LUẬN A TỲ ĐẠT MA THUẬN CHÁNH LÝ
Tác giả: Tôn giả Chúng Hiền
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 58

Phẩm thứ 6: BIỆN VỀ HIỀN THÁNH, phần 2

Trong đây, bộ khác có nói như thế này: Nhất định không có lạc thọ thật mà chỉ là khổ.

Vì sao nhận biết như vậy? Là do lý, giáo. Do những lý nào mà khổ sau tăng?

Nghĩa là đối với tất cả sự nghiệp đã tạo tác và trong oai nghi, nếu hành tập, trụ lâu, đều ở nơi phần vị sau tăng trưởng, có thể đạt được. Về lý tất không có hành tập, trụ nơi nhân lạc, khiến cho trong thời gian sau khổ dần dần tăng thịnh. Nên biết nhất định không có lạc thọ thật.

Lại, ở nơi sinh tử có hành động tạo tác. Nghĩa là có hành động tạo tác là pháp sinh tử. Thân có những sự việc như tắm gội, ăn uống. Tâm có các nghiệp như đối với cảnh phân biệt rõ v.v…. Sự nghiệp luôn đeo đuổi, bức bách, từng không an ổn, nên trong sinh tử không gì không là khổ. Lại do khổ vi tế ẩn giấu nơi lạc vượt hơn. Nghĩa là một ít khổ do các thứ muỗi, mòng chích đốt v.v… đã sinh khổ vi tế nơi phần vị hiện ở trước, sức có thể phá trừ nhân của lạc rộng lớn. Tức như tắm gội, thoa hương, ăn uống, ngủ nghỉ v.v…, đã sinh lạc vượt hơn, khiến không hiện tiền, nên uẩn hữu lậu chỉ là tánh khổ. Lại, trong pháp đối trị bức khổ nặng, vì kẻ ngu đã khởi tăng thượng mạn về lạc. Nghĩa là nếu khi chưa gặp các thứ khổ như đói khát, lạnh nóng, mệt mỏi, mong muốn v.v… bức bách, ở trong chủ thể đối trị, không sinh nhận biết rõ về lạc. Thế nên nhận biết về lạc do đối trị khổ sinh. Vì không phải duyên nơi lạc sinh, nên không có lạc thật.

Lại, ở trong phần vị các khổ thay đổi thoát khỏi nhận biết về lạc của hữu tình thế gian sinh. Dựa nơi nghĩa như thế, nên có tụng nêu:

Như gánh nặng đổi vai

Cùng mệt nhọc nghỉ ngơi

Thế gian do khổ này

Thoát khổ kia cũng thế.

Loại người ngu tối ở trong những thứ đắng cay, có nhận biết về lạc sinh, nên thật sự không có lạc.

Do những giáo nào?

Như Đức Thế Tôn nói: Các thọ hiện có đều là khổ. Lại, Khế kinh nêu rõ: Lúc sinh này là khổ sinh. Lúc diệt này là khổ diệt.

Lại, Khế kinh nói: Đối với khổ cho là lạc, gọi là tưởng điên đảo v.v….

Lại, Khế kinh nói: Ông nên dùng khổ để quán về lạc thọ.

Ở đây, các sư Đối pháp của tông khác đều tạo ra thuyết này: Nhất định có lạc thật.

Vì sao nhận biết như thế?

Do nhân sinh của khổ lạc có công năng riêng biệt, thể thật có khác, cũng như tham, sân. Hiện thấy nhân sinh của tham, sân đều riêng. Nhân riêng sinh xong, công năng lại khác. Vì nhân có thể khác, nên thể riêng là cực thành. Nhân sinh của khổ lạc cũng đã có riêng khác. Thế gian hiện thấy đại chủng cùng trái nhau liền có khổ sinh. Điều hòa thì sinh lạc. Nhân riêng sinh xong, công năng cũng khác. Khổ có thể làm tổn hại. Lạc có thể gồm thâu lợi ích. Vì công năng của nhân sinh, thấy có riêng khác, nên nhất định nhận biết ngoài khổ, thật có Thể của lạc.

Ở đây, Thượng tọa cũng nói thế này: Tuy hiện tại không phải là không có phần vị thâu nhận lợi ích, nhưng đối với loại khổ, chưa thể vượt qua, do pháp hữu lậu chỉ là nhân của khổ, nên trong sinh tử thọ chỉ là khổ.

Giải thích này cũng phi lý. Vì sao? Vì lời nói trái nhau, vì chỉ lập tông, vì trở thành phi ái, vì không cực thành.

Lời nói trái nhau. Nghĩa là nếu không phải là không có phần vị gồm thâu lợi ích, thì không nên nói chỉ là khổ. Nếu nói chỉ là khổ, thì không nên nói gồm thâu lợi ích. Về lý chỉ nên nói: Phần vị của khổ thọ là phẩm hạ, có ít tổn hại, không cùng gồm thâu lợi ích.

Chỉ lập tông: Nghĩa là Thượng tọa kia chỉ nói là chưa vượt qua loại khổ xong, không nói về nhân. Lấy gì chứng biết phần vị thâu nhận lợi ích, đối với loại khổ thọ chưa vượt qua được?

Trở thành phi ái: Nghĩa là trong tông kia, chấp tín cùng với tham, không vượt qua loại tư, tức là thể của hai thứ kia nên thành một. Hai phẩm nhiễm tịnh lại cùng xen tạp, thì giải thoát tức nên không, thành không phải là lỗi của ái. Nhiễm tịnh kia đã không xen tạp, thì giải thoát này cũng nên như thế. Loại thọ tuy đồng, nhưng khổ lạc có khác.

Không cực thành: Nghĩa là trong sinh tử lạc thọ nhất định đều cực thành. Thế thì hữu lậu cũng là nhân của lạc, do tông của tôi thừa nhận có lạc thọ. Vì sao có thể nói các pháp hữu lậu chỉ là nhân của khổ. Nên chứng biết lạc là khổ? Do đó điều Thượng tọa kia đã nói là chỉ có ngôn từ không có nghĩa.

Lại nên quyết định có lạc thọ thật khác với khổ thọ. Vì khổ cùng với lạc, có tướng ái, phi ái khác biệt. Nếu cho lạc thọ là tánh đáng yêu không thành, vì khi lìa nhiễm, lại thành phi ái, thì giải thích này cũng phi lý. Vì vào lúc lìa nhiễm, do môn khác quán là phi ái. Không phải người hành quán, quán xét biên của tánh lạc, dùng làm phi ái, chỉ dùng tướng khác để nhàm chán lạc thọ (Như phần sau sẽ nêu).

Lại, lìa ngoài khổ, thật sự có lạc thọ. Vì trong Khế kinh, Đức Phật đã nói là có. Như Khế kinh nêu rõ: Thọ có ba thứ, nghĩa là lạc và khổ cùng không khổ không lạc. Tự tánh của khổ thọ thật sự đều là khổ, thì Đức Phật thuyết giảng ba thọ có thắng lợi nào? Nếu cho Đức Thế Tôn vì tùy thuận thế gian nên nói. Nghĩa là thế gian đối với khổ có phần vị hạ, thượng, trung. Như thứ lớp đó, khởi nhận biết như lạc v.v… Đức Thế Tôn tùy thuận thế gian kia mà nói ba thọ như lạc v.v… Về lý cũng không như thế, vì không cực thành. Nghĩa là thọ thứ ba nơi thế gian không cực thành. Vì sao Đức Thế Tôn tùy thuận thế gian nói có? Cho nên nói ba thọ chỉ dựa vào chân kiến. Lại, đối với quán lạc thọ, vì nói câu như thật, tức không nên tùy thuận thế gian thuyết giảng có ba thọ, không phải khổ thọ của phẩm hạ, như thật là lạc.

Lại, vì lạc cũng có ba phẩm như hạ v.v…, vì thế không nên nói lạc chỉ là khổ của phẩm hạ. Lại, nên không phải phước chiêu cảm quả ái. Nghĩa là không phải phước nghiệp thừa nhận có ba phẩm, phẩm hạ có thể chiêu cảm quả của khổ thọ phẩm hạ. Ông nói thể của khổ phẩm hạ tức là lạc. Há không phải là phi phước, nên chiêu cảm quả ái.

Lại như như khi khổ thành phẩm hạ, như thế, như thế thành lạc của phẩm thượng. Phi phước của phẩm hạ đã chiêu cảm khổ của phẩm hạ. Khổ của phẩm hạ theo tông của ông tức là lạc của phẩm thượng. Há không phải là nhân của phẩm hạ có thể chiêu cảm quả của phẩm thượng? Tức là cùng với lý cảm ứng đi tới của nhân quả là trái nhau.

Lại, như như khi khổ thành phẩm hạ hạ, như thế như thế lạc tức thành phẩm thượng thượng, tức là phi phước của phẩm hạ hạ làm nhân, có thể chiêu cảm lạc thọ của phẩm thượng thượng làm quả. Ai lại vì việc thiện thiết lập công dụng lớn.

Lại, phước, phi phước đều có chín phẩm, vì sao phi phước của phẩm hạ hạ làm nhân, có thể chiêu cảm lạc thọ của phẩm thượng thượng làm quả. Lại, phước của phẩm thượng thượng, phi phước của phẩm hạ hạ, đồng chiêu cảm khổ thọ của phẩm hạ hạ làm quả, thì phước, phi phước tức nên không có sai biệt. Đối với tám phẩm còn lại, nêu hỏi đặt vấn nạn cũng như thế. Lại nên một quả được chiêu cảm do hai nhân. Hoặc nên thừa nhận phước, tức là phi phước, thế là trái hại với chí giáo của Như Lai.

Lại, ba định dưới thừa nhận có lạc thọ, địa trên chỉ có không khổ không lạc, thì ai nhận biết khổ thọ nơi phẩm hạ hạ trong địa trên, thiết lập sự khó nhọc lớn, chán bỏ dưới, ưa thích trên.

Lại, định thù thắng dần dần chấp khổ tăng dần, ở trong phi lý, cái gì lại vượt quá điều này?

Lại, nếu khổ của phẩm hạ, tức gọi là lạc, thì lạc thọ lãnh nạp không mạnh mẽ, nhạy bén, về lý không phải thọ của phẩm hạ lãnh nạp phân minh, chấp phân minh trong phẩm hạ là ngược lại với tăm tối.

Ai là người có trí, có thể nhận lấy chấp này? Nên biết ngoài khổ, thật có lạc thọ.

Lại, người kia chấp nhận khởi lỗi của chấp khác. Nghĩa là nếu khổ, lạc không có Thể khác, tức là chấp nhận kẻ khác lại khởi chấp khác. Chỉ thừa nhận đáng yêu trong phần vị biệt ly, đối với lạc thọ không có khởi nhận biết về khổ, không có khổ thọ riêng, gọi là lỗi của chấp khác. Hoặc cùng có chấp chỉ có lạc thọ, là có chân thật, thọ khác thật sự là không có. Chỉ ở nơi phần vị thượng hạ trung của lạc thọ, như thứ tự lập làm ba thọ như lạc v.v… Chấp kia so với chấp này, về lý không có riêng khác. Nên như Thượng tọa kia đã biện chỉ do sức tự phân biệt nên chấp chỉ có khổ.

Căn cứ nơi phẩm lập ba, điều này cũng nên như thế. Do đấy cách giải thích của Thượng tọa kia không phải tốt.

Lại, khổ lạc thọ nhất định thật có. Do ở nơi khác đã nói sáu xúc xứ. Vì trời, thế gian và Na-lạc-ca có sai biệt. Nghĩa là Khế kinh thuyết giảng: Bí-sô nên biết! Có sáu xúc xứ gọi là trời, thế gian. Nếu các hữu tình được sinh nơi xứ kia, thì mắt trông thấy sắc hoàn toàn là vừa ý. Ở xứ ấy đều không có sắc không vừa ý. Nói rộng cho đến: Do nhân duyên này, nên xứ kia hoàn toàn thọ các hỷ lạc. Có sáu xúc xứ gọi là Na-lạc-ca, cùng với xứ trên là trái nhau, cũng nên nói rộng.

Khổ của phẩm hạ gọi là lạc, như trước đã ngăn chận, nên không thể nói là giả nêu về hỷ lạc. Nếu không có thật lạc, thì kinh chỉ nên nói: Trời, thế gian chỉ là khổ của phẩm hạ. Na-lạc-ca chỉ là khổ của phẩm thượng. Lại, thường nói là hoàn toàn, nên thành lời nói vô dụng. Nghĩa là trước đã nói hoàn toàn vừa ý. Sau nói hoàn toàn thọ các hỷ lạc. Nếu đối với khổ của phẩm hạ, giả lập tên lạc, thì trong một thọ có khổ, có lạc, vì sao có thể nói lời hoàn toàn là lạc? Nên Thượng toa kia đã chấp là không hợp với chánh lý.

Lại, Khế kinh nói: Chữ như thật, nên chứng biết quyết định thật có lạc thọ. Như Khế kinh thuyết giảng: Khi nhận lạc thọ thì nhận biết rõ như thật là nhận nơi lạc thọ. Khổ thọ không phải hai thọ, cũng nêu bày như thế.

Lại, như kinh nói: Lạc căn hiện có, hỷ căn hiện có, nên biết hai căn này đều là lạc thọ. Cho đến nói rộng. Lại, nêu rõ thế này: Nếu dùng chánh tuệ quán thấy như thật năm căn như thế, vĩnh viễn đoạn trừ ba kiết. Cho đến nói rộng. Nếu thọ chỉ là khổ, thì vì sao có thể nói nhận biết rõ như thật đây là lạc thọ? Nên biết được tự tướng của lạc thọ là lạc. Nhưng Thượng tọa kia đã nói: Vì khổ sau tăng, nên không có thật lạc. Lý đó không đúng, vì nhân của lạc khổ sinh, không phải chỉ là cảnh. Nghĩa là tôi đã không thừa nhận chỉ do sức của ngoại cảnh, có thể sinh khổ lạc. Nếu chỉ là cảnh, thì đầu tiên cùng với sự nghiệp, lúc hợp với oai nghi, tức nên phát sinh khổ thọ tăng thượng. Nghĩa là do cảnh này, ở vào thời gian sau cùng, làm duyên phát sinh khổ thọ tăng thượng. Thời gian ban đầu đã cùng với cảnh như thế. Nếu chỉ do sức của cảnh sinh khổ lạc, thì khi cảnh vừa hợp, nên sinh khổ của phẩm thượng.

Đã không như thế, nên biết quán thân, ở phần vị nối tiếp chuyển biến có sai biệt. Ngoại cảnh mới tạo ra nhân sinh khổ lạc. Nghĩa là đã đến phần vị của đối tượng nương dựa như thế, các xúc như lạnh, nóng v.v… có thể làm nhân của lạc. Không đến thời gian này, thì không phải là lý của nhân lạc. Làm nhân của khổ, về lý cũng nên như thế. Vì vậy quán nhân riêng, liền khiến ngoại cảnh là khổ thọ, lạc thọ đều có nhân sinh riêng. Do thế không nên vì sự nghiệp v.v… khổ sau sinh tăng thượng liền bác bỏ cho là không có lạc thật. Hiện thấy đất nước phân v.v… nơi thế gian v.v…, quán phần vị cùng nối tiếp như hạt giống, mầm v.v… chuyển biến có sai biệt làm nhân sinh các quả như mầm, lá v.v…

Do đâu các oai nghi v.v… của thời gian sau mới có thể sinh khổ, không phải ở thời gian ban đầu? Do trải qua thời gian lâu, thân tâm nhọc mệt, trong thân liền có đại chủng khác sinh khởi. Do thời gian sau này mới sinh khổ thọ, vì các ngoại cảnh, chủ yếu là chờ đợi nhân riêng, mới có thể làm nhân sinh khổ thọ, lạc thọ. Nên nhân sinh khổ lạc, không phải là không nhất định. Cũng không thể do thời gian sau, khổ tăng, bèn cho thời gian ban đầu đã sinh khổ thọ. Nếu sau khi thấy oai nghi v.v… dẫn khổ sinh, liền cho là thời gian ban đầu kia đã sinh khổ thọ. Nếu nhận thấy oai nghi sau v.v… dẫn khổ sinh, ấy là thời gian ban đầu kia đã sinh khổ thọ. Nhận thấy phần vị sau phàm phu, có Thánh lạc sinh, nên chấp thời gian trước kia đã sinh Thánh lạc. Trong đây, cũng có thể tạo ra lối chấp như thế. Trước, vì có Thánh lạc vi tế, nên không nhận biết, thời gian sau tăng dần mới nhận biết rõ là có, tức có hoàn toàn không có lỗi của phàm phu.

Nếu cho không thể do hành tập trụ nơi nhân của lạc khiến cho thời gian sau khổ tăng thịnh dần, nên biết quyết định không có lạc thọ thật. Đã như thế, nếu có hành tập trụ nơi nhân của lạc, nhưng ở thời gian sau, khổ không tăng thịnh. Như ba tĩnh lự dưới tức nên thật có lạc thọ. Nếu trong ba định cũng không có lạc thật, thì không nên nói khổ sau tăng. Tức là nhận biết quyết định không có lạc thọ chân thật, điều này không phải là rốt ráo.

Trong Khế kinh nói: Tĩnh lự vô sắc cũng gọi là có khổ, không phải do tĩnh lự kia có tánh tổn hại. Lại, khi quán về lỗi của địa dưới, đạt được lìa nhiễm, không phải tất do quán làm tánh tổn hại. Quán làm chướng thô cũng được lìa nhiễm.

Lại, không phải chỉ chán bỏ địa dưới là nhân lìa nhiễm. Vui thích công đức nơi địa trên, cũng là nhân lìa nhiễm. Nghĩa là công đức của các địa trên tăng dần. Vui thích công đức ấy cũng có thể lìa nhiễm của địa dưới, tức không nên nói địa trên kia là khổ. Nếu không có thế gian, thì đạo cũng nên có thể lìa nhiễm của thế gian kia. Đã hoặc có xứ có quyết định là nhân của lạc, nên trong hữu lậu có tự tướng nơi lạc.

Thế nên thuyết kia nói: Vì khổ sau tăng, nên không có lạc thật, tức không phải là nhân như lý. Nói ở nơi sinh tử có hành động, tạo tác nên thọ chỉ là khổ, về lý cũng không đúng. Vì Thánh đạo cũng nên có hành động tạo tác. Nghĩa là nếu tác động của lạc thọ làm trước, sau đó sẽ đạt được gọi là có tác động, Thánh đạo cũng dùng siêng năng, dũng mãnh làm trước, sau đó chứng đắc nên có tác động. Nếu do lạc thọ có đối tượng duyên dựa, thì Thánh đạo cũng như thế, nên có tác động, tức là đạo đế cũng nên là khổ. Nhưng không phải đều được thừa nhận, vì trước đã biện. Lại, trong Luận kia, trước đã thừa nhận các pháp đều không có tác động, sau nói sinh tử có tác động, nên đều không có lạc. Thế thì thuyết kia trước sau là trái nhau, nên nhân đã lập không có sức để có thể minh chứng. Nói do khổ vi tế đã ẩn giấu nơi lạc hơn hẳn, nên biết không có lạc, về lý cũng không đúng. Vì xem xét chờ đợi nhân riêng như trước đã nói. Nghĩa là trước đã nói cảnh làm nhân của lạc, chủ yếu chờ đợi đại chủng của đối tượng nương dựa có sai biệt. Nên muỗi, mòng v.v… chích đốt đúng là đã hại thân, mà không phải là có thể làm nhân hỗ trợ cho các sự việc như tắm gội v.v… sinh ra lạc thọ. Không nên vì bấy giờ chỉ là thọ khổ, nên bác bỏ cho là không có lạc, vì khi có nhân hỗ trợ tức có thể sinh lạc. Nếu uẩn hữu lậu chỉ là tánh khổ, nên khi tắm gội thì thường sinh khổ, không phải là lạc. Do thân có khi chờ đợi duyên sinh khổ. Có khi lại đợi chờ duyên riêng sinh lạc, nên biết khổ lạc do nhân duyên quyết định. Vì nhân duyên quyết định, nên tất có Thể riêng. Nếu cho vì lý gì, lúc cưa xẻ thân v.v… tuy cùng với nhân lạc là xoa hương v.v… hòa hợp, nhưng không sinh lạc, chỉ sinh khổ thọ. Khi cùng với nhân lạc như xoa hương v.v… hòa hợp. Hoặc cùng với nhân khổ như bị muỗi, mòng chích đốt hòa hợp, liền không sinh lạc, chuyển sinh khổ thọ. Điều này như trước đã giải thích. Nghĩa là thấy có xứ, nhân lạc hiện có, chỉ có thể sinh lạc, từng không sinh khổ. Như ba tĩnh lự do đối với cõi dục, khổ thì tham vướng, lạc thì yếu kém, nên gặp duyên lạc thì không thể xâm đoạt khổ. Nhưng hoặc có phần vị nhân khổ sinh lạc. Nghĩa là thấy thế gian tăng thêm vị khổ, do thường hành tập v.v… đối với vị khổ kia, sinh vui thích. Lại thấy thế gian thiêu đốt sắt, đá v.v… đầu tiên, xúc chạm phần thân có thể làm nhân lạc.

Nếu như vậy, thời gian sau hành tập nhiều quen đến nơi chốn gần đốt sắt đá kia, đâu thể tức do lửa ấy, lại có thể sinh khổ? Tôi trước đã nói cảnh là nhân của khổ lạc, chủ yếu là chờ đợi phần vị của đối tượng nương dựa có sai biệt. Về nghĩa đó đã hiển bày vì sao lại nêu hỏi, vấn nạn? Hoặc vì khổ so với chủng loại lạc là có khác, nên khi khổ kia sinh, pháp như thế có sai biệt. Không nên đối với tướng này, so sánh, suy tìm, nêu hỏi. Cho nên uẩn hữu lậu kia không phải đều là tánh khổ. Khế kinh nói: Đức Phật bảo Đại Danh: Nếu sắc hoàn toàn là khổ, không phải là lạc. Không phải là lạc đã tùy thuận. Nói rộng cho đến: Hữu tình đối với sắc không nên sinh nhiễm.

Nói ở trong phần đối trị khổ nặng bức bách, người ngu khởi tăng thượng mạn của lạc nên không có lạc thật, về lý cũng không đúng. Do môn đối trị nên chứng biết là có lạc. Nghĩa là vì không có pháp kia, nên cầu pháp này, tức pháp có thật, làm đối trị pháp kia. Đã vì không có khổ, khởi phương tiện thù thắng mà cầu lạc, tức có lạc thật, có thể thể đối trị khổ, lý nào là trái nhau? Lại khổ trước đã trừ, sau nhập ba định, nhận biết rõ lạc của ba định đối trị thì khổ nào sinh? Lại, nhân nơi cảnh như âm thanh, mùi hương v.v… thù thắng, khởi lạc tăng thượng đối trị thì khổ nào sinh? Nên nhân được lập của Thượng tọa kia không thể ngăn chận lạc có thật. Nói ở trong phần vị các khổ thay đổi giải thoát, hữu tình thế gian nhận biết lạc sinh, nên không có lạc thật, về lý cũng không đúng, như trước đã nói. Trước đã nói như thế nào? Nghĩa là nhân của khổ lạc không phải chỉ là cảnh. Nếu chỉ là cảnh, thì khi gánh nặng đầu tiên, vai tức nên sinh khổ thọ tăng thượng. Vì đã không như thế, nên khi đổi vai, gánh nặng được xem là phần vị của đối tượng nương dựa có sai biệt. Cho đến chưa diệt, thì có thể làm nhân lạc, cũng không nên nói các loại người ngu, đối với khổ mới khởi, có nhận biết lạc sinh. Đầu tiên khi gặp đánh roi v.v… nên sinh nhận biết lạc. Hiện nhận thấy khổ kia cũng có nặng nhẹ. Đầu tiên, lúc thọ nhận nhẹ, nên sinh nhận biết lạc. Hoặc Thượng tọa kia nên nêu rõ: Do nhân duyên gì gánh nặng trên vai đã lâu không thay đổi, cởi bỏ, liền sinh khổ nặng, đầu tiên thay đổi là không đúng. Về lý tức không nên nói chỉ là gánh nặng này. Ở phần vị chưa đổi vai là duyên của khổ nặng, khi đổi vai liền sinh khổ nhẹ. Duyên đã là một thì khổ sao có nặng nhẹ? Do đấy chứng biết, có riêng đối tượng chờ đợi. Phần vị thân có sai biệt là nhân của khổ lạc, nên trong sinh tử có ít lạc thật. Nhưng Đức Thế Tôn nói các thọ hiện có đều là khổ, cũng không trái nhau. Ở trong kinh, Đức Phật đã tự giải thích thông hợp. Nghĩa là như Tôn giả Khánh Hỷ thưa hỏi Đức Thế Tôn: Phật ở nơi kinh khác thuyết giảng có ba thọ, nghĩa là lạc, khổ và bất khổ bất lạc. Dựa vào mật ý nào, kinh này lại nói: Các thọ hiện có đều là khổ?

Đức Phật nói: Này Khánh Hỷ! Ta dựa nơi các hành đều là vô thường. Và các hữu vi đều là biến hoại, nên mật ý tạo ra thuyết này: Các thọ hiện có thảy đều là khổ. Nên biết kinh này đã dựa nơi hai khổ để nêu bày, không dựa vào khổ khổ để nói câu đều là khổ.

Do đấy, nhất định nhận biết thật có ba thọ. Tức Tôn giả kia không hỏi Phật câu: Dựa vào mật ý nào để nói có ba thọ? Đức Phật cũng không nói: Ta mật ý nói ba, chỉ nói: Ta theo mật ý nói đều là khổ.

Đã nói đều là khổ, là mật ý nêu bày. Vì không phải là liễu nghĩa, nên không thể làm chỗ dựa. Đâu thể tức dựa vào đấy để bác bỏ cho là không có lạc thật.

Lại, Khế kinh nêu rõ: Pháp này lúc sinh là khổ sinh. Pháp này lúc diệt là khổ diệt, thì cũng không trái nhau. Pháp hữu lậu tùy chỗ ứng hợp với tánh của ba khổ. Vì hợp nên như thể của sắc tưởng v.v…, tuy không phải là khổ, cũng như khổ thọ, nhưng nói là khổ.

Như thế, thể của lạc v.v… tuy không phải là khổ, nhưng cũng như khổ thọ, nói là khổ, thì đâu có trái? Hoặc các hữu lậu đều thuộc về khổ đế, dựa vào lý như thế để nêu bày, cũng không có trái. Há không phải do đấy, tức chứng biết không có lạc? Không như vậy, vì trước đã nói không phải là khổ nói là khổ. Nghĩa là như sắc v.v… không phải khổ nói là khổ. Lạc v.v… cũng như thế.

Không phải là khổ nói là khổ. Nếu như vậy khi quán lạc thuộc về khổ đế, vì sao không thành tác ý điên đảo?

Vấn đề này như trước đã nói. Trước đã nói như thế nào?

Nghĩa là tánh của hành khổ, hoại khổ, dựa vào nghĩa như thế nên có tụng nói:

Chư Phật, Chánh biến giác

Biết các hành vô thường

Cùng hữu vi biến hoại

Nên nói thọ đều khổ.

Nhưng lạc hữu lậu thì khó thành, dễ hoại. Hành giả chán bỏ, quán đấy là khổ, không do lạc thọ là tánh khổ. Nghĩa là khổ dễ thành, tùy theo dục liền được. Như tạm thời nín thở, sinh khổ thọ cùng cực. Nhưng rất khó hoại, vì muốn khiến diệt phải tạo khó nhọc, cũng còn nối tiếp trụ. Lạc thì không như vậy. Tuy phải tạo nhiều khó nhọc, nhưng khó khiến chúng hiện ở trước cùng trụ lâu. Nên người tu hành ở trong lạc thọ, sinh chán bỏ cùng cực, quán đấy là khổ. Do lạc thọ này cũng thuộc về khổ đế, nên không thể dùng lời nói trong Khế kinh: “Lúc pháp này sinh là khổ sinh. Lúc pháp này diệt là khổ diệt”, nên nhất định không phải bác bỏ tự tánh của lạc thọ.

Lại, Khế kinh nói: “Đối với khổ cho là lạc, gọi là điên đảo”, cũng không trái nhau, hoàn toàn cho là lạc, thành điên đảo. Nghĩa là lạc hữu lậu, về lý cũng gọi là khổ. Vì lúc sinh trụ là lạc, khi hoại là khổ, nên tánh là vô thường thuộc về hành khổ. Hoàn toàn cho là lạc, vì sao không phải là điên đảo?

Lại các người ngu, do sức của kiến thủ, bị lửa phiền não đốt cháy khắp, trong hành hữu lậu, chấp cho là đức tĩnh lặng, nên đối với khổ chấp là lạc, thành điên đảo như tưởng v.v…

Nếu cho tưởng này, như tưởng thường, ngã v.v…, đối với hoàn toàn khổ chấp cho là lạc thành điên đảo, về lý cũng không đúng. Vì ngăn chận các uẩn như sắc v.v… hoàn toàn là khổ.

Vì Khế kinh thuyết giảng tức do đấy nên tôi trước đã thừa nhận hoàn toàn và phần tăng ích cùng được gọi là điên đảo. Thế nên không phải do đấy, lý không có lạc được thành.

Lại, Khế kinh nói: “Ông nên dùng khổ để quán lạc thọ”, về lý cũng không trái. Tức do kinh này có lạc được thành. Nghĩa là kinh này thuyết giảng: Bí-sô các ông nên dùng mũi tên độc để quán về khổ thọ. Nên dùng khổ để quán về lạc thọ. Nên dùng vô thường để quán về không phải hai thọ. Nếu cho ba thọ chỉ là một tánh khổ, thì Đức Phật không nên khuyên hành quán sai biệt. Đã khuyên quán riêng, nên biết là tánh khác. Trong đây, thể của khổ thọ không phải là mũi tên độc, nhưng vì não hại so với mũi tên độc là đồng, nên khuyên quán khổ cũng như mũi tên độc.

Như thế, thể của lạc thọ không phải là tánh khổ mà là lạc. Do sẽ biến hoại, nên tuy thể là lạc, nhưng đã khuyên quán như khổ. Sau khi biến hoại, tất nên khổ. Như khi ném vật đựng bằng sành chưa rơi xuống đất, tuy thể hãy còn hoàn toàn nhưng đã nói là hoại. Không phải khổ thọ, lạc thọ, cũng không phải tánh vô thường là thọ. Do tất bị diệt, tuy không phải tánh vô thường, nhưng khuyên quán như vô thường, vì sinh rồi, thời gian sau tất sẽ diệt. Lại, vì tướng vô thường luôn theo đuổi. Do không phải hai thọ có thể dẫn dắt ngu si. Vì si nên đối với nhiều kiếp đã hoại, chấp là thường trụ. Cùng ngã, ngã sở là muốn trái với ngã kiến thường kia, nên khuyên dùng vô thường để quán không phải hai thọ. Nay thấy rõ ý của kinh khuyên quán như thế tức khiến ở nơi pháp của ba cõi khởi gia hạnh lìa nhiễm. Nghĩa là trước hết dùng mũi tên độc để quán về khổ thọ, là ở nơi pháp của cõi dục khởi gia hạnh lìa nhiễm, vì trong cõi dục khổ thọ là nhiều. Tiếp theo, nên dùng khổ để quán lạc thọ, là đối với pháp của cõi sắc, khởi gia hạnh lìa nhiễm, vì trong cõi sắc, lạc thọ là hơn, vì lạc là vui thích, là gốc của sinh tử. Đức Phật đối với lạc thọ khuyên quán là khổ. Tuy nhiên, tự tánh của các lạc thọ là lạc, có thể gồm thâu lợi ích, cũng được gọi là khổ, vì là pháp vô thường, biến hoại.

Khi quán là lạc có thể bị trói buộc, vì vui thích pháp lạc là gốc của sinh tử. Khi quán là khổ, thì có thể khiến giải thoát, vì chán bỏ pháp khổ, tức có thể vượt qua sinh tử.

Đức Phật do quán khổ có thể khiến giải thoát, nên khuyên hữu tình quán lạc là khổ. Sau nên dùng vô thường để quán không phải hai thọ. Là đối với pháp của cõi vô sắc, khởi gia hạnh lìa nhiễm. Do hạn lượng thọ mạng của cõi vô sắc rất là dài lâu, nên e loài hữu tình chấp đấy là thường, thế nên Đức Phật khuyên quán vô thường như nhờ mượn vật dụng trang sức.

Vì thế nhận biết Đức Phật khuyên quán như vậy là khiến đối với pháp của ba cõi khởi gia hạnh lìa nhiễm. Tức không thể dẫn những điều ở đây để bác bỏ cho là không có lạc thọ. Do đấy, lạc thọ ở trong sinh tử quyết định là thật có, tông chỉ không thể khuynh động.

Phần luận thêm đã xong, nên lại luận về phần chánh.

Trong bốn Thánh đế đã nói như vậy, bao nhiêu thứ là thế tục? Bao nhiêu thứ là thắng nghĩa?

Ở đây, một loại nói như thế này: Hai là thế tục, hai là thắng nghĩa. Có một loại nói ba là thế tục, vì hữu vi đều là pháp hoại mất.

Có thuyết nói hai đế, là căn cứ theo giáo có riêng khác. Nghĩa là các thứ tuyên thuyết về Bổ-đặc-già-la, thành ấp, vườn rừng v.v… tương ưng với ngôn giáo, đều thuộc về thế tục. Đây là chỉ rõ về thật nghĩa là trước tiên, không phải từ tác ý lừa dối người khác dẫn khởi, nên gọi là đế. Có các thứ tuyên thuyết về uẩn, xứ, giới v.v… tương ưng với ngôn giáo, đều thuộc về thắng nghĩa. Đây là giảng biện về thật tướng của các pháp, phá trừ các tưởng hữu tình hợp nhất v.v…, là có thể giảng giải chân lý, nên gọi là đế.

Giáo của bốn đế này có thể khiến hữu tình chứng lý chân thật, nên là thắng nghĩa.

Trong đây, Thượng tọa nói như thế này: Ba đế đều chung cả thế tục, thắng nghĩa. Nghĩa là một khổ đế giả là thế tục, đối tượng nương dựa là vật thật, gọi là thắng nghĩa. Tập đế, đạo đế, so sánh cũng nên như thế. Chỉ thể của diệt đế, vì không thể nói, nên đồng với các vô ký, không thể nói là có. Như Khế kinh nêu: Cụ thọ Khánh Hỷ! Sáu xúc xứ tận, ly, diệt, tĩnh, mất, có khác, không khác, đều không thể luận. Ông muốn luận chăng? Cho đến nói rộng.

Nay xem rõ tông nghĩa của Thượng tọa đã nói là trái hại với tướng của thế tục, thắng nghĩa đế.

Hai đế như thế, tướng của chúng là thế nào? Tụng nêu:

Giác kia phá nên không

Tuệ phân khác cũng thế

Như nước, bình, thế tục

Khác đây gọi thắng nghĩa.

Luận nói: Các vật hòa hợp tùy vào đối tượng ứng hợp của chúng, gồm có hai thứ loại tánh sai biệt: (1) Có thể dùng vật phá làm phần nhỏ. (2) Có thể dùng tuệ để phân tích, loại trừ pháp còn lại.

Nghĩa là đối với các tụ hòa hợp của sắc, phá vỡ làm phần nhỏ. Nhận biết rõ kia liền không có, gọi là thế tục đế, cũng như chiếc bình v.v… Không phải khi phá vỡ chiếc bình v.v… thành ngói vụn v.v… lại có thể ở trong nhóm ngói vụn đó sinh nhận biết rõ về chiếc bình v.v… Có tụ hòa hợp tuy phá vỡ thành nhiều phần, nhưng nhận biết rõ kia không phải là không có, cũng như nước v.v… Nếu dùng tuệ thù thắng để phân tích, loại trừ pháp còn lại, nhận biết rõ kia mới không có, cũng như thế tục đế. Không phải khi nước v.v… bị tuệ phân tích, loại trừ sắc v.v… lại có thể ở trong ấy sinh nhận biết rõ về nước v.v… Đối với vật kia, khi chưa phá vỡ, phân tích, dùng danh tưởng thế gian để thiết lập. Vì thiết lập kia là có, nên gọi là thế tục. Dựa nơi lý của thế tục, nói là có bình v.v… là thật không phải là hư giả, gọi là thế tục đế. Vì như lý của thế tục, nói là có. Nếu vật khác với đây gọi là thắng nghĩa đế. Nghĩa là vật kia đã nhận biết rõ là bị phá vỡ, không phải là không có và tuệ phân tích phần còn lại, nhận biết rõ vật kia luôn có, gọi là thắng nghĩa đế, cũng như sắc v.v… Các vật như sắc v.v… được nghiền nát thành phần nhỏ, phá nhỏ dần dần cho đến cực vi. Hoặc dùng tuệ thù thắng phân tích, loại trừ vị v.v… Nhận biết rõ về sắc v.v… kia như gốc luôn tồn tại. Thọ v.v…. cũng như thế, chỉ không phải là sắc pháp, vì không có phần vi tế, nên không thể nghiền nát thọ v.v… kia, dùng làm phần tế, cho đến cực vi. Nhưng có thể dùng tuệ phân tích đến sát-na. Hoặc có thể phân tích, loại trừ pháp khác như tưởng v.v… Nhận biết rõ về thọ v.v… kia như gốc luôn tồn tại. Vì chân thật này là có, nên gọi là thắng nghĩa. Do tất cả thời thể là luôn có. Dựa nơi lý của thắng nghĩa, nói là có sắc v.v… là thật, không phải là hư giả, nên gọi là thắng nghĩa đế, vì như lý của thắng nghĩa, nói là có.

Do tông nghĩa của Thượng tọa kia đã nêu bày, là trái với tướng của hai đế đã lập ở đây, nên không hợp với chánh lý.

Lại, Thượng tọa kia đã nói, nghĩa là một khổ đế giả là thế tục, tức hoàn toàn trái với chánh lý. Vì sao? Vì không phải đối với khổ đế, có thể dùng uẩn v.v… phân tích dần dần, cho đến cực vi. Hoặc một sát-na, khiến bỏ nhận biết rõ về khổ. Dùng phân tích cho đến cực vi sát-na, vì mỗi mỗi thứ này luôn hợp với tướng khổ.

Vì sao có thể cho là như bình, nước v.v…?

Đối với vật của đối tượng nương dựa khi chưa phá vỡ, phân tích thì nếu như lập là có, gọi là thế tục đế. Lại như xúc pháp giới, khổ đế cũng nên như thế. Nghĩa là Thượng tọa kia đã gọi uẩn chỉ là thế tục. Vật thật của đối tượng nương dựa mới là thắng nghĩa. Xứ cũng như vậy, giới chỉ là thắng nghĩa. Há không phải là xúc pháp giới cũng dựa vào nhiều để lập một, về lý nên như uẩn là thế tục có, vật thật của đối tượng nương dựa mới là thắng nghĩa. Tức nên thừa nhận thể của giới gồm hai thứ: Cũng là thế tục, cũng là thắng nghĩa. Nếu cho hai giới ở vào lúc phá vỡ, phân tích, vì tướng của giới không bỏ, nên chỉ là thắng nghĩa, không phải như uẩn, xứ, là tụ, là môn. Ở nơi lúc phá vỡ, phân tích, đã bỏ nghĩa của môn tụ. Thế thì khổ đế, so sánh cũng nên như thế. Vì khi phá vỡ, phân tích, không xả bỏ tướng của chúng.

Lại, Thượng tọa kia tự nêu về tướng của hai đế nói: Nếu đối với nhiều vật thiết lập là có, gọi là thế tục, chỉ đối với một vật thiết lập là có, gọi là thắng nghĩa. Lại, phân biệt phần tế khi pháp đã được gọi nêu, liền mất tên gốc, gọi là thế tục. Nếu phân biệt phần tế khi pháp đã được gọi nêu, không mất tên gốc, gọi là thắng nghĩa.

Đối với thuyết kia đã nói, lại căn cứ theo môn đầu. Hai giới xúc pháp nên thành giả có, không phải chỉ ở nơi một vật thiết lập là có. Do đấy, thuyết kia nên nói như thế này: Chỉ đối với nhiều vật thiết lập là có, gọi là thế tục. Cũng ở nơi một vật thiết lập là có, gọi là thắng nghĩa.

Như thế, có thể nói hai giới là thật có, liền cùng với thuyết khổ đế là nghĩa thế tục, trái với không phải chỉ đối với nhiều vật thiết lập là có. Vì sao? Vì đối với nhiều vật, một vật đều thiết lập là có, như xúc pháp giới, nên căn cứ theo môn thứ hai cũng trái với thuyết kia. Khổ đế chung là nghĩa có của thế tục. Nghĩa là khi phân biệt phần tế thì thể của khổ đế không mất tên gốc, như xúc pháp giới. Nên biết Thượng tọa ở trong nghĩa của đế đã nêu bày, đã viết chép, không xem trước sau. Các đệ tử kia đã bỏ sau, quên trước, lại xem xét văn trước, văn sau đã sai lầm. Vì pháp đã được lập này, trước sau là trái nhau, tức phải so sánh, tìm cầu, nêu hỏi về tập đế, đạo đế.

Lại thuyết kia đã nói: Chỉ thể của diệt đế, vì không thể nêu bày, nên đồng với các vô ký. Không thể nêu là có, về lý cũng không đúng.

Đã như thế tức nên thành thế tục có. Nghĩa là như Đức Phật đã nói: Sau khi Như Lai diệt độ là có hay là không có?

Mạng cùng với thân là một hay là khác v.v…? Các sự vô ký như thế tất cả đều là thuộc về thế tục có. Do Như Lai v.v… cùng với các pháp như sắc v.v…. không phải tức không phải lìa là thế tục có. Diệt đế đã đồng với pháp sắc kia, nên thuộc về có của thế tục. Nghĩa là như bình v.v… cùng với vật như sắc v.v… không phải tức, không phải lìa, là có của thế tục.

Lại nói: Dựa nơi uẩn để thiết lập hữu tình. Thừa nhận các hữu tình là có của thế tục. Nên biết Như Lai v.v… là thuộc về có của thế tục. Diệt đế cũng nên như thế, vì đồng với không thể ghi nhận. Nhưng không thể cho lý của Niết-bàn là tục có, không phải tục có, như trước đã nêu rõ.

Thế nên không thể nhất định nói Niết-bàn là đồng với sự vô ký, thể không phải là thật có, mà quyết định nên thừa nhận là thuộc về thắng nghĩa đế.

Nếu như vậy vì sao Tôn giả Xá-lợi-tử không vì Tôn giả Khánh Hỷ ghi nhận phân minh?

Há không phải là văn sau cũng ghi nhận rõ ràng. Cho đến sáu xứ có, có thể có các hý luận. Sáu xứ đã diệt, là đoạn dứt các hý luận.

Đức Bạc-già-phạm thuyết giảng: Diệt này là Niết-bàn. Do đấy chứng biết lìa có hý luận, tất định có riêng diệt không hý luận.

Tuy nhiên, Tôn giả Khánh Hỷ kia đã không hỏi thế này: Sáu xúc xứ diệt là có hay là không có? Cũng không đáp là nghĩa có, không có. Chỉ hỏi thế này: Diệt cùng với sáu xứ là có riêng khác hay là không có riêng khác? Thế nên, đáp: Đây không có hý luận. Nếu cho Thể của diệt giả thật đều không, thì há không phải là nhất định nên đáp: Không có khác. Vì sao như thế? Vì là hoàn toàn không có. Căn cứ nơi lý đều nên nêu bày như thế. Không có phần ít pháp rốt cùng là không có, nên không thể nhất định nói có khác, không khác, cũng có khác, cũng không khác, không phải có khác, không phải không khác. Nên nói thế này: Sự việc ấy nhất định không khác. Nhưng Tôn giả Xá-lợi-tử không nói như thế, nên biết diệt kia không phải là hoàn toàn không có. Cũng không thể nói là thế tục có, vì không có đối tượng nương dựa, nên như trước đã nói, tức biết diệt đế chỉ là có của thắng nghĩa. Lìa ngoài hai đế, trong các Thánh giáo, không cùng nói là có có thứ ba.

Nếu như vậy vì sao nói là không thể luận. Về lý chỉ nên nói đây nhất định là có khác, cũng không có lỗi. Câu nói không thể luận chỉ làm rõ không nên lại suy tìm, nêu hỏi về nghĩa. Tức nghĩa có khác này đã hiển bày thành tựu, không nên ở trong đó, lại nêu hỏi. Do sáu xúc xứ có các hý luận, sáu xứ vĩnh viễn diệt thì dứt tuyệt các hý luận. Đức Bạc-già-phạm nói: Diệt này là Niết-bàn. Tức đã chứng tỏ thành có riêng diệt đế.

Lại, Khế kinh nêu rõ diệt giới là có. Do sự việc như thế v.v…, tức không nên lại hỏi. Hoặc làm rõ, vì Tôn giả Khánh Hỷ nêu ra câu hỏi không có đầu mối. Dùng lời nói này để ngăn chận câu hỏi kia. Nghĩa là các đệ tử quy y nơi Đức Thế Tôn, lúc nào cũng siêng năng tinh tấn tu các phạm hạnh cuối cùng, chỉ vì chứng đắc Niết-bàn, không nên thời nay, lại vì đấy mà sinh nghi vấn. Hoặc Tôn giả Khánh Hỷ kia tầm tư thế này: Sáu xứ đã không có, diệt dựa vào đâu để lập? Nếu có sáu xứ, thì nghĩa của diệt nên không có, tức nhờ lời nói ấy để làm rõ vấn nạn này.

Do đấy, nên đáp: “Vấn đề này không thể luận”, vì trong Niếtbàn, dứt tuyệt hý luận. Hoặc nên tạo phương tiện cầu tìm riêng kinh này. Câu nói không thể luận hiện có ý nghĩa sâu xa, lý tất không thể nhất định chấp Niết-bàn, thể ấy là không, đồng với sự vô ký. Do đấy, chúng ta đối với những điều đã nói của Thượng tọa kia, nhất định không tin dựa để có lỗi lầm. Thượng tọa kia tất phải thừa nhận Niết-bàn tịch diệt, ở trong hai đế tùy thuộc một đế. Nhưng tông của tôi nêu rõ bốn đế đều là thắng nghĩa. Các thế tục đế dựa nơi lý của thắng nghĩa, tự thể của thế tục là có, là không có. Nếu nói là có, thì đế tức nên chỉ một. Nếu nói là không có, thì đế tức nên không hai. Ở đây nên quyết định nói là có, vì Tôn giả Thế Hữu kia đã nói: Nghĩa không điên đảo hiển bày là thế tục đế. Danh này đã làm rõ nghĩa là thắng nghĩa đế. Danh là vật thật, như trước đã biện.

Há không phải là đã nói đế nên chỉ là một. Về lý thật nên như thế. Vì sao? Vì không phải thắng nghĩa không, có thể gọi là đế. Đã như thế thì vì sao lập hai đế?

Tức trong thắng nghĩa, dựa nơi một ít lý riêng lập làm thế tục, không phải do Thể khác. Sở dĩ như thế, vì danh là ngôn y, tùy theo tình của thế tục nơi tánh lưu hành khắp. Dựa vào nghĩa như đây, nên nói như thế này: Các thế tục ấy, tất là thắng nghĩa. Có là thắng nghĩa mà không phải thế tục. Nghĩa là chỉ trừ danh nghĩa còn lại là thật có. Tức dựa vào thắng nghĩa là nghĩa có trong ấy, căn cứ nơi lý của phần ít, gọi là thế tục đế. Căn cứ theo một ít lý riêng, gọi là thắng nghĩa đế. Nghĩa là không có phân biệt về tướng chung đã nhận lấy, lý của tướng hợp nhất, gọi là thế tục đế. Nếu có phân biệt về tướng riêng đã nhận lấy, thì hoặc loại, hoặc vật, gọi là thắng nghĩa đế. Như ở trong sự hữu lậu của một thể nhận lấy nghĩa của quả, gọi là khổ đế. Đã nhận lấy nghĩa của nhân, gọi là tập đế. Hoặc như tâm tâm sở pháp của một thể, có đủ tánh của sáu nhân và bốn duyên, nhưng dựa nơi nghĩa này, gọi là nhân tương ưng, không phải tức do đấy gọi là câu hữu v.v…

Do lý như thế, ở trong đế do bậc Đại Tiên Tôn đã nói, không có trái hại. Như nói: Một đế, lại không có thứ hai. Các loại sinh vượt hơn, ở trong đó không có tranh chấp. Có kẻ cho là khác với đế, vì thường hiện rõ, tôi nhất định nói người kia không phải Sa-môn chân thật. Nghĩa là nơi thế gian có các ngoại đạo, học hết các luận kiến nhưng chưa quyết định. Đến trong pháp Phật, nghe nói hai đế, cho là cũng không nhất định, lại còn sinh nghi gấp bội. Đức Thế Tôn vì khiến được lãnh hội quyết định, xót thương vì những kẻ kia giảng nói câu một đế v.v… Lời nói một đế này là hiển bày chung về nghĩa đế của Thánh giáo đã thuyết giảng, không có lời nói thứ hai là quyết định xét kỹ lần nữa, chứng tỏ đế chỉ là một.

Thế nào gọi là một đế? Nên tiếp theo lại nói: Nghĩa là các loại sinh vượt hơn, ở trong ấy không có tranh chấp. Câu nói sinh vượt hơn là hiển bày hữu tình của pháp nội đã kiến đế tích. Nói ở trong ấy là chỉ rõ thắng nghĩa đế tức bốn Thánh đế. Hữu tình kia đối với đế này tất cả đều không nghi. Do đấy, nên nói ở trong ấy không có tranh chấp. Đây tức là khéo thuận với câu nói của Hiếp Tôn giả: Chỉ trong Thánh giáo có khổ Thánh đế. Không phải giáo pháp khác cũng có, cho đến nói rộng. Đức Thế Tôn cũng thuyết: Chỉ có một đạo, lại không có đạo khác có thể đạt được thanh tịnh.

Lại nói: Cứu cánh chỉ một, không có riêng khác. Nhưng các thế tục dựa vào lý của thắng nghĩa có Thể của thế tục cũng không có tranh chấp. Vì người kiến đế, đối với các thế gian theo phương sở, ngôn từ đều không chấp chặt. Nghĩa là hàng kiến đế kia đã thấu đạt các danh như thế, tùy thuận tình của thế tục, giả thiết lập, chuyển biến, thuộc về một phần thủ uẩn, trong đó có gì để tranh chấp. Nói có kẻ cho là khác với đế, vì thường hiện rõ. Nói có kẻ là chỉ rõ có các ngoại đạo. Tiếng cho là tức chỉ rõ tình vọng của họ. Nghĩa là vì ngoại đạo kia đã chấp tướng của đế có trái, mà vọng cho, vì ta lập đế này. Nói thường tự hiển bày là thuộc về thắng nghĩa. Tiếng khác với đế là chỉ rõ trái với nghĩa của đế. nghĩa là nghĩa của các Thánh đế, không có trái chống với khổ. Chân vô thường không phải là không vô thường diệt. Chân tịch tĩnh không phải là không tịch tĩnh. Đế của ngoại đạo kia đã lập, so với đây là trái nhau. Vì trái với nghĩa của đế, nên nói khác với đế.

Vì hiển bày về nghĩa của nhân, lại nói tiếng nên. Nghĩa là chỉ trong pháp Phật, có chân Thánh đế. Vì những kẻ kia nói khác với đế, nên biết là ngoại đạo. Do những kẻ kia đã nói là trái với nghĩa của Thánh đế, nên không phải là chân Sa-môn, nhất định là thuộc về ngoại đạo.

Do đấy, văn sau lại nói: Ta nhất định nói ngoại đạo kia không phải là chân Sa-môn. Vì chúng đã nói khác với chân Thánh đế, nên là ngoại đạo, không phải là chân Sa-môn. Như nói: Bí-sô! Có các người bỏ khổ đế do Ta đã thuyết giảng, lập riêng khổ đế. Khổ đế này chỉ có ngôn thuyết, cho đến nói rộng. Nói câu hiển thị là chỉ rõ các ngoại đạo, giữ lấy chỗ chấp của mình, tuyên bày nêu rõ trao cho người khác, dùng văn từ giả dối, nhằm tăng ích nghĩa thật. Nói thường là hiển bày thường khởi dị đoan, ban phát riêng lẻ, tuyên nói đế lý của họ đã chấp. Đây là chỉ rõ ngoại đạo chưa chứng thắng nghĩa, vì ngôn từ họ đã nói là không quyết định. Do đấy nói họ không phải là chân Sa-môn. Vì thế, Đức Phật chính là tiếng sư tử gầm rống trong chúng: Luận khác không có Phạm chí, Sa-môn.

Phàm đã tự xưng về nghĩa không, không thật, vì thế tục đế cũng thuộc về thắng nghĩa, không trái với một đế của Đại sư đã nói. Tức do nghĩa này vì Bà-la-môn nói là Bà-la-môn chân thật, tất gồm đủ có ba đế.

Nói không sát hại tất cả hữu tình, là đế không phải hư giả, gọi là đế đệ nhất. Nói các pháp tập đều là pháp diệt, là đế không phải hư giả, gọi là đế thứ hai. Nói ngã, ngã sở là không có ở nơi vật nào, là đế không phải hư giả, gọi là đế thứ ba. Do các Bà-la-môn của đời trước, nói là người tu hành chân thật có ba thứ đế.

Nói vâng mạng, cúng tế, lễ sát sinh làm pháp, là đế không phải hư giả, gọi là đế thứ nhất. Nói đã tạo tác đều được quả thường, là đế không phải hư giả, gọi là đế thứ hai. Nói thân v.v… của mình thuộc trời Tự Tại, là đế không phải hư giả, gọi là đế thứ ba. Nghĩa là các Bà-la-môn của đời trước kia, thiết lập ba thứ này, lừa dối người cầu giải thoát, dựa vào ba thứ ấy để hành, là hoàn toàn không đạt được gì.

Đức Phật vì ngăn chận các thứ kia, như thứ lớp nói về ba. Do các thế gian mê mờ, không thể lựa chọn phân biệt các thuyết ấy đã nói là phải hay trái, tin theo Minh luận của Bà-la-môn đã truyền, cho ba thứ này là đế không phải hư giả, rồi bị ngăn che, chấp theo đấy tu hành đều rơi vào nẻo ác. Đức Thế Tôn thương xót, chỉ rõ những lời nói kia là hư giả, tán thán về ba thứ do mình đã lập, gọi là đế.

Nay xét rõ ba đế, nên biết.

Vì khởi đạo gia hạnh trước của ba môn giải thoát. Nghĩa là thứ nhất là không, duyên nơi hữu tình.

Thứ hai là vô nguyện, duyên khởi tận cùng.

Thứ ba là vô tướng, duyên nơi tướng không. Do ở nơi vật nào gọi là tướng.

Hoặc tức là khởi ba môn giải thoát. Hoặc hiển bày gia hạnh nơi địa học, vô học.

Có thuyết nói: Ba thứ này là làm rõ về ba uẩn.

Ba đế như thế, tùy theo đối tượng ứng hợp của chúng, là thuộc về ba Thánh đế. Do đấy, nhất định nhận biết ba đế như thế là thuộc về thắng nghĩa.

Nói Thánh đế: Vì phân biệt với đế khác, nên nói chữ Thánh. Nghĩa là tự tướng của tất cả pháp không phải là hư giả, cũng được gọi là đế. Tuy nhiên, thành tựu tánh Thánh, không do nhận biết rõ về cảnh của tự tướng nơi duyên kia hiện có trí sinh, vì không sức để có thể khiến nhập kiến đạo, đối với tự tướng của pháp đạt được thiện xảo rồi, có riêng đối tượng nhận biết rõ, mới thành tánh Thánh. Đế của đối tượng nhận biết rõ này là các Thánh giả, đồng ý thừa nhận, nên gọi là Thánh đế. Tướng chung của các pháp, gọi là đối tượng nhận biết rõ này. Nghĩa là nhận biết rõ các tướng như khổ v.v… của thủ uẩn. Nhận biết rõ các tướng như nhân v.v… có thể sinh pháp. Nhận biết rõ các tướng như diệt v.v… của tịch diệt kia. Nhận biết rõ các tướng như đạo của phương tiện diệt v.v… mới được thành tựu Thánh. Pháp khác thì không như vậy. Không thể nói cho vì năm bộ đối trị, nên Thánh đế của đối tượng nhận biết rõ tức nên có năm thứ. Tức do tu tập duyên nơi đạo của bốn đế, khi dần dần tăng thịnh là tu đạo đối trị.

Thể chung của bốn Thánh đế này là thế nào?

Tất cả hữu vi và các trạch diệt, do phiền não này là cảnh Thánh đạo, nên tánh nhân quả nhiễm tịnh có sai biệt. Vì không, phi trạch diệt có tự thể, vì là cảnh của chánh kiến, nên cũng là thuộc về đế.

Nhưng vì phiền não không phải là cảnh Thánh đạo, cũng không phải là tánh của nhân quả nhiễm tịnh, cũng không phải là cảnh nơi đối tượng hành vui thích chán bỏ, không phải là giác ngộ kia được thành Thánh, nên không can dự thuộc về Thánh đế trong đây.

Do đâu phiền não không duyên nơi hai pháp kia sinh?

Vì hai pháp không, phi trạch diệt kia là vô lậu, nên không thể trái hại pháp hữu lậu. Nghĩa là ái chỉ duyên nơi hữu lậu làm cảnh. Vì ưa thích pháp vô lậu là trái với các hữu, nên không gọi ái là dục của pháp thiện. Nếu cảnh hoàn toàn có thể thuận sinh tham ái, thì cảnh này khắp là đối tượng duyên của phiền não. Do ái nơi đối tượng duyên liền ở nơi kia diệt và đạo của diệt kia không muốn nghi ngờ, hủy báng, không, phi trạch diệt, so với điều này là trái nhau, nên nhất định không làm cảnh giới của phiền não.

Há không phải là các Luận sư của phái Thí dụ v.v…, đối với hai pháp này, duyên nơi phiền não kia cũng sinh không muốn nghi ngờ, hủy báng, đâu thể nói duyên với chúng phiền não không sinh? Không phải duyên với pháp kia sinh vô trí, nghi, kiến, tạo chướng ngại cho chứng đắc khổ diệt và đạo diệt khổ. Như duyên nơi khổ v.v… thành tánh nhiễm ô, như A-la-hán ở nơi đường đạo v.v…, cũng có vô trí, nghi ngờ, hủy báng hiện hành.

Há có thể nói là bị phiền não nhiễm ô? Thế nên đều là tánh không nhiễm ô.

Do đấy nói là không duyên nơi phiền não kia.

Có thuyết nói: Không phải hủy báng về không, phi trạch diệt, chỉ nói về danh xưng ấy không duyên nơi Thể kia. Hai pháp này chỉ là cảnh giới của tục trí thiện, đối với các đế như khổ v.v… vì sao không cũng như thế? Vì thế nên biết trước nói là không có lỗi.

HẾT – QUYỂN 58