, Thạc Học Hoàng quan, tài sĩ nắn tay cán hành, tân khách dương mày chỉ tay, đều nói kinh điển của Tam giáo Nho Lão Thích là một, đều lên đường thiện, lý không có ba, từ bi nhân thứ, khác đường mà đồng xét quy, lợi vật giúp đời trăm mối nghĩ mà ngang bằng rốt cùng. Tuy biện giải của Bích Khê Hoàng Điểu chưa thể phân chia đó, tuy ngôn từ cứng chắc hợp dị, đâu thể khác biệt vậy. Mỗi lúc nghĩ ngợi thuyết ấy, giao chiến nơi cõi lòng, xin một lần bàn luận rõ để dứt trừ các thứ lầm hoặc”.

Tiên sinh bảo: “Điều ông nói thật đáng vậy, tôi thường muốn trước thuật luận, nhưng chưa rảnh rỗi chuốc thảo, nhân ông cầu xin được chí ý tôi vậy. Phàm, Tam giáo có lắm phần, chín phái riêng biệt, vốn dấu vết khác, nghĩa ý mới khác, chẳng chỉ thô cạn cùng xa mà ước về phàm Thánh toàn cách. Tầm văn tợ như liên quan, nghiên cứu lý rõ ràng chẳng đồng. Từ Bát quái thành tượng, Lục hào lập ngôi vị vạch Long Đồ mà ghi hiệu, trông dấu chân chim để viết sách. Lập đức lập ngôn, ba phần thỏa sướng mỹ hóa của Tam Hoàng; rủ ban răn dạy khuôn phép, năm điển nêu nỗi văn chương của Ngũ đế. Kịp đến Cơ Công chế lễ chế nhạc, lớn nhanh phong nhã của Nhị Nam, Khổng phụ tu thi thuật dịch, thuyên giải tinh vi của Thập Dực. Không gì chẳng rõ ràng, định đạo của vua tôi cha con, tiếp đến riêng khác của lớn nhỏ, rõ ràng chồng vợ bè bạn. Dốc hết trung trinh để phụng sự đất nước, kính sùng hiếu để mà giúp cửa nhà, tích chứa cung kính khiêm nhường để tự khắc mình, ban thí nhân thứ để tiếp đãi vật, thuần hòa tín nghĩa để tỏ bày kết giao, chuyên liêm nhượng để suy hành. Đó là năm đức; nghĩa lý lập thân, tuyên bày văn đức để chuyển hóa tập tục, vận Võ Công để an dứt loạn tu cúng tế để cầu thần kỳ, Sùng Tông miếu mà kính tổ khảo. Mở dần săn bắn chài vớt, đổi nghĩa máng lưới, dẫn nguồn bàn du lễ điển đánh săn thú, xẻo tai chặt đầu, giao nhạc chinh chiến, giết mổ sinh linh, khơi phước cúng dâng, xuyên ngực suốt bụng, bày vui rong ruổi, lóc da chết yểu, buông vui thưởng tâm, Hình lễ khơi động mà gian trá nỗi bày, phù ấn hiển hiện mà kiểu ngụy phát sinh. Kẻ cướp nước trộm vật hại cha giết vua, kẻ tranh quyền giành lợi diệt tông phế tộc, không ân huệ lớn của từ bi, có nhân đức nhỏ của trắc ẩn. Mê mờ nhân quả ba đời, rõ ràng họa phước trong một kiếp. Ương họa hay tốt lành xưa trước hẳn đợi đến đời cháu con, tích ác tu thiện tuyệt ở minh báo. Cầu mạng của hiện đời, tuổi thọ có hạn ngắn dài; làm chất của quỷ, thọ không thời kỳ chuyển biến. Do đó nói ham sống ghét chết nghĩa là quý trọng của tánh mạng, người vật đều đồng, loại như ở tình mình đâu nên làm thương hại. Cho nên Tử Cống muốn bỏ cúng tế dê cáo sóc, nghe tiếng nó kêu thương không nhẫn ăn thịt nó, lấy làm tâm của mình, thấu hiểu mạng của kia, chí ý mến sống, ta vật đều vậy. Cho nên Khổng Tử không nếm mùi chim trỉ của Lương Sơn; Vu Định Quốc khoan dung luật hình. Tôn Thúc ngạo âm dương, Bá Sở dùng xướng sau đó, Cao môn dùng đải phong đó, Hạng Vũ vùi xe Tần, Bạch Khởi chôn lính Triệu, thân chết dưới Đỗ Bưu, thì phần trên Ô giang. Hoặc họa phước đủ ở hiện đời, hoặc vinh nhục lưu lại cho cháu con. Thân tạo thân chịu tợ đồng hiện báo. Nghề nghiệp của cha mà con lưu truyền, thù đáp chẳng phải tự chính mình, cũng có bắn Tuyên Vương để trả lại oán đó, chống Đỗ Hướng để đáp ân đó, vạch sinh mạng Hồ Đột để cưỡi xe, Lưu Ước theo Nguyên Hải mà giúp chở. Đó, luận bàn u minh giao tiếp, người quỷ đối thù, chẳng phải nghiệp duyên của tội phước khác với luân hồi của báo ứng. Nho giáo và Phật giáo khác biệt, như thế đó, rõ ràng vậy.

Phàm, Đạo gia lập giáo khác với Nho lưu, Hoàng đế thuật về Lạm thương đó, Lão Đam tiếp nối then chốt ấy. Xét cứu về cội gốc đó là giữ tinh dưỡng khí, dấu ẩn ánh sáng, an toàn sự sống xa lìa hại họa, vô vi yên lắng, điềm đạm thanh hư, ít riêng bớt muốn. Đó là tông chỉ vậy. Từ sau biến đổi thanh thuần thành mỏng dạt phân ngàm mỗi tự chạy quàng, phải lý của nhất nguyên, lập sai khác của Tam đẳng. Bậc thượng thì bỏ ăn cơm gạo kéo dài tuổi thọ, bay lên tiên vũ hóa như Quảng thành, Hoàng đế. Bậc trung thì giữ mềm dịu răn cứng cỏi, quên biết dứt trí, như Bá Dương, Tử Hưu. Bậc hạ thì ruồng bỏ việc đời, giả từ vinh hoa, ẩn náu nơi núi hang, như Hứa Do, Sào Phụ. Suy cứu vết tích của Thần tiên mọi sự xen lẫn cậy tựa không hư. Căn cứ Hoàng Đế Bản Kỷ thì Hoàng đế thực hành thuật của phòng trung, tu pháp tuân theo dưỡng sinh, ngự bảy mươi hai người nữ, đượm phục chín mươi mốt kim đan. Lên Đảnh hồ đánh rồng bay, giữa ban ngày lên trời. Quần thần mến thương, gom nhặt áo mão kiếm giầy mà táng ở phía Nam Kiều sơn. Tham tầm nghiệm xét ngôn từ ấy, làm sao có được? Phàm táng là khỏa lấp che giấu. Tiên nhân bảo sau khi chết con cháu cảm thương mến mộ, bói chọn chỗ đất tốt lành, xây dựng mồ mã, an đặt hồn linh giấu kỹ hài cốt, ngỏ hầu khỏi bị hoạn phơi bày. Hoàng đế cưỡi rồng xanh để bay lên trời, đạp mây tía mà lên xa, cao tạ muôn cơ, cỡi giầy bốn biển, vốn xưa nay chẳng chết, cớ sao phải táng vùi? Vả lại, Thiệu Bá Tư mục phần Thiểm Di Huệ ở người còn che chở em là Cam Đường Tư Đức Lưu Thọ, huống gì Hoàng đế ở ngôi vị cửu ngũ, nơi tôn quý của muôn thừa, cưỡi giá rồng để lên tiên, nên thắng bệnh ngủ mà chết. Nếu quần thần mến mộ tâm tình cắn rứt, tức nên lưu lại kính thờ áo mão, đâu nên chôn bỏ di phục của Hoàng đế để tỏ bày chí ý mến thương? Trọng Tử chưa chết mà đến phúng viếng, Tả truyện cho là trái lễ; Hoàng đế chẳng băng hà mà táng vùi, quần thần sao khổ lừa dối vậy? Nếu táng cùi là việc không hư dối thì lên Tiên tức là vọng bày. Lý tiến lùi, sự tích có thể rõ biết. Vả lại, ngự nữ cầu tiên, phóng dục cầu quả lại vào cảnh luân hồi, đâu thể lên trường giải thoát? Giả sử khiến chứng đắc thần tiên trọn vẫn chưa lìa khỏi sinh tử. Huống gì thuật ấy, Hoàng đế nhận thọ từ Quảng Thành, tu ở một phương, vốn chẳng phải pháp xuất thế. Vết tích của Hoàng đế như vậy, truyện thần tiên đều dối bày, đều đã luận bàn trước, khỏi lại phải nói nhiều.

Phàm, Lão Tử lập giáo đầy đủ ở trong văn chỉ năm ngàn ngôn từ. Trang Chu diễn giảng luận, rõ ràng nói yếu chỉ của bảy thiên. Điều rõ ràng về Đạo chỉ thuyên giải lý của âm dương trời đất hòa khí, bốn mùa sinh dục. Nên nói Đạo sinh một, một sinh hai, hai sinh ba, ba sinh muôn vật. Nghiêm Quân bình đẳng giải thích rằng: Một đó là nguyên khí, có nghĩa là hỗn độn chưa phân, không hình trạng có thể thấy. Ở trong Đạo không hình trạng có thể thấy phát sinh một khí, trong sạch của khí là làm trời, dơ bẩn của khí là làm đất. Một khí ấy sinh ra trời đất, là một sinh hai vậy. Nhân đất trời hòa hợp mà sinh âm dương và người, đó là hai sinh ba. Vì người bẩm thọ âm dương, âm dương hay sinh ra các loại phẩm vị động vật thực vật. Đó là ba sinh muôn vật. Nên trong Dịch nói một âm một dương, đó gọi là Đạo. Rõ ràng, Đạo là âm dương. Âm dương nghĩa là Thần minh chẳng thể lường, tức lý của âm dương chẳng thể lường đạt mà có thể biết. Đó là thần diệu vậy. Hay thuận theo lý âm dương ấy, an định điều bẩm nhận, thích nghi phần giữ mềm dịu, điềm đạm, tịch lắng vô vi, tuyệt Thánh trí kiểu tánh, bỏ nghe biết vượt phần, đồng hai quán kiêu diệu, hết hai chấp có không, bẻ dẹp tâm nhọn tiến, mở mang chí rối nhiễu, trừ cường lương cứng mạnh, bỏ đắm nhiễm thanh sắc, thấu rõ mầm họa phước cậy núp, thực hành hạnh từ kiệm khiêm tốn, tức được trọn hưởng thọ khảo, miễn khỏi thân hoạn, con cháu hưng thạnh đông nhiều, tế tự không thôi. Nếu trái lại như thế, thì mạng yểu thượng sinh, chuốc lấy bại lụy, con cháu tuyệt dần về sau không người nối dõi. Nên nói: “Khéo dựng xây không nhổ bỏ, khéo ôm ấp không bỏ thoát, con cháu tế tự không thôi”. Trang Chu cởi mở trâu để bảo sự sống của nó, truyền hơi ấm để kéo dài mạng nó, đều muôn vật để phô bày dáng tráng kiện, hủy tứ chi để bỏ mến tiếc hình hài. Thuật nhạn gỗ dùng làm phương dứt ngu trí đắm giữ, dụ chỉ ngựa để thấy quên đất trời chấp trước. Lẫn lộn biến hóa mà mộng Hồ Điệp, một thọ yểu mà kéo dài thương tử. Núi Thái nhỏ so với đầu mảy lông, thì có hư vọng của lớn bé ấy hiển bày. Cây nấm lớn so với thông to thì buộc của nem ngắn mới giả. Đó đều là Trang Chu thuyên giải tục tình chấp trước, bèn có thật của ngắn dài gian xú, mà khởi tâm nhân ngã tham xấu, lợi mình tổn hại vật, đến nỗi phải chuốc lấy họa hoạn. Đó là luận về trong một đời có điên đảo như thế, chết yểu hại mạng, buộc lụy bại thân, không có nghĩa minh báo ở tương lai, lý nghiệp duyên ở quá khứ. Ngay đời này tạo làm việc thiện ác, tùy việc làm đó mà ngay đời này nhận chịu quả báo. Cùng như điều nói ở sách Nho giáo, đại ý tương đồng. Đó đủ rõ Phật giáo và Đạo giáo hoàn toàn khác biệt”.

Công tử nói: “Tam giáo xa vời sai khác như thế, thuyết của lý sao có thể đồng ư? Vậy biết, Tử Hưu thực hành tâm hai để quên thân, chẳng phải vì kẻ khác mà cầu phước. Trọng Ni khiết trai để biến thức ăn, đâu liên quan gá nhân cầu quả. Giả sử Đạo cúng để khơi dậy sự trợ giúp của minh tư, tạo Thiên Tôn để mong cầu công Tế bạt. Sao hư phí ư? Sao hư phí ư? Mà từ này và mãi về sau ngõ hầu miễn khỏi. Nhưng pháp của Chương Tiếu, thuật của Phù Cấm, so thấy người thực hành đó, lúc nào cũng có hiệu nghiệm. Việc ấy như thế nào? Lại xin bảy chỉ rõ”.

Tiên sinh bảo: “Điều ông vừa hỏi, thật có lý vậy. Vả lại, người thực hành Chương Tiếu là hạng tế tự vậy. Việc cầu đảo xuất phát đến nay đã lâu xa. Chẳng phải chỉ pháp của Trương Đạo Lăng. Ở thời Hoàng đế Thái Công đã thực hành thuật ấy. Tiếu là tên gọi khác của Tế. Lễ điển trước thuật nghĩa ấy. Trương Đạo Lăng nhân đó mà tu theo. Người thực hành pháp ấy thì gọi là Tế Tửu. Đó tức là kỹ nghệ của người có pháp thuật trong thế tục. Đạo sĩ trộm pháp đó để cầu lợi dưỡng, vốn chẳng phải tông của Đạo giáo. Đó là xen lẫn đến lý của Quỷ đạo thần kỳ. Tục đế vọng tình, không gì chẳng việc ấy, cùng đồng loại như Thầy là âm dương, bói toán lá cỏ, tế giao, chú thây. Người hành pháp đó, tự là Thái thường sở ty, chẳng hợp lệ ty tân chùa Quán, Tăng Ni. Do vì thuộc Ty tân chùa là vì Phật pháp từ nước Tây Vức lại, đồng như các ngoại khách. Đạo sĩ vốn chẳng phải khách, tự nhiên không hợp thuộc

Ty tân chùa Quán. Lại nữa, thực hành pháp Chương Tiếu tế tự tức là Ty lễ việc chùa. Chỉ vì chùa quán có sự tương đối, nhân đó bèn thuộc Ty tân. Lấy thật mà luận bàn thì đó chỉ hợp sự quản lý của giao xã. Lại nữa, Phù là Quỷ lục, thực hành đó đối với đạo của quỷ thần vì vậy mà có ứng nghiệm, cũng không đáng lấy làm quái lạ vậy”.

Công tử bỗng nhiên biến tan hết nghi ngờ, vui vẻ đảnh lễ mà sám tạ rằng: “Kẻ hèn tôi tập quen ngọt đắng, ở nơi chợ cá mà quên cả mùi hôi hám, đắm chìm vùi lấp suốt thời gian dài, nay đã thuộc buổi ánh sáng ngã bóng về Tây xa vời, mới tỏ ngộ chẳng còn tệ, cuồng điên rảo chạy Đông. Sáng sớm được nghe, chiều tối chết hẳn an úy với tâm ý soi xét. Kính cẩn vâng theo sự chỉ bảo, xin tuân theo yếu chỉ ấy, viết vào vạt áo để tự răn, lưu truyền đến tương lai, khiến những người bị vấp ngã cải đổi tâm thế tục mờ tối, những bậc tài sĩ hoằng thông thấu suốt nghĩa lý của chân như”. Bèn dùng nghiên bút làm luận để lại cho đời sau.