LUẬN A TỲ ĐẠT MA THUẬN CHÁNH LÝ
Tác giả: Tôn giả Chúng Hiền
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 67

Phẩm thứ 6: BIỆN VỀ HIỀN THÁNH, phần 11

Như đã nói về Sa-môn và quả Sa-môn. Những gì gọi là tánh của Sa-môn? Thể của quả này là gì? Quả vị sai biệt gồm có bao nhiêu thứ? Tụng nêu:

Tánh Sa-môn đạo tịnh

Quả hữu vi, vô vi

Đây có tám mươi chín

Đạo giải thoát cùng diệt.

Luận nói: Nói Sa-môn: Là có thể đoạn trừ vĩnh viễn các thứ quỷ quái của sinh tử đã sinh khởi nơi các cõi, nẻo. Hoặc có thể siêng năng, cố gắng đoạn dứt các lỗi lầm, khiến được tĩnh lặng vĩnh viễn nên gọi là Sa-môn. Như Đức Bạc-già-phạm đã tự giải thích: Vì có thể siêng năng khổ nhọc, đoạn trừ vô số thứ lỗi lầm tạp nhiễm của pháp ác bất thiện. Nói rộng cho đến, nên gọi là Sa-môn.

Sa-môn hiện có gọi là tánh của Sa-môn. Tánh này tức là pháp do Sa-môn đã huân tu. Huân là nghĩa loại trừ, các Hoặc sinh khởi xú uế. Tức dùng Thánh đạo vô lậu làm thể, không phải đạo thế tục. Vì có thể dứt bỏ làm tĩnh lặng hoàn toàn rốt ráo các lỗi lầm. Do đấy, hàng phàm phu tuy có thể đã đoạn trừ nhiễm nơi vô sở hữu xứ, nhưng không phải là chân Sa-môn. Vì các lỗi lầm hãy còn chưa hoàn toàn, chỉ tạm thời lặng dứt, không phải là rốt ráo.

Đã biết đạo vô lậu là tánh của Sa-môn, dùng chung hữu vi, vô vi làm quả, nên Thể của Sa-môn là chung cho hữu vi, vô vi. Về quả Sa-môn này, Đức Phật nói gồm có bốn loại. Nghĩa là đầu tiên là Dự lưu, sau là A-la-hán. Phẩm đạo loại trí đó là thể của quả Dự lưu hữu vi. Kiến đạo đoạn, pháp đoạn đó là thể của quả Dự lưu vô vi.

Phẩm đạo loại trí, hoặc phẩm đạo giải thoát vô lậu thứ sáu đã lìa cõi dục, đó gọi là thể của quả Nhất lai hữu vi. Kiến đạo đoạn, pháp đoạn và sáu phẩm đoạn trước trong các phẩm Hoặc hệ thuộc cõi dục do tu đạo đoạn, đó gọi là thể của quả Nhất lai vô vi.

Phẩm đạo loại trí, hoặc phẩm đạo giải thoát vô lậu thứ chín đã lìa cõi dục, đó gọi là thể của quả Bất hoàn hữu vi. Kiến đạo đoạn, pháp đoạn đoạn cõi dục do tu đạo đoạn, đó gọi là thể của quả Bất hoàn vô vi.

Phẩm tận trí, vô sinh trí, chánh kiến vô học, đó gọi là thể của quả A-la-hán hữu vi. Pháp đoạn, do kiến đạo, tu đạo đoạn nơi ba cõi, đó gọi là thể của quả A-la-hán vô vi.

Tuy nhiên, ở trong Khế kinh, Đức Bạc-già-phạm chỉ thuyết giảng về Thể của quả Sa-môn vô vi. Như nói: Thế nào gọi là quả Dự lưu? Nghĩa là đoạn trừ ba kiết v.v…. cho đến: Thế nào là quả A-lahán? Nghĩa là đã đoạn trừ vĩnh viễn tham, sân, si v.v…

Há không phải là quả Bất hoàn đã thừa nhận là đoạn trừ vĩnh viễn sân?

Đây cũng không trái với nghĩa đã giải thích riêng. Ý trong đây nói: Đoạn trừ sạch tất cả phiền não cấu, thì đoạn ấy gọi là vĩnh viễn đoạn trừ, không phải hãy còn chưa hoàn toàn. Phiền não cấu còn một ít đã được đoạn trừ rốt ráo, được mang tên là vĩnh viễn đoạn. Nhưng ở xứ khác nói là nhận biết khắp.

Thế nào gọi là vĩnh viễn đoạn trừ tham, cho đến nói rộng?

Ý trong đây nói: Nếu tất cả chủng và tất cả đoạn, tức gọi là vĩnh viễn đoạn trừ. Tất cả chủng, nghĩa là đoạn tự tánh và đoạn chủ thể duyên, tức gọi là đoạn trừ vĩnh viễn. Các pháp chỉ do kiến khổ đoạn, đoạn phần vị. Các pháp do kiến khổ đoạn, đã đoạn tự tánh, chưa đoạn chủ thể duyên. Pháp do kiến tập đoạn, đã đoạn chủ thể duyên, chưa đoạn tự tánh, không phải là đoạn trừ vĩnh viễn, nên chưa gọi là nhận biết khắp.

Nói tất cả: Nghĩa là trong mười một Hoặc do kiến diệt đoạn v.v…, tùy theo một bộ đã đoạn trừ vĩnh viễn. Do đấy đủ hiển bày có chín thứ nhận biết khắp và chứng tỏ phàm phu đoạn trừ, không phải thuộc về nhận biết khắp.

Phái Thí dụ nêu bày: Thể của quả Sa-môn chỉ là vô vi. Do giáo lý. Về giáo như trước đã nói. Nay sẽ biện về lý.

Do các hữu vi là pháp có thể hoại, nên thể của quả Sa-môn là không thể tin nhận. Chỉ vô vi là đáng tin nhận.

Lại, giáo thì không đúng, căn cứ theo trước đã giải thích. Nghĩa là ở trước xứ xứ đã tạo ra giải thích này: Không phải phái Thí dụ kia đã dẫn kinh có ý khác để có thể chứng thành diệu lý của thắng nghĩa. Khế kinh tuy nói thể của quả Dự lưu, nghĩa là đoạn trừ ba kiết, nhưng không nói, chỉ như hiện pháp lạc trụ trong tu bốn định.

Định nghĩa là kinh nói đây là tĩnh lự thứ nhất. Nhưng thật sự định này về lý là cũng chung cho các định khác. Nên không nói, tức chỉ làm rõ là có ý riêng. Kinh này cũng như vậy, không nên cố chấp.

Nếu cho có kinh khác nói về hiện pháp lạc trụ là chung nơi bốn tĩnh lự, thì điều này không phải vậy, vì về lý cũng không đúng, do so với kinh kia là đồng. Nghĩa là kinh khác nêu sáu pháp được đoạn trừ vĩnh viễn, gọi là Dự lưu, há chỉ là ba kiết?

Lại người Dự lưu, lý thật cũng nên có biên chấp kiến và tham v.v…

Đoạn những thứ này, không phải là Dự lưu, vì không có nhân chứng riêng. Do đấy, thuyết kia đã nói không khiến sinh hoan hỷ, nên không phải do đã dẫn Khế kinh này chứng minh chỉ vô vi là thể của quả Sa-môn, vì về lý cũng phi lý. Nếu không có trí điên đảo thì đối chiếu với pháp vô vi là rất đáng tin nhận. Nghĩa là người hành quán, trí như thật sinh, có thể tự nhận biết rõ: Nẻo sinh tử của ta đã hết v.v… Tuy là pháp có thể hoại, nhưng rất đáng tin nhận, vì khả năng hiển bày nghĩa không điên đảo.

Do đấy, nhất định nhận biết bốn quả Sa-môn, Thể của chúng gồm thâu chung cả hữu vi, vô vi.

Lại có Chí giáo chứng minh quả Sa-môn cũng chung nơi hữu vi. Như Khế kinh thuyết giảng: Căn đến bờ bên kia làm duyên hiển bày rõ về quả đến bờ bên kia. Quả đến bờ bên kia làm duyên hiển bày rõ về Bổ-đặc-già-la cũng đến bờ bên kia. Chỉ dựa nơi pháp hữu vi để lập Bổ-đặc-già-la. Bổ-đặc-già-la do quả hiển bày rõ. Nên biết thể của quả cũng chung nơi hữu vi. Nhưng tông Thí dụ, về lý là rất không đáng nương dựa. Dùng vô vi lập Bổ-đặc-già-la, vì phái Thí dụ kia chấp vô vi là không có Thể. Không nên lấy pháp không Thể để lập giả kia là nhân. Nghĩa là phái Thí dụ kia chấp vô vi chỉ không chuyển làm tướng, nên không thể nương dựa để lập Bổ-đặc-già-la.

Nếu cho chỉ dựa vào đắc kia để kiến lập, vì đắc là đạo, nên tất là hữu vi. Do đấy, nên biết dựa nơi hướng đến đạo của quả, để kiến lập tám loại Bổ-đặc-già-la. Bổ-đặc-già-la đã dựa vào đạo để lập, thì thể của đạo là chung cho hướng, quả, quả há chỉ là vô vi?

Lại, nếu như khó nhọc để cầu đắc, gọi là quả, thì đạo thuộc về quả vị, đã là đối tượng mong cầu, vì sao có thể nói đạo kia không phải là quả? Làm sao nhận biết đạo cũng là đối tượng mong cầu?

Vì trong Khế kinh có Già tha nói:

Người trí ở nhà tĩnh

Dũng mãnh tư duy đế

Cầu tám giải, ba minh

Vì chứng mạn, trạo hết.

Lại, Khế kinh nói: Định của tâm vô tướng lấy giải làm quả. Thể của giải tức là tận trí, vô sinh trí. Định đã là Sa-môn, định này tức hiển bày về thành. A-tỳ-đạt-ma nói về thể của quả Sa-môn là chung cho hữu vi vô vi, lý giáo là hiển nhiên, không thể nghiêng động. Nhưng kinh chỉ nói quả là vô vi, do vô vi này chỉ là quả. Nghĩa là các trạch diệt chỉ là quả Sa-môn. Vì đạo thì chung nơi Sa-môn, nên lược không nêu. Hoặc vì pháp vô vi là quả, không phải là có quả. Vì đạo là chung nơi hai thứ, nên lược không nói. Hoặc pháp vô vi lìa lỗi của hữu vi, vì khiến ưa thích, thế nên nêu bày riêng. Hoặc ở đây chỉ nói về quả vô vi.

Kinh là ngôn thuyết hữu dư, không nên chấp chặt. Nghĩa là kinh này chỉ nói đoạn trừ ba kiết, không nói đoạn khắp các phiền não khác. Như Khế kinh nêu rõ: Tâm hồi chuyển nhanh chóng, tinh tấn, tức có khả năng chứng đắc Bồ-đề vô thượng.

Siêu việt tưởng đoạn thực, vượt qua các tưởng sắc, ẩn mất nơi tưởng có đối, không phải pháp khác là không đúng. Nên biết kinh này cũng lại như thế. Như do ý riêng, chỉ nói vô vi là quả Sa-môn. Cũng do ý riêng nên nói quả Sa-môn chỉ có bốn loại. Nếu bỏ ý riêng, luận trực tiếp về pháp tướng, tức quả Sa-môn có tám mươi chín thứ, đều là đạo giải thoát, lấy trạch diệt làm tánh. Nghĩa là vì đoạn trừ vĩnh viễn phiền não của ba cõi, có tám mươi chín đạo vô gián khởi. Thuộc về kiến đạo số ấy có tám. Pháp loại trí nhẫn đều có bốn. Thuộc về tu đạo có tám mươi mốt, vì nơi chín địa, mỗi địa có chín đạo vô gián. Tám mươi chín loại này chỉ là tánh Sa-môn. Tánh Sa-môn này là vô gián đã sinh. Tám mươi chín đạo giải thoát cũng là quả Sa-môn hữu vi, vì là quả đẳng lưu, sĩ dụng của hữu vi kia, tức các Hoặc được đoạn là do vô gián đoạn trừ.

Tám mươi chín các trạch diệt, chỉ là quả Sa-môn vô vi, là quả ly hệ, sĩ dụng của vô vi kia, nên quả Sa-môn ấy có khả năng đoạn trừ chướng đắc của đắc này.

Há không phải là tánh Sa-môn cũng gồm thâu đạo giải thoát? Các đạo vô gián cũng là quả đẳng lưu, sĩ dụng của đạo giải thoát kia, nên đạo vô gián cũng là thuộc về quả Sa-môn hữu vi. Không phải như vậy. Lại, không phải các đạo vô gián tất cả đều là quả của đạo giải thoát. Tuy có là như thế, nhưng chỉ có thể nói: Sức của đạo vô gián khiến đạo giải thoát khởi. Sức của đạo vô gián kia có thể đoạn trừ việc dấy khởi chướng này. Vì đạo vô gián kia nên đạo giải thoát này tất sinh, không phải sức của đạo giải thoát đã dẫn đạo vô gián khởi, vì đạo này không có khả năng đoạn trừ việc dấy khởi chướng kia, nên không phải vô gián này tất sinh do đạo giải thoát kia. Nghĩa là tuy cũng có vô gián mà sinh, nhưng không đều như thế và không phải do sức này. Nghĩa là có thời gian khác, sức của gia hạnh khác đã dẫn khởi. Hoặc vì có rốt cùng thì không còn sinh, nên không có lỗi giống nhau.

Vì sao Khế kinh nói quả Sa-môn không phải là tám mươi chín, chỉ nói có bốn? Há không phải là đã nói kinh có ý riêng?

Có ý riêng gì?

Lại có giải thích nói: Chỉ trong bốn phần vị thì các người hành quán mới quán xét rõ ràng, hoan hỷ vì tuệ giác sinh. Nghĩa là chỉ bốn phần vị là rất đáng tin cậy, không phải thứ khác. Nếu như có thoái mất, thì chưa đến chết đã trở lại đạt được.

Có Sư khác cho: Chỉ bốn phần vị này, như thứ lớp có thể vượt qua nẻo ác. Người hành quán kia nhân nơi nẻo người trời sinh đã hiện rõ. Chỉ do thế mạnh như tham v.v… của phẩm trung thượng khiến đi đến nẻo ác sinh, không phải là phẩm hạ.

Hoặc có bản hữu có hai. Nghĩa là cõi dục, Hữu đảnh. Hai lần vượt qua Hữu đảnh. Hai lần vượt qua cõi dục. Nên chỉ lập bốn thứ làm quả Sa-môn.

Hoặc các phiền não, gồm có hai loại: (1) Vô ký. (2) Bất thiện.

Đầu tiên, vượt qua hai thứ. Sau vượt qua vô ký. Nhất lai, Bất hoàn chỉ vượt qua bất thiện. Do ác khó vượt qua, nên chỉ lập bốn.

Có Sư khác nêu: Không phải Đức Bạc-già-phạm đối với tám mươi chín thứ không hiện chứng biết, nhưng chỉ thuyết giảng bốn quả Sa-môn.

Tụng nêu:

Năm nhân lập bốn quả

Xả từng được đạo thắng

Tập đoạn được tám trí

Tu ngay mười sáu hành.

Luận nói: Nếu nơi phần vị đạo đoạn, đầy đủ năm nhân, thì Đức Phật ở trong kinh kiến lập đạo kia đoạn. Và cùng với thời đoạn đắc mà sinh đạo giải thoát tịnh làm quả Sa-môn.

Nói năm nhân: (1) Xả đạo từng được: Nghĩa là xả quả đắc trước là hướng đạo. (2) Được đạo thắng: Nghĩa là đắc quả gồm thâu đạo thù thắng. (3) Tập đoạn chung: Nghĩa là một quả đắc thì đắc chung các pháp đã đắc đoạn từ trước đến nay. (4) Được tám trí: Nghĩa là trong một thời đã được chung bốn pháp trí, bốn loại trí. (5) Có thể tu tức khắc mười sáu hành tướng: Nghĩa là có thể tu tức khắc các hành tướng như vô thường v.v…

Trụ nơi bốn quả vị đều gồm đủ năm nhân. Vị khác thì không như vậy, nên chỉ nói bốn.

Nếu chỉ đạo tịnh là tánh Sa-môn, thì sức của đạo hữu lậu đã được hai quả, vì sao cũng là thuộc về quả Sa-môn? Tụng nêu:

Đạo thế đã đắc đoạn

Vì Thánh sở đắc tạp

Đắc vô lậu nắm giữ

Cũng gọi quả Sa-môn.

Luận nói: Lại như đạo vô lậu đã đắc trạch diệt, thuộc về quả Sa-môn, lý đó cực thành. Khi đắc hai quả, các đạo thế tục đã được trạch diệt, số của thể là rất ít so với nhiều Thánh đạo đã được trạch diệt. Gồm chung một đắc, đắc cùng thành một quả. Thế nên ở đây, lấy ít theo nhiều, đều cùng nêu bày gọi là thể của quả Sa-môn. Nghĩa là khi đạo thế tục được hai quả, quả này không phải chỉ dùng đạo thế tục mà được trạch diệt, làm tánh của quả đoạn mà gồm dùng kiến đạo đã đắc trạch diệt, trong đó cùng xen tạp, thành chung một quả, đồng một đạo quả đắc nơi đối tượng đắc. Do Khế kinh này nói: Thế nào là quả Nhất lai? Nghĩa là đoạn trừ ba kiết cùng làm mỏng tham, sân, si.

Thế nào là quả Bất hoàn? Nghĩa là đạo thế tục đã đoạn năm kiết phần dưới được trạch diệt cùng với đạo vô lậu đã được xen tạp. Do ít theo nhiều, nên gọi là quả Sa-môn. Lại, đạo thế tục đã được trạch diệt, vô lậu đoạn đắc nơi đối tượng nhận giữ. Do sức này đã gìn giữ khiến thoái chuyển, không mạng chung, vì vô lậu đoạn đắc đã ấn chứng nơi đối tượng ấn, nên cũng được gọi là thể của quả Sa-môn, như vật của người cũ, ấn của vua đã ấn chứng, không còn gọi là vật có thể tích tập. Ở đây cũng nên như vậy, nên cũng được gọi là quả Sa-môn.

Có Sư khác nói: Diệt này nên là định kim cang dụ, là quả Samôn đích thực, nên cũng được lập danh xưng quả Sa-môn. Diệt này tuy không phải là quả ly hệ kia, là quả sĩ dụng kia, nên gọi là quả Sa-môn cũng không có lỗi.

Có Sư khác lại cho: Do vô vi này, nhân nơi sức tăng thượng của tánh Sa-môn mà được, vì thế cũng nên gọi là quả Sa-môn. Do đạo thế tục khi đoạn trừ phiền não, cũng là tánh Sa-môn của tu đạo đối trị phiền não kia.

Trong đây, Thượng tọa nói như thế này: Về lý tất nên không có người đã kiến đế, có nghĩa dùng đạo thế tục để đoạn trừ phiền não. Do đạo kia có khả năng kiến tất cả cảnh của hữu, đều như ngọn lửa nơi thỏi sắt nóng cháy dữ dội. Nên thừa nhận đạo thế tục quán pháp của địa trên, khởi các hành như tĩnh, diệu v.v… thích nhận biết rõ. Do các Thánh này, lý tất không hợp, do có gồm thâu pháp theo nẻo xuất ly các hữu.

Có Sư khác lại nêu: Như có người thiếu niên vì ham vui nên tự trang nghiêm thân, tham đắm dục, ưa thích tịnh. Cổ của kẻ kia bị trói buộc do chó, rắn, tử thi người sình trướng, rữa nát, sâu trùng đang rút rỉa, xú uế khó chịu, sinh khởi xấu hổ sâu xa, nhàm chán ghét bỏ vây buộc tâm.

Nếu chúng Thánh chưa nhàm chán ghét bỏ các hữu, mà nói các tưởng như duyên hữu, tĩnh v.v… sinh, tức những điều đã nói như thế, không khiến sinh vui mừng, nên Thánh đối với hữu, như định vô tưởng, đây không phải là lỗi đích thật. Vì sao? Vì như Thượng tọa kia làm sao thừa nhận các Thánh giả thấy cảnh của các hữu như thỏi sắt nóng. Tức ở trong cảnh của hữu, đã đoạn dứt điên đảo về lạc. Nhưng đối với hành hữu lậu, thì sinh đây là nhận biết rõ về lạc, vì dục sinh lạc, vì mong cầu duyên của lạc.

Lại, vì sao Thượng tọa kia thừa nhận các Thánh giả nhàm chán cảnh của các hữu, chán bỏ kịch liệt ba tử thi? Ở trong cảnh của hữu đã đoạn trừ điên đảo về tịnh, nhưng đối với hành hữu lậu, thì sinh khởi đây là tưởng tịnh. Ở nơi xứ rất xú uế, như thi thể của người nữ đầy phân bùn rữa nát, vì ưa quen gần. Do đấy, vấn nạn kia không phải là lỗi lầm chân thật.

Nếu cho Thánh giả mong cầu duyên của các lạc, thì lúc quen gần với người nữ do mất chánh niệm, nhưng ở nơi phần vị đoạn trừ Hoặc thì chánh niệm hiện tiền, do vậy không nên dẫn dụ kia để so sánh.

Luận giải này cũng phi lý, vì trái với điều đã nói. Nghĩa là thuyết kia đã nêu là trái với ngôn thuyết như thế. Thánh như đã thấy là không có hành dị biệt. Lại, các Thánh giả an trụ nơi chánh niệm, tuy thấy rõ các hành, Thể của chúng đều là khổ, nhưng ở trong ấy cũng sinh nhận biết về lạc. Như Khế kinh nói: Khi thọ nhận lạc thọ thì nhận biết rõ như thật là thọ nhận lạc thọ.

Nếu cho Thánh giả chỉ tạm thời nhận biết về lạc, thì đối với pháp khác cũng nên như thế. Ở nơi cảnh của địa trên, cũng tạm thời quán là tĩnh v.v… Không phải Thánh quán hữu cũng như Niết-bàn, phát khởi tưởng hoàn toàn là tĩnh diệu ly, mà chỉ tư duy về một ít tướng như tĩnh v.v… của cảnh trên, chán lìa các pháp như thô động v.v… của địa dưới. Đức Thế Tôn cũng thuyết giảng: Dùng hữu xuất ly hữu. Như nói: Thánh giả dùng sắc xuất ly dục, dùng vô sắc xuất ly sắc. Nhưng e cho là không có khả năng xuất ly vô sắc, nên Đức Phật lại nói: Đối tượng tạo tác của các hữu, đối tượng tư duy của các hữu diệt, tức đều có thể xuất ly.

Lại, tông của tôi đã nêu rõ: Có các Thánh giả khi dùng đạo thế tục để lìa nhiễm của địa dưới, dùng định thế tục của địa trên làm đầu để quán xét, khởi các thứ nhận biết như tĩnh v.v… Không phải do sinh ở trên, đâu thể nêu vấn nạn nói: Vì sao Thánh giả ở nơi cảnh của các hữu khởi nhận biết như tĩnh v.v… Thánh giả đã nhàm chán về hữu sinh khởi đức phi hữu? Lại có Chí giáo để chứng minh các Thánh giả, ở trong định thế tục, khởi các thứ nhận biết như tĩnh v.v… Như Khế kinh đã nêu: Cụ thọ Xá-lợi-tử đã nhanh chóng đi đến khu rừng mù, nhập định diệt thọ tưởng. Từ định khởi xong, cất tiếng cao xướng: Niết-bàn diệt này là rất lạc, rất tĩnh. Nghĩa là Tôn giả kia ở nơi định diệt này đã nhận biết về lạc, tĩnh, liền đối với Niết-bàn khởi nhận biết là rất diệu lạc, rất tịch tĩnh. Nên từ định khởi cất tiếng cao xướng: Niết-bàn diệt này là rất lạc, rất tĩnh. Nghĩa là một ít diệt trong định diệt lưu chuyển, hãy còn có hai tướng lạc, tĩnh như thế, huống chi là trong Niết-bàn lưu chuyển gồm chung diệt. Hoặc tức định diệt giả nêu là Niết-bàn, vì phần lạc và tĩnh là giống nhau. Lại, Đức Phật cũng thuyết giảng: Định này là rất diệu. Nghĩa là Đức Bạc-già-phạm nêu bày về định diệt xong, lại nói: Diệt này vượt qua sáu khinh an, vì thể của định diệt có tánh diệu, có thể dùng so sánh chỗ hơn kém đối với pháp khác. Lại, tổn giảm dần như trong Khế kinh nói: Bốn thứ giải thoát tịch tĩnh như thế, vượt qua tất cả các thứ thuộc về sắc, vô sắc, ta nói Bí-sô, người tu định kia, từ định ấy khởi, tất nên xướng: Trong định như thế hết sức là tịch tĩnh. Cho nên không thể nói chỉ địa của xứ Hữu đảnh là định hữu lậu thiện tịch tĩnh, không phải là xứ khác.

Nếu cho không nên duyên tạm thời nơi tĩnh v.v…, khởi các tưởng như tĩnh v.v…, liền có thể đoạn trừ Hoặc, điều này cũng không đúng. Vì đối đãi với pháp của địa dưới thì địa trên liền là tĩnh lặng hoàn toàn. Nghĩa là tĩnh lự thứ nhất đối đãi với pháp của cõi dục, thì không có nghĩa hoặc tịch tĩnh hoặc không tịch tĩnh.

Há có thể nói: Nhàm chán pháp của cõi dục, quán tĩnh lự thứ nhất là lúc tĩnh v.v…, không phải là hoàn toàn, nên chướng ngại việc lìa nhiễm của cõi dục?

Lại, đã thấy có tâm thiện của tự địa, có thể tạm thời tư duy về các thứ bất tịnh của tự địa, tuy bị phiền não của tự địa trói buộc, nhưng cũng có khả năng khiến phiền não không khởi. Vì sao quán tai họa của địa dưới đã bức bách, quán địa trên vĩnh viễn thoát khỏi tai họa của địa dưới, không phải là đối tượng trói buộc của địa dưới? Định hơn hẳn hiện tiền nhưng không thể đoạn trừ Hoặc của địa dưới đã đắc, vì thế ông không nên không sinh hoan hỷ. Nhưng loại người ngu thì đối với trời Vô tưởng chấp làm xứ xuất ly cứu cánh chân thật, đối với định vô tưởng mới có thể phát khởi. Thánh giả đối với trời Vô tưởng không chấp cho là xứ xuất ly, nên Thánh giả không khởi định vô tưởng.

Lại, vì tưởng khác không thể khởi, do đấy thí dụ kia đối với chứng cứ là không có khả năng. Thế nên Thánh giả hữu học cực thành, vì đạo thế tục cũng có thể đoạn trừ Hoặc.

Có thuyết nói: Vì trong Khế kinh nói về bốn quả Sa-môn lần lượt mà đắc, nên biết các phàm phu không thật sự đoạn trừ Hoặc.

Nêu bày như thế là không hợp lý. Vì trong kinh kia đã căn cứ theo thứ lớp mật ý để nói. Do đấy, tức trong Khế kinh kia đã nêu: Lại có một loại hữu tình ở trong các hành, tư duy như lý, cho đến nói rộng.

Về lý tất nên như thế. Vì kinh khác đã nêu rõ: Người được bốn định, nhập kiến đế, nên không thể vừa gặp kinh thiếu kém nghĩa liền dấy khởi cố chấp, bác bỏ Thánh giáo khác. Do các Thánh giáo có nhiều sai biệt, vì không có trong một kinh gồm đủ nhiều nghĩa. Nghĩa là các Thánh giáo lược có hai loại: Đối với nghĩa có liễu nghĩa, có không liễu nghĩa. Lại, không có đối tượng đối đãi, có đối tượng đối đãi.

Lại nói về thế tục đế, thắng nghĩa đế.

Lại nêu tướng chung, nêu tướng riêng.

Lại tùy theo ý của mình, ý của người khác để nêu bày.

Lại thuộc về pháp tướng, thuộc về pháp giáo.

Các loại như thế v.v…, có vô lượng môn. Có trong Khế kinh tuy đã có thuyết giảng, nhưng không phải lìa thuyết khác thì nghĩa có thể hiển bày, hiểu rõ. Lại như kinh nói: Ở trong các hành, tư duy như lý, nghĩa cũng còn chưa hiểu rõ.

Những gì là hành?

Hành có nhiều thứ. Nghĩa là Khế kinh nêu rõ: Vô minh duyên hành.

Lại, Khế kinh nói: Hơi thở vào, hơi thở ra, tầm tứ, tưởng, tư, gọi là hành của thân v.v…

Lại, Khế kinh nêu: Dục v.v… gọi là hành, tức hành của tám đoạn. Lại, Khế kinh nêu bày: Các hành vô thường, tức là pháp hữu lậu.

Lại, Khế kinh nêu rõ: Tất cả hành vô thường. Ý của kinh này nói là tất cả pháp hữu vi.

Lại nói về thọ hành, đây tức là mạng căn.

Các hành như thế v.v… có vô lượng thứ. Ở nơi cảnh của các hành, tư duy như lý: Là hệ thuộc cõi dục hay là cõi sắc, cõi vô sắc? Là hệ thuộc ba cõi hay thuộc về vô lậu? Vì ở nơi phần vị của địa nào? Vì sao câu nói như lý này là hiển bày về gì? Vì sao sinh khởi? Vì sao gọi là thế tục? Lại duyên gì gọi là đệ nhất? Vì sao đối tượng duyên dùng tiếng hành để nêu bày? Ở trên chủ thể duyên, nói tiếng tác ý. Hay dùng danh xưng tư duy để nói về tác ý?

Các loại như thế đều có thể suy tìm, nêu hỏi. Tức trong Thánh giáo, tất nên có xứ giải thích đủ về danh xưng tự tánh của các pháp. Do Đức Bạc-già-phạm vì muốn tạo lợi ích cho hữu tình của đối tượng hóa độ, nên đã quán xứ, quán thời gian, quán căn tánh v.v… có vô số thứ sai biệt, tùy nơi ứng hợp, vì họ thuyết giảng từng ấy pháp môn. Không phải trong một kinh, thấy có thuyết đủ, nên lìa phần thuyết còn lại thì nghĩa khó hiển bày, hiểu rõ. Vì vậy không nên nói: Do trong Khế kinh nói về bốn quả Sa-môn lần lượt mà được, nên biết các phàm phu không thật sự đoạn trừ Hoặc.

Như thế là đã nêu rõ: Dựa nơi đạo thế tục đoạn, tu đạo đoạn, khi đắc hai quả, thì trạch diệt đã đạt được, gọi là quả Sa-môn. Nhưng quả Sa-môn là đáp lại tánh Sa-môn. Tánh Sa-môn này như trước đã nêu.

Tức ở đây lại có danh xưng sai biệt?

Cũng có. Vì sao? Tụng nêu:

Đã nói tánh Sa-môn

Cũng gọi Bà-la-môn

Cũng gọi là Phạm luân

Vì đã chuyển chân Phạm.

Trong đó chỉ kiến đạo

Được gọi là pháp luân

Do nhanh giống bánh xe

Hoặc đủ tay hoa xe.

Luận nói: Dựa nơi lý của thế tục, thì các Sa-môn khác với Bàla-môn. Như Khế kinh đã nêu rõ: Nên thí cho các Sa-môn, Bà-lamôn v.v… Dựa nơi lý của thắng nghĩa, thì các Sa-môn tức Bà-la-môn. Như Khế kinh đã nói: Sa-môn đầu tiên này cho đến thứ tư, ở ngoài chánh pháp không có Sa-môn và Bà-la-môn chân thật, cho đến nói rộng. Do có thể loại trừ pháp ác bất thiện, so với tướng siêng năng dừng dứt là rất giống nhau, nên thể của Sa-môn tức là Bà-la-môn. Như nói có thể loại trừ pháp ác bất thiện, nói rộng cho đến: Nên gọi là Bà-la-môn. Tức tánh Bà-la-môn cũng gọi là Phạm luân, là do sức của chân Phạm vương đã chuyển. Nên Phật cùng với Phạm đức vô thượng là tương ưng. Thế nên Đức Thế Tôn riêng nên gọi là Phạm. Do Khế kinh đã nêu: Phật cũng gọi là Phạm, cũng gọi là tịch tĩnh, cũng gọi là thanh lương. Là tịch mặc chan hòa như hư không, vắng lặng gọi là Phạm. Đức Phật đủ các đức này, nên lập danh xưng là Phạm. Đã tự giác ngộ, vì khiến người khác cùng giác ngộ, vì chuyển sự giác ngộ này trao cho những người kia, nên gọi là Phạm luân. Tức trong phạm luân chỉ dựa vào kiến đạo. Đức Thế Tôn có xứ nói là Pháp luân, vì chúng năm Bí-sô như A nhã đa Kiều Trần Na v.v… lúc kiến đạo sinh, thì thần địa không thiên, liền tuyên cáo truyền đi: Đức Thế Tôn đã chuyển pháp luân.

Vì sao kiến đạo gọi là pháp luân?

Vì hành v.v… nhanh chóng, giống như bánh xe của thế gian. Như bánh xe của Thánh vương xoay vần không ngừng nghỉ. Hành nhanh chóng, bỏ lấy, có thể điều phục các loại chưa điều phục, trấn áp các loại đã điều phục, trên dưới xoay chuyển. Vì kiến đạo cũng như thế, nên gọi là Pháp luân. Nghĩa là bánh xe của Thánh vương xoay vòng không dứt. Kiến đạo cũng như thế, vì không dừng ở giữa chừng. Như hành dụng nơi bánh xe của Thánh vương là rất nhanh chóng. Kiến đạo cũng như thế, vì đều là một niệm. Như bánh xe của Thánh vương, lấy trước, bỏ sau. Kiến đạo cũng như thế, bỏ các cảnh như khổ v.v…, nhận lấy tập v.v… Đây tức hiển bày về kiến bốn Thánh đế, tất không cùng thời. Như bánh xe của Thánh vương, hàng phục loại chưa điều phục, trấn áp loại đã điều phục. Kiến đạo cũng như thế, có thể kiến các thứ chưa kiến, có thể đoạn các loại chưa đoạn. Người đã do kiến đạo đoạn thì không có mê lầm, thoái chuyển. Như bánh xe của Thánh vương trên dưới cùng xoay chuyển. Kiến đạo cũng như thế, quán khổ v.v… của địa trên xong, quán khổ v.v… của địa dưới.

Do đấy, kiến đạo riêng gọi là Pháp luân. Tôn giả Diệu Âm nói như thế này: Như bánh xe của thế gian có tay hoa, bầu trục, vành bánh xe. Tám chi Thánh đạo giống như bánh xe kia, gọi là luân. Nghĩa là chánh kiến, chánh tư duy, chánh cần, chánh niệm, giống như tay hoa của bánh xe ở thế gian. Chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng giống như trục bánh xe. Chánh định thì giống như vành bánh xe, nên gọi là pháp luân. Bản ý của Sư Tỳ-bà-sa thì nói chung: Tất cả Thánh đạo đều gọi là Pháp luân, vì thuyết giảng về ba chuyển thuộc về ba đạo, nên đối với phần cùng nối tiếp của người khác, khi kiến đạo sinh, vì đã đến chuyển đầu tiên, nên gọi là đã chuyển. Nhưng chỉ kiến đạo là pháp luân đầu tiên, nên nói là pháp luân. Chỉ là các loại thiên thần của kiến đạo. Tức căn cứ vào lời nói chuyển pháp luân đầu tiên, không dựa vào hai đạo. Nhưng các Sư phần nhiều nói kiến đạo, gọi là pháp luân, vì thiên thần địa không chỉ dựa vào kiến đạo này để nói. Từng không có nói về ba đạo, đều gọi là pháp luân. Chỉ kiến đạo là gồm đủ nghĩa của luân đã nói ở trước. Tuy các kiến đạo đều gọi là pháp luân, nhưng trong thân của Kiều Trần Na đã chuyển trước, nên kinh nêu rõ: Khi Tôn giả kia sinh kiến đạo, gọi là chuyển pháp luân, không phải thời gian khác không chuyển. Khi Kiều Trần Na sinh kiến đạo v.v…, gọi là Đức Thế Tôn chuyển pháp luân. Nghĩa là ý nói rõ Bí-sô Kiều Trần Na v.v… kia được chuyển pháp luân. Vốn do Đức Thế Tôn nên dành cho Phật khiến người được hóa độ sinh tâm tôn trọng.

Như thế tức nói pháp luân của Đức Như Lai vì chuyển đến thân người khác, nên gọi là chuyển. Nếu khác với đây, thì thiên thần nên nói: Bên dưới cội cây Bồ-đề, Đức Phật chuyển pháp luân. Không nên xướng nêu: Đức Thế Tôn hiện nay đang ở tại nước Bà-la-nê-tư chuyển pháp luân vô thượng. Cho nên chuyển trao cho người khác trong đây gọi là chuyển.

Có thuyết nói: Giáo này gọi là pháp luân, chuyển đến thân người khác, khiến họ được hiểu nghĩa. Đây chỉ là phương tiện, không phải là chân pháp luân, vì như pháp tạp nhiễm khác, không có khả năng thù thắng.

Ở đây, xét chọn về bốn quả Sa-môn. Quả Sa-môn nào dựa nơi cõi nào đạt được? Tụng nêu:

Ba dựa dục ba sau

Do trên không kiến đạo

Vô gián, không duyên dưới

Không chán và vì kinh.

Luận nói: Ba quả trước chỉ dựa vào thân của cõi dục đạt được. Đắc quả A-la-hán thì dựa vào thân của ba cõi. Hai quả trước vì chưa lìa dục, nên không dựa vào cõi trên đạt được. Về lý lại có thể như thế.

Thứ ba vì sao không dựa vào cõi trên đạt được? Vì người đã lìa dục cũng có thể đạt được.

Do lý giáo. Lại lý là thế nào?

Tức dựa vào thân của cõi trên thì không có kiến đạo. Không phải lìa kiến đạo thì người đã lìa dục có thể có nghĩa vượt chứng quả Bất hoàn.

Do đâu thân của cõi trên tất không khởi kiến đạo?

Là vì dựa vào cõi vô sắc thì không có chấp nhận lắng nghe giáo pháp vô ngã. Lìa nghe giáo pháp này, tất định không cùng nhập kiến đạo. Lại, sinh nơi cõi vô sắc kia thì không duyên với cõi dưới, vì kiến đạo trước hết là duyên nơi khổ của cõi dục. Do đấy, vô sắc không phải là đối tượng nương dựa của kiến đạo. Dựa vào thân của cõi sắc thì không có nhàm chán vượt hơn, nên không phải lìa những nhàm chán vượt hơn là có thể nhập kiến đạo. Nghĩa là có các khổ thọ trong cõi dục, vì sinh ít vui, phần nhiều nhờ dựa vào sự khó nhọc, sinh trong hàng người trời, thọ lượng ngắn ngủi, thiếu của cải, nhiều bệnh, bạn thân trái lìa. Cảnh trái nghịch đã nhiều, tâm nhàm chán tăng hơn. Nếu sinh nơi cõi sắc thì so với đây là trái nhau. Nghĩa là phàm phu kia tham đắm nơi lạc của định thù thắng, sống lâu, không bệnh, không nghèo, không lìa. Cảnh trái nghịch đã không, nên tâm nhàm chán yếu kém. Không phải nhàm chán yếu kém mà có thể nhập kiến đạo, vì khả năng dẫn dắt kiến đạo, do nhàm chán hơn hẳn là không có, nên dựa vào thân của cõi sắc, thì không khởi kiến đạo. Không nên nói người nơi cõi sắc kia đều không có tâm nhàm chán, vì người sinh nơi cõi kia là hiện có nhàm chán. Như Khế kinh đã nói: Đại tiên chớ sợ! Vì ngọn lửa kia tất không đến gần cõi này. Về lý thiêu đốt phạm cung xong thì ở nơi cõi sắc kia sẽ diệt. Tiếng sợ trong đây là chỉ cho Thể của nhàm chán. Lại, ở xứ khác có Già tha nói:

Nghe có trời Trường thọ

Đủ sắc diệu khiến khen

Nhưng tâm mang sợ chán

Như nai đối sư tử.

Câu nói sợ nhàm chán này đã làm rõ sợ tức chán, tức nói đối với xứ kia, làm rõ về nghĩa này, vì nhàm chán đã vây buộc, nên tâm ở nơi nhàm chán. Như Khế kinh đã nói: Vì chấp trước đã vây buộc nên tâm ở nơi chấp trước. Ở đây cũng như thế. Trước chưa hiểu rõ về tướng, vì nhàm chán đã vây buộc, nên tâm kia đã bị nhàm chán theo đấy trói buộc. Sau đã hiểu rõ về tướng, tuy ở trong nhàm chán, nhưng không bị nhàm chán theo đấy trói buộc. Đó gọi là nghĩa riêng của chán sợ ở đây. Thật ra thì tướng sợ so với chán là có sai biệt. Nghĩa là nhìn kỹ tướng kia, sợ bị suy tổn, tâm sinh khiếp hãi, nên gọi là sợ. Nếu xem tướng kia, tâm không vui thích mong muốn, tình vui thích đã từ bỏ, nên gọi là chán.

Cõi dục đủ cả hai, cõi trên chỉ có một. Lại, thể của hai thứ này có sai biệt như thế nào?

Không quán xét kỹ làm trước, tâm kinh hãi, dao động, gọi là sợ. Nếu quán xét kỹ làm trước, tâm không ưa thích, gọi là chán. Hoặc dẫn đến ngu si, khiến tâm khiếp sợ, gọi là sợ. Nếu dẫn đến từ bỏ, khiến tâm dứt bỏ, gọi là chán.

Có Sư khác cho: E bị suy tổn, tâm muốn buông bỏ, đó gọi là sợ. Vì muốn buông bỏ, nên ở trong cảnh kia, tâm không sinh vui thích, đó gọi là chán. Nay quán xét kinh này đã nói về sợ: Là nghĩa sợ tự hại, bị tổn hoại. Thế gian cũng thấy có lời nói như thế này: Chỉ ném đồ đựng đến, đừng sợ nó bể. Do lý này nên chứng biết cõi trên không có kiến đạo.

Giáo lại là thế nào? Do Khế kinh đã nêu rõ. Kinh nói có năm Bổ-đặc-già-la, ở xứ này thông đạt, ở xứ kia được cứu cánh. Đó gọi là Trung bát cho đến Thượng lưu. Ở đây nói thông đạt là chỉ nói về kiến đạo, là chứng viên tịch, theo phương tiện đầu tiên. Kinh đã không nói ở nơi xứ kia thông đạt, nên biết nơi cõi trên kiến đạo nhất định không có.

Đã nói về quả Dự lưu v.v… của vị hữu học có nhiều sai biệt. Vì A-la-hán cũng có nhiều thứ tướng sai biệt chăng?

Cũng có. Vì sao? Tụng nêu:

A-la-hán có sáu

Là Thoái đến Bất động

Năm trước Tín giải sinh

Gọi chung Thời giải thoát

Sau Bất thời giải thoát

Đây từ Kiến chí sinh.

Luận nói: Ở trong Khế kinh nêu bày về A-la-hán, do chủng tánh khác nhau, nên có sáu thứ: (1) Pháp Thoái. (2) Pháp Tư. (3) Pháp Hộ. (4) Pháp An trụ. (5) Pháp Gắng đạt. (6) Pháp Bất động.

Tuy nhiên nơi kinh khác thì nói: Vô học có chín. Nghĩa là đầu tiên là pháp thoái, sau là câu giải thoát. Pháp bất thoái nói ở nơi kinh kia là thuộc về bất động trong kinh này. Hai giải thoát ở nơi kinh kia là chung cho sáu thứ nơi kinh này. Nên A-tỳ-đạt-ma chỉ nói có sáu thứ.

Nói pháp Thoái: Nghĩa là A-la-hán kia đạt được loại căn như thế, an trụ nơi căn này, cùng với duyên thoái chuyển kết hợp liền thoái chuyển pháp đã đắc. Không có duyên thoái chuyển liền bát Niết-bàn.

Hoặc có người tinh tấn siêng năng đạt được tánh vượt hơn, là nói khi người ấy tu tập chủng tánh này. Nghĩa là có một loại hữu tình do sức của duyên khác, mới đối với Phật pháp chí thành quy hướng. Người kia rất ít khi nhận lấy phần ít tướng, liền nhân nơi sức của Xama-tha nhanh chóng tiến tới, đã giữ gìn ánh sáng của tuệ, nhập địa vô học. Ở nơi địa vô học hướng nhập trong tướng. Người kia trước đó đã không thể xét kỹ để nhận lấy, nên không có hành luôn luôn tôn trọng, tin ưa nơi chỉ vắng lặng trái bỏ quán thù thắng, cùng tùy thuận với tướng của pháp thoái, nên luôn mất chánh niệm, xa cách đạo khí, các đức thù thắng đã đạt được cùng thường thoái mất. Như đối với Thánh giáo tập tụng cứu cánh. Do gặp phải các duyên như tán loạn, bệnh tật, phóng dật v.v…, đối với văn tập tụng, không thể ghi nhớ, gọi là thoái mất những gì đã tập tụng từ trước.

Do thí dụ này, nên biết là pháp Thoái.

Nói pháp Tư: Nghĩa là có hữu tình đạt được loại căn như thế, an trụ nơi căn này, có thể đối với các dục khởi rất nhiều nhàm chán ghét bỏ. Do chán ghét này nên khởi tư duy tự hại. Hoặc loại căn này tuy tánh tối độn, nhưng do sức của nhiều duyên đã tập thành. Ở trong gia hạnh sức của niệm đã kiên cố, phần nhiều trụ ở quán nhàm chán, ít có tình vui thích, luôn khởi suy nghĩ: Chớ nên gặp phải bệnh tật v.v…, liền đối với chánh niệm có chỗ quên mất. Ở trong gia hạnh, dẫn đến chậm cháp. Do gia hạnh chậm trễ, khiến tự thân có thoái mất.

Do trù tính, lo lắng này, nên khởi tư duy tự hại. Hoặc do nhiều gian khổ mới đạt đến quả vị thù thắng, quán các thứ của cải vật báu đã theo đuổi tìm cầu, tích trữ, giữ gìn, thọ dụng. Những khi ăn vào hay bỏ đi thảy đều dẫn sinh vô số khổ não. Người kia quán xét kỹ xong, do duyên khổ ấy, nên thân mạng tuy còn, nhưng đều không có thắng dụng.

Lại quán thân khí là chiếc xe chở đầy phân uế, tránh chỗ hiểm nguy, theo chốn an toàn, nên thâu giữ nuôi dưỡng thân thật là vô ích. Cũng như nơi lao ngục, nơi gò mả có tử thi cấu uế. Yêu thích thân này, há gọi là người trí?

Do quán giải này nên khởi tư duy tự hại.

Lại có Sư khác luận giải như thế này: Loại hữu tình kia theo pháp như thế, bẩm thọ chủng tánh này, không đoái nghĩ đến thân mạng, chỉ dốc cầu giải thoát, cầm dao tự nghĩ dùng để khích lệ tâm.

Như nói lấy dao ấn vào cổ mình. Do gắng sức ấy, nên tâm mình được giải thoát. Loại này gọi là chủng tánh của pháp Tư.

Nói pháp Hộ: Nghĩa là có một loại hữu tình luôn ở trong các thời tâm yêu mến giải thoát, buộc niệm hiện tiền, chuyên tinh phòng hộ. Hành giả kia khởi suy niệm: Như ta là chưa thể tu tập luyện căn đạt đến pháp an trụ, chỉ ở trong thời gian này, tâm yêu mến giải thoát, có thể không phóng dật, tinh tấn, siêng năng phòng hộ.

Chủng loại như thế gọi là pháp Hộ.

Pháp An trụ: Nghĩa là lìa duyên thoái chuyển hơn hết, tuy không tự phòng hộ, nhưng cũng có thể không thoái chuyển. Lìa bỏ gia hạnh thù thắng, cũng không luyện căn, phần nhiều ở trong trụ xứ, nên gọi là an trụ.

Có Sư khác cho: Đức đã đạt được của hành giả kia không phải là kém, không phải là hơn, nên gọi là an trụ.

Pháp Gắng đạt: Nghĩa là tánh gắng sức có thể ưa tu luyện căn, mau chóng đạt đến Bất động.

Có Sư khác nêu: Tánh của hành giả kia có thể đạt được tất cả công đức, nên gọi là gắng đạt, nhưng không phải là pháp khí của tất cả công đức.

Pháp Bất động: Nghĩa là có một loại hữu tình căn tánh thù thắng đối với hành đạt được tự tại, ở trong sự việc đoạn trừ phiền não và tùy phiền não đã được trí phương tiện, không bị tất cả các thứ tùy thuận pháp thoái chuyển làm khuynh động. Gồm đủ vô sinh trí, tánh không khiếp nhược, đạt được trụ xứ an ổn bậc nhất. Sức của nội phần là mạnh mẽ, thuộc về hành quán hơn hẳn. Đối với tất cả nghĩa luôn ân cần quý trọng lý giải. Đã có thể khéo nhận lấy tướng của địa lậu tận, vì không bảo hộ đối tượng chứng đắc, nên gọi là Bất động.

Có Sư khác lại giải thích: Sáu tướng khác này, nghĩa là sáu thứ tánh. Trong quả vị vô học thì hai thứ đầu là thiếu thời gian liên tục và tôn trọng gia hạnh. Nhưng đến pháp Tư vô học thì ít siêng năng. Pháp Hộ thì chỉ có luôn thời gia hạnh. Pháp An trụ chỉ có tôn trọng gia hạnh. Pháp Gắng đạt gồm đủ hai thứ nhưng là độn căn. Pháp Bất động gồm đủ cả hai mà là lợi căn.

Có thuyết nêu bày thế này: Pháp Thoái tất thoái, cho đến pháp Gắng đạt tất đạt đến Bất động. Nếu không như thế thì việc đặt tên hóa ra vô ích.

Thuyết kia cho cõi dục đầy đủ có sáu. Trong cõi sắc, vô sắc, chỉ có pháp An trụ và Bất động. Do hai cõi này không có thoái mất, không có tự hại, tự phòng hộ và tu luyện căn, nên chỉ có hai. Về lý thật thì không nhất định. Nhưng thoái chuyển quả ứng (quả A-lahán) chỉ từ trước đến nay là thuộc về chủng tánh thoái chuyển nên thoái. Cho đến đạt được bất động thì chỉ gắng đạt là có khả năng v.v…

Lập danh xưng như thoái v.v… là căn cứ theo chấp nhận có để nói. Nên sáu loại A-la-hán thì chung nơi ba cõi đều có. Trong sáu loại thì năm loại trước là từ Tín giải sinh. Tức năm loại này gọi là Thời ái tâm giải thoát, do nơi tất cả thời, tâm ái giải thoát, nên cũng gọi là Thời giải thoát. Nghĩa là Bổ-đặc-già-la chờ đợi thời gian, xứ sở, vật dụng hỗ trợ, hợp thời, mới đạt được giải thoát. Do công năng của đối tượng nương dựa là mỏng, kém, nên cần phải chờ đợi thời gian hơn hẳn thì mới giải thoát.

Hoặc lại tất cả định thù thắng hiện tiền, cần phải đợi thời gian thù thắng là nghĩa của thời này. Vì lìa trói buộc nên gọi là giải thoát. Đây tức là nghĩa chờ đợi thời và nghĩa giải thoát. Vì lược chữ đầu, nên như nói bình tô. Tánh của pháp Bất động gọi là sau. Tức ở đây gọi là Tâm bất động giải thoát. Vì tâm kia giải thoát, không bị Hoặc làm động, nên cũng gọi là Bất thời giải thoát, vì không chờ đợi thời gian để được giải thoát. Hoặc lại định thù thắng tùy xứ, tùy thời, tùy chỗ gặp duyên, tùy theo mong muốn liền khởi. Vì lìa trói buộc, nên gọi là giải thoát. Tức là nghĩa không chờ đợi thời gian và giải thoát.

Có Sư khác giải thích: Nói về hai loại sai biệt này, do ở nơi tạm thời đạt được giải thoát, nên gọi là Thời giải thoát. Về sau chấp nhận có thoái chuyển, nhưng do có thể đạt được giải thoát cứu cánh, nên gọi là Bất thời giải thoát. Về sau không có chấp nhận thoái chuyển. Đây là từ tánh kiến chí của vị hữu học sinh.

Như thế là đã nêu rõ về sáu loại A-la-hán theo chủng tánh hiện có. Chủng tánh này là trước đã có hay là sau mới đạt được?

Không nhất định. Vì sao? Tụng nêu:

Có trước là chủng tánh

Có sau luyện căn được.

Luận nói: Chủng tánh pháp thoái tất là trước có. Năm loại như pháp Tư v.v… cũng có loại sau mới đạt được. Nghĩa là có loại trước nay đã có là tánh của pháp Tư, cho đến Bất động. Có loại trước là pháp Thoái, do luyện căn thành tư. Đến Bất động v.v… thì có nhiều thứ sai biệt. Nên tư duy như lý.

HẾT – QUYỂN 67