LUẬN A TỲ ĐẠT MA THUẬN CHÁNH LÝ
Tác giả: Tôn giả Chúng Hiền
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 45

Phẩm thứ 5: BIỆN VỀ TÙY MIÊN, phần 1

Đã biện rộng về các nghiệp và quyết trạch xong. Trong các Khế kinh thuyết giảng về xứ chiêu cảm hữu, đều nói các nghiệp có thể làm nhân dẫn sinh. Tuy nhiên, nhận thấy ở thế gian có người lìa nhiễm, tuy cũng tạo nghiệp thân, ngữ, ý thiện, nhưng không có công năng chiêu cảm quả của hữu sau, nên đối với nghiệp chiêu cảm hữu, tức nên không phải là nhân. Nghiệp riêng làm nhân, không phải là điều tôi đã thừa nhận, vì cần tùy miên hỗ trợ mới có thể chiêu cảm, không phải lìa tùy miên mà nghiệp riêng có thể chiêu cảm. Cho nên giáo pháp duyên khởi, đầu tiên nói về tùy miên.

Ở đây lại nhân nào tùy miên có bao nhiêu? Tụng nêu:

Tùy miên gốc các hữu

Sai biệt này có sáu

Là tham, sân cũng mạn

Vô minh, kiến và nghi.

Luận nói: Do tùy miên này là gốc của các hữu, nên nghiệp lìa tùy miên ấy, thì không có công năng chiêu cảm hữu.

Vì sao tùy miên có thể làm gốc của hữu?

Vì các phiền não hiện khởi làm mười sáu sự:

1. Căn bản kiên cố khiến được bền chắc. Vì đối trị xa, nên phiền não căn bản được gọi là phiền não đắc.

2. Sinh dựa nơi thô trọng, có thể biện trong đối tượng nương dựa, là không có tánh có thể nhận giữ.

3. Kiến lập phần cùng nối tiếp, có thể thường khiến phần còn lại liên tục khởi.

4. Tư sửa ruộng của chính mình khiến đối tượng nương dựa thuận với phần kia mà trụ.

5. Ghét bỏ tánh tướng công đức, vì có thể trái với các công đức.

6. Vì nhàm chán chê trách gốc phát khởi trí là đã nhàm chán chê trách nghiệp thân, ngữ, ý.

7. Dẫn đẳng lưu độc, là chủ thể dẫn như tùy phiền não của chính mình.

8. Ngăn chặn đường giải thoát, từ bỏ người chánh thuyết gần gũi.

9. Có thể phát khởi nghiệp, hữu phát khởi, khả năng chiêu cảm nghiệp của hữu sau.

10. Gồm thâu tư lương của chính mình, có thể thường thường thâu tóm, dấy khởi tác ý phi lý.

11. Mê lầm nơi đối tượng duyên, có thể làm hại tuệ chánh giác của tự thân.

12. Gieo trồng giống của các khổ, có thể sinh tất cả khổ của sinh tử.

13. Dẫn dắt thức lưu chuyển nơi đối tượng duyên của hữu sau, có khả năng dẫn phát thức.

14. Trái vượt phẩm thiện, khiến các pháp thiện đều thoái mất.

15. Có nghĩa trói buộc rộng, khiến không thể vượt qua tự địa, tự cõi, do có thể nuôi lớn cảnh giới nhiễm ô.

16. Thâu tóm các quả tăng thượng phi ái của thế gian, nhân đấy ngoại vật đều suy biến.

 

 

Do đấy, tùy miên có thể làm gốc của hữu. Nên nghiệp nhân nơi tùy miên này mà có chiêu cảm, có công năng. Tuy người lìa nhiễm, cũng tạo nghiệp thiện, nhưng không có uy lực để có thể chiêu cảm hữu sau.

Vì thế người trí nên siêng năng, tinh tấn, xét chọn tùy miên, nhanh chóng khiến được trừ diệt.

Do nghĩa của môn nào để xét chọn tùy miên?

Nghĩa là quán xét tùy miên: Đây là do kiến đạo đoạn. Đây là do tu đạo đoạn. Đây chỉ là một bộ. Đây là hai. Đây là bốn. Đây là chung nơi năm bộ. Đây là biến hành. Đây không phải là biến hành. Đây là biến hành của tự giới. Đây là biến hành của tha giới.

Đây là duyên nơi hữu lậu. Đây là duyên nơi vô lậu. Đây là duyên nơi hữu vi. Đây là duyên nơi vô vi.

Đây là vì sao khởi. Vì sao tùy tăng?

Tùy miên này do nhận biết khắp về đối tượng duyên nên đoạn. Tùy miên này do đoạn trừ đối tượng duyên nên đoạn. Tùy miên này do vĩnh viễn trừ bỏ trợ bạn nên đoạn. Tùy miên này do thanh tịnh cùng nối tiếp nên đoạn. Tùy miên này cùng với pháp kia tương ưng. Tùy miên này cùng với pháp kia không tương ưng. Tùy miên này đoạn trừ xong thì có thể thoái mất. Tùy miên này đoạn trừ xong là không thể thoái mất. Tùy miên này có dị thục phi ái. Tùy miên này hoàn toàn không có dị thục. Tùy miên này là đẳng vô gián của pháp kia. Tùy miên này là đối tượng duyên của pháp kia. Tùy miên này nhân nơi đối tượng duyên đoạn.

Tùy miên này nhân nơi đối tượng duyên phẩm dưới đoạn. Tùy miên này thể tuy đã đoạn, nhưng còn đối tượng duyên nên bị trói buộc. Tùy miên này ở nơi địa định, không cùng được hữu. Tùy miên này không phải là đối tượng diệt của đạo đối trị ở thế gian. Tùy miên này chỉ là ý thức thân. Tùy miên này chung cả sáu thức thân. Tùy miên này có thể cùng khởi hai nghiệp thân ngữ. Tùy miên này có thể đoạn trừ căn thiện. Tùy miên này có thể nối tiếp căn thiện. Tùy miên này là tánh kiến. Tùy miên này không phải là tánh kiến. Tùy miên này chỉ từ chín phẩm đoạn. Tùy miên này chỉ từ một phẩm đoạn.

Tùy miên này từ một phẩm đoạn, hoặc từ chín phẩm đoạn. Tùy miên này do pháp kia nên được thành. Tùy miên này do pháp kia nên không được thành. Tùy miên này do pháp kia nên tương ưng. Tùy miên này do pháp kia nên không tương ưng. Tùy miên này đối với phần vị kia cùng có hiện hành. Tùy miên này tuy chưa đoạn, nhưng không hiện hành. Tùy miên này chỉ ở nơi cõi dục đoạn. Tùy miên này cũng ở nơi cõi trên đoạn. Tùy miên này quả có thành tựu. Tùy miên này quả có không thành tựu. Tùy miên này đối trị đồng. Tùy miên này đối trị khác.

Do rất nhiều môn nghĩa như vậy v.v…, nên khéo tư duy, lựa chọn.

Tướng của các tùy miên như thế, tức khéo nhận biết tướng của tùy miên rồi, mới có thể quyết định diệt trừ tùy miên. Cũng có thể vì người khác nêu bày rõ ràng không đảo ngược. Tự tha cùng nối tiếp phẩm thiện lại sinh, có thể nhanh chóng nhận biết rõ phương tiện trừ bỏ. Thế nên nếu muốn tạo lợi lạc cho mình, người, nên đối với tùy miên phải tư duy, lựa chọn như thế.

Tùy miên có sai biệt lược có sáu thứ: Nghĩa là tham, sân, mạn, vô minh, kiến và nghi.

Ở đây, Kinh chủ đã giải thích như thế này: Tụng nêu cũng nói ý hiển bày mạn v.v… cũng do sức của tham ở nơi cảnh tùy tăng. Nghĩa là Khế kinh nói: Nhân nơi ái sinh giận. Như sân do sức của tham ở nơi cảnh tùy tăng. Mạn v.v… cũng do tham nên lại nói là cũng.

Giải thích này là vô lý, vì không phải là ý của văn. Nghĩa là ở đây gốc là nêu lên số, liệt kê danh, không làm rõ nghĩa tùy miên này nhân nơi pháp kia, ở nơi cảnh tùy tăng. Nay xem rõ chữ cũng là làm đầy đủ câu nói. Nếu tất muốn khiến câu tụng này có nghĩa riêng, lại tạo phương tiện để giải thích không lỗi. Nghĩa là sân như tham, tuy có nhiều loại, nhưng có thể nói chung là một tùy miên. Vì mạn v.v… cũng như thế, nên lại nói cũng. Hoặc ở đây là làm rõ, như tham so với sân, hành tướng là không dồng, thế nên lập riêng.

Như thế mạn v.v…, hành tướng tuy đồng, nhưng nghĩa còn lại là có khác, nên cũng lập riêng. Tiếng cùng là giải thích làm rõ căn cứ ở chỗ trái nhau nhau. Hoặc hiển bày đã thâu tóm chung hết loại tùy miên.

Nếu các tùy miên, số lượng chỉ có sáu thì do đâu kinh nói có bảy tùy miên? Tụng nêu:

Sáu do tham khác bảy

Hữu tham: Hai cõi trên

Vì chuyển ở môn trong

Là ngăn tưởng giải thoát.

Luận nói: Tức trước đã nói: Trong sáu tùy miên, vì phân tham làm hai, nên kinh nói bảy. Những gì là bảy? (1) Tùy miên dục tham. (2) Tùy miên sân. (3) Tùy miên hữu tham. (4) Tùy miên mạn. (5) Tùy miên vô minh. (6) Tùy miên kiến. (7) Tùy miên nghi.

Tùy miên dục tham được dựa nơi nghĩa nào để giải thích?

Vì thể của dục tham tức là tùy miên, vì là nghĩa tùy miên của dục tham. Đối với sáu nghĩa còn lại, nêu câu hỏi cũng như thế.

Kinh chủ ở đây giải thích như thế này: Đây là nghĩa tùy miên của dục tham, nhưng Thể của tùy miên không phải là tâm tương ưng, không phải là tâm bất tương ưng, vì không có vật riêng, nên phần vị thùy của phiền não gọi tên là tùy miên, ở trong phần vị giác tức gọi là triền.

Thế nào gọi là thùy?

Nghĩa là chủng tử không hiện hành theo đuổi.

Thế nào gọi là giác?

Nghĩa là các phiền não hiện khởi trói buộc tâm.

Những gì gọi là chủng tử của phiền não?

Nghĩa là công năng sai biệt trên tự thể. Từ phiền não sinh, có thể sinh ra phiền não. Như chủng tử của niệm là trí chứng sinh, có thể sinh công năng của đương niệm có sai biệt. Lại, như mầm v.v… có quả trước sinh, có thể sinh công năng của quả sau có sai biệt.

Nay, xét rõ giải thích kia, về lý là không hợp, vì tự thừa nhận tùy miên lìa các phiền não, là không có vật riêng, nên pháp không nhiễm ô là thể của phiền não, lý ấy là không thành, tức không thể nói thùy là thể của tùy miên, nên không có một chút vật nào gọi thùy là tùy miên. Lại, nếu tùy miên là chủng tử của phiền não, thì lìa các phiền não không có riêng vật, tức không nên nói là công năng sai biệt trên tự thể. Từ phiền não sinh, có thể sinh khởi phiền não, gọi là chủng tử của phiền não.00

Lại, thuyết kia đã chấp công năng của phiền não. Nếu phiền não này dùng sinh làm tánh, thì không thể nói thùy này là phiền não, lìa giác thì phiền não không có vật riêng. Nếu không phải phiền não dùng sinh làm tánh, như thế tánh của sinh há không phải vật riêng. Lại, không nên nói phần vị thùy của phiền não, gọi là tùy miên, vì nếu công năng này tức là phiền não thì cũng không phải là phiền não.

Nói như thế về nghĩa từng chưa được nghe. Nếu công năng này không phải là tánh của phiền não, cũng không phải tánh khác, để nói là sinh, thì điều này rất hy hữu, không có Thể mà thừa nhận, là hiện tại, nên không phải là pháp không có Thể, có thể được nói câu từ phiền não sinh, có thể sinh khởi phiền não. Lại, tông của thuyết kia đã lập nhân là trái nhau. Vì sao? Vì thuyết kia nói: Nhưng Thể của tùy miên không phải là tâm tương ưng, không phải là tâm không tương ưng, vì không có vật riêng.

Nay nên nêu vấn nạn thuyết kia về câu nói không có vật riêng: Vì khi lìa giác, thì các triền là tự thể, hay là lìa phần vị thùy, thì đối tượng nương dựa là tự thể? Hay là lìa khác với hai, pháp của tụ thứ ba là không có vật riêng?

Nhưng đều phi lý, vì pháp kia không phải là tánh của loại phẩm này. Lại, thùy này vì lìa giác kia là không có Thể riêng. Lại, lìa ngoài tương ưng, không tương ưng tức nên có riêng một, trái với hai pháp sinh, nhưng pháp thứ ba này, tất không thể đạt được. Thế nên thuyết kia đã nói chỉ có hư ngôn. Lại, câu nói đầu của thuyết kia: Nhưng thể của tùy miên không phải là tâm tương ưng, không phải là tâm không tương ưng. Lời nói này là thành thật, vì đều không có Thể. Về sau không nên nói là công năng sai biệt, từ phiền não sinh, có thể sinh khởi phiền não, vì pháp không có Thể, không phải là nhân quả.

Lại, trong kia đây là căn cứ vào lý riêng nào?

Chỉ chấp vị không hiện hành của phiền não có chủng tử theo đuổi, gọi là tùy miên, không phải chủng tử của pháp khác cũng lập danh hiệu này.

Như đối tượng chấp kia cũng có tâm v.v… với công năng sai biệt. Từ tâm v.v… sinh, có thể sinh tâm v.v… gọi là chủng tử.

Vì sao cũng không nói là tùy miên của tâm v.v…?

Ở đây, Thượng tọa lập nhiều nhân làm chứng, cho tùy miên tức là loại phiền não được các hữu tình nhận giữ cùng nối tiếp, không do công sức luôn theo đuổi. Do nhận biết khắp nên các hành giả kia đã dứt hết chúng khổ. Vì quán xét nên hành giả kia đã nhanh chóng có thể dựa vào đối trị. Người trí luôn quán xét các phiền não là tánh của bệnh.

Chỗ lập nêu như thế đều không phải là nhân làm chứng. Thừa nhận trong thân hữu tình có đủ năm loại uẩn. Hoặc cho thuyết kia đã thừa nhận có loại nghiệp, nên công năng của tâm v.v… không do công sức, cũng luôn tùy thuận.

Trong Khế kinh nói: Nhận biết khắp các pháp, nên dứt hết chúng khổ.

Nếu quán lỗi lầm của triền hiện hành, hành giả kia rất có thể nhanh chóng dựa vào đối trị. Kinh nói: Người có trí nên thường quán xét năm thứ thủ uẩn là tánh của bệnh.

Ai là kẻ có soi xét: Đối với chứng cứ đã lập của thuyết kia về nhân của tùy miên mà tâm có thể sinh vui. Lại, thể của tùy miên đối với phần tự cùng nối tiếp đã luôn theo đuổi vì sao không phải là hiện hành. Dùng tên gọi hiện hành là để chỉ về hiện tại. Do đấy, Kinh chủ đã lập sai về tùy miên. Lại, dụ đã lập, như chủng tử của niệm là trí chứng sinh, có thể sinh công năng của đương niệm có sai biệt, cũng không giống như tông của tôi đã nói về chủng tử của niệm, tức là ở sau trí chứng, đầu tiên là lại duyên nơi niệm thật. Từ trí chứng trước, cùng khởi niệm sinh, có thể sinh trí nhớ nghĩ của thời gian sau đều cùng có niệm. Đây là hiển bày tức ý niệm trước sau cùng dẫn là có thể đi tới chiêu cảm công năng sai biệt. Tự thể của niệm kia cùng sinh, không có phiền não thật riêng khác. Từ triền trước kia khởi, có thể sinh triền sau để đáng gọi là tùy miên. Vì chủng tử của phiền não, nên dụ đối với pháp là cùng cách nhau rất xa.

Do đấy nên biết dụ thứ hai kia, đối với pháp đã so sánh, cũng không có công năng làm chứng. Nghĩa là trong mầm v.v… có sắc thật

v.v… Từ phần vị của quả trước sắc thật v.v… sinh, lúc sinh quả sau, là pháp của sắc thật v.v…

Tông kia đã lập phiền não là công năng sai biệt của tùy miên tức không có sự việc như thế. Lại, không có đồng loại của mầm v.v…, là nhân quả cùng nối tiếp, cùng lúc có chủng tử của phiền não trong tự thể, so với triền cùng có nghĩa thì không nên chấp.

Công năng của phiền não ở trong tự thể, từ trước đã diệt các phiền não khởi, cũng như mầm v.v… từ quả trước sinh công năng có sai biệt. Như đây mới là ăn gạo ngang bằng với Tông, há được dẫn đến nương nhờ tiếp xúc với Thánh chỉ. Người thuyết pháp xấu ác, vì đã vọng chấp, so với Kinh chủ đã luận là rất kém đối với Tông kia. Nghĩa là trong Tông kia thừa nhận có pháp riêng, được gọi là hành là nhân của quả trí. Nhưng Tông của Kinh chủ thì không có vật thật riêng khác gọi là chủng tử.

Vì sao nói là nhân của quả phiền não nên là rất thấp kém?

Ở đây, Thượng tọa cho: Phật, Thế Tôn tự thuyết giảng các triền so với tùy miên là khác. Nghĩa là các phiền não hiện khởi gọi là triền, do có thể hiện tiền cùng nối tiếp trói buộc. Phiền não tùy thuộc cõi gọi là tùy miên. Nhân tánh luôn tùy thuận mà như ngủ say, như ẩn núp. Do Khế kinh nói về bệnh ngủ của trẻ con, đồng tử ấu trĩ. Tuy không có nhiễm dục, nhưng có tùy miên dục tham tùy tăng. Ở đây, chỉ nói có tánh của các tùy miên.

Lại nói về một loại ở trong nhiều thời gian, bị triền dục tham vây buộc tâm mà trụ.

Văn này chỉ nêu có triền của phiền não. Lại nói một loại, không phải ở nơi nhiều thời gian bị triền dục tham vây buộc tâm mà trụ. Nếu như tâm tạm thời như thế khởi triền dục tham, tìm phương tiện nhận biết như thật để xuất ly, hành giả kia do đấy nên đối với triền dục tham có thể loại trừ chính đáng và đoạn dứt tùy miên.

Đoạn văn này nêu bày chung về triền và tùy miên. Do đấy, nên nhận biết về phiền não hiện khởi, phiền não tùy theo cõi, gọi là tùy miên, triền. Nếu tiếng tùy miên là chỉ cho phiền não đạt được, thì điều này không hợp lý, vì từng không có nói.

Lại, đã trừ bỏ đắc riêng có, nên tùy miên như thế lấy gì làm Thể?

Nếu tùy miên kia lấy phiền não kia làm Thể, là tùy vào tánh công năng của pháp kia. Hoặc tùy miên này dùng chung bốn uẩn làm Thể, vì công năng luôn theo đuổi tâm tâm sở, nên tánh tương ưng ấy cũng không tương ưng như các tâm sở. Nhưng vì tự thể của tùy miên kia là không thể nói rõ mà cũng không ghi nhận riêng. Loại bỏ điều này, phần nhiều là đồng với nghĩa đả phá Kinh chủ.

Lại, xem kỹ thì vẫn còn có lỗi thô chưa loại trừ. Lại như thuyết kia đã nêu bày tiếng tùy miên của Tông trước chỉ cho đắc liền tạo tác là bài xích phần không hợp lý này.

Lại, biện minh về nhân, nói là từng không có nêu bày. Lại đã loại trừ về đắc riêng có, nên nhân này không có công năng tùy theo cõi đồng. Nghĩa là từng không có xứ nào nói là tùy theo cõi, gọi là tùy miên, không nói là tuy đồng, nhưng thừa nhận lý được là hơn. Do Khế kinh đã nói cùng tùy miên đoạn, nên không phải là không có thật thể. Pháp có thể cùng với hữu đều cùng đoạn. Do đấy đã loại trừ là đã loại trừ chữ đắc. Lìa đắc thì nêu bày gì là tánh của tùy miên để nói là loại trừ phần vị triền và tùy miên đoạn?

Không phải Sư Kinh Bộ có thể quyết định hiển bày chỉ rõ về tánh của tùy miên này là có, có thể đoạn, lại không phải là Thể của tùy miên.

Có thuyết cho: Vì tiếng tùy miên, nên tiếng tùy miên chỉ cho đắc là không có lỗi. Nghĩa là Đức Phật chỉ nói có bảy tùy miên, mà tiếng tùy miên có xứ nói là sắc. Như Khế kinh nói: Tùy miên có sắc, nếu giác (tầm), nếu tư, tức là tùy tăng.

Như thế, tùy miên đắc tuy không phải là tùy miên mà nói tiếng tùy miên, về lý cũng là tốt.

Lại thuyết kia đã giải thích trước sau là trái nhau, vì câu nói thừa nhận tham v.v… là nói về tùy miên. Nghĩa là thuyết kia, trước giải thích tham v.v… không phải là tùy miên. Sau, khi giải thích kinh, thì nói tùy miên tức là tham v.v…

Lại nên xét chọn kỹ về Tông của Thượng tọa, cho triền cùng với tùy miên đoạn, đều cùng là phi lý. Vì thế nên bỏ tùy miên, khác với triền, đều là nhân phi lý, như phần sau sẽ biện.

Nay nêu dẫn trái với kinh đã dẫn ở trước. Nghĩa là có kinh nói: Vì sao ông Kiều Đáp Ma nay đã tu phạm hạnh? Vì cầu đoạn trừ. Cầu đoạn trừ pháp gì? Đoạn trừ tham, sân, si và ba kiết v.v…

Trong đây, không nói riêng về đoạn tùy miên.

Thượng tọa ở đây đã giải thích như thế này: Tham v.v… đã nêu trong đây tức là tùy miên.

Há không phải là trước đã nói cùng tùy miên, là tùy miên đắc, không phải chỉ cho tùy miên? Không như vậy thì hai kinh tức nên trái hại nhau, vì từng không có nêu bày, nên đã chứng tỏ là phi lý, không phải là chủ trương của Kinh bộ. Kinh nêu rõ có nghĩa đoạn về tâm tương ưng. Vì quá khứ, vị lai không có, không phải vì tùy miên đoạn, nên triền về sau không sinh, gọi là đoạn. Kinh nêu câu cùng đoạn là làm rõ cả hai cùng lúc đoạn. Lại, kinh này đã nói là triền hơn tùy miên, vì trước đã nói trừ bỏ triền và tùy miên. Nếu không như vậy thì nên nói tùy miên và triền.

Nếu đoạn tùy miên thì triền mới đoạn, thì tùy miên là hơn, lý nên nói trước. Lại, vì tùy miên chưa đoạn, thì triền cùng có không sinh, nên không phải không sinh tức gọi là đoạn. Hoặc triền ở phần vị không sinh tức được mang tên đoạn, không phải tùy miên đoạn nên triền mới gọi là đoạn. Hoặc tức nên tùy miên đoạn, triền mới không sinh, không phải ở vào thời gian chưa đoạn, có lý không sinh, vì Thể của tùy miên kia cũng không có nghĩa đoạn, vì không có vật riêng, như hoa đốm giữa hư không v.v… Lại, thuyết kia đã nói: Nếu tùy miên kia dùng phiền não kia làm Thể, là tùy theo tánh công năng của pháp kia, nên cách giải thích này cũng không phải là tốt.

Nếu triền dục tham đã dẫn sinh tùy miên, tức là người dục tham, thì tâm học tức nên cùng với thể của dục tham là một. Vì cùng với tùy miên kia là không có thể riêng.

Tâm học là học, còn các triền dục tham không phải là học, vô học, vì sao có thể nói là: Nếu tùy miên kia dùng pháp kia làm Thể?

Lại, các triền dục tham của phần vị tùy miên đã diệt là không có Thể, vì sao có thể nói là có tùy miên dục tham, lấy dục tham làm Thể. Thuyết kia đã nói chữ có là vô nghĩa.

Lại, thuyết kia đã nói, hoặc dùng chung bốn uẩn này làm Thể, vì công năng đeo đuổi tâm tâm sở, nên cũng không hợp lý, vì Thể của tùy miên dục tham là không sai biệt. Chấp pháp sai biệt dùng làm tự thể, không phải là người quán xét lý sinh xứ hoan hỷ.

Lại, thọ, tưởng, thức là đối tượng tùy theo của dục tham, tức gọi là tự thể của dục tham, cũng không phải là người soi xét sinh xứ hoan hỷ.

Lại, thuyết kia đã nói, tánh tương ưng này cũng không tương ưng, như các tâm sở. Người kia nói, như có kẻ không nhận biết về hoa Bàn đậu thời phược ca và chim Câu chỉ la, có hỏi thế này: Chim Câu chỉ la màu sắc nó như thế nào? Đáp: Sắc tươi trắng, ngay ngắn, giống như hoa Bàn đậu thời phược ca. Từng không có xứ nào nêu bày, nên cũng không có lý chứng, Thể của các tâm sở là không tương ưng, sao lại nói tùy miên như các tâm sở, là tánh tương ưng, cũng không tương ưng.

Nếu nói thế này: Tự thể của tâm sở là khác, so sánh với hành tướng thì không tương ưng. Đã thừa nhận tùy miên cùng với Thể của tùy miên là khác, so sánh với hành tướng đã được tương ưng thì không nên nói là Thể của các tùy miên, như các tâm sở cũng không tương ưng. Lại, không nên thừa nhận các tâm sở pháp có không tương ưng, vì không phải chờ đợi tương ưng, mới kiến lập có không tương ưng. Lại, thuyết kia đã nói: Tự thể của tùy miên là không thể nói, nhưng không ghi nhận riêng. Đúng như nói: Tùy miên của Tông kia, cũng như sừng ngựa, vì không thể nêu bày.

Nói tóm lại, đối tượng chấp của Tông kia phần nhiều không có thật thể để có thể ghi nhận. Muốn ở nơi giáo pháp của Phật tìm cầu, hiểu biết đúng đắn, thì không nên quen gần Luận sư như thế. Vì người thông tuệ, hành tập theo Luận kia thì tuệ giác hiện có đều dần dần tối tăm suy kém. Vì Luận kia đã nói phần nhiều là bất định, văn nghĩa trước sau là cùng trái nhau, không nhận giữ cật vấn tranh luận vượt ngoài Thánh giáo. Các sư Đối pháp đều nói như thế này: Thể của dục tham v.v… tức là tùy miên. Như Khế kinh nói: Nếu tiếp xúc với lạc thọ, liền sinh vui thích, mừng rỡ, tham trước, chấp chặt mà trụ, tức đối với lạc thọ là có tùy miên tham. Ở đây, tiếng tùy miên tức nói về vui thích v.v…

Kinh chủ về vấn đề này đã giải thích: Kinh chỉ nói có, không nói bấy giờ. Tức có tùy miên thì chỗ trái hại là gì? Nơi thời nào thì có?

Vào lúc nào thì tùy miên kia thùy? Hoặc giả đối với nhân, lập tưởng tùy miên.

Giải thích này là phi lý, vì bấy giờ tùy miên được nói tiếng hiện có, về lý là không thành. Nghĩa là không phải sát-na đang khởi triền tham là có tùy miên tham để có thể nói là hiện có. Tức câu nói đối với lạc thọ có tùy miên tham, là làm rõ trong lạc thọ hiện có tùy miên. Lại, có tự thể của tùy miên, tức nên không thể nhận biết. Nghĩa là kinh đã nói tiếng có tùy miên, hoặc tánh có cùng có, hoặc tức tánh có, thì đối với pháp không có Thể, lý đều không thành, vì đều có, đều cùng có và tánh có.

Lại, kinh chỉ nói câu có tùy miên, đâu thể nhận biết, không phải là bấy giờ, mà ở vào thời gian khác mới có. Có, nghĩa là có Thể, là nghĩa hiện có. Như Khế kinh nêu rõ: Ở trong các dục, nếu có dục tham, thì tâm bị trói buộc trụ, cho đến nói rộng. Lại, như kinh nói: Có các hữu tình đối với cảnh đáng yêu, có dục, có tham, cho đến nói rộng.

Há cũng chấp có này cùng chữ trói buộc?

Không phải ở nơi bấy giờ mà ở nơi thời gian khác, có trói buộc. Lại như kinh nói: Vì ở đây không, nên ở kia không. Há cũng có thể nói là thời gian khác không có nghĩa. Nên Kinh chủ đã giải thích nhất định là phi lý, do ở đây đã loại trừ nơi nhân giả lập. Nghĩa là kinh chỉ nói câu có tùy miên, đâu thể nhận biết, nói nhân không phải là Thể của tùy miên. Lại, vì Thể của tùy miên bấy giờ không có, thì không nên ở nơi có, lập tên không phải có. Nên biết tùy miên tức là dục tham v.v…

Đối với phần tự cùng nối tiếp thì tùy miên tùy tăng. Nhưng nay tôi giải thích theo trong kinh Đại Mẫu: “Tùy miên dục tham tức là thể của dục tham”. Không phải ý này nhằm biện về các tùy miên đắc. Tùy miên dục tham đã tùy tăng là nghĩa tùy phược (Trói buộc theo).

Vì sao tùy phược, không phải do tự thể, mà là do khởi đắc? Như kẻ oán đối mạnh, tuy ở phương xa, nhưng ngầm sai khiến người theo dõi, dò xét, cầu tìm chỗ sai sót. Nên Bản luận giải thích chung về danh xưng tùy miên, nghĩa là luôn tùy hành và luôn tùy phược. Ở đây nói khởi đắc, không phải là làm rõ về đắc thể.

Lại, tức kinh kia nói: Và tùy miên đoạn, là hiển bày về nghĩa triền dục tham đã hoàn toàn dứt hết. Nghĩa là lúc đoạn tám phẩm do tu đạo đoạn, thì một phẩm tùy miên còn lại cũng có thể trói buộc theo.

Vì làm rõ về Thể đoạn, nên nói là chính thức loại trừ, và tùy miên đoạn là nêu rõ về tùy phược đều dứt hết. Như Khế kinh nói: Ở đây, đã sinh vô lượng chủng loại pháp ác bất thiện, tức vĩnh viễn diệt trừ và đoạn dứt tùy phược trọn vẹn. Ý này cũng hiển bày và tùy miên diệt. Thế nên tùy miên tức dục tham v.v… không phải là tùy thuộc cõi v.v…, lý ấy khéo thành.

Luận sư Phân biệt nói như thế này: Thể của các tùy miên là không tượng ưng, không giác, không tư, vì có tùy miên. Nghĩa là Khế kinh nói: Không giác, không tư cũng là tùy miên tùy tăng, tùy phược. Lại, đạo phiền não tức nên cùng thời. Nghĩa là Thánh đạo khởi, cùng với tâm tương ưng. Nếu đoạn trừ phiền não cùng với tâm tương ưng, tức nên Thánh đạo có, phiền não cùng có. Lại nên phi vô học cũng không có phiền não. Nghĩa là chấp tùy miên tương ưng với tâm, thì phàm phu, hữu học, với tâm thiện, vô ký lúc hiện tiền, nên không có phiền não. Tuy nhiên, không phải là điều được thừa nhận, nên biết tùy miên thuộc về bất tương ưng hành uẩn.

Giải thích của Luận sư này có thể phá bỏ Kinh bộ, không can dự đến tông của tôi. Vì tông của tôi thừa nhận quá khứ, vị lai là có thật thể. Nghĩa là tuy hiện tại không giác, không tư, nhưng bị giác, tư của khứ, lai dẫn dắt.

Thể của các tùy miên cùng với tâm tương ưng, thật sự là cùng với tùy miên tùy tăng, tùy phược, cho đến trước khi chưa đoạn giác, tư v.v… Ở trong phần cùng nối tiếp, luôn hiện khởi đắc tùy tăng, tùy phược, từng không có gián đoạn.

Do đấy, cũng không có lỗi đạo, Hoặc cùng có. Cũng không có lỗi phi vô học, có không có phiền não, vì phiền não đắc không phải là phiền não. Do phiền não của khứ lai này trói buộc, nên như tông của ông cho khi Thánh giả hiện khởi phiền não thì không có đạo, phiền não cùng có và thành lỗi của phàm phu. Tông của tôi cho khi hàng hữu học khởi Thánh đạo thì không có đạo, phiền não cùng có, và lỗi không có phiền não. Lại, đâu dùng chấp không tương ưng này để có thể làm nhân sinh ra các triền.

Điều này là không hợp lý, vì từng không có nói đến. Đức Phật đã nêu rõ: Phiền não chỉ do gốc vô minh bất luật nghi, tác ý phi lý, phân biệt tà v.v… làm nhân, nên sinh, không nói vì tùy miên làm nhân, nên khởi. Nhưng Phân Biệt Luận và Sư Kinh Bộ đều vọng chấp tùy miên là tánh nhân của triền.

Lại, đối tượng chấp này có lỗi thái quá. Nghĩa là nếu tùy miên vì là nhân của triền, nên chấp Thể của tùy miên là không tương ưng. Kinh nói nhân của vô minh là tác ý phi lý. Tác ý phi lý này tức nên là không tương ưng.

Ở đây không thừa nhận, nhưng thuyết kia nói như thế là thế nào?

Lại, Thể của tùy miên, nếu thừa nhận là tương ưng thì có thể làm tánh nhân của tùy miên, triền, không phải không tương ưng của vọng chấp khác. Do Khế kinh nói: Có các Bí-sô ở trong những sự việc kia, hoặc phần nhiều khởi tầm tứ, thì do đấy, do tâm này nên chìm đắm, vướng mắc.

Lại, lý như thế, hiện đời có thể nhận biết, do dục tham phẩm hạ, trước thường hiện khởi, sau tức thường khởi dục tham phẩm thượng.

Lại, nếu tùy miên không phải là tánh tương ưng, thì chỉ tùy miên này có thể tạo ra nhân của triền như tham v.v… Các loài hữu tình chưa lìa dục tham, nếu gặp triền của cảnh giới khởi tức nên đồng, vì nhân hiện sinh không có sai biệt.

Đã không thừa nhận như thế, nên chấp tùy miên cùng với triền làm nhân, nhất định là lối chấp ngang. Nhưng thể của tùy miên nhất định là tương ưng, vì kinh nêu rõ: Tùy miên là hân hoan thích thú v.v… Nghĩa là đã dẫn trong Khế kinh ở trước nói: Nếu tiếp xúc lạc thọ thì sinh khởi vui vẻ thích ý v.v…, tức đối với lạc thọ có tùy miên tham, không phải không tương ưng mà gọi là hân hoan, thích thú v.v…

Lại, kinh nói: Tùy miên che lấp tâm v.v… Nghĩa là Khế kinh nói tham che lấp tâm. Do tùy miên này liền có thể điều hành thân, ngữ, ý hành ác. Nếu Thể của tùy miên là không tương ưng, tức nên nơi tất cả thời tạo các hành ác.

Lại, Khế kinh nêu rõ: Tâm thọ tham nhiễm. Nếu thể của tùy miên là không tương ưng, tức nên tâm không nhiễm, hoặc nên luôn nhiễm. Nếu cho đối tượng dẫn dắt đều là các triền, thì trong đây đều không có tiếng tùy miên.

Vì sao không cho đều là tùy miên?

Vì ở trong ấy không có tiếng triền.

Lại, thuyết kia đã giải thích là trái hại với tông mình. Nếu không có tiếng tùy miên, tức chấp là triền, thì như Khế kinh nói: Vô minh làm nhân sinh tham, sân, si, cũng nên chấp triền làm nhân sinh ra triền, không phải do sức của tùy miên. Đây tức là trái hại với tông đã lập ở trước là nghĩa cho tùy miên làm nhân sinh ra các triền.

Lại, thể của tùy miên nếu không tương ưng, thì tùy miên kia cùng với tâm thiện là trái nhau chăng? Nếu là trái nhau, thì các tâm thiện tức nên cuối cùng không sinh, vì tùy miên luôn có. Nếu là không trái nhau thì các tùy miên tức nên không nhiễm não tâm. Nhưng kinh nói là có nhiễm não. Như Khế kinh nói: Tham nhiễm não tâm khiến không giải thoát. Vô minh nhiễm tuệ khiến không thanh tịnh.

Nếu cho tham nhiễm não, không phải là tùy miên tham, thì do lý gì làm nhân chứng biết như thế? Như tham nhiễm làm tánh có thể nhiễm não tâm, như thế tùy miên tham cũng lấy nhiễm làm tánh, vì sao không nói là có thể nhiễm não tâm?

Lại, như Thể của kiết ái, tức là ái có thể nhiễm não tâm, nên Thể của tùy miên tham tức là tham cũng có thể nhiễm não. Hoặc thuyết kia nên biện về nhân duyên sai biệt.

Do kiết ái nào là tánh tương ưng, còn Thể của tùy miên tham là không tương ưng?

Đức Phật quán xét ý lạc của hữu tình là có sai biệt, đối với các phiền não, lập nhiều thứ tên gọi. Như một dục tham thì gọi là dục lậu, dục thủ, dục ách, tùy miên dục tham, dục bộc lưu, cái tham dục, kiết ái v.v… đủ các loại tên.

Ở trong tên gọi sai biệt của một dục tham, nếu Thể của tùy miên là không tương ưng, chấp là tùy miên của dục tham, thì dục lậu v.v… tức nên không tương ưng, cũng nên chấp là lậu v.v… của dục. Nếu dục lậu v.v… không phải không tương ưng, thì nên thừa nhận tùy miên là pháp tương ưng, chữ vân vân (đẳng) là tên gọi sai biệt của dục tham. Do lý này chứng biết Thể của tùy miên dục tham, tức là dục tham có thể làm nhiễm não. Vì Khế kinh nói: Tham nhiễm não tâm khiến không giải thoát. Nên không thể chấp tùy miên luôn có, là không tương ưng, do các tâm thiện cùng ở phần vị có khởi, nên Thể của tùy miên nhất định là tương ưng.

Kinh chủ trong đây, trước nêu ra thuyết của Tôn giả Pháp Thắng đã nói: Vì các tùy miên nhiễm não tâm, vì che ngăn tâm, vì có thể trái với thiện, nên không phải là không tương ưng. Phần sau, tức đả phá: Những lý do này đều không phải là chứng cứ để không thừa nhận Thể của tùy miên là không tương ưng. Không thừa nhận tùy miên làm ba sự trên, chỉ thừa nhận ba sự là đối tượng hành tác của triền.

Ở đây đều chưa xem kỹ ý của Đại đức kia.

Ý của Đại đức kia, như tôi đã biện ở trước: Nếu cho tùy miên như phiền não đắc Thể tuy luôn có, không chướng ngại tâm thiện, thì điều này cũng không đúng, vì tùy miên, phiền não, danh thể có sai biệt, là điều từng không có nói.

Lại như Phân Biệt luận chấp Thể của tùy miên là không tương ưng, có thể ít có tác dụng. Tông kia không phải là bác bỏ cho không có quá khứ, vị lai, chớ nên cho phiền não sinh là không có nhân. Nhưng Độc Tử Bộ thì tin có quá khứ, vị lai, chấp có tùy miên không phải là pháp tương ưng.

Đối tượng chấp như thế hoàn toàn là vô dụng. Như Luận kia nói: Các triền tham dục, tất cả đều là tùy miên dục tham.

Có tùy miên dục tham không phải là triền dục tham. Nghĩa là tùy miên dục tham bất tương ưng hành.

Do đâu Bộ kia đã tạo chấp như thế?

Do văn của Kinh, Luận đều có thể được.

Giải thích tất cả các nghĩa kia đều như trước đã nói: Nếu chỉ như văn để nhận lấy nghĩa, thì như Khế kinh nêu: Tùy miên hữu sắc, văn này cũng nên không quán sát riêng, giải thích nghĩa lý theo như văn để nhận lấy, thì thể của tùy miên không phải chỉ có thể chấp mà tánh tương ưng và không tương ưng chung, cũng nên chấp chung nơi vô số các môn sai biệt như có sắc, không sắc, có thấy, không thấy v.v…

Lại, Luận kia do đâu lại ghét bỏ các đắc?

Nếu tin có đắc gồm đủ, thì có thể giải thích thông suốt nghĩa văn sâu kín trong các Thánh giáo. Các loại tà chấp đều không thể thiết lập vấn nạn như thật, nhằm bài bác tông đã tin có đắc.

Luận giả chấp tùy miên không tương ưng, thì thường bị vô số vấn nạn về lỗi theo đuổi, nên không thể giải thích thông hợp nghĩa văn của Thánh giáo, mà cố tạo phương tiện để bỏ chánh theo tà, chưa xét kỹ đã chất chứa ở nơi tâm nào nên như thế, đâu nhọc công nêu hỏi. Do các thế gian đắc cùng nhân trước từ vô thủy đều như nhau, nhưng hiện thấy có người chỉ tham là mạnh nhanh nhất, nói rộng cho đến có kẻ hành tạp loạn, không phải là không có nhân riêng mà có sự việc như thế. Tức nên do riêng có tùy miên không tương ưng.

Nêu dẫn này cũng không đúng. Nếu tín thật có hai đời quá khứ, vị lai, tuy không lập riêng bất tương ưng hành, gọi là tùy miên, thì tham mãnh liệt v.v… đều được thành tựu. Nghĩa là do cảnh v.v… của hai nhân đồng loại xa gần, duyên riêng hỗ trợ cho giác phát khởi, khiến uy lực dẫn dắt quả kia thành dị biệt. Phần tranh luận rộng nên dừng.

Như Khế kinh nói: Có tùy miên tham thì tùy miên tham này lấy gì làm Thể? Sắc ái, vô sắc ái?

Đức Phật nêu bày: Hữu tham. Đây gọi là nhân gì, chỉ ở nơi nhân kia lập tham kia? Đa số là nhờ dựa vào môn nội chuyển. Nghĩa là tham của cõi dục, phần nhiều ở nơi môn ngoài của cảnh dục mà chuyển, không gọi là hữu tham. Tham của hai cõi trên, phần nhiều ở môn nội của cảnh định mà chuyển, nên gọi là hữu tham.

Lại, do có người đối với cõi sắc, vô sắc, khởi tưởng giải thoát, vì để ngăn chận những người ấy. Nghĩa là nơi hai cõi trên, có kẻ cầu giải thoát, vọng tưởng là được sinh trước nơi cõi kia, nên có chấp cho cõi kia là chân giải thoát. Đức Phật vì ngăn chận thứ tưởng chân giải thoát kia, nên ở nơi cõi trên, lập dùng hữu gọi là tham. Tham của hai cõi lập là tưởng hữu tham.

Phàm nói hữu là nghĩa sinh thân. Đây tức nhằm chỉ rõ người muốn cầu giải thoát, đối với tất cả hữu, không nên mong cầu.

Kinh chủ đối với vấn đề ấy lại giải thích: Trong đây tự thể được lập dùng tên hữu. Các hữu tình kia đa số ở nơi đẳng chí và đối tượng nương dựa sinh tham đắm vị sâu dày, nên nói hữu tình kia chỉ tham đắm vị nơi tự thể, không phải tham đắm vị nơi cảnh, vì đã lìa dục tham. Do đấy chỉ ở nơi cảnh kia lập danh xưng hữu tham.

Giải thích này so với nghĩa ở trước có sai biệt gì? Nghĩa là trước đã nêu bày cho tham của hai cõi trên, phần nhiều ở môn nội của cảnh định mà chuyển.

Lại nói: Có người ở nơi cảnh hữu của sinh thân nơi sắc, vô sắc, khởi tưởng giải thoát, tức là đã nói định cùng sinh thân đều được mang tên hữu cùng có tự thể. Xem kỹ Kinh chủ giải thích về nghĩa không khác với trước, chỉ tạo những từ nổi bật giống như có một ít khác.

Thượng tọa nói có hai loại tùy miên: (1) Chỉ là triền dục. (2) Chung cho ba cõi.

Tự nêu lên nghi vấn: Há không phải là hữu tham?

Có luận nêu: Chỉ hai cõi trên đều không có Thánh giáo. Đối với cõi sắc, vô sắc nêu bày riêng tiếng hữu, nên vấn nạn là dựa nơi tín. Nhưng ở nơi xứ xứ trong các Thánh giáo đều dùng tiếng hữu để nói chung về ba cõi.

Há không phải là ở nơi cảnh cũng nói tiếng hữu?

Tùy miên dục tham không nên lập riêng?

Vấn nạn này là phi lý, vì chuyển biến có khác. Nghĩa là các dục tham ở nơi môn ngoài chuyển. Ở nơi môn nội chuyển gọi là hữu tham. Lại, như tham đắm cảnh so với tham đắm hữu là khác nhau. Chỗ dẫn về tùy miên có sai biệt cũng như vậy.

Lại, tham của duyên nơi cảnh giới, duyên nơi sinh thân, đối trị là bất đồng, nên lập riêng làm hai. Lại, tất làm tổn giảm, điều phục dục tham và sân, tiên ngoại mới có thể nhập sắc, vô sắc. Nên thể của dục tham không phải tức hữu tham, vì hữu tình kia duyên nơi tự cùng nối tiếp, tức ngã ái luôn theo đuổi, không gián đoạn.

Thượng tọa ở đây là hoàn toàn sai khi lập tùy miên có sai biệt, dùng tiếng dục tham để cùng nói về tất cả tham của cõi dục. Sinh thân của cõi dục cũng thuộc về cõi dục.

Vì sao duyên nơi tham kia không phải là dục tham?

Như nói: Sắc tham không phải chỉ là duyên nơi sắc, mà là nói chung về tất cả tham duyên nơi cõi sắc.

Như thế, dục tham không phải chỉ là duyên nơi dục, mà là nêu chung về tất cả tham duyên nơi cõi dục.

Thượng tọa đã trì tụng Khế kinh cũng cho: Nếu duyên nơi cõi dục khởi nhiễm, khởi tham, khởi A-lại-da, khởi Ni-diên-để, khởi các tham đắm, là tướng của dục tham. Nên kẻ chấp hữu tham chung nơi ba cõi, nghĩa là không phải vì chấp giữ thiện. Lại, không phải Đức Phật nói chỉ chung nơi ba cõi để có thể nêu tiếng hữu. Vì sao? Vì tiếng hữu, hoặc để nói phần ít của một cõi, phần ít của hai cõi, phần ít của ba cõi. Như kinh Thất Hữu nói tối đa là bảy hữu v.v… Như nêu phối hợp để giải thích, tức chỗ đã nói này là tùy miên dục tham, thâu tóm chung hết tất cả tham của cõi dục. Ái của hai cõi còn lại, được gọi chung là hữu tham. Lập danh nhân duyên, như trước đã biện.

Nếu chỉ duyên nơi nội tham, gọi là hữu tham, thì trong cõi sắc ái của sắc, thanh, xúc không phải là duyên nơi bên trong khởi, nên không phải là hữu tham, tức các tùy miên nên lập có tám. Lại nói hữu là không chỉ sinh thân, do trong Khế kinh đã nêu nghiệp hữu, trung hữu. Nên như tiếng dục hữu là gồm nói về cảnh dục.

Như thế, tham của cõi dục duyên nơi sinh thân cũng là thuộc về tùy miên dục tham. Vì thế tất cả tham hệ thuộc cõi dục đều dùng tiếng tùy miên dục tham để nói. Hoặc đối với cảnh dục cũng nói tiếng hữu. Tùy miên dục tham nói riêng là vô dụng, vì nói chuyển là khác, lý cũng không đúng. Câu nói phần nhiều thì cùng có thể như thế. Nghĩa là căn cứ theo phần nhiều lý tức có thể. Nhưng vì tham của cõi dục đa phần là theo môn ngoài chuyển, sắc ái, vô sắc ái thì đa phần ở nơi môn trong. Không phải chấp dục tham, chỉ duyên nơi ngoài khởi, chỉ duyên nơi trong khởi mới gọi là hữu tham, để có thể nói hai tham, vì chuyển khác, nên riêng biệt. Hoặc thuyết kia nên thừa nhận tham của cõi sắc, vô sắc hoàn toàn không có duyên nơi môn ngoài chuyển.

Lại, các thứ tham chấp cảnh, tức là tham đắm hữu, do các cảnh giới cũng gọi là hữu. Hoặc các thứ tham đắm hữu, tức là tham đắm cảnh, vì các hữu cũng thuộc về cảnh giới. Do đấy nên chỗ nói: Lại như tham đắm cảnh so với tham đắm hữu là khác, không phải là khéo nói.

Lại, thuyết kia đã nói, do đối trị tham của thân, cảnh không đồng, nên lập riêng hai, thì ở đây nói đối trị là riêng hay là chung? Nếu cho ở đây nói là căn cứ theo đối trị riêng, tức tham của cảnh giới, nên chia thành nhiều thứ. Nghĩa là tham của các cảnh giới như sắc, thanh v.v…, vì chế phục, đối trị đều có khác.

Nếu cho ở đây nói là căn cứ theo đối trị chung, thì hai đối trị này là có khác, có đồng.

Vì sao nhất định nói đối trị có khác?

Hoặc đối trị tham trong hai cõi sắc, vô sắc có chẳng đồng, tức nên cũng chia làm hai.

Lại nói làm tổn giảm, điều phục dục tham và sân, Tiên ngoại mới có thể nhập nơi cõi sắc, vô sắc, nên Thể của dục tham không phải tức hữu tham, vì hữu tình kia duyên nơi tự cùng nối tiếp, ngã ái luôn theo đuổi, không có gián đoạn.

Lời nói này là hoàn toàn trái với lý của Thánh giáo, vì chỉ không hiện hành, gọi là tổn giảm điều phục. Nếu tham duyên nơi sinh thân hệ thuộc cõi dục cũng gọi là hữu tham, cũng gọi là ngã ái, hoặc ngã ái này luôn tùy theo hiện hành thì các vị tiên kia nhất định không cùng nhập nơi cõi sắc, vô sắc. Nếu không làm tổn giảm, điều phục tham của sinh thân phẩm hạ, mà các Tiên ngoại cùng nhập địa trên, thì không nên nói là điều phục dục tham, sân, Tiên ngoại mới có thể nhập nơi cõi sắc, vô sắc.

Nếu cho hiện khởi tham, sân của cảnh dục, có thể làm chướng ngại Tiên ngoại nhập nơi cõi sắc, vô sắc, không phải tham duyên nơi sinh thân hệ thuộc cõi dục, có thể làm chướng ngại Tiên ngoại, thì điều này có lý gì?

Vì nhàm chán cảnh của thân phẩm hạ mới sinh lên cõi trên. Tuy người kia lại nói, há không phải là cho đến hướng A-la-hán trụ nơi cõi dục, đối với thân của cõi dục, có ngã mạn ngã ái, tất không có sự việc này.

Hoặc vì sao không thừa nhận quả A-la-hán cũng có sự việc này?

Nếu lìa nhiễm cõi dục, không đoạn tham cõi dục, khi lìa nhiễm của xứ Hữu đảnh, nên cũng không có lý đoạn. Do A-la-hán kia đối với nhiễm này là không phải đối trị. Hoặc tức nên tất cả phiền não của địa dưới cùng với nhiễm của xứ Hữu đảnh, đều cùng lúc đoạn dứt, thì tu đạo đối trị trước liền là vô dụng.

Hoặc nên nói về nhân duyên v.v… sai biệt kia thì tham của cõi dục được đoạn có dần dần và tức khắc.

Nếu cho chứng này là do kinh an ổn. Không như vậy thì không hiểu rõ về nghĩa của kinh kia. Nghĩa là Cụ thọ kia đã kiến đế lý, dựa nơi tu đạo đã đoạn ngã ái, ngã mạn hệ thuộc cõi dục, nên nói thế này: Tôi trong sắc v.v… không tùy thuận chấp ngã. Nhưng ở trong năm thủ uẩn như thế, có tùy miên ngã mạn, ái chưa đoạn. Nghĩa là các phiền não này tùy theo thân kiến hành. Vì thân kiến đoạn, nên chúng không hiện khởi. Nhưng cũng chưa vĩnh viễn đoạn, chưa được đối trị, nên tạo ra giải thích như thế.

Có chỗ nào trái nhau mà có đối tượng trái nhau?

Nghĩa là kinh kia nói: Phật vì Cụ thọ kia giảng nói pháp môn này, lúc ấy các Cụ thọ được an ổn thành A-la-hán, các lậu vĩnh viễn hết, tâm khéo giải thoát. Do đấy biết được các Cụ thọ kia trước là Bất hoàn, từng đã tiến tu hướng A-la-hán, ở phần vị xuất quán, nói lời như thế này: Tôi trong sắc v.v… cho đến nói rộng. Đức Phật vì chư vị thuyết giảng pháp, kinh chỉ nói thành quả A-la-hán, không nói pháp khác, nên điều này không thành chứng.

Trong Khế kinh kia nêu lên thiên về quả tối thắng đã đạt được, như Khế kinh Phủ Chưởng Dụ v.v… đã nêu. Không phải các Thánh giả tạo ra tầm, tư này: Ta, ta giống với gì, cho đến nói rộng.

Đức Thế Tôn dùng phương tiện khai ngộ tâm của các vị kia. Kinh chỉ nói thành quả A-la-hán. Nghĩa là kinh nói chư vị kia đã giác ngộ lời Phật giảng nói, thành A-la-hán, tâm hoàn toàn giải thoát. Không phải các phàm phu nghe pháp, nhanh chóng chứng quả A-lahán, nên nói như thế là nêu lên thiên về quả tối thắng.

Điều này cũng nên như thế.

Hoặc Khế kinh kia, căn cứ theo loại thủ uẩn, nên nói như thế này: Nhưng ở trong năm thủ uẩn như thế, có tùy miên ngã mạn, ngã ái chưa đoạn. Về lý, thật sự chỉ có ngã mạn, ngã ái trong thủ uẩn trên. Tự xưng Thích tử, tất không nên nói đã lìa dục tham, cũng còn có tùy miên ngã mạn, ngã ái của cõi dục chưa đoạn trừ, huống hồ là nói hai thứ này luôn tùy theo hiện hành.

Thế nên hữu tham chỉ ở nơi cõi sắc, vô sắc, không phải ở cõi dục, lý đó cực thành.

Đã nói hữu tham ở nơi hai cõi trên, về nghĩa căn cứ theo tham của cõi dục, gọi là dục tham, nên ở trong tụng không hiển bày riêng.

HẾT – QUYỂN 45