LUẬN A TỲ ĐẠT MA THUẬN CHÁNH LÝ
Tác giả: Tôn giả Chúng Hiền
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 46

Phẩm thứ 5: BIỆN VỀ TÙY MIÊN, phần 2

Như trước đã nói về sáu thứ tùy miên. Lại, căn cứ ở môn khác, kiến lập làm mười.

Vì sao thành mười? Tụng nêu:

Sáu do kiến khác mười

Khác tức hữu thân kiến

Biến chấp kiến, tà kiến

Kiến thủ, giới cấm thủ.

Luận nói: Trong sáu tùy miên, hành của kiến có khác là năm, số còn lại không phải là kiến. Tích tập năm số tổng cộng thành mười. Ở trong mười năm thứ là tánh kiến: (1) Hữu thân kiến. (2) Biên chấp kiến. (3) Tà kiến. (4) Kiến thủ. (5) Giới cấm thủ.

Năm thứ không phải là tánh kiến: (1) Tham. (2) Sân. (3) Mạn. (4) Vô minh. (5) Nghi.

Kiến cùng với không phải kiến hợp thành mười thứ.

Lại, tức sáu thứ lại căn cứ ở môn khác để kiến lập, liền thành chín mươi tám thứ. Dựa vào môn nào để kiến lập thành chín mươi tám? Tụng nêu:

Sáu hành bộ cõi khác

Nên thành chín mươi tám

Dục kiến khổ cùng đoạn

Mười bảy, bảy, tám, bốn

Như thứ lớp lìa đủ

Ba, hai kiến, kiến nghi

Sắc, vô sắc trừ sân

Còn lại như dục nêu.

Luận nói: Sáu thứ tùy miên, do môn hành bộ cõi có sai biệt, nên thành chín mươi tám. Nghĩa là ở trong sáu thứ do hành của kiến khác nên kiến lập làm mười, như trước đã biện. Tức mười thứ tùy miên đã biện này do bộ cõi không đồng nên thành chín mươi tám.

Bộ, nghĩa là năm bộ do kiến bốn đế và tu đạo đoạn. Cõi, nghĩa là ba cõi dục, sắc, vô sắc. Lại, đối với năm bộ của cõi dục không đồng, nhân nơi mười tùy miên thành ba mươi sáu. Nghĩa là kiến khổ đế đến tu đạo đoạn, như thứ lớp có mười, bảy, bảy, tám, bốn. Tức năm bộ trên đối vói mười tùy miên.

Một, hai, một một, như thứ lớp đó, lìa đủ ba kiến, hai kiến, kiến nghi. Nghĩa là kiến khổ đế đoạn đủ mười, vì tất cả đều trái với kiến khổ đế. Kiến tập đế diệt đế đoạn đều bảy là trừ hữu thân kiến, biên kiến, giới thủ. Kiến đạo đế đoạn là tám, tức nơi bảy thứ trước thêm giới thủ. Tu đạo đoạn bốn, là trừ kiến và nghi.

Như thế hợp thành ba mươi sáu thứ.

Ba mươi hai thứ trước gọi là kiến đạo đoạn. Lúc vừa kiến đế, thì ba mươi hai thứ tùy miên kia tức đoạn. Sau cùng có bốn, gọi là tu đạo đoạn.

Sau kiến bốn đế xong, trong thời gian sau, thường xuyên hành tập đạo, thì bốn thứ tùy miên kia mới đoạn.

Do đấy, đã hiển bày trong mười tùy miên thì Tát-ca-da-kiến chỉ ở một bộ, nghĩa là do kiến khổ đoạn. Biên chấp kiến cũng như thế. Giới cấm thủ thì ở chung nơi hai bộ, nghĩa là do kiến khổ, kiến đạo đoạn. Tà kiến là chung nơi bốn bộ. Nghĩa là do kiến khổ, tập, diệt, đạo đoạn. Kiến thủ, nghi cũng như vậy. Bốn thứ còn lại như tham v.v… đều chung nơi năm bộ. Nghĩa là kiến bốn đế và tu đạo đoạn.

Như thế nêu chung về kiến phân chia làm mười hai.

Nghi phân làm bốn. Bốn thứ còn lại đều có năm thành hai mươi, nên trong cõi dục có ba mươi sáu.

Ở đây, Kinh chủ tự nêu hỏi đáp:

Tướng nào trong đây là do kiến khổ đoạn cho đến tướng nào là do tu đạo đoạn?

Nếu duyên nơi kiến thì đối tượng đoạn của kiến này là là cảnh, gọi là kiến. Phần còn lại của đối tượng đoạn này, gọi là tu đạo đoạn.

Giải thích này là không hợp lý. Vì sao? Vì tùy miên biến hành duyên nơi năm bộ, tức là tùy miên do kiến khổ, tập đoạn, cũng tức nên chung do kiến tập, khổ v.v… đoạn.

Lại, tùy miên do kiến diệt, đạo đoạn, duyên nơi pháp không đoạn nên nói là đối tượng đoạn nào?

Thế nên câu nói của thuyết kia về chỗ tương ưng của đối tượng đoạn là không khéo lập.

Nếu kiến duyên nơi khổ làm cảnh, gọi là kiến khổ, tức là khổ pháp, khổ loại trí nhẫn.

Đối tượng đoạn của hai trí nhẫn này, nói chung gọi là kiến khổ đoạn, cho đến kiến đạo đoạn cũng như thế.

Thường tập, gọi là tu. Nghĩa là người kiến tích, vì đạt được nghĩa trên, đối với các trí như khổ v.v… thường thường huân tập, gọi là tu. Đối tượng trừ diệt của đạo này, gọi là tu đạo đoạn. Đây gọi là khéo lập tướng của đối tượng đoạn.

Năm bộ của cõi sắc, vô sắc đều trừ sân, ngoài ra so với cõi dục là đồng, nên đều có ba mươi mốt tùy miên.

Do đấy, tất cả Luận sư Chánh lý đều dùng sáu tùy miên, căn cứ theo môn hành bộ, cõi có sai biệt, nên lập làm chín mươi tám.

Ở đây, đã biện trong chín mươi tám thứ, thì tám mươi tám thứ là do kiến đạo đoạn, tức là đối tượng diệt trừ của nhẫn. Mười tùy miên là do tu đạo đoạn, là đối tượng diệt trừ của trí. Do đâu ở đây căn cứ theo cõi không đồng để kiến lập tùy miên, không phải căn cứ ở địa có khác nhau?

Như không có cõi khác nhau của cõi dục, sắc, tùy miên ở trong một sự, đều cùng có lý tùy tăng, ở địa khác của hai tĩnh lự đầu cũng như thế.

Nếu cho địa tuy khác, nhưng có đồng đối trị, không phải đối trị cõi dục, cõi sắc có đồng. Vậy thì không nên lập riêng vô sắc. Do cõi vô sắc so với cõi sắc có đồng đối trị.

Nếu do tu đạo đoạn, đối trị sinh dần, nên cõi sắc, vô sắc tức nên lập riêng, thì các địa cũng như thế, vì sao không nêu riêng?

Nên phải lập hai trăm tán mươi bốn tùy miên. Nếu như thừa nhận như vậy, thì cũng không có lỗi. Lại, căn cứ nơi cõi có khác để lập chín mươi tám. Vì sao? Do lìa tham của cõi kiến lập quả Sa-môn nhận biết khắp. Nghĩa là lập hai quả này, do đoạn dứt tùy miên. Sự việc đoạn trừ tùy miên này là căn cứ ở cõi không phải là địa, nên không căn cứ theo địa để kiến lập tùy miên.

Sư nổi danh ngày trước nói: Đức Phật đối với pháp tánh, thấu đạt sáng rõ, có thể thuyết giảng chỉ dạy cho người khác biết, nhất định nên khéo quán về địa của bốn tĩnh lự, có một ít tương tợ của pháp tánh nơi các phiền não. Tuy có bốn địa, nhưng hợp nói một. Đối với bốn vô sắc hợp nói cũng như thế. Kinh chỉ nói về sắc tham, vô sắc tham v.v…

Do nghĩa này, nên Luận sư Chánh lý kiến lập tùy miên, căn cứ theo cõi, không phải là địa.

Vì sao tánh của bốn địa ít có tương tợ?

Có thuyết nói: Đồng là gồm thâu chi địa.

Giải thích này phi lý. Vì sao? Vì trong các địa cận phần có phiền não sinh.

Có thuyết cho: Đồng là thuộc về địa chiếu khắp.

Có thuyết nêu: Cùng là hoặc của loại sắc tham. Tôi nói: Ở đây có ít tương tợ, chính là Đức Bạc-già-phạm đã thông đạt sáng rõ, chủ yếu là đoạn trừ vĩnh viễn Hoặc nơi phẩm hạ hạ của tĩnh lự thứ tư mới lập nhận biết khắp.

Phần vị phẩm hạ thì không như vậy, nên biết bốn địa tất có phần ít tương tợ của loại tánh, không phải phiền não của địa trên có thể duyên buộc địa dưới. Ba tĩnh lự dưới, khi được ly hệ, đâu lại không lập riêng Thể của đoạn nhận biết khắp, nhất định nhận biết một loại phiền não chưa dứt trừ. Tuy đã ly hệ nhưng so với trói buộc là có tương tợ. Chủ yếu là Hoặc đồng loại đã vĩnh viễn đoạn trừ trọn vẹn mới được gọi là Ly hệ rốt ráo. Cho nên chỉ căn cứ theo cõi để kiến lập tùy miên, không căn cứ nơi địa để lập, về lý là đúng.

Có Sư khác nói: Như có người bị kẻ oán đối bắt giam trong ngục tù. Người ấy tìm cách chạy ra khỏi, cho đến khi chưa tới những nơi chốn không tương tợ so với kẻ oán đối như thành, rừng, ruộng, nơi trống vắng v.v… Tuy đã vượt ngục của kẻ oán đối, nhưng chưa thật sự an ổn.

Như thế, nếu đoạn dứt tham của ba định dưới, thì vẫn chưa đến xứ không tương tợ của tham kia, tuy đã vượt qua phần ít, nhưng chưa được an ổn hoàn toàn. Nên chỉ căn cứ theo cõi để kiến lập tùy miên.

Có Sư khác cho: Nếu vượt qua cõi dục, tức là đã vượt qua vô lượng pháp khổ của uẩn xứ giới lớn nơi nhiều nẻo, nhiều đời. Nếu vượt qua cõi sắc, tức là đã vượt qua một thủ uẩn, hoàn toàn nhiều xứ, nhiều giới. Nếu vượt qua cõi vô sắc tức là đã vượt qua hết tất cả uẩn, xứ, giới của sinh tử.

Vì lìa ba định dưới thì đối tượng vượt qua không như vậy, nên lập tùy miên là căn cứ theo cõi, không phải theo địa. Tuy nhiên, các Luận sư Chánh lý thời xưa cũng đã thừa nhận, tùy miên đã căn cứ theo địa để kiến lập, nên đã lập ra vấn đáp giả như thế này:

Hỏi: Từng có phàm phu đối với chín mươi tám tùy miên đã đoạn trừ vĩnh viễn, thành tựu đủ chăng?

Đáp: Có. Nghĩa là phàm phu sinh ở cõi dục, đã được định thứ ba, chưa lìa tham của cõi kia.

Hỏi: Từng có phàm phu đạt được định thứ ba, đối với chín mươi tám thứ tùy miên đã nói, vĩnh viễn đoạn trừ mà không thành tựu đủ chăng?

Đáp: Có. Là phàm phu kia từ nơi cõi dục đã mất.

Hỏi: Từng có người nào ở nơi phần vị khổ pháp trí nhẫn của kiến đạo mà hoàn thành đủ chín mươi tám tùy miên đã vĩnh viễn đoạn chăng?

Đáp: Có. Nghĩa là phàm phu kia đã được nhập chánh quyết định.

Hỏi: Từng có các Thánh Bổ-đặc-già-la, ở trong mười trí chỉ thành tựu bốn trí mà vĩnh viễn đoạn trừ được tám mươi hai tùy miên chăng?

Đáp: Có. Nghĩa là hàng hữu tình còn đủ trói buộc, đã nhập chánh quyết định, vào lúc đang trụ ở khổ loại trí.

Nếu địa của bốn tĩnh lự trong cõi sắc đều đồng một hệ buộc như cõi dục thì có lỗi gì? Đây tức đã khéo thuận theo chỗ căn cứ nơi tham của cõi đã đoạn để kiến lập nhận biết khắp và quả Sa-môn Lại, thuận với Bản luận nói về nhân biến hành, làm nhân có thể sinh pháp nhiễm của tự cõi. Không như vậy thì lý của kinh, luận là trái nhau. Lại, dẫn văn kinh để chứng minh bốn tĩnh lự không phải là đồng một hệ thuộc. Như Khế kinh nói: Hành giả kia khởi tư duy: Ta sẽ an trụ nơi tầm tứ tịch tĩnh trong định thứ hai. Tuy khởi tư duy ấy, nhưng không có thể nhập. Lại, suy niệm: Nhân nào duyên nào khiến ta ở đây, tâm không thể nhập? Suy niệm như thế rồi, liền tự nhận biết rõ: Do ta cũng còn ở nơi tầm tứ có những lỗi lầm chưa nhận thức, chưa thấu đạt, chưa thấy, chưa biết đối với công đức của tĩnh lự không có tầm tứ, chưa có thể tu tập, tu tập nhiều, nên đối với định thứ hai, tâm không thể nhập. Nói rộng cho đến: Ta do trụ ở định này thường thường phát động tầm tứ đều cùng hành, tác ý lỗi lầm của các tưởng khiến khởi, nay nhất định nên đoạn, cho đến nói rộng.

Ý trong đây nêu rõ, như vượt qua cõi dục, như thế sẽ vượt qua địa của tĩnh lự v.v… Tác ý của các tưởng hiện có của địa dưới có thể làm chướng ngại lìa nhiễm và có thể thoái chuyển.

Nói vì lỗi lầm không phải là tự địa, nên nhận biết cõi sắc không phải là một hệ buộc. Lại, nhận thấy lỗi lầm, có thể làm nhân nhàm chán. Nhàm chán làm nhân lìa bỏ, lìa bỏ nên giải thoát. Nếu đồng một trói buộc, thì giải thoát này tức nên vô ích.

Lại, nói về tầm tứ được dần dần dứt bỏ. Nghĩa là Khế kinh nêu rõ: Nếu sư Du Già nhập định thứ hai, thì tầm tứ liền dứt, nói rộng cho đến… được nhập định vô biên không xứ, thì tưởng sắc liền dứt. Các địa của cõi sắc, nếu đồng một hệ buộc, thì các người Du Già đã không có dụng lực để có thể xả bỏ tức thì tầm tứ, hỷ lạc, tưởng sắc, do tâm khiếp sợ như gánh cực nặng, nên cuối cùng không có người xả tầm v.v… Lại, nói câu lìa hỷ, đoạn lạc. Nghĩa là Khế kinh nói: Lìa hỷ đoạn lạc, không phải là đồng một hệ buộc. Các xứ của cõi dục có lượng nhỏ như đầu sợi lông chưa được lìa tham, có thể nói là hoàn toàn lìa trói buộc của cõi dục, chỉ trừ pháp do kiến đạo đoạn đã đoạn. Tuy chưa vĩnh viễn lìa tham do tu đạo đoạn, mà gọi là lìa trói buộc, vì không phải là cảnh giải thoát kia. Các địa của cõi sắc, nếu đồng một hệ buộc, tức nên có trói buộc khác, nên lìa đoạn không thành. Những điều này gọi là chỗ trái nhau của kinh.

Tiếp theo dẫn văn luận để chứng minh bốn tĩnh lự không phải là đồng một hệ buộc. Như Bản luận nói: Ai thành tựu lạc căn? Nghĩa là người sinh nơi trời Biến tịnh, hoặc sinh nơi địa dưới, hoặc Thánh sinh nơi địa trên, thì người nào ở đây không thành? Nghĩa là phàm phu sinh nơi địa trên, không phải pháp ở địa dưới. Khi sinh lên địa trên tuy nói là không thành, nhưng không do đoạn ở đồng một hệ buộc. Trong cõi dục v.v… không thấy lý nhất định thành v.v… như đây. Nhưng nơi Bản luận đã nói về nhân biến hành là nhân có thể sinh nhiễm của tự cõi. Lại, vì căn cứ theo cõi để kiến lập tùy miên, biện về nhân biến hành, nên nói như thế.

Cũng có Luận gốc nói sinh nhiễm của tự địa. Những thứ này gọi là chỗ trái nhau của luận.

Vì sao một hệ buộc so với lý là trái nhau? Vì sao theo lý của kinh là trái nhau?

Tức không nên ở nơi hai định nêu bày về chi nội đẳng tịnh, vì chưa đoạn tầm tứ, cùng các phiền não uế trược.

Lại hữu tình sinh vào tĩnh lự thứ tư, cũng tức nên thành nhiễm tầm tứ, hỷ, lạc. Nhưng Khế kinh đã nói câu dứt bỏ tầm v.v… Lại Khế kinh nói: Lìa hỷ, đoạn lạc so theo lý của Bản luận là trái nhau. Tức trong Bản luận nói: Đẳng vị tương ưng của định thứ hai có thể cùng với đẳng vị tương ưng nơi định thứ nhất, chỉ tạo hai duyên, là tăng thượng duyên và đẳng vô gián duyên. Các địa của cõi sắc nếu đồng một hệ buộc, thì tham của các địa trên, đối với ái của địa dưới, cũng nên có thể làm nhân và đối tượng duyên. Lại, trừ khi thọ sinh, tức nên làm đẳng vô gián duyên. Lại, ái của định thứ nhất, cho đến nên cùng với tham của định thứ tư làm đẳng vô gián duyên. Lại nên từ vị nơi định thứ nhất vô gián, cho đến tịnh nơi định thứ tư đều hiện tiền. Lại, trừ thọ sinh, nên từ tịnh của định thứ tư vô gián, thì vị của định thứ nhất sinh khởi.

Như thế là trên dưới làm đẳng vô gián duyên lần lượt cùng sinh, nên lập nhiều vấn nạn. Lại, không nên ở trong nghiệp thứ tư, nói bốn tư nghiệp có thể đoạn trừ dị thục trắng trắng. Lại, không nên nói về định cận phần trên có thể đoạn Hoặc của địa dưới, vì đồng một hệ buộc. Lại, các người Bất hoàn đạt được định thứ nhất, so với người được bốn định, thì đối tượng đoạn nên đồng.

Thế nên nhất định phải thừa nhận địa trên dưới, như nhân quả của nghiệp, Hoặc nơi cõi đều khác, do lý chẳng đồng vì một hệ buộc.

Như trước đã nói: Cõi trên trừ sân.

Do nhân duyên gì sân ở cõi kia không có?

Vì sự của tùy miên sân kia là không có. Nghĩa là đối với khổ thọ, có sân tùy tăng. Vì nơi cõi kia khổ thọ không có, nên sân không có. Lại, vì tùy miên sân có tướng khô nhám, nghĩa là phiền não này, tướng của nó là khô nhám, cũng như bệnh phong.

Loại hữu tình nơi cõi kia do Xa-ma-tha làm thấm nhuần, trơn láng cùng nối tiếp, nên chúng không có tướng sân khô nhám. Lại, hữu tình nơi cõi kia không phải là nhân của dị thục sân. Nghĩa là sân, tất chiêu cảm dị thục phi ái. Hai cõi trên không có các sự việc phi ái. Bên ngoài không có các duyên như chất độc, gai nhọn, tro nóng v.v… Bên trong không có các bệnh như phong nhiệt, điên cuồng, động kinh v.v…

Có thuyết nói: Vì nơi cõi kia không có sự việc não hại, nên là xứ cư trú của các căn thiện như từ v.v… và vì các đối tượng thâu nhận đều xa lìa.

Có Sư khác nêu: Tánh của sân thì thô tháo, gấp vội, đáng xa lìa, nên khi sư Du Già lìa dục tham, tức có thể dứt bỏ. Như các thứ cấu uế khô nhám không ở trong những lỗ, thì vừa được tăng thêm tẩy rửa, lau chùi, tức nhanh chóng có thể loại trừ.

Luận sư Phân biệt nêu bày như thế này: Không có chín mươi tám thứ tùy miên đã được lập. Kinh nêu rõ tùy miên chỉ có bảy. Nghĩa là Khế kinh nói: Nếu muốn đoạn trừ vĩnh viễn bảy thứ tùy miên, thì từ hôm nay, các ông nên ở nơi trụ xứ của ta, siêng năng tu trì phạm hạnh.

Do đấy, nên biết Luận giả Chánh lý, chỉ dựa vào chỗ chấp của mình để lập ra chín mươi tám tùy miên. Nếu lìa bỏ lời Thánh nói, dựa vào chỗ chấp của mình để lập, tức nên thừa nhận có vô lượng tùy miên, vì ở trong vô lượng thân hữu tình chuyển biến. Nay, xem kỹ Cụ thọ kia đối với lý của Thánh giáo đã không thể xét rõ. Nếu quán xét như thật, thì pháp đã lập ở đây về lý giáo là cực thành.

Trong số tùy miên, có thể cố ý không phải bác bỏ. Lại, không phải Luận sư kia đã dẫn kinh nói về bảy tùy miên có chứng số nhất định, vì có thể không phải là liễu nghĩa. Nghĩa là kinh khác nói: Nếu người muốn đối với sắc, chán lìa, muốn diệt trừ để đạt được giải thoát vĩnh viễn, thì phải nên ở nơi trụ xứ của ta, siêng năng tu trì phạm hạnh. Cho đến đối với thức nói cũng như thế.

Kinh này chỉ nói: Muốn dứt trừ tùy miên, phải nên ở nơi trụ xứ của ta, siêng năng tu trì phạm hạnh, nên biết kinh này không phải là thuyết giảng liễu nghĩa.

Lại, ở nơi xứ khác cũng có nói chỉ dựa nơi dục lìa nhiễm của một cõi, là nói phần ít của một tùy miên, nên ở nơi trụ xứ của ta, siêng năng tu trì phạm hạnh. Như Khế kinh nói: Nếu đối với lạc thọ, muốn vĩnh viễn trừ bỏ tùy miên tham, tức nên ở nơi trụ xứ của ta, siêng năng tu trì phạm hạnh.

Lại, Khế kinh nói: Nếu đối với khổ thọ, muốn trừ bỏ vĩnh viễn tùy miên sân, tức nên ở nơi trụ xứ của ta, siêng năng tu trì phạm hạnh.

Há là do kinh kia đã nói rất ít, tức nên không phải bác bỏ chỗ nói về bảy tùy miên, nên biết văn của kinh này đồng với kinh kia là phi liễu nghĩa. Nay nên biện tường tận.

Trong Khế kinh này nói muốn đoạn trừ bảy tùy miên, phải nên tu phạm hạnh, ý cho là ý của kinh này, vì hiển bày chủng loại của tùy miên có khác, nên nêu lên bảy số. Như Khế kinh nói: Pháp có hai thứ, không phải lìa hai thứ mà có riêng pháp khác. Há do đấy để không thừa nhận nói về mười tám giới chăng? Nhưng trong ý so sánh đã nói sáu giới khác, nên hai và mười tám là cùng không trái nhau.

Lại, như trong kinh nói: Cái có năm, không phải Thể của vô minh, không phải thuộc về cái. Kinh nêu rõ: Vô minh có thể che lấp cái.

Lại, tức năm cái thì nơi kinh khác nói mười. Như Khế kinh nêu: Bí-sô nên biết! Thể của cái tham dục, sai biệt có hai: (1) Trong. (2) Ngoài, cho đến nói rộng.

Lại, như Khế kinh nêu rõ: Do bốn nhân nên đại địa chấn động, không phải là không có nhân khác.

Lại, như Khế kinh nói: Thế gian có ba pháp, cần phải khai phát, nhưng có nơi nói bốn.

Lại, như kinh nói: Đế chỉ có một, lại không có đế thứ hai. Nhưng vì Phạm chí, nên nói đế có ba cùng nói bốn v.v…

Lại, như kinh nêu: Trí có hai thứ, nghĩa là tận trí, vô sinh trí, không phải là không có trí khác.

Lại, như kinh nói rõ: Tâm có hai thứ: Nghĩa là thiện, bất thiện, không phải là không có vô ký.

Những loại như thế v.v… là có vô lượng Khế kinh, Đức Phật thuận theo căn cơ để thuyết giảng với ý nêu bày đều riêng khác. Không thể thấu đạt nghĩa lý của Thánh giáo, chỉ tính gây tổn hại tông người khác làm đức, loại này há có thể đạt được quả khéo thuyết giảng. Như Đức Thế Tôn nói với Ô-đà-di: Nếu đối với môn khác do Như Lai đã thuyết giảng, tất cả nơi tất cả vật, tất cả nơi tất cả chủng loại, kẻ không muốn ở trong ấy cầu hiểu rõ nghĩa, thì ông nên biết những kẻ kia ở trong Thánh giáo chỉ cầu tìm trụ nơi tranh chấp. Cho đến nói rộng.

Lại, như Luận sư kia đã nói, tức nên thừa nhận có vô lượng tùy miên, thừa nhận như thế cũng đâu có lỗi.

Căn cứ nơi thân nương dựa thì số riêng là vô lượng, nhưng căn cứ theo thể loại để phân biệt, thì tùy miên chỉ thành sáu thứ. Sáu thứ này căn cứ nơi các môn khác nhau, thành mười sáu, hoặc mười, hoặc hai mươi tám, hoặc ba mươi sáu, hoặc bảy mươi bốn, hoặc chín mươi tám. Nghĩa là Đức Phật ở nơi xứ xứ căn cứ theo các môn cõi hành bộ có sai biệt để hiển bày chỉ rõ về tùy miên. Luận sư Chánh lý, tùy theo chỗ Đức Phật đã giảng nói, căn cứ nơi cõi v.v… có dị biệt, lập ra chín mươi tám tùy miên. Lại, thể loại của các tùy miên có sáu, nghĩa là tham, sân, mạn, vô minh, kiến và nghi. Vì thể loại riêng nên như trước đã biện. Do Đức Bạc-già-phạm ở trong Khế kinh đã tham của ba cõi, gọi chung là kiết ái, nên biết thể loại chỉ là sáu tùy miên. Tức sáu tùy miên căn cứ theo cõi có sai biệt, Đức Thế Tôn còn nêu rõ tham phân ra hai thứ, là tùy miên dục tham, tùy miên hữu tham có khác nhau. Do tham có sai biệt, tức có thể so sánh để hiểu các thứ khác. Vì hiển thị cõi định không định của tùy miên đều thành hai, nên nói như thế. Nhưng chỉ nêu bày cõi của tham có sai biệt, do nhiều xứ nói tham là đứng đầu. Nghĩa là trong các giáo kiến lập phiền não, xứ xứ nói về tham đều cho là đứng đầu, như nói về chín kiết, ba căn bất thiện, năm cái, năm kiết phần trên, ba nghiệp đạo, nghiệp buộc duyên tập vô lượng. Khế kinh cho tùy miên tham là gốc của sinh tử, nên ở nơi các xứ, phần nhiều nêu tại đầu. Đã nói trước hết phân làm hai thứ. Do loại này làm rõ loại khác, cũng nên như thế. Nhưng không thể nói sân cũng căn cứ theo cõi, phân làm hai. Do dục tham hữu tham hiển bày sự sai biệt khác. Tham này không phải như nói về mạn v.v…, vì địa trên cũng có.

Do giáo như thế đã chỉ rõ tùy miên, tùy theo chỗ ứng hợp của chúng nơi cõi định, tán riêng biệt. Đức Phật ở xứ khác lại căn cứ theo môn hữu tham dị biệt, để chỉ rõ tùy miên của cõi định cũng có sai khác. Nghĩa là Đức Thế Tôn nêu rõ về tham của cõi sắc, vô sắc trong kiết phần trên, lập riêng làm hai. Do tham có khác biệt, có thể so sánh để hiểu thứ khác. Vì hiển bày tùy miên, đối với các cõi định là sắc, vô sắc có khác, nên tạo ra thuyết ấy: Nhưng không phải kiết phần trên, chỉ do tu đạo đoạn, tức chỉ cõi của hữu tham là do tu đạo đoạn, có riêng Hoặc là do kiến đạo đoạn, so với chủng loại do tu đạo đoạn đã đồng, tất vì cũng khác, nên trước đã chỉ rõ chung về cõi định, tán do kiến đạo, tu đạo đoạn riêng.

Nay làm rõ riêng, chỉ do tu đạo đoạn ở cõi sắc, vô sắc có khác, tức dùng đạo vô lậu đoạn trừ như thế. Nghĩa là tham do kiến đạo đoạn ở cõi sắc, vô sắc là đồng một đối trị. Tham do tu đạo đoạn gọi là đối trị riêng. Nên ở cõi định, tham do kiến đạo đoạn không hiển bày cõi riêng. Tham do tu đạo đoạn thì làm rõ cõi riêng.

Như thế là đã dẫn riêng hai kinh để chứng minh tham có nơi ba cõi khác nhau, làm rõ pháp còn lại cũng riêng khác. Nay lại dẫn chung một kinh làm chứng. Như Khế kinh nói: Ái có ba thứ: (1) Ái dục. (2) Ái sắc. (3) Ái vô sắc.

Do ái có khác biệt, có thể so sánh để hiểu thứ khác. Vì hiển bày tùy miên ở cõi dục, cõi sắc, cõi vô sắc có sai biệt, nên nói như thế. Đã nêu ra Thánh giáo để chứng minh cõi của các tùy miên có sai biệt, nên lý cũng có khác. Nghĩa là có một loại Bổ-đặc-già-la, đối với pháp của cõi dục, cùng được lìa trói buộc, không phải ở cõi sắc, vô sắc. Bổ-đặc-già-la kia do đoạn trừ các tùy miên này, nên không sinh ở cõi dục. Tùy miên đã được đoạn ấy, nên biết là thuộc cõi dục. Cõi sắc, vô sắc, so với đây nên biết.

Thế nên tùy miên do lý của Thánh giáo, về cõi nhất định có số khác thành mười sáu.

Đã hiển thị về cõi có sai biệt, hành khác nhau thì thế nào? Tức kiến của sáu tùy miên do hành khác. Đức Thế Tôn nơi xứ xứ thuyết giảng kiến có năm, là hữu thân kiến v.v… như trước đã nêu. Thế nên sáu tùy miên căn cứ theo hành có khác mở rộng góp thành mười, như trước đã biện. Hành, cõi hợp phân thành hai mươi tám.

Đã làm rõ về hành có dị biệt, còn bộ khác thì thế nào?

Bộ, nghĩa là tùy miên căn cứ theo đối trị riêng. Tức có một loại do kiến khổ đoạn. Có loại do kiến tập, diệt, đạo đoạn cũng như thế. Có loại do thời gian sau, tùy ở một trí thường thường tu tập, vì tăng thắng nên đoạn. Nếu khác với đây, lập kiến bốn đế cùng trí của quả sau tức là vô ích. Nhưng trong kiến đạo, đối với bốn Thánh đế, tất hiện quán dần, như phần sau sẽ biện.

Như thế, năm bộ quyết định có sai biệt. Đức Phật ở trong kinh tự hiển bày chỉ rõ thích đáng. Như Đức Thế Tôn nói:

Ta xưa cùng các ông

Đi đường dài sinh tử

Do không thể như thật

Thấy được bốn Thánh đế

Nếu thấy rõ bốn đế

Vĩnh viễn đoạn hữu buộc

Thì sinh tử đều diệt

Không có các hữu sau.

Ở đây, nếu có thể thấy bốn đế: Là hiển bày đoạn trừ bốn vô minh do kiến bốn đế đoạn.

Lại, nói vĩnh viễn đoạn các hữu buộc: Là làm rõ đoạn dứt vô minh do tu đạo đoạn.

Há không phải là trong đây hữu buộc nói là ái, vì sao dẫn chứng vô minh của năm bộ?

Vô minh trong đây không nói là thành. Nghĩa là nơi các thế gian, không có một vật nào bị kiết ái trói buộc mà không phải là vô minh. Chỉ do tu đạo đoạn đã thừa nhận có kiết ái, có kiết vô minh. Há lại cần thành, không phải không có ngu si mà có ái sinh?

Lại có chứng riêng để làm rõ các phiền não nơi các bộ có sai biệt. Như Khế kinh nói: Đối với khổ, vô trí. Đối với tập, vô trí. Đối với diệt, vô trí. Đối với đạo, vô trí. Trong đây, gồm thâu chung là ngu tối v.v… của đời trước. Căn cứ ở cảnh của bốn đế để lập bốn vô trí. Nên biết ở xứ này dùng tiếng vô minh để hiển bày tất cả tùy miên, như trong phần duyên khởi đã biện. Nên các phiền não có Bộ sai biệt. Nhưng không phải vô minh vì có năm bộ, nên so sánh để làm rõ Hoặc còn lại đều có năm bộ, do phiền não còn lại là nói có ngăn chận. Nghĩa là Đức Thế Tôn thuyết giảng vĩnh viễn đoạn trừ kiến, nghi được quả Dự lưu.

Do đấy làm chứng đã ngăn chận kiến và nghi là do tu đạo đoạn. Lại, kinh chỉ nói đoạn trừ tham, sân, si, mạn, đi đến nẻo ác, được quả Dự lưu, nên quả Dự lưu không có kiến và nghi.

Có tham, sân, si, mạn do tu đạo đoạn. Do đấy làm chứng biết sáu tùy miên, căn cứ theo bộ không đồng, thành hai mươi tám. Bộ hành hợp phân thành ba mươi sáu. Bộ cõi hợp phân thành bảy mươi bốn. Căn cứ theo bộ, hành, cõi phân chung tùy miên thành chín mươi tám, như trước đã biện. Nên Luận sư Đối pháp, theo Thánh giáo Phật, tìm cầu chánh lý, phân biệt tùy miên, lập làm chín mươi tám thứ, không thể khuynh động. Nhưng Thượng tọa mê muội kia lại nói: Tuy kinh đã có nêu dẫn danh tướng, nhưng từng không có xứ nào nói về tùy miên này là do kiến khổ đoạn, cho đến do tu đạo đoạn. Nay nên nêu cật vấn: Khi nhập kiến đạo là đã kiến khổ đế, chưa kiến tập đế v.v… hay là có Hoặc hiện khởi do kiến đạo đoạn, mà nói là chưa nhổ bật tùy miên kia? Không như thế thì đâu phiền phải giăng rộng lưới hí luận? Lại, như ông chấp phiền não cùng duyên, không thấy đối tượng duyên mà được đoạn trừ vĩnh viễn? Phiền não như thế, tuy duyên nơi ba đế, nhưng khi kiến khổ đế, thì thứ gì làm trở ngại việc đoạn trừ tức khắc?

Nhưng có người nêu vấn nạn:

Nếu khi kiến khổ, liền có thể đoạn trừ tức khắc, là do kiến đạo đoạn Hoặc. Còn kiến ba đế sau, tức nên vô dụng. Về lý cũng không đúng. Hành giả kia đối với phần vị này, không cầu kiến tập v.v…, không muốn đoạn trừ tùy miên. Nhưng do trí trước lần lượt dẫn phát, pháp như thế nên thứ lớp kiến nơi tập v.v… Nếu không như vậy, thì trung gian của hiện quán, tâm cầu tìm kiến v.v…, tức nên bị gián đoạn, xen tạp. Lại từng không có xứ nào Đức Phật thuyết giảng tùy miên có chín mươi tám. Nếu có nên nói là Đức Phật có xứ giảng nói. Tôi thì tin nhận Thượng tọa đã nêu cật vấn như thế về tùy miên. Lớn nhỏ suy tìm mà chưa kịp đúng. Lại, như trước đã biện, ở trong kinh, Đức Phật đã thuyết giảng: Các tùy miên do kiến khổ đoạn v.v… Nghĩa là Khế kinh nêu rõ: Không kiến bốn đế, là còn lặn lội lâu trong sinh tử, đã kiến, tức là đều diệt. Vì sao có thể nói là Đức Phật từng không có xứ nào thuyết giảng có tùy miên do kiến khổ đoạn v.v…?

Lại, nêu rõ: Đối với khổ v.v… có bốn vô trí, vì sao bốn vô trí chỉ do kiến khổ đoạn? Nên biết nhất định có năm bộ tùy miên. Lại, Thượng tọa kia cật vấn nói: Đã kiến khổ đế, chưa kiến tập đế v.v… là có Hoặc hiện khởi do kiến đạo đoạn, mà nói là chưa nhổ bật tùy miên kia, thì đấy là lời nói không có căn cứ. Vì khi chưa kiến khổ, thì Hoặc do kiến khổ đoạn cũng không hiện khởi. Nên nói là đã nhổ bật, thì không nên nói khi kiến khổ đoạn. Nếu chưa kiến khổ thì đã không thể nhổ bật tất cả tùy miên do kiến khổ đoạn. Pháp còn lại cũng nên như thế. Chưa kiến tập v.v… thì cũng không thể đoạn được các thứ đối tượng đoạn kia, vì chủ thể đối trị đắc đạo ấy chưa sinh. Hoặc Thượng tọa kia chỉ nên biện về hai nhân sai biệt: Vì sao tùy miên v.v… không hiện khởi? Mà một chưa nhổ bật, thứ khác thì đã nhổ bật? Thế nên chỗ cật vấn của Thượng tọa kia chỉ có lời nói, không có lý.

Lại cho: Như ông nói phiền não cùng duyên, không thấy đối tượng duyên mà được đoạn trừ vĩnh viễn. Phiền não như thế tuy duyên nơi ba đế, nhưng khi kiến khổ đế, thì cùng đoạn dứt tức khắc, không phải tông đã thừa nhận.

Các phiền não cùng duyên đều không thấy đối tượng duyên mà được vĩnh viễn đoạn trừ, tuy trong Hoặc do kiến diệt, đạo đoạn, nhưng hữu lậu duyên nơi tùy miên vẫn không thấy đối tượng duyên đoạn, nhưng phiền não kia dựa nơi diệt, đạo sinh, nhờ vào vô lậu duyên nơi các phiền não khởi. Là vì phiền não ấy đã được nuôi lớn, nên về nghĩa nêu bày cũng gọi là mê đối với diệt, đạo, tức là duyên nơi đối tượng diệt của đạo lực kia, không phải duyên nơi ba đế cùng tùy miên hiện có.

Trong có khổ v.v… chấp là vui v.v… cũng không có dựa vào mê nơi khổ, Hoặc sinh, đâu thể khi kiến khổ, thì tùy miên kia liền được đoạn tức khắc. Nên Thượng tọa kia đã nêu dẫn phần này để so sánh phần kia là không cân xứng.

Lại, thuyết kia đã nói: Hành giả ở nơi phần vị này không cầu kiến tập v.v…, không muốn đoạn trừ tùy miên, nhưng do trí trước lần lượt dẫn phát, do pháp như thế theo thứ lớp kiến tập v.v… Điều này cũng vô lý, do Thượng tọa kia đối với phần vị này, cũng không cầu kiến khổ, không muốn đoạn trừ tùy miên, nhưng do trí của vị như noãn v.v… của thời gian trước, đã lần lượt dẫn phát theo pháp như thế nên kiến khổ. Bấy giờ, tức nên không đoạn tùy miên do kiến khổ đoạn. Ở đây đã đoạn tùy miên nên kiến còn lại cũng tức như thế.

Lại không phải khi chúng tôi nói về hiện quán, là khởi tâm gia hạnh, cầu kiến, cầu đoạn. Nhưng chúng tôi cũng nói là trong vị hiện quán, đối với kiến tập v.v… lìa gia hạnh riêng thì chỉ do trí trước lần lượt dẫn phát do pháp như thế, theo thứ lớp kiến về tập v.v…, tức khi ở nơi kiến, có đoạn, có chứng, thành có công dụng, không phải là loại tông của ông.

Nếu cho nhất định không có phiền não do kiến ba đế còn lại đã đoạn, thì trí của kiến tập v.v… hành tập nơi cảnh kia, tức nên hoàn toàn vô dụng. Và Đại sư nêu bày về pháp này há không là vô ích? Pháp như thế tự nên có thể kiến tập v.v… Đức Phật chỉ nên nói về trí hành tập kiến khổ.

Lại, bốn Thánh đế, tướng của chúng là không đồng, vì sao lãnh hội đế còn lại đoạn trừ, mê nơi Hoặc của đế còn lại, ấy nên không phải kiến khổ là đoạn trừ tức khắc tùy miên.

Lại, Thượng tọa kia đã nói: Từng không có xứ nào Đức Phật thuyết giảng tùy miên có chín mươi tám thứ. Nếu có tức nên nói là Phật có xứ giảng nói, tôi thì tin. Điều này cũng không đúng, vì tôi không thấy ở các ông có tướng tin nơi giáo pháp của Phật. Do trước đây tôi đã căn cứ vào chánh lý của Thánh giáo, kiến lập tùy miên có chín mươi tám thứ, nhưng các ông đều không có tâm tín nhận.

Lại nữa, các ông đủ luận an lành, thời nay đâu theo kịp trí thù thắng mà nhận biết từng không có xứ nào Đức Phật thuyết giảng về tùy miên do hành bộ cõi khác nhau nên có chín mươi tám? Nghe truyền trong Tăng Nhất A-cấp-ma, từ một pháp, tăng cho đến trăm pháp. Sau Phật diệt độ, hữu tình của quốc độ này, hàng nội tuệ niệm, mạng ngày ngày càng tổn giảm, đức thành thục của hương vị uy thế nơi cỏ thuốc v.v… bên ngoài suy thoái dần dần, công năng rất ít. Con người phần nhiều đều bị nghiệp của sự việc ác dẫn dắt vây buộc. Há có thể thọ trì đủ Thánh giáo của Như Lai?

Nên nay trong Tăng Nhất A-cấp-ma, chỉ từ một tăng đến mười pháp là còn, ở đấy cũng còn có nhiều phần thất lạc, huống chi là đối với phần quá mười mà có thể có người thọ trì. Nên biết trong kinh xứ nói về tùy miên, nhất định có đủ văn nói chín mươi tám thứ.

Như thế, sự nghe truyền về lý tất nên như vậy. Cho nên Đức Phật ở trong kinh Thập Ứng kia đã nói các kinh thâm diệu, dần dần sẽ ẩn mất, cho đến sau cùng thì ẩn mất hoàn toàn.

Lại, từ xưa đến nay, các Thánh tạo luận xứ xứ đều nói có chín mươi tám tùy miên, gồm có văn sáng rõ, giải thích có nghĩa lý sâu xa, nên biết trong A-cấp-ma căn bản nhất định có văn thành thật, nêu rõ danh số ấy.

Nay lại lược dẫn các A-cấp-ma để chứng minh nhiều Khế kinh hiện nay đã ẩn mất. Như Đức Phật ở nơi kinh Bà Đà Lê đã nói với Bà Đà Lê: Ta ở nơi thời xa xưa đã vì chúng Bí-sô tuyên nói về pháp ngựa hiền lương thời non trẻ. Bấy giờ, ông đã so sánh với pháp môn này là thiếu không thật có. Kinh kia nay đã ẩn mất không hiện.

Lại, Đức Phật ở trong kinh Khổ Uẩn kia, vì Thích chủng Đại Danh nói: Ta vào thời xa xưa, một thời trụ tại đại thành Vương xá, đi dạo dọc theo sườn núi, trông thấy các ngoại đạo ly hệ đều giơ tay lên cao, tự làm khổ để cầu được thường, bèn nói với họ… cho đến nói rộng. Kinh kia, hiện nay đã mất không hiện.

Lại, trong kinh Đại Không kia, Tôn giả Khánh Hỷ nói như thế này: Xưa kia có một thời tôi theo Đức Phật trụ tại đại thành của dòng họ Thích, bên trong quán khách lớn dùng để kinh doanh thuộc thành ấy, bấy giờ, Đức Phật bảo với tôi: A-nan-đà! Ta đã trụ nơi không, ông muốn biết chăng? Tôi bèn thưa hỏi, Đức Phật đã vì tôi giảng nói. Tôi liền lãnh hội nghĩa lý sâu xa do Đức Phật đã thuyết giảng. Kinh ấy hiện nay cũng đã ẩn mất.

Lại, Đức Phật trong kinh Ô-đà-di đã nói như thế này: Ta vào thời xưa thuyết giảng có bốn thọ, lại thay nhau hiện tiền. Kinh ấy hiện cũng đã ẩn mất.

Lại, Đức Bạc-già-phạm ở trong kinh khác nói: Ta vào thời xưa, một dạo trụ ở đại thành Vương Xá, đang đi dạo nơi hang núi. Lúc ấy, có nhiều chúng ngoại đạo xuất gia cùng đến chỗ Ta thỉnh hỏi Ta về những nghĩa đã thuyết giảng. Cho đến nói rộng. Kinh ấy, ngày nay cũng ẩn mất không hiện.

Lại, trong kinh Xuất Ái Vương kia, Đức Phật nói: Đại vương! Ta nhớ vào thời xa xưa kia, đã từng nêu giảng thế này: Không phải là quá khứ, vị lai, hiện nay, có các Sa-môn, Bà-la-môn v.v… đối với tất cả pháp, thấy rõ tức khắc, nhận biết tức khắc. Có thể thấy rõ tức khắc, nhận biết tức khắc, là không có điều ấy. Kinh đó, hiện nay cũng đã ẩn mất.

Lại, ngoại đạo Vũ Tướng, ở nơi kinh Cồ Bác Ca đã nói như vầy: Tôi nhớ lại trong thời xa xưa, từng thấy được Kiều Đáp Ma Tôn, họ Thích ở trong rừng thuộc quận Thị Ca, thành Na-địa-ca, khen ngợi tất cả pháp môn như tĩnh lự v.v… Kinh ấy, đến nay cũng mất không hiện.

Lại, Tôn giả Khánh Hỷ kia, ở trong kinh Mãn nói: Lúc nhỏ, tôi gặp Tôn giả Mãn Từ Tử vì đại chúng giảng nói rộng pháp môn thâm diệu. Kinh kia cũng đã ẩn mất.

Lại, Đức Phật trong kinh Lam Bạc Ca, nói Ta về thời xa xưa, một lúc nọ, đã từng nói với năm Bí-sô: Khi chưa xuất gia, Ta luôn ưa quán xét về đời sống ở nhà có nhiều thứ lỗi lầm tai hại bức bách, nên nhanh chóng chán lìa… cho đến nói rộng. Kinh ấy, hiện nay cũng mất không hiện.

Lại, Thánh giả kia trong kinh Hộ Quốc nói: Đại vương! Có bốn đạo nhàm chán, chỉ Đức Bạc-già-phạm là chánh kiến, chánh tri, tuy các Đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đã từng tuyên thuyết giảng nói rộng, nhưng các thế gian không thể siêng năng tinh tấn tu tập hành chán lìa. Nên biết nhất định là Đà Bà đã dứt hết ái. Kinh ấy đến nay cũng đã mất.

Lại, Trưởng giả Cấp Cô Độc ở trong Kinh Thú nói: Tôi từng ở chỗ Đức Bạc-già-phạm, thân cận nghe, thọ trì pháp môn như thế. Nếu có hữu tình dâng thí cho Đức Phật các thứ vườn rừng v.v…, do sức của nhân này, nên khi thân hoại mạng chung, được sinh trong cõi trời, thọ hưởng an lạc vi diệu. Nói rộng cho đến pháp thí làm nhân. Kinh ấy, thời nay cũng mất không hiện.

Lại, Tôn giả Khánh Hỷ kia ở trong kinh Niết Bàn, thưa với Tôn giả Vô Diệt: Tôi đã từng ở nơi chỗ Đức Phật, thân cận nghe, thọ trì pháp môn như thế. Đức Phật, Thế Tôn dựa vào minh nhãn của tĩnh lự thứ tư tịch tĩnh vô động mà nhập Niết-bàn. Kinh ấy hiện cũng đã ẩn mất.

Có vô lượng Khế kinh như thế v.v…, đến thời nay đều ẩn mất không hiện. Những Khế kinh ấy vốn đã được kết tập nhưng phần nhiều đã bị thất lạc, mất hết.

Thượng tọa hẳn là không biết những sự việc kia nên mới vội cho: Đức Phật từng không có xứ nào thuyết giảng về chín mươi tám tùy miên.

Đã biện về nghĩa lý sâu xa của tùy miên có sai biệt. Về những nghĩa vốn đã nói, nay tiếp theo sẽ biện. Trước nêu tám mươi tám thứ tùy miên do kiến đạo đoạn.

Đối tượng đoạn của kiến đạo, tu đạo ở đây là nhất định như vậy chăng? Không như thế thì thế nào? Tụng nêu:

Tùy miên do nhẫn diệt

Hữu đảnh chỉ kiến đoạn Còn lại chung kiến, tu Do trí trừ, chỉ tu.

Luận nói: Trong các tùy miên do nhẫn đoạn trừ, thì tùy miên thuộc địa của xứ Hữu đảnh chỉ do kiến đạo đoạn, vì chỉ loại trí nhẫn mới có thể đoạn. Số tùy miên thuộc tám địa còn lại thì chung do kiến đạo, tu đạo đoạn. Nghĩa là Thánh giả đoạn thì chỉ là kiến đạo không phải tu đạo. Do pháp loại trí nhẫn, như chỗ ứng hợp đoạn. Nếu phàm phu đoạn thì chỉ là tu đạo đoạn không phải là kiến đạo, vì thường hành tập trí thế tục để đoạn. Các tùy miên do trí đoạn trừ, thuộc về tất cả địa là chỉ do tu đạo đoạn. Vì các Thánh giả và các phàm phu, như đối tượng thích hợp của mình, đều do thường hành tập trí thế tục, trí vô lậu để đoạn.

Tụng nói: Còn lại chung kiến, tu: Câu tụng này không nói về nghĩa, căn cứ theo đấy có thể nhận biết.

Vì sao có thể nhận biết?

Do trước sau. Nghĩa là trước nói riêng về tùy miên do nhẫn đoạn trừ, nơi xứ Hữu đảnh thì chỉ kiến đạo đoạn. Sau lại nói chung về tùy miên do trí diệt trừ chỉ do tu đạo đoạn.

Số tùy miên còn lại là chung do kiến đạo, tu đạo đoạn. Căn cứ theo đấy để nhận biết. Vì khiến cho nghĩa được sáng tỏ, nên nói như thế là không lỗi.

Có Sư khác cho: Các Tiên ngoại đạo không thể điều phục, đoạn trừ Hoặc, do kiến đạo đoạn. Như Khế kinh Đại Phân Biệt Chư Nghiệp nêu rõ: Các loại ngoại đạo lìa dục tham, có duyên nơi tà kiến của cõi dục hiện hành. Kinh Phạm Võng cũng nói về loại ấy. Có duyên nơi các kiến của cõi dục hiện hành. Nghĩa là đối với đời trước, Luận giả Phân Biệt có loại chấp hoàn toàn là thường, có loại chấp một phần là thường, có loại chấp các pháp không có nhân sinh v.v… Không phải Hoặc của cõi vô sắc duyên nơi cõi dục sinh, vì ở nơi cảnh của cõi dục đã lìa tham, nên nhất định là các kiến ở cõi dục chưa đoạn. Thuyết này nêu bày không đúng. Vì đối tượng đoạn của kiến đạo, tu đạo đều có thể nối kết nơi cõi dục sinh. Tuy đoạn một phần, phần khác cũng nên nối tiếp theo tự cõi sinh, như Dự Lưu v.v… Nhưng các ngoại đạo cũng có, cho đến sinh lên xứ trời Hữu đảnh. Trời kia có phiền não hiện hành của cõi dục, tất không hợp lý.

Lại có lý gì, các Tiên ngoại kia, do tu đoạn Hoặc gọi là người lìa dục, không phải do không đoạn Hoặc của kiến đạo đoạn, cũng nói là người không lìa dục. Lại, trước nhân giải thích kinh có thể đem lại an ổn, hiển bày nghĩa lý sâu xa đã nói như thế. Nên Thượng tọa kia đã dẫn hai thứ Khế kinh, so với lý là trái nhau, trở thành không liễu nghĩa.

Phái Tỳ-bà-sa giải thích kinh kia nói: Các Tiên ngoại đạo kia lúc khởi kiến, từ lìa dục, tạm thoái lui. Cũng như Đề-bà-đạt-đa tạm thoái lui rồi, trở lại được. Nếu chỉ hai mươi tám thứ nhất định do kiến đạo đoạn, thì vì sao nơi xứ xứ kinh đều nói tám mươi tám thứ?

Vì văn của kinh kia dựa khắp theo thứ lớp để nêu bày. Còn kinh này căn cứ theo lý cùng tận, nên không trái nhau. Lại, ý của kinh kia là nêu rõ công dụng của Thánh đạo là thù thắng. Lại, nếu như trước đã lìa tham của tám địa dưới, chủ yếu là do kiến đạo khởi vô lậu đắc. Vì được trạch diệt kia, nên nói là không lỗi.

Tướng khác nhau của kiến đạo, tu đạo đoạn là thế nào?

Nếu Hoặc do chỉ kiến tuệ đoạn thì gọi là kiến đạo đoạn. Nếu Hoặc do kiến trí tuệ đoạn thì gọi là tu đạo đoạn.

Như thế, nếu do một phẩm được đoạn trừ tức khắc, hoặc do chín phẩm được đoạn trừ dần dần. Nếu Thánh đoạn trừ xong, hoàn toàn không thoái lui. Hoặc Thánh đoạn trừ xong thì có thoái lui, không thoái lui. Nếu đoạn dứt cùng chứng bốn, ba, hai quả. Hoặc đoạn dứt cùng chứng ba, hai, một quả. Nếu khi Thánh đoạn thì phi trạch diệt kia tất định nên chứng ở trước trạch diệt. Nếu trước hoặc sau, hoặc cùng thời chứng. Tướng khác của các loại như vậy v.v… là rất nhiều.

HẾT – QUYỂN 46