LUẬN A TỲ ĐẠT MA THUẬN CHÁNH LÝ
Tác giả: Tôn giả Chúng Hiền
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 57

Phẩm thứ 6: BIỆN VỀ HIỀN THÁNH, phần 1

Như thế là đã biện về các tánh như tùy miên v.v…, tuy có vô lượng, nhưng kiến lập chung làm tùy miên v.v… của năm bộ nơi ba cõi được đoạn trừ. Tùy theo sự của đối tượng trói buộc tuy cũng vô lượng, nhưng căn cứ nơi phần vị hơn hẳn, lập ra chín thứ nhận biết khắp. Tuy nhiên, đoạn tất do diệu lực của đạo nên đạt được. Do nơi đạo này, tướng của đạo ấy như thế nào? Tụng nêu:

Đã nói phiền não đoạn

Là do kiến đế, tu

 Kiến đạo chỉ vô lậu

Tu đạo chung hai thứ.

Luận nói: Đức Thế Tôn chỉ nói về phiền não có hai thứ: (1) Do kiến đạo đoạn. (2) Do tu đạo đoạn.

Như Khế kinh nói: Các lậu có hai. Nghĩa là có các lậu là do kiến đạo đoạn, hoặc có các lậu là do tu đạo đoạn. Nhưng trong các Luận đều chia hai thành năm. Tức năm đối tượng đoạn, như trước đã nói.

Trước đã nói ở nơi xứ nào?

Nghĩa là ở Tụng trước đã nói:

Dục kiến khổ cùng đoạn

Mười, bảy, bảy, tám, bốn.

Trong hai câu tụng kia đã phân biệt đủ, nhưng căn cứ theo lược thâu thì chỉ có hai, như kinh nói: Đoạn trừ kia chỉ do kiến đạo, tu đạo đoạn. Đạo chỉ là vô lậu hay cũng có hữu lậu?

Kiến đạo nên biết chỉ là vô lậu. Tu đạo thì chung cho cả hai. Hỏi, đáp trong đây đều cùng không nên nói, vì trước đã nói. Nghĩa là trước đã nói về nhẫn đã trừ bỏ tùy miên. Địa của xứ Hữu đảnh thâu tóm chỉ do kiến đạo đoạn v.v… Thuyết kia nói: Đã hiển bày tùy miên của xứ Hữu đảnh là do kiến đạo, tu đạo đoạn. Như thứ lớp ấy, chỉ là kiến đạo của Thánh. Tu đạo đoạn trừ thuộc về tám địa dưới. Tùy miên do kiến đạo đoạn, nếu là Thánh thì do kiến đạo đoạn, phàm phu thì do tu đạo đoạn. Thánh do tu đạo đoạn, phàm cùng có do tu đạo đoạn.

Đã nói kiến đạo chỉ dựa vào thân Thánh. Há không phải là đã thành, chỉ là vô lậu?

Đã nói tu đạo là dựa chung nơi thân phàm, Thánh, há không phải là đã thành, chung cho cả hữu lậu, vô lậu? Tức là nghĩa hiện nay nêu bày không khác với trước. Do đấy, không nên tạo tụng để nói lại nữa. Nói rồi lại nói thành ra vô dụng.

Đã nói kiến đạo chỉ là nhân vô lậu. Nghĩa là một sát-na đoạn trừ chín phẩm. Nhân này không phải là chứng cho hữu lậu, cũng có thể trong một sát-na đoạn năm bộ.

Há có thể đoạn trừ tức khắc là thuộc về vô lậu?

Như trước đã nói: Do kiến đế. Tướng của đối tượng kiến đế này là thế nào? Tụng nêu:

Đế, bốn tên đã nói

Tức khổ, tập, diệt, đạo

Tự thể chúng cũng thế

Thứ lớp theo hiện quán.

Luận nói: Đức Phật ở trong kinh nói đế có bốn: (1) Khổ. (2) Tập. (3) Diệt. (4) Đạo.

Trong luận này, trước cũng đã nêu bày. Ở nơi xứ nào nói? Nghĩa là trong phẩm thứ nhất phần phân biệt pháp xứ hữu lậu, vô lậu.

Phần luận kia nói như thế nào? Nghĩa là nơi tụng ấy nói:

Và khổ tập thế gian

Đây nói khổ, tập đế

Trạch diệt là ly hệ

Đây nói là diệt đế.

Vô lậu là Thánh đạo

Đây nói là đạo đế.

Như thế, ở xứ kia đã hiển bày tên đế. Nên biết văn kia cũng đã chỉ rõ về thể. Nghĩa là trừ Thánh đạo, pháp hữu vi còn lại làm biên tánh của quả, đều gọi là khổ đế. Làm biên tánh của nhân, đều gọi là tập đế. Vật tuy không khác, nhưng thường phân biệt không có sai lầm. Dựa nơi đấy để kiến lập, trong phần vị hiện quán, hành tướng có sai biệt của các nhẫn trí v.v… như bốn chánh đoạn, tầm xuất ly v.v… Trạch diệt vô vi, gọi là diệt đế. Pháp học, vô học đều gọi là đạo đế.

Có thuyết cho: Danh sắc gọi là khổ đế, vì dùng năm thủ uẩn làm thể. Chỉ nghiệp phiền não, gọi là tập đế. Do sức của phiền não có thể trói buộc tâm, khiến thuộc nơi nẻo khác. Vì sức của nghiệp, nên có thể khiến tự thể theo sai biệt mà sinh. Chỉ phiền não diệt, gọi là diệt đế. Do phiền não diệt, nên đối với sắc v.v… đạt giải thoát. Chỉ quán cùng với chỉ gọi là đạo đế, vì hai loại này đã thâu nhận các Thánh đạo. Đây không phải là ý nói riêng về tướng của đế. Nghĩa là người nói pháp là ứng hợp thời cơ, thắng giải, có thể tạo phần vị sai biệt. Dựa vào ý nghĩa riêng, mật ý nói như thế. Không phải cho văn này dựa vào tướng của đế để nói, người khéo lãnh hội Đối pháp đừng chấp văn này.

Có Sư khác lại nói: Chỉ tám tướng khổ là khổ, là khổ đế. Trừ khổ này, các pháp hữu lậu còn lại đều là khổ, không phải là khổ đế. Chỉ thuận với ái của hữu sau là tập, là tập đế. Ái còn lại, hữu lậu còn lại là tập, không phải là tập đế. Chỉ thuận với ái diệt của hữu sau là diệt, là diệt đế. Ái còn lại, hữu lậu diệt còn lại là diệt, không phải là diệt đế. Chỉ tám chi đạo hữu học là đạo, là đạo đế. Hữu học, vô học còn lại, hoàn toàn là đạo, không phải là đạo đế.

Thuyết này là trái với giáo và trái với chánh lý. Kinh nêu rõ pháp hữu lậu đều là khổ đế. Nghĩa là các hữu lậu thuộc về thủ uẩn, Đức Phật nói: Thủ uẩn gọi là khổ đế.

Vì sao nhận biết như thế? Vì lược nói tất cả năm thủ uẩn là khổ như Khế kinh nêu rõ. Lại nói có khổ, không phải là khổ đế. Nói về lý có thiếu, nhưng tướng không riêng khác.

Lại, Sư kia do đâu không tạo ra chấp này: Có mắt v.v… là sắc, không phải là sắc uẩn. Có màu xanh v.v… là sắc, không phải là sắc xứ. Nhưng các sắc này đều cùng gọi là thân, không phải là thân?

Vì cảnh của niệm trụ đã không thể như thế, nên về lý có thiếu. Lại ái không phải là khổ đế, cùng với chí giáo là trái nhau. Như nói: Thế nào là khổ diệt Thánh đế? Nghĩa là tức các ái đã hoàn toàn đoạn trừ hết. Không phải tự tánh của ái, khổ đế không gồm thâu. Những thứ khả ái đã đoạn tận, gọi là khổ diệt đế. Nếu cho các ái là nhân của chúng khổ, thì khi ái đoạn trừ hết tức nói là chúng nỗi khổ đều diệt, điều này cũng không lỗi. Vì thừa nhận khổ thù thắng, khi được vĩnh viễn đoạn trừ thì chúng khổ diệt. Như một phần thủ uẩn khi được vĩnh viễn đoạn dứt hết, thì có thể nói là tất cả thủ uẩn đều diệt. Như nói về sắc, nên đoạn tham dục, khi tham dục đoạn, tức gọi là sắc đoạn. Cho đến đối với thức nêu bày cũng như thế.

Lại có lý gì để quyết định nói ái không phải thuộc về khổ đế?

Nếu cho kinh nói: Vì là tập thì có lỗi thái quá. Như nói: Đạo đế gọi là hướng đến khổ diệt, nên không thể đoạn tập, chấp nghĩa như đã nói.

Lại, hiểu rõ về ý của chí giáo, thì ái cũng thuộc về khổ đế. Như trong Khế kinh hỏi về người kiến đế: Ông đối với nhãn xúc đã sinh ra các ái. Lại cùng tùy nơi quán kiến là ngã, ngã sở không? Người kia liền đáp: Không như vậy, bạch Đại đức!

Lại Già tha nói: Chưa như thật kiến khổ, nên kiến khổ kia làm ngã. Cho đến nói rộng. Tụng chỉ rõ thân kiến, chỉ do kiến khổ đoạn. Kinh trước hiển bày ái là đối tượng duyên của thân kiến, nên biết ý của Khế kinh đã thừa nhận ái thuộc về khổ đế. Kinh lại nói: Tập của ái nên như thật nhận biết rõ. Nếu ái nhất định không thuộc về khổ đế thì ái chỉ là tập của quả khổ. Vì sao lại khuyên nhận biết nhân của ái? Vì ái đã có nhân, nên cũng là quả. Đã cũng là quả thì cũng thuộc về khổ đế. Nên pháp hữu lậu là biên của tánh quả, đều là khổ đế, lý khéo thành lập. Các pháp hữu lậu là biên của tánh nhân, đều thuộc về tập đế, không phải chỉ là ái. Vì Khế kinh nói là nên đoạn. Nghĩa là Đức Thế Tôn nói tập đế nên đoạn. Lại nói như thế này: Bí-sô nên biết! Nếu có người ở nơi sắc, cho đến ở nơi thức, chưa thấu đạt, chưa nhận biết khắp, chưa đoạn dứt, chưa lìa nhiễm, người kia nhất định không thể vĩnh viễn dứt hết chúng khổ. Đã ở nơi năm uẩn, đều nói lời đoạn, nên không phải chỉ ái là thuộc về tập đế.

Giải thích này không phải là chứng thật, vì khi ái đoạn, thì giả ở nơi sắc v.v… nói chữ đoạn. Như nói ở nơi sắc nên đoạn tham dục. Khi tham dục đã đoạn, liền gọi là sắc đoạn. Cho đến ở nơi thức niệm cũng như thế. Đây là chứng thật. Vì sao? Vì ái tuy thuộc về hành uẩn, nhưng là tập đế.

Há nói về hành tức nên đoạn tham dục, liền cho thể của ái không phải do tập đế gồm thâu? Tuy ở nơi hành uẩn kia nói là nên đoạn trừ tham sắc v.v…, nhưng không ngăn ngại là tập đế thâu tóm. Lại nói nên đoạn không có phân biệt riêng. Nghĩa là các uẩn như sắc v.v…, nếu tự thể đoạn, hoặc đối với thể kia, có thể duyên nơi ái đoạn, thì đều có thể ở nơi kia nói câu nên đoạn. Khế kinh lại nói: Tập đế nên đoạn, tức năm thủ uẩn là biên của tánh nhân, đều là pháp thuộc về tập đế, vì giống nhau.

Lại nói: Mắt v.v… là tánh nhân, như kinh nêu rõ: Mắt làm nhân, sắc làm duyên sinh ra nhãn thức. Nhãn thức đã là tự tánh của khổ đế. Nhân đã nói là tên khác của tập. Về nghĩa, căn cứ theo nhân của thức là thuộc về tập đế. Do đấy, chứng minh mắt v.v… là tập đế, về lý là thành.

Lại, đối với một vật nói là khổ, tập. Nghĩa là Khế kinh nói: Sinh v.v… là khổ.

Lại nói: Vì là tập của sinh, nên là tập của lão tử.

Lại, Khế kinh thuyết giảng: Nhận biết rõ như thật, đây là lão tử, vì tập của lão tử này, nên biết một vật của khổ tập được chia làm hai. Không thể nói, kinh này đã nói tuy gọi là khổ tập, nhưng không phải khổ đế, tập đế. Đây là dựa nơi môn khác để nói về Thánh đế. Nghĩa là văn của kinh này, trước đã nêu bày như thế này: Như thật nhận biết về khổ, nhận biết về khổ tập v.v… tiếp theo, Tôn giả Đại-câu-chỉ-la kia nêu ra câu hỏi: Thưa Tôn giả Xá-lợi-tử! Lại có môn khác để nói về Thánh đế không? Tôn giả kia đáp: Có! Nghĩa là nhận biết như thật, đây là lão tử, là lão tử tập v.v… Trong ấy, tuy nói thiếu tiếng Thánh đế, nhưng nhân theo lời nói trước nên biết là nói về Thánh đế.

Nơi sau văn này, Tôn giả kia lại hỏi: Ngang tới đâu thì gọi là các Thánh đệ tử?

Ở trong chánh pháp Tỳ-nại-da này, chánh kiến, thần thông đều được viên mãn. Thành tựu chánh kiến, cho đến nói rộng, không phải là Thánh đệ tử, lìa kiến Thánh đế mà có thể ở trong chánh pháp Tỳ-nại-da đắc chánh kiến thần thông viên mãn. Nên biết đối với ý này nêu bày về Thánh đế. Lại, nếu không nói câu là Thánh đế, tức không phải Thánh đế có lỗi thái quá. Nghĩa là Khế kinh thuyết giảng: Đối với khổ không nhận biết, như thế cho đến đối với đạo không nhận biết. Không phải trong đây nói thiếu tiếng Thánh đế, liền cho không nhận biết không mê lầ, về Thánh đế, đối với đế hiện quán không thể làm chướng ngại.

Nếu như vậy, không nhận biết kia tức nên không phải là do kiến đế đoạn. Lại, Khế kinh nói: Nhận biết khổ cùng nhân. Ở đây, tuy không nói chữ Thánh đế, nhưng Khế kinh này không phải là không nói về kiến khổ, tập Thánh đế.

Lại, Khế kinh nói: Người kia kiến các đế, vì kiến các đế nên gọi là hiện quán. Kinh này tuy nói về đế, không nói chữ Thánh. Nhưng kinh kia nhất định gọi là người kiến Thánh đế.

Lại, đối với kinh khác thấy có so sánh này. Nghĩa là như có xứ nói đủ là dục tham. Có xứ khác chỉ nói do dục nên đi đến các nẻo. Tuy thiếu tưởng tham, nhưng biết tức là dục tham. Nói thiếu Thánh đế, cũng nên biết là nói về Thánh đế. Do đấy, đối với một vật nói cả khổ, tập, nên tập đế không phải chỉ là ái, lý đó cực thành.

Lại, đối với ăn v.v… vì nói có hai. Nghĩa là Khế kinh thuyết giảng: Các Thánh đệ tử nhận biết như thật về ăn và nhận biết về tập của ăn, nói rộng cho đến: Vì sao gọi là nhận biết như thậtvề ăn? Nghĩa là ăn có bốn, nói rộng cho đến: Như thế gọi là nhận biết như thật về ăn.

Vì sao gọi là nhận biết như thật về tập của ăn?

Nghĩa là ái, ái của hữu sau, ái hỷ đều cùng hành ái hỷ nơi các xứ kia. Nói rộng cho đến ngang với đây gọi là các Thánh đệ tử. Ở trong chánh pháp Tỳ-nại-da này, chánh kiến, thần thông đạt được viên mãn v.v… Sự việc ăn đã như khổ đế, nên nói ái v.v… là nhân. Do đấy chứng biết ăn cũng là khổ đế.

Lại có kinh thuyết nêu rõ: Ăn là khổ tập. Như nói chúng khổ đều do ăn sinh.

Lại, như kinh nói: Vì tập của ăn, nên là tập của thân. Vì tập của xúc, nên là tập của thọ. Không phải là thân và thọ, không phải thuộc về khổ đế. Đã đối với một vật nói về khổ, về nhân của khổ, nên biết thủ uẩn đều là tập đế.

Vì sao kinh chỉ nói ái là tập đế?

Vì dựa vào ý nghĩa sâu xa riêng, nên nói như thế. Nghĩa là Khế kinh thuyết giảng: Ái hỷ đều cùng hành. Hỷ tức là ái, về lý nhất định không có ái cùng với ái đều cùng có. Nên biết kinh này đã dùng tiếng ái để nói về ái đều cùng có thủ uẩn, lý tất nên như thế. Hiện thấy kinh khác nói, có không phải là thể của pháp kia mà nói là pháp kia. Nghĩa là Khế kinh nói: Dựa nơi ái để đoạn trừ ái. Ái này đối với pháp thiện thì nói dục là dùng tiếng ái. Lại, Khế kinh nói: Lìa ái, lìa nhiệt. Ở đây đối với một phần của xúc nói thì dùng tiếng ái. Trong ấy, đối với khát nói là tên ái.

Lại, Khế kinh nêu rõ: Ái tăng là thủ. Lại, kinh nói: Nghiệp dùng ái làm nhân. Tên gọi ái của hai kinh này là nói về tất cả phiền não. Nhưng Khế kinh đã nêu: Khởi bốn thứ ái. Kinh này chỉ dùng tiếng ái để nói về tham.

Các kinh nói về tiếng ái, nghĩa không phải là một. Nên câu chấp kinh nói ái là tập đế, cho là chỉ nói về tham không phải là khéo thuyết giảng.

Lại, kinh này nêu bày nhất định có ý riêng. Do Già tha nói về nghiệp, ái, vô minh đều có thể làm nhân, chiêu cảm tất cả phiền não của các hành sau, đều có thể làm nhân chiêu cảm hữu sau. Nên tiếng ái là nói chung về tất cả phiền não, không phải chỉ nói về tham. Do đấy, chứng biết ái hỷ cùng hành, không phải tức nói về ái. Phần sau lại sẽ biện.

Lại có Khế kinh chứng thành nghĩa này. Nghĩa là Đức Phật đối với nghiệp, ái, vô minh kia đều nói có nhân, có duyên. Trong Kinh Hữu Duyên nói nhân của nghiệp là ái. Kinh khác lại nêu tất cả phiền não đều là nhân của nghiệp. Do Khế kinh nói: Thủ duyên hữu. Như trước đã nói về nghiệp, ái làm nhân duyên. Tiếng ái là giải thích chung về tất cả phiền não. Ví như kinh nói vô minh duyên hành, nên không phải chỉ ái là thuộc về tập đế, lý tất như thế. Vì như Đức Thế Tôn nói với Tây-nị-ca: Ta từ xưa so với hiện giờ đều nhất định thiết lập loại mạn là khổ, tức là tập. Nếu cho như trên đã dẫn Khế kinh, không phải năm thủ uẩn đều gọi là tập đế, nên đối với chỗ đã lập làm chứng không thành. Điều này cũng không hợp lý, vì ngăn chận việc ông đã thừa nhận nghĩa của tôi nói là thành. Nghĩa là đã dẫn kinh để chứng minh về các phiền não đều là tập đế, là ngăn chận điều ông đã thừa nhận: “Tập đế chỉ gồm thâu thuận với ái của hữu sau”. Đã ngăn chận nghĩa của ông, tức Tông của tôi đã nêu bày: “Các pháp hữu lậu làm biên của tánh nhân, đều là tập đế”, tức không thể ngăn chận, nên trên đã dẫn kinh làm chứng, về lý được thành.

Nếu như thừa nhận kinh kia, ái chỉ nói là ái, cũng không có lỗi. Đối với phần chiêu cảm hữu sau, thì ái là nhân hơn hẳn, nên căn cứ theo nghĩa hơn để nói. Nghĩa là ái tức là nhân tốt nhất khiến khiến không chán lìa hữu, vì sức mạnh của ái có thể trang sức các hữu, khiến thành vô số thứ tướng đẹp đẽ, như kẻ oán đối ẩn giấu hiện bày tướng giả thân thiện, khiến các hữu tình không thấy lỗi kia. Các loại hữu tình hành ái rất nhiều, sức mạnh của ái có thể khiến hữu tình khó hướng đến lìa dục, nên đối với phần chiêu cảm hữu, ái là nhân hơn hết. Vì ái làm sức của nhân có thể dẫn khởi, không biệt ly dục mà hòa hợp với dục.

Sức của pháp như vậy có thể trái ngược với giải thoát, nên khi tuyên nói nhân của chúng khổ, vì khiến hữu tình thấy rõ lỗi lầm kia, căn cứ theo chỗ hơn để nói ái kia dùng làm tập đế, không phải cho phần còn lại khác với pháp của tướng kia không có tánh tập đế. Nếu chỉ như văn mà làm cho người hiểu, là có lỗi thái quá. Hoặc do đấy, nên nghĩa của kinh kia cũng thành. Nghĩa là Khế kinh nói: “Vì ái tập, nên khổ tập. Ái tập tức là vô minh. Nên Khế kinh nói: Thế nào là nhân của ái? Nghĩa là tức vô minh”. Là đã nói về khổ tập, tức là nhân của ái, nên chỉ vô minh là tánh của tập đế. Hoặc tức chấp ái là ái tập, há không phải tức khổ cũng là nhân của khổ. Do đấy liền thành, tức đối với một vật, do nhân quả nên lập riêng khổ đế, tập đế. Lại, Khế kinh nói: Vì thọ tập, nên là ái tập. Vì xúc tập, nên là thọ tập. Há không phải ái, thọ, cũng là khổ, cũng là tập. Do khổ, tập này không phải là vật, nên khác.

Thế nên tất cả năm uẩn hữu lậu làm biên của tánh nhân, đều thuộc về tập đế.

Đối với ý này, Thượng tọa cho là không đúng, do trong Khế kinh, không có thuyết giảng về điều này. Nói khổ nên nhận biết, tập nên đoạn trừ. Nghĩa là phân biệt rộng về Thánh đế ở trong kinh. Từng không nói về năm thứ thủ uẩn, đều thuộc về tập đế, chỉ nói là ái. Lại, Đức Bạc-già-phạm đã nêu rõ về hai đế riêng, nói khổ nên nhận biết, nói tập nên đoạn trừ, vì thế chỉ ái là thuộc về tập đế. Lại, các vị vô học, vì hữu sau không nối tiếp. Nghĩa là A-la-hán có năm thủ uẩn, có khổ, tập nên phải nối tiếp hữu sau. Tuy nhiên, vì không có sự việc ấy, nên biết chỉ ái là thuộc về tập đế, không phải thủ uẩn khác. Uẩn này tuy có ngữ nhưng thật sự không có nghĩa.

Nói trong Khế kinh không có thuyết giảng về điều này, lại không hợp lý, vì trái với tông mình. Nghĩa là Thượng tọa kia tự nói như thế này: Nhân của khổ về lý là chung cho tất cả phiền não. Vì ái là hơn, nên nói là ái không phải thứ khác. Không phải trong Khế kinh đã biện về xứ của Thánh đế, nói các phiền não đều là nhân của khổ, chỉ nói cho ái là tập đế, nên Thượng tọa kia đã nói chỉ dựa theo tình riêng.

Nếu cho kinh khác nêu bày về phiền não khác, vì là tánh của tập, nên biết các phiền não đều là nhân của khổ, đều thuộc về tập đế, chỉ vì căn cứ theo phần hơn hẳn, nên nói là ái không phải pháp khác. Há không phải là đã nói, vì kinh không nêu, nên câu nói chỉ ái là tập, tức có nghĩa không.

Lại, không phải kinh này không nói về thủ uẩn, tiếng ái là hiển bày chung về các hữu lậu. Điều trước đã nói, phần sau lại sẽ biện. Nên Thượng tọa kia đã nói là hoàn toàn không có nghĩa.

Lại, kinh kia đã nêu rõ: Nên nhận biết, nên đoạn trừ. Cho hai đế riêng khác, về lý cũng không đúng. Hai đế đều cùng thông hợp do đấy thành. Nghĩa là Khế kinh thuyết giảng năm thứ thủ uẩn, tất cả nên đoạn trừ, như trước đã làm rõ tức thành.

Đã nói đều là thuộc về khổ đế, nên không phải khổ tập, do vật nên khác.

Lại, Đức Phật đối với khổ cũng nói chữ đoạn. Nghĩa là nói về lương y thế gian đã nhổ mũi tên độc, không thể thấu đạt về tất cả thế gian, sinh là gốc, vĩnh viễn đoạn khổ là thuốc hay. Nói rộng cho đến: Chỉ có chư Phật là thấu đạt rốt ráo về tất cả thế gian, sinh là gốc, vĩnh viễn đoạn khổ là thuốc hay.

Lại kinh nói khổ diệt. Diệt là tên khác của đoạn. Lại, câu nói nên nhận biết cũng chung nơi tập đế. Kinh nói: Chúng khổ tận, do nhận biết khắp pháp. Do đấy, không nên căn cứ theo câu nên nhận biết, nên đoạn trừ để biện về hai tướng khổ đế, tập đế có sai biệt. Nói các vị vô học, hữu sau không nối tiếp, nên chứng biết chỉ ái là tập đế, về lý cũng không đúng. Vì nhân khác thiếu, nên hữu sau không nối tiếp, cũng như ái v.v… Nghĩa là như trong kinh đã nêu rõ: Thọ duyên ái. Các A-la-hán không phải là không có thọ, chỉ vì duyên khác thiếu, nên ái không sinh. Lại, như trong kinh nêu: Vì mắt và sắc làm nhân duyên, nên nhãn thức được sinh. Nhưng hoặc có khi tuy có mắt, sắc, nhưng duyên khác thiếu, nên nhãn thức không sinh

Nên biết trong đây, nghĩa lý sâu xa cũng như thế. Tôn giả Mã Minh cũng nói thế này: Thân của nghiệp phiền não có thể nhận lấy hữu sau, làm nhân dẫn phát hữu sau nối tiếp sinh. Nếu như thân của nghiệp hoại, hữu sau khó dứt. Nếu phiền não thiếu, hữu sau tức không có. Chủ yếu là thiếu nhân có thể hướng đến, sinh thân mới dứt, như thiếu hạt giống, thì tuy có đất cũng không có mầm mạ.

Lại, Khế kinh nói: Thức làm hạt giống, nghiệp làm nhân, nên hữu sau được sinh, không phải đáp lại quả mà thân không có thức, không có nghiệp. Thế nên bất tất nhân đều không có, nên mới khiến quả sau không cùng nối tiếp sinh, nên trong thân của quả tuy có mắt v.v… nhưng vì nhân còn lại thiếu, nên hữu sau không nối tiếp.

Có thuyết cho: Do sức của các uẩn hiện đời lần lượt sinh, nên chỉ có thể hỗ tương làm duyên, chủ yếu là do sức mạnh của uẩn kia khiến chủng tử của thức trụ nơi nhân của hữu sau mới gọi là tập đế.

Sự việc này cũng phi lý, vì trừ ái, các pháp còn lại cũng làm nhân của hữu sau.

Vì Khế kinh nói. Như Khế kinh đã nêu rõ: Như một loại hữu tình các mạn còn lại chưa đoạn trừ, chưa nhận biết khắp, loại hữu tình kia liền tạo ra sinh bát Niết-bàn.

Lại, Khế kinh nói: Nếu có hữu tình đối với mạn chưa hiện quán, mạn này, ta ghi nhận là có đời sống sau. Lại nói do kiết ái vô minh che lấp trói buộc, người ngu, kẻ trí đều đồng chiêu cảm có thân.

Lại, Khế kinh nói: Các loại hữu tình, vô số thứ loại không phải là một, rất nhiều khổ sinh đều do dục làm nhân, cho đến nói rộng.

Lại, loại ngu si yêu thích các hữu, do ái ở lâu trong bộc lưu sinh tử, nên chính vô minh là gốc của sinh tử. Tức thì có thể chỉ nói về ái kia là tập đế, không nên chỉ cho ái là thể của tập đế.

Hoặc lại do đâu nhất định nhận biết chỉ là ái có thể nối tiếp hữu sau, không phải là các Hoặc?

Nếu cho chỉ ái gọi là thuận với hữu sau, không phải pháp khác, về lý cũng không đúng, vì như trước đã nói. Trước đã nói như thế nào? Nghĩa là trước đã nói tiếng ái, là nói chung cho tất cả phiền não, nói về pháp khác, về lý cũng như trước.

Lại, nghiệp cũng có khả năng chiêu cảm hữu sau, cũng thuận với hữu sau, đâu thể chỉ nói về ái? Nếu cho chỉ ái đã dẫn phát nghiệp, có thể chiêu cảm hữu sau, về lý cũng không đúng. Vì tất cả phiền não dẫn phát nghiệp, đều có thể làm nhân cho hữu sau. Vì Khế kinh đã nêu rõ: Vô minh duyên hành, tức thừa nhận tiếng vô minh này, là nói chung về các Hoặc. Hoặc ái cũng do vô minh dẫn phát, mới có thế mạnh có thể nối tiếp hữu sau. Kinh nói: Vô minh là nhân của ái. Tức thì có thể tập đế chỉ là vô minh, nhưng vô minh nói chung là gốc của các hữu. Do đấy làm chứng không phải chỉ là sức của ái, khiến chủng tử của thức trụ nơi nhân của hữu sau. Vì thế không nên nói tập đế chỉ là ái. Lại nên nêu vấn nạn, trong pháp hữu lậu kia, do đâu chỉ chấp ái là tập đế?

Nếu là phiền não, nên sân v.v… vì sao không như thế? Nếu vì chung nơi ba cõi, nên mạn v.v… vì sao không như thế? Nếu vì dẫn dắt hữu sau, nên hành của nghiệp vì sao không như vậy?

Như Khế kinh nói: Nếu tạo ra hành phước, liền có thể dẫn khởi thức tùy theo hành phước, hành phi phước, hành bất động. Nói rộng cũng như thế.

Nếu vì tướng mong cầu thì do đâu không nói về dục? Nếu nói là tập, thì vì sao không nói về ăn v.v…? Nếu vì chấp lấy tánh thì vì sao không phải là thân kiến v.v…?

Như thế, pháp khác cũng có tướng kia. Nhưng chấp tập đế chỉ là ái, chỉ do ở nơi kinh đã thiếu trí quán sát. Lại, chưa từng thấy có xứ quyết định, nói tập đế chỉ là hữu sau nối tiếp nhân nơi ái.

Há không phải là kinh đã nói câu ái của hữu sau?

Tuy vậy, không nói ái này chỉ là công năng khiến tánh nhân của hữu sau cùng nối tiếp. Như nói: Thế nào là nhận biết như thật về tập của ăn? Nghĩa là ái, ái của hữu sau, cho đến nói rộng, không phải dẫn đoạn thực, gọi là nối tiếp hữu sau. Thế nên biết được câu nói ái của hữu sau này là vì phân biệt với trước không phải nối tiếp hữu sau. Nghĩa là Đức Bạc-già-phạm quán xét về có duyên của đối tượng hóa độ, lại dùng tiếng ái để hiển bày thể của tập đế. Nhưng đối với nhiều pháp đều có tiếng ái, vì để phân biệt với pháp khác, nên nói ái của hữu sau. Nghĩa là nếu có ái khi chưa vĩnh viễn đoạn trừ, hữu sau có thể sinh, mới gọi là tập đế, là nghĩa của kinh này không phải nối tiếp hữu sau.

Há không phải chỉ ái hỷ cùng hành hỷ ái nơi các xứ kia đủ có thể phân biệt, đều thừa nhận không có lỗi, vì hỷ ái kia đây đều đồng. Nghĩa là như chỉ chấp nối tiếp hữu sau, nhân nơi ái gọi là tập đế để luận, thì nói ái của hữu sau xong, có thể phân biệt ái khác. Lại nói: Pháp khác lại phân biệt vì tông của tôi cũng như thế, tức không nên nêu vấn nạn. Hoặc ái là gồm chung ái của hữu sau, nói là phân biệt với thủ, vô minh và pháp của một quả. Do tiếng ái của hữu sau là nói về vô minh, nên tiếng ái của hữu sau cũng chấp nhận là nói chung về tất cả phiền não, hoặc thủ uẩn. Vì chưa hiểu rõ nên nay nói: Những gì là vô minh? Nên tiếp theo lại nói: Ái hỷ cùng hành, tức là nghĩa tương ưng của tham nơi ý địa, tham của ý gọi là hỷ, vì có phân biệt.

Hỷ, ái nơi xứ xứ kia, nghĩa là ở nơi các cảnh, hoặc đối với tự thể, khởi tham sai biệt. Tham trong đây gọi là chỉ rõ chung về phẩm câu sinh của tất cả tham. Vì muốn kiến lập các hành như tham v.v… cùng có sai biệt.

Do tham này cùng với hỷ ái kia đều cùng tương ưng với vô minh, nên cũng được gọi là hỷ ái của xứ xứ kia. Nên Đức Bạc-giàphạm tùy thuận phương thức được hóa độ, dùng ý riêng để thuyết giảng ái là tập đế, không nên tùy theo danh, liền khởi cố chấp, cho tập đế chỉ là nối tiếp hữu sau nhân nơi ái.

Có thuyết cho: Thánh đạo là ba khổ duyên nơi Thánh đạo hiện ở trước, cũng có thể nuôi lớn đại chủng của các căn, tức nên thuộc về tập đế.

Điều này cũng không hợp lý, vì sức của các Thánh đạo có thể vĩnh viễn đoạn trừ đạo của chúng khổ, không phải là pháp có Thể ho đoạn dứt đạo khổ, để có thể gọi là khổ tập, vì nghĩa là trái nhau.

Lại, nếu pháp kia là tập này, lìa pháp kia thì tập này không sinh, tức Thánh đạo tuy không có mà khổ luôn khởi, nên biết Thánh đạo nhất định không phải là khổ tập. Lại, không thể nói khổ là đẳng lưu của Thánh đạo. Nghĩa là nói đẳng lưu là nhằm hiển bày về nhân đồng loại. Loại hữu lậu, vô lậu đã có riêng khác, vì nhân không phải là đồng loại, vì quả không phải là đẳng lưu, do vậy không nên nói Thánh đạo là tập.

Lại, không phải Thánh đạo là nhân nuôi lớn, nhưng Thánh đạo hiện tiền thì nuôi lớn căn đại, vì đạo có thể ngăn chận duyên tổn hại. Nay, tự loại kia, trước là nhân hơn hẳn, sau quả chuyển biến tăng, gọi là nuôi lớn. Do Thánh đạo này nhất định không phải là tập đế, nên chỉ hữu lậu làm biên của tánh nhân, đều thuộc về tập đế, lý được thành tựu.

Khế kinh đã nói: Nghiệp là nhân sinh, ái là nhân khởi. Điều này có nghĩa gì? Nghĩa là ở nơi hữu sau có sai biệt cùng sinh. Nghiệp có thể làm nhân, như hạt giống đã gieo trồng. Dị thục ái, phi ái tùy theo nghiệp nên có sai biệt. Nếu đối với hữu sau, không có mầm phân biệt sinh, thì ái có thể làm nhân, như nước có khả năng làm thấm nhuần, ái làm thấm nhuần các hữu sau, khiến sinh khởi không có phân biệt, nên như mầm lúa v.v… tùy theo hạt giống của tự loại, nên có sai biệt. Các mầm không có phân biệt, đều được làm thấm nhuần, tăng trưởng, do nước làm nhân. Nên biết về nghĩa của hai nhân đã riêng khác, lý như thế tất nên thừa nhận. Ái là nhân khởi, kiến có ái tức hữu sau khởi. Nghĩa là có ái, lìa ái, cả hai đều cùng mạng chung, chỉ kiến có ái, hữu sau lại khởi.

Do lý này chứng minh ái là nhân khởi. Khởi, có khởi không có nhất định tùy thuộc ái. Lại, thế gian hiện thấy có người mong cầu, có thể thâu nhận. Nghĩa là thế gian hiện thấy có kẻ đã mong cầu, liền có thể thâu nhận. Đối với hiện tại đã như thế, thì đối với vị lai cũng như vậy. Tất mong cầu làm nhân có thể thâu nhận đời sau. Nếu đối với hữu sau, ái tất theo đuổi hướng đến đời kia, nên biết thể của ái có khả năng làm nhân đời sau.

Do đâu chứng biết có người lìa ái?

Vì hiện thấy pháp có thể tận, do nhân vĩnh viễn tận. Nghĩa là thấy nước v.v… cùng với lửa v.v… kết hợp, giảm dần, nhỏ dần, cho đến đều dứt hết.

Lại thấy thường hành tập quán bất tịnh v.v… thì tham v.v… giảm dần, pháp thiện tăng dần. Do đấy, so sánh nhận biết, lửa trí vô lậu, đến phần vị cực thịnh thì ái v.v… vĩnh viễn mất. Thế nên chứng biết có người lìa ái.

Có Sư khác nêu: Cảnh ái, phi ái khi hiện tiền, các căn ngưng lặng, không biến đổi khác, là tướng ái lìa. Như không thấy có gió v.v… đã sinh tướng biến đổi khác, là so sánh nhận biết không có bệnh. Lại, như khi ở nơi cảnh tối tăm, hủy hoại và hiểu rõ, nhận biết vầng mặt trời xuất hiện cùng các căn hiện có. Như thế, hành giả tuy ở trong bóng tối, các nghiệp thân ngữ ý cũng thanh tịnh, tức nên so sánh nhận biết hành giả kia tất đã lìa ái. Người tâm mang giữ lỗi, nếu ở trong bóng tối, các căn nhất định có biến đổi khác.

Lại như đi dạo nơi xứ chưa đi đến, tuy có thể dẫn đường và được chống gậy, nên người mù nhất định không mất đường chính, nhưng từ xa nhìn thấy tướng kia, tức nhận biết người ấy nhất định là mù.

Như thế, trong tâm mang giữ lỗi lầm, các nghiệp thân, ngữ, ý tất không thanh tịnh. Các căn nhất định có biến chuyển đổi khác.

Người khéo hành tỷ lượng, đối với phần cùng nối tiếp của người khác, có thể so sánh như thế để nhận biết đã lìa ái hay chưa lìa ái. Như vậy chỉ có tông phái của Đối pháp, biện về thể của tập đế, về lý là khéo thành lập.

Thuyết kia lập diệt đế cũng không hợp lý. Vì các phiền não cùng diệt đều là tướng tĩnh lặng, nên là như nhau nơi tướng tĩnh lặng. Có diệt là diệt đế, có diệt không phải là diệt đế, về lý là không thành. Do đấy không nên nói như thế này: Thuận với ái của hữu sau diệt là diệt đế, không phải pháp khác.

Ở đây, nên biết các hữu lậu đoạn, đều là diệt đế, lý ấy khéo thành lập.

Nói chỉ tám chi Thánh đạo hữu học gọi là đạo đế, cũng không hợp lý. Nói tất cả pháp thiện đều thuộc về Thánh đế. Như Khế kinh nói: Pháp thiện hiện có, tất cả gồm thâu ở trong bốn Thánh đế. Do đấy, nên thừa nhận trừ ngoài tám chi đạo hữu học, các Thánh đạo hiện có cũng thuộc về đạo đế, hoặc không phải tánh thiện.

Lại nên người đã kiến bốn Thánh đế, vì cũng chưa đạt được chứng tịnh của Phật, do ở nơi đạo đế khi được hiện quán, thừa nhận đạo vô học chưa hiện quán. Do đấy, người đã kiến bốn Thánh đế, có lỗi chưa đạt được chứng tịnh của Phật, duyên nơi Phật tín căn cũng chưa được. Lại, đạo đều có tướng như đạo v.v… Nghĩa là Thánh đạo hữu học, vô học còn lại, nếu hướng đến sinh tử tức nên không phải là vô lậu. Nếu hướng đến Niết-bàn tức nên thuộc về đạo đế. Nếu đều không hướng đến, tức không gọi là đạo, vì sao thuyết kia lại nói là đạo, không phải là đạo đế. Thế nên tất cả đạo học, vô học, đều là đạo đế gồm thâu, lý là khéo thành lập.

Nếu cho đạo vô học không thể diệt khổ, thì vì sao nói là khổ diệt đạo gồm thâu? Vấn nạn này là không đúng. Tướng của đạo đã như nhau, thì đối với khổ cũng có công năng diệt trừ. Nhưng vì đã diệt, nên không khó nhọc lại diệt, không phải là đạo vô học không có công năng diệt trừ.

Lại, đạo đối trị có nhiều thứ. Do Khế kinh này nói: Tâm bất động giải thoát, đầy đủ châu báu, có thể xả bỏ bất thiện. Tức do đấy, nên các vị vô học, tu tập chánh đoạn, cũng không có lỗi. Thế nên đầu tiên để lập đế là dựa vào nghĩa vượt hơn. Nhân trước quả sau, về lý luôn tất như thế. Ở đây, nhất định nên liệt kê danh, xứ của đế. Khổ ở sau tập, đạo ở trước diệt. Vì sao trong đây nêu quả trước, nhân sau? Vì tùy theo phần vị hiện quán, theo thứ lớp mà nói.

Nghĩa là tùy theo hành giả trong phần vị hiện quán, quán trước nói trước, quán sau nói sau. Nhưng hoặc có pháp nêu bày theo thứ lớp tùy thuộc sinh khởi như niệm trụ v.v… Hoặc lại có pháp nêu bày theo thứ lớp tùy theo tiện như chánh thắng v.v… Nghĩa là trong đây không có nghĩa lý quyết định. Phát khởi siêng năng tinh tấn, trước đoạn pháp đã sinh sau ngăn chận pháp chưa sinh, chỉ tùy theo ngôn thuyết thuận tiện. Pháp đoạn ứng hợp đã sinh dễ thiết lập, không phải pháp chưa sinh. Pháp tu đã ứng hợp chưa sinh thì dễ thiết lập, không phải pháp đã sinh. Đoạn tất tự thô, tu tất từ tế. Nói tùy tiện lợi này, nên nói như thế. Do đâu hiện quán theo thứ lớp tất như thế? Vì trong vị gia hạnh đã quán như thế.

Vì sao gia hạnh tất quán như thế? Nghĩa là nếu có pháp rất là bức não. Người tu vị gia hạnh, lý nên quán trước. Tiếp theo cầu nhân kia, tiếp theo cầu giải thoát kia, sau nên cầu phương tiện giải thoát kia. Thí dụ như lương y trước xem người bệnh, bệnh trạng bị bệnh, tiếp theo là tìm cầu nguyên nhân bệnh, thứ đến là tư duy về cách trị bệnh, sau đấy thì tìm thuốc hay. Nên Khế kinh nói: Phàm là bậc Y vương, nghĩa là gồm đủ bốn đức, có khả năng nhổ bật mũi tên độc: (1) Khéo nhận biết bệnh trạng. (2) Khéo nhận biết nguyên nhân bệnh.

(3) Khéo nhận biết cách chữa trị bệnh. (4) Khéo nhận biết thuốc hay.

Đức Như Lai cũng như thế, là bậc Đại y vương, vì đã nhận biết rõ như thật về khổ tập diệt đạo. Nên vị gia hạnh là dựa nơi thứ lớp quán này. Trong phần vị hiện quán, quán theo thứ lớp cũng như vậy, do sức của gia hạnh đã dẫn phát. Như mở rộng tâm đọc tụng văn đã tụng trước, nên nêu ra tên Thánh đế, là tùy theo thứ lớp của hiện quán. Vì hiện đẳng giác, nên lập tên hiện quán. Vì đối tượng duyên của chánh giác chỉ là vô lậu. Vì chân tịnh của giác này, nên được mang tên chánh.

Danh xưng Thánh đế này là nói về nghĩa gì?

Kinh nói: Là đế của bậc Thánh, nên được mang tên Thánh đế.

Nghĩa này ý nói: Chỉ các Thánh giả đối với lý của bốn đế, có khả năng thấy đúng như thật, không có hư vọng, vì không phải là trái với Thánh, nên lý tuy thông hợp mà gọi là Thánh đế. Vì dựa nơi nghĩa như thế, nên có tụng nói:

Thánh giả nói là lạc

Phi Thánh nói là khổ

Thánh giả nói là khổ

Phi Thánh nói là lạc.

Nhưng bốn đế, lý không có sai biệt, vì ở nơi Thánh, ở nơi phàm đều như thật. Dựa theo chủ thể thấy thì lập riêng danh xưng Thánh. Hoặc có nghĩa ý nói: Chỉ các Thánh giả đối với lý của bốn đế, vì Thánh hành quán nơi tất cả thời hành tướng không khác. Thánh hành lý của đế rất là tương xứng, do đế tùy hành tướng như lập tên Thánh đế. Không phải như thế gian sáu hành không phải là Thánh. Trước quán về địa này làm ba tướng như tĩnh v.v… Sau lại quán là ba tướng như thô v.v…, vì không phải tương xứng, nên không tùy theo danh xưng kia. Hoặc có nghĩa ý nói: Chỉ các Thánh giả đối với lý của bốn đế, dùng Thánh trí quán một đắc chánh quyết định, không trở lại lý bất định, nên đế tùy thuận trí được tên là Thánh đế. Tức do lý này, Thánh trí quán đế, được lập danh xưng trí khổ, tập, diệt, đạo

Phàm là trí, tuy có thể kiến lý của bốn đế, được quyết định xong, vì chấp nhận không nhất định, nên đế không tùy thuận trí kia để được mang tên phàm đế. Do đấy, chỉ nên gọi là trí thế tục, chỉ thọ nhận một phần là tự thể của khổ, các phần khác đều không phải.

Vì sao có thể nói các hành hữu lậu đều là khổ đế? Tụng nêu:

Khổ do ba khổ hợp

Như chỗ ứng hợp khắp

Vừa ý, không vừa ý

Pháp hành hữu lậu khác.

Luận nói: Có ba tánh của khổ: (1) Tánh của khổ khổ. (2) Tánh của hành khổ. (3) Tánh của hoại khổ.

Các hành hữu lậu, như chỗ ứng hợp của chúng, cùng với tánh của ba loại khổ này hợp nên đều là khổ đế, cũng không có lỗi. Vì sao? Vì các hành hữu lậu có ba thứ vừa ý, không vừa ý. Vừa ý còn lại: Vì sao gọi là các lạc thọ cùng các thứ của cải vật dụng kia? Hai loại còn lại cũng như vậy. Trong đây, pháp của hành hữu lậu vừa ý, do hoại khổ hợp, nên gọi là khổ. Người chưa lìa nhiễm, khi đối với hủy hoại kia, tất định nên sinh ưu sầu v.v…

Do trong Khế kinh, Đức Bạc-già-phạm nói: Các lạc thọ khi sinh, lạc thọ khi trụ, lạc thọ khi hoại, thì khổ thuận với lạc thọ, các hành như lạc thọ. Nên biết các pháp của hành hữu lậu không phải vừa ý, do khổ khổ hợp, nên gọi là khổ. Tự thể của khổ thọ và thuận với pháp khổ hiện tiền, tất có thể não loạn thân tâm. Do trong Khế kinh Đức Bạc-già-phạm nói: Các khổ thọ khi sinh, khổ thọ khi trụ, khổ thọ khi hoại, thì lạc thuận với khổ thọ, các hành như khổ thọ. Nên biết trừ thứ này, pháp hành hữu lậu còn lại, do hành khổ hợp, nên gọi là khổ. Do nhân duyên tạo ra đều là vô thường. Hữu lậu vô thường đều là khổ, nên pháp hữu lậu đều là tánh khổ.

Há không phải là tất cả pháp của hành hữu lậu, căn cứ ở hành này đều cùng là tánh của hành khổ?

Không nên chỉ nói không phải khổ lạc thọ và tư lương kia là tánh của hành khổ. Tuy có lý này, nhưng ở trong ấy, vì dựa nơi không chung, nên nói như sau: Nghĩa là khổ trước sau, như đối tượng ứng hợp, chỉ ở nơi pháp vừa ý, không vừa ý, pháp hữu lậu còn lại chỉ là hành khổ.

Vì đối tượng nương dựa không chung, nên nói như thế. Nhưng trong Khế kinh, Đức Bạc-già-phạm nói: Khổ thọ khi sinh, khổ thọ khi trụ, do tánh của khổ thọ kia là khổ nên hoại.

Vui là khi khổ thọ hủy hoại. Nếu như không có lạc thọ do khổ thọ dứt, tức giống như lạc hiển hiện, nên cũng gọi là lạc. Ở nơi phần vị nối tiếp dứt, dùng tên gọi hoại để lập, nên khi khổ thọ dứt, gọi là khổ thọ hoại. Khổ thọ hoại này ở cõi dục, hai cõi lậu tận, như thứ tự có tạm thời, có thời gian dài.

Lạc thọ rốt ráo khi sinh, khi trụ nơi lạc, do tánh của lạc thọ kia là lạc.

Khổ khi hoại: Nghĩa là các hữu tình khi chưa lìa nhiễm, tâm thường cầu vui, ở nơi phần vị lạc hoại, khởi ưu sầu, nên nói lạc thọ là tánh của hoại khổ. Khi lạc thọ hoại, nếu như không có khổ thọ, giống như khổ hiển hiện, nên cũng gọi là khổ.

Không khổ không lạc thọ khi sinh, trụ, đều là tánh của phi khổ phi lạc, là không khổ không lạc thọ kia. Tức khi khổ kia hoại, khổ lạc tùy một, cùng hiện ở trước, nên có thể nói đều cùng có khổ lạc khi hoại, không chấp nhận có hai, nên Đức Phật ở đây nêu bày thuyết giảng dị biệt. Nghĩa là vô trí, khổ trí sinh là lạc, do đối với thọ ấy, vô trí tăng rộng, vì vô minh của thọ này đã tùy tăng. Do vô trí, nên trong cõi ác v.v… có đủ vô biên hành khổ sinh khởi, vì rất vi tế, nên thật là khó nhận biết rõ, chỉ có Thánh là có thể nhận biết rõ, nên có tụng nói:

Như dùng một lông my

Đặt tay người không biết

Nếu đặt trên con ngươi

Bị tổn hại, không yên

Người ngu như ở tay

Chẳng biết lông hành khổ

Trí giả như tròng mắt

Duyên rất sinh chán sợ.

Thế nên trong đây vô trí là khổ. Nếu vĩnh viễn đoạn trừ vô trí này thì đắc A-la-hán. Do đấy nên nói trí sinh là lạc. Đức Bạc-giàphạm thuyết giảng: Vì ứng với quả lạc, nên tánh của ba khổ này, thể của chúng là gì? Nên nhất định phán quyết, ba thọ là thể. Do ba thọ, nên thuận với pháp của ba thọ. Như tương ưng cũng được mang tên tánh của ba khổ, hoại khổ cũng nên là thuộc về hành khổ. Hoại là tên gọi có sai biệt của vô thường, tùy thuộc ở vô thường gọi là hành khổ. Do đấy chỗ lập về ba khổ là không thành.

Vấn nạn này là không đúng. Do nghĩa có khác, nên đối với hành vừa ý, sát-na vô thường, cũng gọi là hành khổ, chỉ phần cùng nối tiếp đoạn nên được mang tên hoại khổ, nên về nghĩa là có riêng khác.

Lại, chướng ngại ba lạc, kiến lập ba khổ. Nghĩa là tánh của khổ khổ, chướng ngại lạc không bị bức não. Tánh của hành khổ chướng ngại lạc Niết-bàn. Tánh của hoại khổ chướng ngại thọ nhận lạc. Thế nên tánh của hành khổ cùng với tánh của hoại khổ về nghĩa đều khác, không có lỗi tạp loạn. Tức do lý này, nên Thánh đạo tuy là hữu vi, nhưng không phải thuộc về hành khổ. Thuận với lạc của Niết-bàn, nên Thánh đạo có thể dẫn dắt chứng đắc Niết-bàn. Lý tất nên như thế. Trong Bản luận, trước là căn cứ nơi ba cõi để biện về ba khổ riêng khác. Câu nói này là để ngăn chận có người chấp Thánh đạo rơi vào thuộc về tướng khổ. Vì lý của các Thánh đạo quyết định không phải rơi vào pháp của cõi.

Đã thếnt, khổ của cõi dục tức nên không có ba. Ở trong cõi sắc, khổ tức nên không có hai. Do đấy, tiếp theo căn cứ theo ba thứ như vừa ý v.v…, các hành không đồng nên biện về ba khổ riêng biệt. Ở đây, hợp với khổ nào đều được mang tên khổ. Do đấy, lại dựa vào ba thọ như lạc v.v…, tự tánh có khác để biện về ba khổ riêng khác. Do lý như thế, nên trong Bản luận, trước sau ba lớp biện về tướng của ba khổ.

Có thuyết nói: Đạo đế không phải chỉ là hành khổ, cũng là hoại khổ. Hiện thấy khi thoái pháp, thoái chuyển Thánh đạo, cũng ưu sầu. Lại, các Thánh đạo là thuộc về vừa ý, là pháp được Thánh yêu thích, nên là hoại khổ. Lại, đã thừa nhận có lạc thọ vô lậu, bất khổ lạc thọ cũng nên là khổ. Vì sao? Vì Khế kinh nêu rõ: Các thọ hiện có thảy đều là khổ.

Lại, thừa nhận Thể của đạo đế là hữu vi, về lý nên là khổ. Kinh nói: Các thứ có đối tượng tạo tác, đối tượng thực hành đều là khổ.

Thuyết này là phi lý. Vì sao? Vì ở nơi vô minh, hướng đến các người vô trí, đối với lý cùng hệ thuộc của nhân quả thì ngu tối, không khéo nhận biết rõ tánh tướng của các pháp, trong phần vị biệt ly của các pháp hữu vi, phát sinh lo buồn, vì mất đối tượng bám víu.

Như thế, người vô trí không có Thánh đạo để có thể mất. Nếu ở nơi sáng tỏ hướng đến các người có trí, đối với các nhân quả cùng hệ thuộc không mê lầm, có thể khéo nhận biết rõ về tánh tướng của các pháp. Đối với pháp hữu vi, trong phần vị biệt ly không sinh ưu sầu, không có đối tượng tham vướng. Nên Thánh đạo kia, nếu như thoái chuyển cũng không sinh hoại khổ. Nếu cho Thánh đạo là pháp được Thánh yêu thích, gọi là vừa ý chấp làm hoại khổ. Như thế Thánh đạo có không yêu thích, cũng gọi không phải vừa ý, nên chấp làm khổ khổ. Vậy thì Thánh đạo nên thuộc về khổ đế, vì ba khổ hợp. Nhưng vì không phải là điều được thừa nhận, nên thuộc về vừa ý, không phải là nhân của hoại khổ.

Khế kinh nói: Các thọ hiện có, các thứ có tạo tác, thực hành, đều là khổ. Là dựa nơi pháp hữu lậu mật ý nói, tức không có lỗi. Như thế gian nói tất cả cảnh v.v… đều dựa nơi phần ít để nói về chữ tất cả. Ở đây cũng nên như thế, về lý là cực thành. Hoặc kinh này đã nói nghĩa ấy là chưa rốt ráo.

Như Biệt kinh nói: Thánh đệ tử của ta dùng tuệ làm kiếm, có khả năng đoạn trừ tất cả kiết phược, tùy miên, tùy phiền não triền. Không phải nhiễm, vô ký, sức mạnh của tuệ thiện hữu lậu, có thể vĩnh viễn đoạn trừ tất cả kiết v.v…., nên dùng chữ tuệ, là hiển bày do Thánh tuệ.

Lại, như kinh nêu rõ: Lạc cùng với lạc đều cùng hành. Về lý không nên nói thọ cùng với thọ đều cùng khởi. Điều này làm rõ trừ thọ hữu vi, hữu lậu, các pháp vừa ý cùng với lạc thọ đều cùng có. Nên biết nghĩa của kinh này cũng như thế. Thánh đạo không phải là khổ, do đấy cực thành.

Có Sư khác cho: Thánh đạo không phải là khổ, vì có thể trái ngược với tướng của khổ ấy. Không phải Thánh đạo khởi tâm Thánh trái ngược. Do đấy, có thể khiến các khổ dứt hết.

Có Sư khác nêu: Các pháp hữu lậu, tánh của chúng là lạc trụ. Khi vô thường gây bức bách là trái với đối tượng ưa thích kia, thế nên sinh khổ. Thánh đạo thì không như vậy, nên không phải thuộc về khổ. Pháp của đời quá khứ, vị lai là chủng loại của hiện tại, đồng với hiện tại nên nói về lý khổ, cũng không lỗi. Như Khế kinh nói tất cả thọ sinh đều gọi là khổ sinh.

Lại, Khế kinh nêu rõ: Khi lạc thọ sinh, gọi là lạc sinh.

Hai kinh vì sao không cùng trái nhau?

Vì trước là dựa nơi hành khổ, đều gọi là khổ sinh. Sau thì biện về tự tướng của thọ, gọi là lạc sinh, nên không có lỗi. Hoặc Khế kinh trước là đối với lạc của hoàn diệt, mật nói tất cả thọ sinh đều là khổ. Khế kinh sau là dựa nơi lạc của lưu chuyển, nói lạc thọ khởi, gọi là lạc sinh. Hoặc Khế kinh trước là từ phần nhiều nói về khổ. Kinh sau dựa nơi ít cũng nói có lạc. Nghĩa là trong sinh tử, khổ nhiều lạc ít. Như một giọt mật ở trong bình chứa thuốc độc. Nên kinh phần nhiều nói các thọ đều khổ.

HẾT – QUYỂN 57