LUẬN A TỲ ĐẠT MA THUẬN CHÁNH LÝ
Tác giả: Tôn giả Chúng Hiền
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 47

Phẩm thứ 5: BIỆN VỀ TÙY MIÊN, phần 3

Như trước đã biện trong sáu tùy miên, do hành có khác nên kiến được phân làm năm. Về tên gọi trước đã nêu ra. Còn tự thể thì thế nào? Tụng nêu:

Ngã, ngã sở, đoạn, thường

Bác không, kém cho hơn

Không nhân, đạo vọng nêu

Là tự thể năm kiến.

Luận nói: Do nhân nơi sức của giáo pháp có các người ngu, trong năm thủ uẩn chấp ngã, ngã sở. Kiến này gọi là Tát-ca-da-kiến. Vì có nên gọi là Tát, tụ nghĩa là Ca da. Tức là hòa hợp, tích tụ là nghĩa Ca da tức Tát, gọi là Tát-ca-da, tức là thật có, không phải một là nghĩa kiến này chấp ngã, nhưng ngã thật sự không có. Chớ cho không có đối tượng duyên mà khởi kiến này, nên đối với cảnh của kiến, được lập dùng tiếng . Lại e nhân đây chấp  là ngã. Vì ngăn chận chấp kia, nên lại lập tiếng thân. Nghĩa là kẻ chấp ngã, đối với một nối tiếp, hoặc nhiều nối tiếp, chấp có một ngã. Ngã này đều không phải là thân, thân không phải là một.

Do kiến như thế duyên nơi Tát-ca-da, nên gọi là Tát-ca-da-kiến. Tức là chỉ duyên nơi nghĩa của năm thủ uẩn. Như Khế kinh đã nói:

Bí-sô nên biết! Có các Sa-môn, Bà-la-môn v.v… của thế gian, chấp ngã v.v… Tùy theo đấy quán thấy tất cả, chỉ ở nơi năm thủ uẩn khởi. Do đấy, chỉ ở nơi ngã, ngã sở kiến. Đức Thế Tôn nêu riêng tên gọi Tát-ca-da. Chớ cho do ngã không có, thừa nhận trí duyên nơi cảnh không có, hoặc trí duyên nơi hữu, chấp Thể của ngã, không phải là không có. Nếu không như vậy, tức nên duyên nơi kiến hữu lậu đều kiến lập tên gọi Tát-ca-da.

Kinh chủ trong đây đã giải thích như thế này: Vì hoại nên gọi là Tát. Tụ, nghĩa là Ca da, tức là nghĩa uẩn hòa hợp vô thường.

Ca da tức Tát, gọi là Tát-ca-da. Tát-ca-da này tức năm thủ uẩn. Vì ngăn chận một tưởng thường, nên lập tên gọi này, chủ yếu ở tưởng ấy là trước mới chấp ngã.

Nếu như vậy đâu cần dùng tiếng Tát để nêu lên? Chỉ tiếng Ca da là đủ để ngăn chận thường, tức nên chỉ lập danh xưng Ca da kiến.

Không pháp nào là thường để có thể tụ tập, thì đâu dùng tiếng hoại để nêu rõ trên thân, tức ở nơi sự việc là đối tượng chấp ngã, ngã sở, lại chấp đoạn, chấp thường, gọi là Biên chấp kiến, do vọng chấp nhận lấy biên đoạn, thường. Ở trong các đế như khổ v.v… của thể thật có, khởi kiến bác bỏ cho là không có, gọi là Tà kiến. Năm thứ vọng kiến đều chuyển theo điên đảo, đều nên gọi là tà, nhưng chỉ thứ kiến bác bỏ cho là không có, gọi là tà kiến, vì lỗi rất nặng. Như nói: Ngửi mùi tô dở, chấp là dở v.v… thì đây chỉ là tổn giảm số còn lại là tăng ích.

Đối với kém cho là hơn, gọi là Kiến thủ. Hữu lậu gọi là kém, vì là đối tượng đoạn trừ của Thánh. Chấp kém là hơn, gọi chung là kiến thủ. Về lý thật nên lập tên là kiến đẳng thủ, lược bỏ chữ đẳng chỉ gọi là kiến thủ. Hoặc kiến là hơn, nên chỉ nêu tên kiến. Do kiến là đầu đã thủ lấy pháp khác. Đối với các thứ không phải là nhân nơi đạo, khởi kiến cho là nhân nơi đạo, tất cả nói chung gọi là Giới cấm thủ. Nghĩa là Đại Tự tại, thời, tánh. Hoặc các thứ khác thật sự không phải là nhân của khổ, vọng khởi chấp là nhân.

Đạo có hai thứ: (1) Đạo tăng thượng sinh. (2) Đạo quyết định thắng.

Vô số thứ hành tà như gieo mình vào nước, lửa v.v… không phải là nhân sinh thiên, vọng chấp là nhân, gọi là đạo thứ nhất. Chỉ thọ trì tánh giới cấm, theo trí, sĩ phu v.v… không phải là nhân giải thoát, vọng chấp là nhân, gọi là đạo thứ hai. Như đời trước v.v… hoặc giới cấm cho là hơn. Thế nên chỉ lập tên giới cấm thủ.

Nên biết tự thể của năm kiến là như thế. Nếu đối với Tự Tại v.v… không phải là nhân, chấp là nhân, như vậy giới cấm thủ là nghĩa mê lầm ở nơi nhân.

Kiến này vì sao không phải do kiến tập đoạn? Tụng nêu:

Đối với Đại Tự Tại

Không nhân, vọng chấp nhân

Từ thường, ngã đảo sinh

Nên chỉ kiến khổ đoạn.

Luận nói: Đối với Tự Tại v.v… không phải là nhân, chấp là nhân, người kia tất không thể quán xét lý sâu xa, chỉ đối với nghĩa quả thô của các uẩn như Tự Tại v.v… vọng cho là thường, nhất, ngã, tác giả. Đây vì là đứng đầu mới chấp làm nhân. Thế nên chấp này là do kiến khổ đoạn. Nghĩa là kẻ chấp ngã là hữu thân kiến (Tát-ca-dakiến). Đối với nghĩa của quả khổ, vọng chấp là ngã, nên hiện quán khổ, thì ngã kiến tức trừ. Trí vô ngã sinh, không phải ở phần vị sau. Nếu hữu thân kiến do kiến tập v.v… đoạn, ở trong phần cùng nối tiếp, ngã kiến thuận theo, thì trí vô ngã tức nên không được sinh, do khi kiến chỉ có pháp thì ngã kiến tức diệt, trí vô ngã khởi thì ngã kiến đã trừ. Nhưng hữu thân kiến ở trong pháp cùng nối tiếp như Tự Tại v.v… chấp một ngã rồi, tiếp đến tức ở trên pháp cùng nối tiếp của ngã kia, khởi biên chấp kiến, so tính cho là thường. Do đấy, nên biết đối với các pháp như Tự Tại v.v… hai chấp thường, ngã, chỉ là do kiến khổ đoạn. Nên có tụng nói:

Chưa kiến khổ như thật

Nên kiến khổ làm ngã

Nếu kiến khổ như thật

Thì không kiến là ngã.

Do đấy đã hiển bày diệt trừ biên chấp kiến. Do tông Vô ngã luận cho đoạn kiến là thuộc về chánh kiến. Luận giả chấp có ngã thì cho đoạn kiến là biên chấp kiến, nên biết hai kiến đều cùng do kiến khổ đoạn. Do vô thường cùng các hành vô lậu khi kiến khổ đế, thì hai kiến đã diệt. Đối với Tự Tại v.v… không phải là nhân chấp là nhân, tùy theo hai kiến sinh, cũng đều cùng thời diệt, nên nói chấp nhân thì chấp ấy chỉ do kiến khổ đoạn. Nhưng ở trong không phải đạo chấp là đạo, nếu trái với kiến đạo mạnh thì do kiến đạo đoạn.

Há không phải như chấp Tự Tại v.v…. là nhân, chấp khổ là nhân, chỉ thừa nhận do kiến khổ đoạn, không phải do kiến tập đoạn. Như thế, cũng nên đối với không phải đạo chấp là đạo, chấp khổ là đạo, chỉ thừa nhận do kiến khổ đoạn, không phải do kiến đạo đoạn.

Vấn nạn này là không đúng. Vì đối với khổ đế, kiến là vô thường v.v… không phải là do kiến khổ kia đối trị. Nghĩa là nếu có chấp Tự Tại v.v… là nhân, tất trước đã chấp là vô thủy, vô chung v.v… Chấp nhân này chỉ do kiến khổ đoạn, dùng tưởng như vô thường v.v… để đối trị tưởng như thường v.v…, nên không phải là kiến khổ đế. Thời như vô thường v.v… có thể đối trị không phải đạo chấp cho là đạo, nên chấp đạo kia không phải do kiến khổ đoạn.

Do đấy cũng ngăn chận đối tượng đoạn của kiến tập, vì kiến nhân v.v… không phải do đối trị. Nghĩa là không phải ở nơi lúc tập kiến nhân v.v… có thể đối trị chấp không phải đạo chấp là đạo, chủ yếu là khi ở nơi đạo đế kiến đạo v.v… mới có thể đối trị chấp: Không phải đạo chấp là đạo. Vậy chấp đạo kia tức nên do kiến đạo đoạn.

Nếu như vậy, không phải đạo chấp là đạo như thế, về lý tất nên chung do kiến tập, kiến diệt đoạn. Nghĩa là như tà kiến bác bỏ cho không có chân đạo. Về sau tức chấp ấy có thể đạt được thanh tịnh. Giới cấm thủ này thừa nhận do kiến đạo đoạn. Như thế, tà kiến bác bỏ cho không có tập diệt, về sau cũng cho là có thể đạt được thanh tịnh.

Hai giới cấm thủ kia tức nên kiến tập, diệt đoạn?

Vấn nạn này là không đúng, vì thể không thành. Nghĩa là thể của giới cấm thủ có hai: (1) Không phải là nhân, chấp là nhân. (2) Không phải là đạo, chấp là đạo.

Nếu có tà kiến chấp hủy báng tập kia có thể đạt được thanh tịnh, há không phải là kiến này không có công dụng đoạn tập thì không nên sinh, vì đều không có tâm tin có nhân.

Lại, vì khổ cùng với tập là không có vật riêng, thì các uẩn như Tự Tại v.v… cũng nên bị bác bỏ.

Nếu có tà kiến chấp hủy báng diệt kia, có thể đạt được thanh tịnh, thì há không phải là kiến này không có công dụng chứng diệt, thì không nên sinh, vì sao bác bỏ không có kiến diệt đế, về sau cho phương tiện của diệt không phải là không vô ích?

Như thế là không thành thể của giới cấm thủ mà nói là nên có. Vì vậy đấy không phải là vấn nạn.

Vì sao không phải là vấn nạn?

Vì Thể của giới cấm thủ do kiến đạo đoạn, cũng nên không thành. Do đối với việc bác bỏ cho không có kiến đạo đế, về sau tức chấp có đạo nên là không thành. Nghĩa là tà kiến hoặc nghi duyên nơi đạo đế.

Nếu bác bỏ, hoặc nghi ngờ cho không có đạo giải thoát, vì sao tức chấp đạo này có thể đạt được vĩnh viễn thanh tịnh?

Thể của giới cấm thủ này không phải là không thành, vì thừa nhận có tà kiến hủy báng đạo, chấp là có thể chứng đạo thanh tịnh vĩnh viễn.

Do chấp kia cho là hiểu biết như lý. Nghĩa là chấp ấy trước dùng đạo giải thoát khác tích tụ ở trong tâm. Sau chấp theo tà kiến hủy báng cho là không có chân đạo làm nhận biết như lý. Nói như lý: Nghĩa là tà chấp kia bác bỏ, nghi ngờ về đạo chân giải thoát, cho là không điên đảo, do như lý nên chấp là nhân tịnh. Do đấy thể của giới cấm thủ được thành.

Tâm kia đã tích tụ đạo giải thoát khác, không phải là do kiến đạo đoạn. Đối tượng duyên của giới cấm thủ, vì chúng chỉ duyên nơi pháp của tự bộ. Đạo có nhiều loại, về lý là không lỗi.

Do đấy, Kinh chủ đã nêu bày: Nếu tà kiến kia bác bỏ cho là không có đạo chân giải thoát, vọng chấp có riêng nhân thanh tịnh khác, tức là chấp pháp khác có thể đạt được thanh tịnh, không phải là tà kiến v.v… Đây là duyên nơi các pháp do kiến đạo đoạn, về lý cũng không thành, vì họ hoàn toàn chưa an tường nghĩa của tông Đối pháp.

Nếu như vậy, Thể của giới cấm thủ do kiến diệt đế đoạn cũng nên thành, vì so với đạo là đồng. Nghĩa là có kẻ trước dùng xứ giải thoát khác tích tụ ở trong tâm, sau theo tà kiến chấp hủy báng chân giải thoát làm hiểu biết như lý, vì như lý nên chấp là nhân tịnh như trước, nên Thể của giới cấm thủ thành. Không có lý như thế. Chấp chung về giải thoát ấy là thường, là vắng lặng. Tâm kia chấp hủy báng cho là nhân thanh tịnh, về lý là không thành. Như chấp thể của Niết-bàn thật sự không phải là thật. Nghĩa là nếu mong cầu phương tiện giải thoát, thì người tà kiến tức nên tất định chấp có giải thoát.

Các kẻ chấp giải thoát kia quyết định có, tất nên thừa nhận Thể của giải thoát là thường, là tĩnh lặng. Nếu không thừa nhận như thế, thì không nên mong cầu. Như trong chánh pháp, đối với Thể của Niếtbàn tuy có cho là thật, cho là không phải thật khác nhau, nhưng đồng thừa nhận Thể ấy là thường, là vắng lặng, nên đối với không phải bác bỏ đều cùng có kiến là lỗi như thế. Nếu có kẻ dùng giải thoát khác tích tụ ở trong tâm, thì kẻ kia tất chấp chung Niết-bàn là thường, tĩnh lặng. Do đấy, không chấp hủy báng kiến giải thoát là hiểu biết như lý, nên giới cấm thủ do kiến diệt đoạn trừ, nhất định không có.

Lại, như Đề-bà-đạt-đa tuy thừa nhận chung là có Niết-bàn thường tịch, nhưng lìa tám chi, thì chấp riêng năm pháp là đạo giải thoát. Lý của ngoại đạo đã chấp cũng nên như thế. Vì thế có tà kiến đối với tám chi Thánh đạo, có thể hủy báng. Nghĩa là nhận biết như lý, không có ở nơi hủy báng diệt, cho là hiểu rõ như lý, do hành tướng, tự thể của giới cấm v.v… so với Thánh đạo là khác.

Không có, nghĩa là thể tướng thường tịch của Niết-bàn sai biệt. Thế nên không có nghĩa diệt đồng với đạo.

Có Sư khác nói: Có tà kiến chấp đối với đạo, cho là không phải đạo, là giới cấm thủ. Không nói đây là diệt đạo kia. Nếu như chấp đối với diệt, cho là không phải diệt, là tà kiến, nói đây là giới cấm thủ của đạo không thành. Nghĩa là chấp đạo này vì đã bác bỏ diệt, đạo, nhất định là không hợp lý, vì vừa bác bỏ cho là không có. Nếu chấp đây là đạo Niết-bàn khác, tức nên một thể có hai công năng giải thoát, vì kiến đây là phương tiện của đắc kia.

Lại, không có các pháp là đối tượng đoạn của kiến diệt, chỉ dùng pháp của bộ khác làm nghĩa đối tượng duyên. Nhưng ngoại đạo kia tất nên so tính về khổ khác có sai biệt là giải thoát.

Nay nên xét chọn về không phải đạo chấp là đạo. Nghĩa là chấp giới cấm là nhân của giải thoát. Hoặc chấp ngã kiến có thể chứng đắc giải thoát. Đây là do kiến khổ đoạn hay là do kiến đạo đoạn? Nếu cho hai chấp cùng do kiến khổ đoạn, thì kiến đạo đoạn rốt cùng nên là không có. Hoặc nên nói về nhân riêng v.v…

Không phải đạo chấp là đạo, do đâu hai thứ này là do kiến khổ đoạn, ohần còn lại chính là do kiến đạo đoạn? Nếu cho hai chấp này cùng do kiến đạo đoạn, tức nên nói: Vì sao do kiến đạo đoạn? Không phải lúc kiến đạo thì có thể biết rõ cảnh kia. Hoặc biết rõ tự thể kia. Hoặc đoạn đối tượng duyên kia. Hoặc lý nên nhận biết khắp về kiến lập hủy hoại. Nghĩa là nếu kiến đạo đoạn trừ tùy miên, thì có thể duyên nơi đối tượng đoạn của kiến khổ làm cảnh, ai ngăn chận lỗi của nhận biết khắp, kiến lập hủy hoại?

Như nơi vị hiện quán, khổ trí đã sinh, tập trí chưa sinh, đối tượng đoạn của kiến khổ cũng là duyên buộc nơi đối tượng đoạn của kiến tập. Tuy đã vĩnh viễn đoạn, nhưng chưa lập nhận biết khắp.

Như thế cho đến diệt trí đã sinh, đạo trí chưa sinh, đối tượng đoạn của kiến khổ cũng là duyên buộc nơi đối tượng đoạn của kiến đạo. Tức cũng nên cho tuy đã đoạn, nhưng chưa lập nhận biết khắp. Nhưng không phải đã thừa nhận, nên phải biện về nghĩa lý.

Tông của tôi nói cả hai cùng do kiến khổ đoạn. Như Bản luận nói: Có các ngoại đạo khởi kiến như thế, lập luận như thế: Nếu có sĩ phu, Bổ-đặc-già-la thọ trì giới bò, giới nai, giới chó, liền được giải thoát, xuất ly, thanh tịnh, vĩnh viễn vượt khỏi chúng khổ vui, cho đến vượt khỏi xứ khổ vui.

Các loại như thế v.v… tức không phải là nhân chấp là nhân, tất cả nên biết là giới cấm thủ do kiến khổ đoạn. Nói rộng như kinh kia.

Đây lại nhân gì do kiến khổ đoạn, chỉ do kiến khổ đoạn các thứ duyên nơi giới bò v.v…, chỉ chấp quả thô là nhân của xuất ly kia?

Do đấy đã ngăn chận chỗ nêu vấn nạn của Kinh chủ. Vì mê lầm nơi khổ đế, nên có lỗi thái quá. Hoặc duyên nơi hữu lậu đều là mê lầm nơi khổ. Vì không phải tất cả Hoặc duyên nơi hữu lậu, đều do quả khổ làm đối tượng duyên. Vì sao lại có thể có lỗi thái quá?

Không phải thừa nhận cả hai thứ cùng do kiến khổ đoạn, kiến đạo đoạn, thì rốt cùng là không có.

Không phải là đạo chấp là đạo có hai loại: (1) Duyên nơi giới cấm v.v… (2) Duyên nơi đạo thân cận mê lầm.

Người duyên nơi giới cấm v.v… là tin trái với ngộ đạo, sức của nó không như người duyên nơi đạo thân cận mê lầm.

Người duyên nơi giới cấm: Vì hành tướng rất thô, vì theo đuổi không xa, vì ý lạc không vững chắc, ít gia công khổ nhọc, nên liền đoạn dứt. Duyên nơi đạo thân cận mê lầm so với duyên nơi giới cấm này là trái nhau.

Do đó nên biết đấy không phải là đạo chấp là đạo. Các giới cấm thủ có hai loại riêng: (1) Do kiến khổ đoạn. (2) Do kiến đạo đoạn.

Như trước đã nói: Thường ngã do điên đảo sinh, vì chỉ có hai thứ điên đảo này. Không như vậy vì điên đảo gồm có bốn thứ: (1) Đối với vô thường điên đảo chấp là thường. (2) Đối với các khổ điên đảo chấp là lạc. (3) Đối với bất tịnh điên đảo chấp là tịnh. (4) Đối với vô ngã điên đảo chấp là ngã.

Bốn thứ điên đảo như thế, thể của chúng là thế nào? Tụng nêu:

Tự thể bốn điên đảo

Tức từ nơi ba kiến

Chỉ tìm thêm điên đảo

Tâm tưởng theo sức kiến.

Luận nói: Từ nơi ba kiến, lập thể của bốn điên đảo. Nghĩa là trong biên kiến, chỉ nhận lấy thường kiến, dùng làm điên đảo của thường. Trong các kiến thủ, chấp lấy lạc, tịnh làm điên đảo của lạc, tịnh. Trong hữu thân kiến, chỉ nhận lấy ngã kiến để làm điên đảo của ngã.

Như thế điều đã nói là Tông của một sư. Nhưng về nghĩa quyết định của Tỳ-bà-sa, là căn cứ ở Bộ để phân biệt, trong mười hai kiến chỉ hai kiến rưỡi là thể của điên đảo. Nghĩa là hữu thân kiến, khổ kiến thì lấy hoàn toàn. Trong biên chấp kiến thì lấy phần chấp thường.

Hành tướng của hai kiến đoạn thường là cùng trái nhau, nên có thể nói là hai thể đều riêng khác. Các Luận giả chấp ngã, tức chấp ngã ở nơi xứ kia có sức tự tại là ngã sở kiến. Đây tức ngã kiến do hai môn chuyển.

Há không phải các phiền não đều ở nơi điên đảo chuyển, nên đều là điên đảo, không phải chỉ là bốn thứ? Không như vậy thì phải kiến lập tướng điên đảo khác.

Những gì là tướng điên đảo? Nghĩa là có đủ ba nhân. Ba nhân là những gì? Là hoàn toàn điên đảo. Là tánh suy cầu, lường xét. Là vọng tăng ích. Tiếng tăng cũng nêu rõ thể là tăng thắng. Không phải các phiền não khác có đủ ba nhân này. Nghĩa là giới cấm thủ, không phải hoàn toàn là đối tượng chấp của điên đảo. Vì cùng có thể lìa dục nhiễm. Vì phần ít nơi thời gian riêng được thanh tịnh. Đoạn kiến, tà kiến không phải là vọng tăng ích. Vì ở nơi môn sự hoại, thì hai thứ này chuyển. Kiến thủ của bộ khác không phải là tăng thắng. Các thứ phiền não còn lại không phải là suy cầu lường xét. Do đấy, điên đảo chỉ là bốn, không phải thứ khác.

Há không phải trong kinh đã nói các điên đảo gồm có mười hai. Như Khế kinh nói: Đối với vô thường chấp là thường, có tưởng tâm, kiến điên đảo. Đối với khổ, bất tịnh, vô ngã cũng như thế. Không như vậy thì tưởng tâm không phải là suy cầu lường xét. Tùy theo sức của kiến đảo, cũng lập tên điên đảo. Cùng với kiến tương ưng, vì hành tướng đồng. Nhưng không phải thọ v.v… cũng như tưởng tâm, có thể lập tên điên đảo, vì có nhân riêng. Nghĩa là đối với vô thường v.v…, khi khởi kiến thường v.v…, tất do trong cảnh đã nhận lấy tướng thường v.v… Khả năng nhận lấy tướng là tưởng không phải thứ khác, nên lập tên điên đảo, không phải đối với thọ v.v…

Lại, tuệ đối trị điên đảo cũng lập tên tưởng. Nghĩa là trong hành như vô thường v.v… nói là tưởng như vô thường v.v… Do tuệ cùng với tưởng là cùng hỗ trợ gần gũi, cùng theo nhau để lập tên. Thọ v.v… thì không như thế, do sức của đối tượng nương dựa có suy cầu điên đảo tăng. Vì nhận lấy cảnh cùng thành, nên tâm gọi là điên đảo. Như Khế kinh nói: Tâm dẫn dắt thế gian chìm nổi nơi xứ xứ bộc lưu, Hoặc.

Tỳ-bà-sa nêu rõ: Chỉ tưởng cùng với tâm là có thể lập tên điên đảo, vì thế gian là cực thành. Nghĩa là tâm tưởng điên đảo nơi thế gian là cực thành. Thọ v.v… thì không như thế, nên kinh không nói. Do tâm tưởng này, tùy theo sức điên đảo của kiến, lập tên điên đảo, không phải đối với thọ v.v…

Ở đây, Thượng tọa nói: Do duyên gì điên đảo chỉ có ba không tăng, không giảm.

Vì chỉ có từng ấy nên thành điên đảo. Nghĩa là ba điên đảo này: Tưởng điên đảo gồm thâu tưởng. Tâm điên đảo gồm thâu thức. Kiến điên đảo gồm thâu hành. Không thể nói thọ cũng thuộc về điên đảo, vì xúc làm nhân sinh như nên lãnh thọ.

Há không phải là hành uẩn, lại còn có pháp khác như tác ý v.v… Chúng vì sao không phải là điên đảo? Không như thế. Chỉ do điên đảo kia, nên khiến tâm tưởng kiến thành thể của điên đảo. Nên Khế kinh nói: Vô lượng pháp ác bất thiện hiện có, tất cả đều do tác ý phi lý làm căn bản khởi. Nói rộng cho đến: tất cả đều là do tác ý sinh khởi xúc là tập nhân của chúng. Do đấy chứng biết, tưởng, tâm, kiến điên đảo, đều là tác ý phi lý, xúc vô minh sinh khởi. Do điên đảo kia, nên đây thành thể của điên đảo.

Nay xem rõ thuyết kia nêu bày thì trước sau là trái nhau. Do đấy nhất định biết không phải là nghĩa của Khế kinh. Nếu tưởng, tâm, kiến do từ tác ý phi lý v.v… sinh, vì điên đảo kia nên đây thành thể của điên đảo, thì thọ cũng từ tác ý phi lý sinh, do đâu không phải là điên đảo? Nếu thọ từ tác ý điên đảo v.v… sinh mà không phải là điên đảo, thì ba thứ tưởng, tâm, kiến tức nên không phải là thể của điên đảo, vì không có nhân riêng khác.

Lại nói thọ không thể cũng là điên đảo, vì gồm thâu xúc làm nhân sinh như nên lãnh thọ. Há không phải là tưởng điên đảo cũng nên không thành, vì xúc làm nhân sinh như nên tưởng? Do nói tưởng v.v… là điên đảo, do xúc vô minh sinh ra, há không phải là xúc làm nhân, như nên lãnh thọ, nên càng có thể chứng minh thể của thọ là thuộc về điên đảo, vì thọ cũng từ xúc vô minh sinh ra.

Do đấy, thuyết kia chỉ có từng ấy tức nên thành điên đảo.

Câu nói: Điên đảo chỉ có ba, không tăng giảm, trở thành vô nghĩa. Lại, nếu vì sức của tác ý phi lý, nên tưởng v.v… thành điên đảo, thì tác ý phi lý tức cũng nên là điên đảo, nhưng từng không nói. Vì thế những điều đã nói kia là từ tự chấp khởi. Hoặc tuy thừa nhận thể của pháp kia là điên đảo, nhưng không nói là thể điên đảo, tức nên tưởng v.v… cũng không nói là điên đảo, tức là trái hại với kinh đã nêu về tên gọi điên đảo.

Nếu cho như nhân vì có nhân riêng, nên tuy do sức của kiến, các tâm tâm sở đều có nghĩa điên đảo, nhưng kinh chỉ nói tưởng tâm là tên gọi điên đảo, không phải là thọ v.v… khác. Tông của tôi cũng như thế. Tức do nhân này, thế nên nhất định không có tưởng v.v… không phải là điên đảo. Hoặc pháp khác là điên đảo, tức có lỗi là trái với kinh. Điều này cũng phi lý, vì không tương tợ. Nghĩa là như tông của tôi do uy lực của kiến, tuy tâm tâm sở đều có nghĩa điên đảo, nhưng do nhân riêng nên chỉ ở nơi tưởng, tâm, lập tên điên đảo, không phải ở nơi thọ v.v… Nhưng là do kiến đang được lập tên điên đảo. Như thế, tông của ông nói do sức của tác ý, khiến tâm tâm sở đều có nghĩa điên đảo, tức do tác ý nên lập tên điên đảo.

Lại như tông của tôi cho thể của tưởng v.v… không phải là điên đảo, chỉ do sức của kiến nên giả lập lấy tên điên đảo, vì đích thật tên điên đảo nguyên do là ở nơi kiến. Tông của ông cũng nên như vậy. Do sức của tác ý, nên tưởng v.v… thật sự không phải là điên đảo, mà giả lập tên điên đảo, thì tên điên đảo đích thật nguyên do là ở nơi tác ý, không nên cho do uy lực của các pháp không phải điên đảo khiến pháp không phải điên đảo khác phải mang tên điên đảo.

Lại vì sao không thừa nhận do uy lực của tưởng, có thể khiến tác ý thành thể của điên đảo? Chủ yếu do lực dụng của vọng tưởng nhận lấy tướng, mới khởi tác ý phi lý câu sinh. Nên Khế kinh nêu rõ: Do uy lực nhận lấy tướng, có thể khiến pháp ác bất thiện như tham v.v… sinh khởi.

Lại, Khế kinh nói: Do tưởng đảo loạn nên tâm nóng bức. Không nói tâm nóng bức là do ở nơi tác ý phi lý nên sinh. Lại, theo lý tức nên do sức của pháp điên đảo vượt hơn, khiến thể của tâm, tưởng cũng được gọi là điên đảo. Về lý không phải tác ý điên đảo mạnh hơn tưởng v.v… Vì sao chỉ nói do sức của tác ý nên tưởng thành điên đảo, không phải do sức của tưởng v.v… có thể khiến tác ý thành điên đảo? Nên thuyết kia đã nói chỉ dựa vào chỗ chấp của mình.

Lại, kinh cũng nêu: Dục là gốc của các pháp. Hoặc nói: Phiền não thì vô minh là cội rễ. Vì sao không nói do uy lực kia có thể khiến tưởng v.v… cũng thành điên đảo, chỉ nói là điên đảo do tác ý thành? Vì thế nên biết dựa vào lý của Đối pháp, lập thể của điên đảo, rất là thù thắng.

Như thế các điên đảo làm sao được đoạn?

Luận giả Chánh lý nói: Chỉ do kiến khổ đoạn, do điên đảo về thường v.v… chỉ ở nơi khổ chuyển. Biết rõ về vô thường v.v… là giác, chỉ duyên nơi khổ sinh. Do thế không nên cho về sau khi kiến tập diệt đạo mới xả bỏ kiến thường lạc ngã tịnh.

Nếu như vậy tức trái với chánh lý của Kinh, Luận. Lại, trái với kinh: Nghĩa là Khế kinh nói: Nếu có các Thánh đệ tử đa văn, ở nơi khổ Thánh đế thấy biết như thật. Như thế ở nơi tập diệt đạo Thánh đế đều thấy biết như thật, thì ngay bấy giờ, Thánh đệ tử kia, các tưởng tâm kiến điên đảo: vô thường chấp là thường, đều đã đoạn trừ vĩnh viễn, cho đến nói rộng. Nếu các điên đảo chỉ do kiến khổ đoạn, thì kinh không nên nói: Khi thấy biết như thật về các đế như tập v.v… đều đã đoạn trừ vĩnh viễn.

Lại, Khế kinh nói: Nếu nghe Như Lai thuyết giảng về pháp bốn Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo xong, liền có thể đoạn trừ vĩnh viễn bốn điên đảo như thường v.v…, không phải các điên đảo chỉ do kiến khổ đoạn. Đức Phật vì đoạn trừ điên đảo kia, nên có thể nêu rõ ba kiến còn lại là kiến tập v.v… là nhận biết không phải là đối trị như kiến khổ.

Lại, như Tôn giả Khánh Hỷ nói với Biện Tự Tại:

Do có tưởng đảo loạn

Nên tâm ông nóng bức

Xa lìa tưởng kia rồi

Tham dứt, tâm liền tịnh.

Nói trái với luận: Như Bản luận nêu: Bốn điên đảo này, các vị Dự lưu, có bao nhiêu thứ đã đoạn, bao nhiêu thứ chưa đoạn?

Nên nói như thế này: Tất cả đã đoạn. Nếu bốn điên đảo chỉ do kiến khổ đoạn, thì hàng tùy tín hành, tùy pháp hành, cũng có người đã đoạn. Vì sao chỉ nói Dự lưu đã đoạn?

Trái với chánh lý: Thánh chưa lìa dục, nếu lìa tưởng lạc, tịnh, vì sao khởi dục tham?

Tông của tôi đối với ba điên đảo đều không có trái hại. Lại, nay tôi nhận thấy nghĩa của kinh đầu tiên. Là nếu Thánh đệ tử đối với bốn Thánh đế, khi được hiện quán, thì chỗ tích tập bốn điên đảo từ thời vô thủy đến nay, đều đã đoạn trừ vĩnh viễn. Không thể do đấy, liền chứng minh bốn điên đảo, mỗi mỗi đều do kiến bốn đế đoạn.

Trước đã thành lập hai kiến thân, biên, chỉ do kiến khổ đoạn, thể của điên đảo thường, ngã, tức là thuộc về hai kiến thân, biên. Vì sao kiến tập v.v… cùng đoạn điên đảo thường, ngã?

Nhưng trong kinh này, đối với khi kiến đế đầy đủ, nói là đã vĩnh viễn đoạn trừ, thì đâu có gì trái nhau?

Đối với kinh thứ hai, không có trái hại. Không phải Đức Bạcgià-phạm thuyết giảng pháp bốn đế, chỉ vì để đoạn trừ bốn thứ điên đảo này, mà đứng đầu là để dứt hết chúng khổ, đạt được tĩnh lặng rốt ráo. Nhưng có người nghe xong, tùy thuận sức đối trị, vĩnh viễn đoạn trừ bốn điên đảo, thì đâu có gì là trái nhau?

Về lý thật tức nên như thế. Do vậy, kinh kia nói:

Khi Phật nói pháp này

Vì lặng hẳn chúng khổ

Có nghe xong, biết thật

Không thường, lạc, ngã, tịnh.

Không phải bốn điên đảo thâu tóm chung chúng khổ, nên biết nghĩa của kinh kia như tôi đã giải thích.

Lại, kinh kia nêu rõ: Nếu các hữu tình bị bốn thứ tưởng, tâm, kiến điên đảo này làm loạn đảo tâm mình, thì tâm của các hữu tình kia liền ở nơi ấy mê loạn, cho đến nói rộng.

Trong đây, có thể nói là do tưởng kiến điên đảo, làm loạn đảo tâm mình, vì tương ưng tâm. Vì sao tâm điên đảo có thể làm loạn đảo tâm? Vì thế kinh kia nên quán về mật ý, không thể như đã nêu chấp là cố định dựa vào Già tha đã dẫn. Đối với lý của Đối pháp, cũng không có trái hại. Vì sao? Vì không phải chúng ta nói dục tham che lấp tưởng, không có loạn đảo. Chỉ nói thế này: Không phải các thứ loạn đảo đều gọi là điên đảo. Vì sao như thế? Vì kiến đảo đều cùng hành làm loạn đảo tâm, tưởng mới gọi là điên đảo. Nếu các thứ loạn đảo đều thành điên đảo, thì các phiền não đều nên thành điên đảo. Các A-la-hán khi đi dạo ở ngả tư đường, do sức loạn đảo của tưởng, tâm liền mê lầm, hoặc tưởng loạn đảo thấy sợi dây cho là rắn, nên trong loạn đảo phần ít lập làm điên đảo. Vì chủ yếu là hơn hết mới lập tên điên đảo. Nhân duyên hơn hết như trước đã biện. Nên có tưởng nhiễm nơi vị học hiện hành, không phải được mang tên điên đảo, đâu có trái hại?

Lại, kinh không nói về Biện Tự Tại kia nhất định ở nơi vị học, là chứng cứ không thành. Luận nói người Dự lưu đã đoạn trừ điên đảo, là vì trừ dứt nghi, nên nói như thế này: Chớ cho các thế gian trông thấy người Dự lưu dùng hoa trang nghiêm thân, lấy hương xông ướp y phục, cất giữ của cải châu báu, tham dâm, thích vị, liền nghi ngờ cho là điên đảo vẫn chưa hoàn toàn trừ bỏ. Vì vô tri che lấp tâm nên làm những sự việc ấy.

Vì loại trừ chỗ nghi của thế gian như thế, nên nói là hàng Dự lưu các điên đảo đã diệt trừ. Hoặc người Dự lưu đã đoạn không có phân biệt. Người tùy tín hành, tùy pháp hành có đoạn, chưa đoạn. Vì làm rõ nhất định đã đoạn trừ, nên nói là Dự lưu. Chánh lý không trái, như Già tha giải thích. Hoặc lỗi thái quá. Nghĩa là vì sao không nói các Thánh cũng còn tưởng ngã hiện khởi. Không phải đối với các ông cùng đối với tự thân, đã lìa bỏ tưởng hữu tình, tâm có khởi dục tham. Không nên cho là Thánh có tâm tưởng ngã, ở nơi chỉ có pháp trí đã sinh. Vì điên đảo này chỉ do kiến khổ đoạn.

Luận giả Phân Biệt nói như thế này: Thường ngã đều có ba, là lạc, tịnh, kiến điên đảo. Như thế, tám điên đảo chỉ do kiến đạo đoạn. Bốn chung cho kiến đạo, tu đạo đoạn. Nghĩa là lạc, tịnh, tưởng, tâm.

Phá bỏ giải thích này, như trước đã giải thích về lý của Già tha, nên những điều đã thuyết kia chỉ dựa vào vọng chấp.

Thượng tọa kia nói: Các người Dự lưu, kiến điên đảo đã hoàn toàn đoạn trừ. Tâm tưởng điên đảo thì chưa hoàn toàn. Không phải ở nơi tưởng không có thường, lạc, ngã, tịnh, đã không quên mất khiến phiền não có thể hiện hành. Nên kinh An Ổn đã nói như vầy: Thánh giả an ổn nêu bày: Ta ở trong sắc v.v…, không tùy thuận chấp ngã. Nhưng ở trong năm thủ uẩn như thế, còn có tùy miên ngã mạn, ngã ái chưa đoạn. Nên biết Thánh giả có tâm tưởng ngã. Ba thứ thường lạc tịnh, so sánh theo đấy cũng nhất định có.

Thuyết nêu này của Thượng tọa là trái với ý nghĩa sâu xa của chính mình, trái với kinh, trái với lý, không thể tin dựa.

Nói Thượng tọa kia đã nêu bày là trái với ý nghĩa sâu xa của chính mình: Tức Thượng tọa đã tự giải thích kinh đảo ngược vì phần khởi nhân nói: Vì có người ngu về lý thứ lớp của lưu chuyển, hoàn diệt, muốn khiến người ấy hiểu, không có điên đảo, nên nói là kinh này không phải là khéo nhận biết khắp lý của bốn Thánh đế. Đối với các thứ sinh tử đã tạo ra những giới hạn sai biệt, các phiền não chướng rất ít còn sót lại sắp được Niết-bàn, như kịp đến trong lòng bàn tay.

Bổ-đặc-già-la gồm đủ đức như thế cũng có thể có ngu về nghĩa lý thứ lớp của lưu chuyển, hoàn diệt.

Người khởi điên đảo thì được Thánh trí soi sáng ở trong thân.

Lại, Thượng tọa kia tự biện biệt, trong thể của các thứ điên đảo, nêu hỏi: Kiến đảo thì kiến gì làm thể? Tức tự đáp: Như khổ cho là lạc, bất tịnh cho là tịnh, là tà kiến làm thể.

Lại tự nêu hỏi: Há không phải là tà kiến đã bác bỏ cho không có bố thí, cho đến nói rộng. Trở lại tự đáp: Nếu ở nơi sinh tử chấp là lạc, là tịnh, thì người ấy nhất định bác bỏ cho không có chánh chí, chánh hạnh của A-la-hán chân thật.

Há không phải là lời nói này tức làm rõ Thánh giả đã ở nơi sinh tử có tưởng lạc tịnh. Kẻ kia nhất định phải có tưởng tà hiện hành, nên đã bác bỏ chánh chí chánh hạnh của A-la-hán.

Nếu cho Thánh giả về tà kiến là đã đoạn trừ, nên không có tưởng tà, tức nên Thánh giả về kiến điên đảo là đã đoạn, nên không có tưởng điên đảo.

Nói trái với kinh: Nghĩa là Khế kinh nêu rõ: Tưởng tâm kiến điên đảo đều do kiến đế đoạn. Hai kinh chứng minh này đã được dẫn đủ như trước.

Nếu cho tám tưởng tâm điên đảo này ở trong phần vị tu, sau cùng do thấy biết như thật về Thánh đế mới được vĩnh viễn đoạn trừ, lìa đấy thì không có phương tiện nào khác để đoạn trừ vĩnh viễn, nên những điều đã nói ở đây là không trái với kinh. Há không phải là kiến điên đảo, nên đồng với chấp kia, đồng với tưởng, tâm nói là do kiến đế đoạn?

Nếu cho các kiến có trong kinh khác đã ngăn chận do tu đạo đoạn, thì chỉ nên nói hai điên đảo tưởng, tâm là chung do tu đạo đoạn. Kinh khác hợp nêu ba thứ tâm, tưởng, kiến có bốn điên đảo.

Do đâu không thừa nhận khi lìa kiến đảo thì tâm tưởng không phải điên đảo?

Nếu cho kinh nói Thánh giả hữu học có tưởng loạn đảo, thì vấn đề này trước đã giải thích.

Trước đã giải thích như thế nào?

Nghĩa là không phải loạn đảo đều gọi là điên đảo. Hoặc không phải kinh kia nói về Biện Tự Tại, nhất định ở nơi vị học.

Nói trái với lý: Lại như Thánh hữu học vì cầu lạc, nên khi thọ dụng cảnh, trong cảnh tuy không có đế lý lạc tịnh, nhưng có sự lạc tịnh, có thể dẫn dắt tưởng, tâm, nên lạc, tịnh, tâm, tưởng nơi Thánh cùng hiện khởi là đều không có. Tưởng, tâm thường, ngã trong tụ của các hành thường, ngã, vì sao cùng hiện khởi? Vì lạc, tịnh điên đảo là dựa vào hữu sự sinh hay là dựa vào vô sự sinh? Hai điên đảo thường, ngã, do có lạc thọ là thuộc về thắng nghĩa. Nghĩa này quyết định, như phần sau sẽ biện.

Trong pháp hữu lậu có phần ít tịnh. Khế kinh nêu có ba nghiệp tịnh: Tịnh, giải thoát, cảnh. Vì kinh đã nói nên lạc tịnh là thật có, nơi thế gian cực thành.

Trong tụ của các hành, hoặc sự, hoặc lý đều không có Thể thật của thường ngã có thể đạt được. Nên người chưa kiến đế, ở trong các hành đã vọng khởi chấp thường, ngã, tưởng, tâm, kiến điên đảo, cũng dựa vào phần ít trong sự lạc tịnh để hoàn toàn chấp làm lạc tịnh của lý thật. Có chấp lạc tịnh thì tưởng, tâm, kiến điên đảo thành.

Người đã kiến đế, ở trong tụ hành, do hoàn toàn không có sự thường, ngã, nên cũng nhất định không khởi tưởng tâm thường, ngã. Do đấy, nên biết Thánh giả cùng nối tiếp, hai điên đảo thường, ngã quyết định là không có. Tưởng tâm lạc tịnh vì dựa vào hữu sự, nên ở nơi Thánh cùng nối tiếp cũng được hiện hành.

Có được tên gọi loạn đảo, không gọi là điên đảo. Vì điên đảo chỉ mê nơi lý, phân biệt khởi. Nhưng Thượng tọa kia đã dẫn Khế kinh An Ổn, không thể chứng minh là Thánh có tưởng tâm thường, ngã, điên đảo, là không thành nghĩa điên đảo, như trước đã biện.

Như thế là xét rõ lời Thượng tọa đã nói, đối với lý, Thánh giáo, không gì là không trái hại, nên những điều đã nói kia là không đáng tin cậy.

Đã biện về tướng sai biệt của tùy miên kiến xong. Vì các tùy miên còn lại cũng có tướng sai biệt chăng?

Cũng có như thế nào? Tụng nêu:

Mạn bảy, chín từ ba

Đều chung kiến, tu đoạn

Thánh như dứt các triền

Có tu đoạn không hành.

Luận nói: Có người ngu si, trước ở trong có sự, không có sự, so sánh về mình người, tâm sinh cao ngạo, gọi là mạn. Do hành chuyển khác, nên phân làm bảy thứ: (1) Mạn. (2) Quá mạn. (3) Mạn quá mạn. (4) Ngã mạn. (5) Tăng thượng mạn. (6) Ty mạn. (7) Tà mạn.

Ở trong tộc họ, bạn bè v.v… của kẻ khác là kém thua hoặc bằng, mà cho mình là hơn là bằng, tỏ ra cao ngạo, gọi là Mạn. Há không phải là hai thứ này cùng ở trong cảnh, như thật mà chuyển, tức không nên thành mạn. Ở nơi thua kém nói là hơn. Ở nơi bằng nhau nói là bằng, xứng lượng mà biết, lỗi gì gọi là mạn?

Đối với sự việc đáng yêu, tâm sinh ái nhiễm, như thật mà chuyển, vì sao thành tham? Người này đã tham cầu các sự việc vừa ý, không có điên đảo nên không phải là phiền não. Tuy nhiên, do tham ấy khởi có thể nhiễm não tâm. Đã thừa nhận thành tham là tánh của phiền não. Như thế tuy thật do xứ hơn kém sinh, nhưng có thể khiến tâm đề cao, nhiễm não, gọi là phiền não mạn. Về lý là không lỗi. Nên trước là lược thuật về mạn.

Trong tướng chung đã nói xong.

Có, không có, cả hai đều cùng khởi mạn. Như đối với xứ, phi xứ, đều đã phẫn nộ, cùng gọi là sân.

Đối trong tộc họ, bạn bè v.v… của kẻ khác là bằng, hoặc hơn mình, mà cho mình bằng và hơn, gọi là Quá mạn.

Đối trong tộc họ, bạn bè v.v… của kẻ khác là thù thắng, cho mình là hơn, gọi là Mạn quá mạn.

Đối với năm thủ uẩn, chấp là ngã, ngã sở, tâm liền đề cao, gọi là Ngã mạn.

Do đấy chứng biết, đối với phần vị hữu thân kiến, chưa thiếu giảm có thể nói là có hai thứ tưởng tâm điên đảo của ngã, không phải là khi thiếu giảm. Đối với đạo của địa chưa chứng đắc, sự việc đoạn trừ v.v… trong chứng đắc thù thắng, cho là mình đã chứng đắc, gọi là Tăng thượng mạn.

Chưa chứng đắc, nói chứng đắc, nghĩa ấy có khác biệt gì? Trước đắc, sau đắc về nghĩa là không khác.

Lời nói này là làm rõ chưa đắc đức mà nói đắc. Đắc lại có đắc thì tông đã thừa nhận.

Có các người tại gia, hoặc xuất gia, đối với các đức như Thi la, công xảo v.v… của người khác phần nhiều là hơn mình, cho là mình chỉ thua kém ít, tâm sinh đề cao, gọi là Ty mạn.

Trong đây, đối với mình tâm đề cao. Tức đối với người khác hơn mình nhiều, cho là mình chỉ thua kém ít, vì có tăng thêm về mình nên cũng nói là cao.

Có Sư khác nói: Đối với công sức của mình không tin, cho là thua kém, gọi là Ty mạn.

Như thế, tức là thua kém nên đề cao là không thành.

Vì thế nên biết thuyết trước là hơn.

Ở trong không có đức, cho là mình có đức, gọi là Tà mạn. Nói không có đức: Nghĩa là các hành ác, vì trái với công đức, nên lập tên không có đức. Cũng như bất thiện ở xứ kia, ở đây thì thành pháp không có đức. Cho là mình có công đức thù thắng này, vì dựa cậy nơi ác để tự đề cao, nên gọi là Tà mạn.

Nếu cho không có đức, nói là ngăn chận có đức, ở trong chỗ thật sự không có đức mà cho là có, gọi là Tà mạn. Thuyết kia trong phần biện về tăng thượng và tà mạn có sai biệt, nói không có chủng tử, gọi là tăng thượng mạn, có chủng tử gọi là tà mạn. Hoặc hoàn toàn tăng ích, gọi là tăng thượng mạn, tăng ích phần ít, gọi là tà mạn. Lý sai biệt như thế, tức nên không thành. Do thế nên biết thuyết trước là hơn.

Có thuyết cho: Chỉ trừ ngã kiến, ngã sở kiến, các tà kiến còn lại làm ưu tiên sinh khởi, khiến tâm đề cao gọi là tà mạn.

Có Sư khác nêu: Dựa cậy hoàn toàn nơi sự thật để đề cao, gọi là Mạn. Dựa cậy một ít sự thật, tâm sinh đề cao, gọi là Quá mạn. Dựa cậy nơi sự không có thật, tâm sinh đề cao, gọi là Mạn quá mạn.

Ở nơi năm thủ uẩn, ngã ái trước tiên, dựa cậy vào ngã để đề cao gọi là Ngã mạn.

Đối với sự việc chứng một ít đức, cho là mình đã chứng nhiều, tâm sinh đề cao, gọi Tăng thượng mạn. Thâu nhận một ít sự việc, tâm cho là đủ, ỷ thị sinh đề cao, gọi là Ty mạn. Thật sự là loại xấu ác, tự cho là có đức, tâm sinh cao ngạo, gọi là Tà mạn. Tuy nhiên, Bản luận nêu bày về loại mạn có chín. Loại là nghĩa phẩm loại, tức sự sai biệt của mạn. Chín loại là những gì?

    1. Loại mạn ngã hơn.

 

  • Loại mạn ngã bằng.
  • Loại mạn ngã kém.
  • Loại mạn có hơn ngã.
  • Loại mạn có bằng ngã.
  • Loại mạn có kém ngã.

 

  1. Loại mạn không có hơn ngã.
  2. Loại mạn không có bằng ngã.
  3. Loại mạn không có kém ngã.

Chín loại này đều dựa vào hữu thân kiến mà khởi. Ngã (Ta) hơn là loại Quá mạn. Ngã bằng là loại Mạn. Ngã thua kém là loại Ty mạn.

Có hơn ngã: Là loại ty mạn. Có bằng ngã: Là loại mạn. Có kém ngã: Là loại quá mạn. Không có hơn ngã: Là loại mạn. Không có bằng ngã: Là loại quá mạn. Không có kém hơn ngã: Là loại ty mạn.

Thế nên chín loại này là từ ba mạn xuất sinh. Nghĩa là mạn, quá mạn và ty mạn. Ba hành tiếp theo có khác, nên thành ba, ba loại.

Loại mạn không có kém ngã thì đề cao, vì sao thành? Nghĩa là có kẻ như thế, đối với chỗ ưa thích của tự thân cho là hơn tụ hữu tình. Tuy đối với bản thân nhận biết là rất thấp kém, nhưng tự tôn trọng, như người Trình thụy hoặc Chiên đồ la. Tuy họ tự nhận biết thế gian cùng ghét bỏ, nhưng đối với kẻ Trình thụy khi làm việc, vì tôn trọng thân mình, nên thành đề cao.

Bảy mạn như thế là do pháp nào đoạn trừ?

Có Sư khác nói: Ngã mạn, tà mạn chỉ do kiến đạo đoạn. Các mạn còn lại thì chung do kiến đạo, tu đạo đoạn. Về lý thật nên nói bảy thứ mạn đều chung do cả hai đoạn, nên Năng An Ổn nói như thế này: Ta ở trong sắc v.v…, không tùy thuận chấp ngã. Nhưng ở trong năm thủ uẩn như thế, có tùy miên ngã mạn, ngã ái chưa đoạn trừ. Nghĩa là do tu đạo đoạn, khi Thánh chưa đoạn, nhất định có thể hiện hành. Sự việc này không quyết định. Tức có tùy miên đã đoạn, nhưng có thể hiện hành. Như tín khổ, miên nhãn v.v… đã lìa dục tham. Có tùy miên tuy chưa đoạn, nhưng nhất định không hiện hành. Như sát triền v.v… của Thánh giả chưa lìa dục tham.

Nói sát triền: Nghĩa là do triền này phát khởi, nên cố ý đoạn dứt mạng chúng sinh.

Vân vân: Nghĩa là các triền trộm lấy, dâm, lừa dối, không có ái hoàn toàn, có ái một phần.

Không có gọi là pháp nào. Nghĩa là vô thường của ba cõi, đối với pháp này tham cầu gọi là không có ái. Do đấy, đã phân biệt về vô thường, vô lậu. Người kia nhất định không phải tham xứ yên đủ.

Có ái một phần: Nghĩa là nguyện sẽ làm Đại Long vương Áila-phiệt-noa v.v…

Nói vân vân: Là làm rõ A-tố-lạc vương, châu Bắc câu lô, trời Vô tưởng v.v… Sát triền này v.v… tuy do tu đạo đoạn, nhưng các Thánh giả nhất định không hiện hành.

Nói tu đạo đoạn không hành này, trở thành không công dụng. Vì nên nói là Thánh có mà không khởi. Nếu trong thân Thánh có cùng hiện khởi, thì nói ngăn chận không khởi, là lời nói có tác dụng. Không phải trong thân Thánh có kiến đạo đoạn, cùng có thể hiện khởi mà lại cần ngăn chận, do đã có mà ngăn chận, tức đã biết là do tu đạo đoạn, và nghĩa không hành đâu phiền nói ra.

Nếu cho mạn của thuyết trước là chung do kiến đạo, tu đạo đoạn, thì đừng nói triền như sát v.v… cũng chung do kiến đạo đoạn, nên nói là do tu đạo đoạn.

Giải thích này cũng không đúng. Vì câu nói: Nói về sát triền

v.v… là đã phân biệt do kiến đạo đoạn.

Lại xem cách giải thích sau, về nghĩa đủ có thể nhận biết. Như loại mạn v.v… nơi kiến đã tăng. Do đấy, lời nói này chỉ nên ở nơi pháp.

Lại, trong giải thích nói: Các triền ái này, vì tất cả đều duyên nơi tu đạo đoạn, nên chỉ do tu đạo đoạn, thì đây không phải là nhân nhất định, vì kiến đạo đoạn cũng duyên nơi pháp do tu đạo đoạn.

Nếu tạo giải thích này, thì ở đây bao hàm chỉ là lời nói, tức là nhân này có thể làm chứng nhất định. Há không phải là kiến đạo đoạn cũng có vô thường không có ái? Do đâu chỉ có tu đạo đoạn?

Thật ra cũng do kiến đạo đoạn. Lại, tùy theo kinh nói. Nghĩa là trong Khế kinh nêu rõ có ba ái, tức dục ái, hữu ái, vô hữu ái.

Ở trong kinh này nói về vô hữu ái nhận lấy duyên nơi vô thường của chúng đồng phần làm cảnh, tham cầu dị thục cùng nối tiếp đã đoạn. Như Khế kinh nói: Một loại khổ bức bách, tạo nên suy niệm như thế này: Nguyện tôi sau khi chết, đoạn hoại không có, không bệnh. Vui thay!

Nay lại căn cứ theo thuyết này thì chỉ tu đạo đoạn, không phải kiến đạo đoạn. Không có vô hữu ái, như trước đã nói.

Loại mạn, ngã mạn có do tu đạo đoạn, Thánh giả cũng có, không nói tự thành.

Những thứ này do đâu Thánh giả cũng có nhưng không hiện khởi? Tụng nêu:

Loại mạn cùng ngã mạn

Trong ố tác bất thiện

Thánh có nhưng không khởi

Do kiến, nghi đã tăng.

Luận nói: Nói vân vân (Trong câu tụng đầu) là làm rõ về các triền như sát v.v… không có ái hoàn toàn, có ái một phần, vì các Thánh giả khéo tu không, khéo nhận biết về lý tương thuộc nơi quả của nghiệp, nên đối với những loại mạn v.v… Ngã mạn, ố tác này, tuy Thánh chưa đoạn, nhưng nhất định không hành.

Lại, kiến, nghi này thân cận đã tăng. Kiến, nghi đã đoạn nên không còn hành. Tức loại mạn, ngã mạn do hữu thân kiến nên đã tăng, các triền như sát sinh v.v… do tà kiến nên đã tăng. Các vô hữu ái do đoạn kiến nên đã tăng. Có ái một phần, do thường kiến nên đã tăng. Bất thiện, ố tác là nghi đã tăng. Nên trong thân Thánh, tuy có chưa đoạn, nhưng do từ bỏ, chiết phục, nên đều nhất định không hành.

HẾT – QUYỂN 47