LUẬN A TỲ ĐẠT MA THUẬN CHÁNH LÝ
Tác giả: Tôn giả Chúng Hiền
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 44

Phẩm thứ 4: BIỆN VỀ NGHIỆP, phần 12

Như trên đã nói, Bồ-tát trụ nơi định, là từ nơi vị nào được danh xưng trụ định? Bồ-tát kia lại ở nơi nào được gọi là định? Tụng nêu:

Từ tu nghiệp tướng diệu

Bồ-tát được tên định

Sinh nhà quý, nẻo thiện

Đủ nam niệm bền chắc.

Luận nói: Từ tu tập nghiệp có thể chiêu cảm quả dị thục của ba mươi hai tướng đại sĩ phu vi diệu, Bồ-tát mới được lập tên gọi trụ định. Do từ thời gian này cho đến thành Phật, thường sinh nơi nẻo thiện và nhà tôn quý.

Sinh nẻo thiện: Nghĩa là sinh nơi nẻo người, trời. Do trong các nẻo này phần nhiều hành thiện. Vì tốt đẹp đáng xưng nêu, nên lập tên nẻo thiện, Ở trong nẻo thiện, thường sinh vào nhà tôn quý. Nghĩa là Bà-la-môn hoặc Sát-đế-lợi, trưởng giả giàu lớn. Nhà đại Bà-la-môn, ở trong loại gia đình cao sang, căn có đủ thiếu. Nhưng Bồ-tát kia luôn đủ căn thù thắng, luôn thọ thân nam hãy còn không làm người nữ, huống chi là có thọ thân Phiến quắc v.v… Đời đời thường có thể nhớ nghĩ về thọ mạng đời trước, việc thiện đã làm, thường không thoái chuyển khuất phục. Nghĩa là đối với sự việc đem lại lợi lạc cho tất cả hữu tình, thì trong tất cả thời, với hết thảy phương tiện tâm không hề chán mệt, gọi là không thoái chuyển khuất phục. Do không thoái chuyển khuất phục, nên nói là bền chắc.

Há không phải là chưa tu tập vị nghiệp của tướng diệu, tâm Bồđề không thoái chuyển, nên được lập danh xưng trụ định? Vì sao cần phải tu vị nghiệp của tướng diệu, Bồ-tát mới thọ nhận danh xưng vị trụ định? Vì bấy giờ, hàng người trời mới cùng nhận biết. Thời trước chỉ được chư thiên nhận biết, hoặc vào thời bấy giờ, Bồ-tát đang hướng tới định đẳng giác, còn trước đó chỉ là đẳng giác quyết định, không phải là vị nào khác.

Tương ưng nào biết tu nghiệp tướng diệu? Tụng nêu:

Thiệm bộ, nam đối Phật

Phật tư tư tạo thành

Khác trăm kiếp mới tu

Đều trăm phước trang nghiêm.

Luận nói: Bồ-tát chủ yếu ở trong châu Thiệm bộ mới có thể tạo nghiệp tu dẫn tướng diệu, vì tuệ giác của châu này là rất sáng rõ, sắc bén. Chỉ là thân người nam, không phải thân nữ v.v…, vì lúc này đã vượt qua phần vị nữ v.v… Ở đây, không nên vì trong tụng trước nêu: “Luôn thọ thân nam”, nghĩa đã hiển bày. Nếu cho trước đã nói tạo nghiệp này, đã luôn thọ thân nam, nay nói là làm rõ đầu tiên tạo nghiệp ấy, cũng không phải là nữ v.v… Nghĩa này so với nghĩa trước có sai biệt, nên lời biện hộ giúp này là phi lý, vì nghĩa đã thành. Tức trước đã nêu rõ tạo nghiệp này rồi, không phải là thân nữ v.v…, là đã làm rõ thời gian tạo, cũng không phải là thân nữ v.v… Do không phải nữ v.v…, tức vừa mới tạo nghiệp này liền chuyển hình. Nghiệp có thể chiêu cảm tướng diệu thù thắng của bậc Thiện Thệ tất dựa vào thân tịnh mới có thể dẫn khởi. Nên do nghĩa này trước nói là đã thành.

Khi tạo nghiệp ấy, chỉ hiện đối trước Phật. Nghĩa là đích thân thấy sắc thân không chung của Phật với tướng tốt đoan nghiêm, cùng vô số thứ kỳ lạ đặc biệt, có tư muốn dẫn khởi cảm nhận loại này, vì không đối trước Đức Như Lai, thì không chấp nhận khởi. Nghiệp của tướng diệu này chỉ duyên nơi tư của Phật, vì Phật là cảnh thuận đức đáng hoan hỷ, nên nghiệp chiêu cảm tướng diệu chỉ do tư tạo thành, không phải do tu tạo thành, vì cảnh giới là không nhất định. Dị thục được chiêu cảm đã hệ thuộc nơi cảnh này. Không phải do văn tạo thành, vì văn tuệ kia là yếu kém, cũng không phải là sinh đắc, vì do gia hạnh khởi. Nghĩa là Bồ-tát kia chỉ ở nơi ba vô số kiếp, tu hành Ba-la-mật-đa như thí v.v… viên mãn trong thân mới có thể đạt được. Chỉ là thiện gia hạnh, không phải là thiện sinh đắc. Chỉ một trăm kiếp còn lại, tạo tu không phải nhiều, vì trong nhân của chư Phật pháp nên như thế. Chỉ có Đức Bạc-già-phạm Thích Ca Mâu Ni đã tinh tấn đầy đủ thời gian, có thể vượt qua chín kiếp, tức nơi chín mươi mốt kiếp hành nghiệp tu tập tướng diệu đã thành. Thế nên Đức Như Lai nói với chủ thôn xóm: Ta nhớ nơi kiếp chín mươi mốt đến nay, không thấy một nhà nào nhân thí thức ăn cho ta, có một ít tổn thương, mà đều chỉ thành lợi lớn. Từ tự tánh này, luôn nhớ về đời trước, nên nói là ngang với đây, không phải là trước không nhớ. Mỗi mỗi tướng diệu có trăm phước trang nghiêm. Trong đây, trăm tư gọi là trăm phước. Nghĩa là khi sắp tạo nghiệp mỗi mỗi tướng diệu, trước hết khởi năm mươi tư thanh tịnh đối trị thân khí. Tiếp theo mới khởi dẫn nghiệp một tướng. Về sau lại khởi năm mươi tư thiện, trang nghiêm dẫn nghiệp khiến được viên mãn. Năm mươi tư là nương dựa nơi mười nghiệp đạo, mỗi mỗi nghiệp đạo đều khởi năm tư.

Lại dựa vào nghiệp đạo lìa sát đầu tiên, có năm tư tức là: (1) Tư lìa sát hại. (2) Tư khuyến khích, dẫn dắt. (3) Tư tán thán, khen ngợi. (4) Tư tùy hỷ. (5) Tư hồi hướng: Nghĩa là xoay chuyển pháp đã tu, hướng đến giải thoát.

Cho đến chánh kiến (nghiệp đạo thiện thứ mười) đều có năm cũng như thế.

Có Sư khác nói: Dựa nơi mười nghiệp đạo đều khởi năm phẩm Tư thiện như hạ v.v… Trước, sau đều như thế, như huân tập tĩnh lự.

Có Sư khác cho: Dựa nơi mười nghiệp đạo, mỗi nghiệp đạo đều khởi năm tư: (1) Gia hạnh tịnh. (2) Căn bản tịnh. (3) Hậu khởi tịnh. (4) Không phải tầm hại. (5) Niệm thâu nhận.

Lại có Sư khác nêu: Nghiệp của mỗi mỗi tướng đều là duyên nơi Phật, chưa từng hành tập tư mà đủ một trăm hiện tiền dùng để nghiêm sức.

Trăm phước, mỗi mỗi phước, lượng của chúng là thế nào?

Có thuyết cho: Do dựa vào công đức được tăng trưởng của ba vô số kiếp, đã tập hợp thành thân, phát khởi như vậy. Vô đối, vô số lượng phước đức thù thắng, chỉ Đức Phật nhận biết.

Có thuyết nêu: Nếu do sức tăng thượng của nghiệp, chiêu cảm ngôi vị Luân vương, trị vì bốn châu lớn, tự tại mà chuyển, là lượng của một phước.

Có thuyết nói: Nếu do sức tăng thượng của nghiệp, được làm Đế Thích, là vua nơi hai trời thuộc cõi dục tự tại mà chuyển là lượng của một phước.

Có thuyết cho: Chỉ trừ Bồ tát gần Phật, tất cả hữu tình còn lại đều tu nghiệp đạt quả giàu vui là lượng của một phước.

Có Sư khác nói: Lượng này còn quá ít. Nên nói là thời kỳ thế giới sắp thành, tất cả hữu tình do sức tăng thượng của nghiệp đã chiêu cảm đại thiên cõi nước là lượng của một phước.

Đức Bạc-già-phạm hiện nay, thời xưa là Bồ-tát, trong ba vô số kiếp đều cúng dường bao nhiêu vị Phật? Tụng nêu:

Nơi ba vô số kiếp

Đều cúng dường bảy vạn

Như thứ lớp cúng dường

Năm, sáu, bảy, ngàn Phật.

Luận nói: Trong vô số kiếp đầu tiên, cúng dường bảy vạn năm ngàn vị Phật. Trong vô số kiếp tiếp theo, cúng dường bảy vạn sáu ngàn vị Phật. Trong vô số kiếp sau, cúng dường bảy vạn bảy ngàn vị Phật.

Ba vô số kiếp, khi mỗi mỗi vô số kiếp đã mãn và mới phát tâm đều gặp Đức Phật nào? Tụng nêu:

Ba vô số kiếp mãn

Ngược lại gặp Thắng Quán Phật Nhiên Đăng, Bảo Kế Đầu Thích Ca Mâu Ni.

Luận nói: Nói ngược thứ lớp : Là từ sau hướng tới trước. Tức ở nơi vô số kiếp thứ ba mãn, đã gặp, phụng sự vị Phật danh hiệu là Thắng Quán. Kiếp thứ hai mãn, đã gặp, phụng sự vị Phật danh hiệu là Nhiên Đăng. Kiếp thứ nhất mãn, đã gặp, phụng sự vị Phật danh hiệu là Bảo Kế.

Vô số kiếp đầu tiên, trước hết là gặp Phật Thích Ca Mâu Ni. Nghĩa là Đức Thế Tôn của chúng ta, ở nơi vị phát tâm đầu tiên đã gặp một Đức Bạc-già-phạm, hiệu là Thích Ca Mâu Ni.

Khi Đức Phật ấy xuất thế, là đang ở kiếp cuối. Sau Phật diệt độ, chánh pháp chỉ trụ một ngàn năm. Bấy giờ, Đức Thế Tôn của chúng ta làm con của một người thợ gốm, đã đi đến trụ xứ của Đức Phật kia, khởi tâm thanh tịnh đầy đủ, dùng nước hương để tắm gội, dùng dầu thơm xoa thân, thiết lễ cúng dường xong, phát thệ nguyện rộng: Nguyện con sẽ làm Phật hoàn toàn như Đức Thế Tôn hiện nay. Vì thế Đức Như Lai hiện nay mỗi mỗi đều đồng với Đức Phật kia.

Bồ-tát Thích Ca của chúng ta ở trong phần vị nào nơi Ba-lamật-đa nào tu tập viên mãn? Tụng nêu:

Chỉ do bi thí khắp

Thân bị xé, không giận

Khen ngợi Phật Để Sa

Tiếp Bồ-đề vô thượng.

Sáu Ba-la-mật-đa

Nơi bốn vị như thế

Một, hai lại một, hai

Theo đấy tu viên mãn.

Luận nói: Bồ-tát khi phát nguyện thì đầu tiên tu thí, chưa có thể hành thí khắp nơi tất cả hàm thức, bố thí tất cả vật, chỉ vận dụng tâm bi. Bồ-tát kia, qua thời gian sau, do sức thường hành tập, nên tâm bi chuyển biến tăng thịnh, có thể thí cho khắp tất cả hữu tình, không phải tất cả vật. Nếu bấy giờ, Bồ-tát đối khắp tất cả, có thể xả bỏ hết thảy là chỉ do tâm bi, không phải tự mong cầu sự sinh thù thắng có sai biệt. Ngang với đây là tu tập viên mãn bố thí Ba-la-mật-đa.

Có thuyết nói: Bồ-tát quán xét các thế gian thiếu thốn về tiền của, bị nghèo khổ bức bách, vì muốn đem lại lợi ích cho họ, tức cũng mang tâm bi, phát nguyện tự cầu được đời sống thù thắng có sai biệt, do các Bồ-tát từng không lúc nào không vận dụng tâm bi để hành thí. Nếu khi Bồ-tát thân bị cắt xẻ tuy chưa lìa dục tham, nhưng tâm không chút giận dữ. Ngang với đây là tu tập viên mãn giới nhẫn Bala-mật-đa. Nhẫn viên mãn: Là đối với hữu tình kia tâm không giận dữ. Giới viên mãn: Là không khởi nghiệp thân ngữ hại người khác. Vì tâm không giận nên thân, ngữ không ác. Không lúc nào giận dữ nên giới nhẫn viên mãn.

Như bấy giờ, Bồ-tát dũng mãnh tinh tấn tán thán Phật Để Sa, liền vượt qua chín kiếp. Ngang với mức này là tu tập viên mãn tinh tấn Ba-la-mật-đa. Nghĩa là xưa có Phật hiệu là Để Sa. Đức Phật kia có hai đệ tử Bồ-tát: Một tên là Thích Ca Mâu Ni và một tên là Mai Đát Lệ Dược. Đức Phật nhân quán sát ruộng của tự mình đã hóa độ, soi sáng phân minh nhận biết hai vị đệ tử này: Năng Tịch thì đối tượng hóa độ thành thục trước, không phải là tự thân. Từ Thị thì tự thân thành thục trước, không phải là đối tượng hóa độ. Nhận biết xong, lại khởi tư duy như thế này:

Thành thục nhanh chóng một thân, sự việc ấy là ít, dễ. Bèn dùng phương tiện vào trong trang báu, ngồi kiết già, dựa nơi định thù thắng, pháp Phật bất cộng hiện khắp ở trước. Năng Tịch nhân đi đến, gặp thấy Đức Phật kia, uy quang rực rỡ đặc biệt khác thường, chợt dùng tâm tịnh nắm giữ để đưa thân lên một chân mà đứng trải qua bảy ngày đêm, dùng Già tha vi diệu ca ngợi Đức Phật kia:

Trời đất cõi này, nhà học rộng

Qua cung xứ trời, mười phương không

Trượng phu, Ngưu vương, Đại Sa-môn

Tìm đất núi rừng không ai bằng.

Ca ngợi như thế xong, liền vượt qua chín kiếp, đối với Từ Thị thì chứng quả vô thượng trước.

Như lúc Bồ-tát ngồi ở tòa Kim cang, sắp chứng đắc Chánh đẳng Bồ-đề vô thượng, tiếp theo là trụ nơi định Kim cang dụ trước Vô thượng giác. Ngang với đây là tu tập viên mãn định, tuệ Ba-lamật-đa.

Về lý ứng hợp vị này, vô gián mới viên mãn. Khi đạt được tận trí thì quả vị này mới viên mãn. Tức riêng nên có thể đi đến bờ kia của viên đức. Sáu pháp này gọi là Ba-la-mật-đa.

Khế kinh nêu rõ có ba sự phước nghiệp: (1) Sự phước nghiệp loại Thí. (2) Sự phước nghiệp loại Giới. (3) Sự phước nghiệp loại Tu.

Ở đây, vì sao lập danh xưng sự phước nghiệp? Tụng nêu:

Ba loại thí, giới, tu

Đều tùy chỗ ứng hợp

Nhận tên sự phước nghiệp

Sai biệt như nghiệp đạo.

Luận nói: Ba loại đều là phước hoặc nghiệp, hoặc sự, tùy theo chỗ ứng hợp của chúng, như nói về nghiệp đạo. Nghĩa là như phân biệt trong mười nghiệp đạo: Có nghiệp cũng là đạo, có đạo không phải là nghiệp. Ở đây, có phước cũng là nghiệp, cũng là sự. Có phước, nghiệp không phải là sự. Có phước, sự, không phải là nghiệp. Có chỉ là phước, không phải là nghiệp, không phải là sự. Lại, trong loại thí hai nghiệp thân, ngữ có đủ ba thứ danh nghĩa phước, nghiệp, sự. Vì thiện nên là phước. Vì tạo tác nên cũng là nghiệp. Là có thể cùng khởi tư của nghiệp thân, ngữ. Vì chuyển nơi môn đối tượng nương dựa, nên cũng gọi là sự. Tư cùng khởi kia chỉ gọi là phước nghiệp. Pháp cùng có của tư chỉ thọ nhận tên phước. Vì loại giới đã chỉ là tánh của nghiệp thân, ngữ, nên đều thọ nhận đủ tên phước, nghiệp, sự.

Trong loại tu, từ chỉ gọi là phước, sự. Vì là sự của nghiệp, nên từ tương ưng với tư, dùng từ làm môn để tạo tác, nên từ cùng tư giới chỉ gọi là phước nghiệp. Pháp cùng có còn lại chỉ thọ nhận tên phước. Bi v.v… căn cứ theo đấy nên xét chọn.

Có thuyết nói: Phước nghiệp làm rõ nghĩa tạo phước. Nghĩa là sự gia hạnh phước, hiển bày đối tượng nương dựa. Tức thí, giới tu là sự của phước nghiệp. Vì thành thứ ba thứ phước, nghiệp, sự kia, nên khởi gia hạnh của phước.

Có thuyết cho: Chỉ tư là phước nghiệp chân thật. Sự của phước nghiệp là thí, giới, tu. Dùng ba thứ làm môn thì phước nghiệp chuyển.

Pháp nào gọi là thí? Thí chiêu cảm quả gì? Tụng nêu:

Do xả này gọi thí

Là vì cúng vì ích

Thân, ngữ, chủ thể phát

Đây chiêu quả giàu lớn.

Luận nói: Tuy vật của đối tượng xả và chủ thể xả, vật dụng đều có thể gọi là thí, nhưng trong đây đã lập tên thí, đều cùng dựa nơi vật dụng xả bỏ. Nghĩa là do xả bỏ vật dụng này nên sự được thành. Lý do xả bỏ là thể của thí chân thật, như cảnh của đối tượng đo lường, không được mang tên lượng. Đã lập tên lượng là dựa vào dụng cụ của chủ thể đo lường. Hoặc vì so sánh hơn thua, cất chứa nêu khen, truyền tập, tùy theo chỗ thân ái, thân cận của kẻ khác.

Do các thứ xả như thế v.v… nên sự cũng thành. Nhưng không phải là ý chính trong đây đã nói. Vì phân biệt với phước, nghiệp, sự kia, nên nói là cúng, là ích.

Nói ở nơi đã Niết-bàn, thì chỉ là cúng dường. Ở nơi khác thì cũng là tạo lợi ích. Các căn của đại chủng kia, khi có hành thí, chỉ là tạo lợi ích. Vật dụng kia gọi là gì? Nghĩa là thân, ngữ nghiệp cùng chủ thể phát khởi chúng. Chủ thể phát khởi nghĩa là gì? Vô tham cùng có thể khởi tụ này, tức thân, ngữ nghiệp cùng tâm có thể khởi và tụ này đều cùng hành, gọi chung là thể của thí. Như có tụng nêu:

Nếu người dùng tâm tịnh

Dừng việc mình, hành thí

Uẩn thiện sát-na này

Lập chung dùng tên Thí.

Nên biết phước, nghiệp, sự của loại thí như thế, hồi hướng về giải thoát, cũng được quả ly hệ. Nhưng căn cứ theo quyết định gần để nói thì chỉ nói là có thể chiêu cảm quả giàu có của cải lớn.

Dựa vào gì để lập danh xưng giàu có của cải lớn này?

Do của cải tốt đẹp, rộng lớn nhiều loại, không thể xâm đoạt. Các thứ bố thí như ganh đua để hơn nhau v.v… chỉ như loại gai độc đâm chích làm thương tổn, tuy hành thí nhưng không có quả giàu có, nhiều của cải.

Nói phước của loại thí: Là hiển bày nghĩa thí là thể. Như các thứ đồ dùng của loại đất sét, cây cột của loại gỗ v.v…, cũng thấy nói là loại, nhưng không phải làm rõ nghĩa của thể. Như trí của loại nghe, không phải hiện nay đã thừa nhận. Câu nói loại tu giới là căn cứ ở giới này, nên giải thích: Vì đối tượng tạo lợi ích nào mà hành thí? Tụng nêu:

Vì lợi ích mình, người

Không vì hai hành thí.

Luận nói: Khi thí chủ hành thí, xem xét về hai lợi ích: (1) Vì lợi ích của mình, chiêu cảm quả là căn thiện. (2) Vì tạo lợi ích cho đại chủng của các căn thuộc người khác.

Thí chủ có hai loại: (1) Có phiền não. (2) Không có phiền não.

Người có phiền não, lại có hai thứ: (1) Chưa lìa dục tham. (2) Đã lìa dục tham.

Ở trong hai hạng người này, đều có hai loại: (1) Các Thánh giả. (2) Các phàm phu.

Trong đây, Thánh giả chưa lìa dục tham và phàm phu đã, chưa lìa dục tham, phụng thí nơi tháp Phật chỉ là lợi ích của mình. Nghĩa là tự tăng trưởng hai thứ căn thiện: (1) Có thể chiêu cảm sự giàu có lớn là quả. (2) Vì được tư lương của nghĩa trên hết.

Các Thánh giả đã lìa dục tham, phụng thí tháp Phật, trừ thuận hiện thọ, không chiêu cảm sự giàu có lớn. Do Thánh giả kia đã có thể vượt quá hoàn toàn địa của dị thục kia, mà cùng đạt được tư lương của nghĩa trên hết. Thế nên cũng gọi là chỉ tạo lợi ích cho mình, không phải Thánh giả này có thể tạo lợi ích cho đại chủng nơi căn của người khác, nên không tạo lợi ích cho người khác. Người không có phiền não, thí cho hữu tình khác chỉ vì tạo lợi ích cho người khác.

Nghĩa là có thể làm lợi ích cho đại chủng nơi các căn của người khác, không phải tự tăng trưởng hai thứ căn thiện, nên không phải tự tạo lợi ích. Người có phiền não thí cho hữu tình khác, vì cả hai đều cùng có lợi ích. Người không có phiền não phụng thí nơi tháp Phật, trừ thuận hiện thọ, không vì hai thứ lợi ích này.

Có Sư chỉ căn cứ theo hành thí đã chiêu cảm sự giàu có lớn để phân biệt quả thí. Sư kia tạo ra thuyết này: Ở đây tất cả các loại phàm phu chưa lìa dục tham và đã lìa dục tham nắm giữ sở hữu của mình, phụng thí tháp Phật, thì hành thí này gọi là chỉ vì lợi ích của mình, không phải các vị kia do đấy có được lợi ích.

Nếu các Thánh giả đã lìa dục tham, bố thí nơi các hữu tình, trừ thuận hiện thọ, thì hành thí này gọi là chỉ vì lợi ích cho người khác, vì các Thánh giả kia do đấy đạt được lợi ích, không phải vì lợi ích của mình đã vượt quá địa của quả. Nếu tất cả Thánh giả kia chưa lìa dục tham và đã lìa dục tham, các loại phàm phu nắm giữ sở hữu của mình, đem thí cho các hữu tình, thì hành thí này gọi là vì cả hai đều cùng có lợi ích.

Nếu Thánh giả kia đã lìa dục tham, phụng thí nơi tháp Phật, trừ thuận hiện thọ, thì hành thí này gọi là không vì tạo lợi ích cho cả hai, do đấy chỉ là cúng dường, báo ân. Phần trước đã nêu rõ chung về hành thí chiêu cảm sự giàu có lớn. Nay tiếp theo sẽ biện về nhân riêng khác của quả thí. Tụng nêu:

Do chủ của, ruộng khác

Nên quả thí khác biệt.

Luận nói: Thí có sai biệt là do ba thứ nhân. Nghĩa là chủ, của cải, ruộng có khác nhau. Do thí có sai biệt nên quả có khác biệt.

Nói chủ, của cải, ruộng có sai biệt: Nghĩa là thí chủ, của cải, ruộng có hơn kém của loại như thế, so với thí chủ, của cải, ruộng khác là khác. Lại như do thí chủ có sai biệt. Tụng nêu:

Chủ khác là do tín

Hành thí đều kính trọng v.v…

Được tôn quý yêu rộng

 Hợp thời quả khó mất.

Luận nói: Hoặc có thí chủ ở trong nhân quả, có được tín quyết định. Hoặc có thí chủ ở trong nhân quả tâm mang do dự. Hoặc có thí chủ đột nhiên tùy theo ý muốn của mình. Hoặc có thí chủ có đủ Thi la thanh tịnh, hoặc ít, thiếu, trái, hoặc hoàn toàn không có giới. Hoặc có thí chủ đối với giáo pháp Phật có hiểu biết đầy đủ, hoặc có ít hiểu biết, hoặc không có hiểu biết v.v… mà hành huệ thí. Do thí chủ có đủ tín, giới, văn v.v… với công đức có sai biệt, nên gọi là chủ khác. Do chủ khác, nên thí thành sai biệt. Do thí có sai biệt, nên được quả có khác.

Có các thí chủ đủ đức như thế, có thể như pháp hành bốn thứ thí như kính trọng v.v… Như thứ lớp tức được bốn quả như tôn trọng v.v… Nghĩa là nếu thí chủ hành thí kính trọng, liền chiêu cảm là luôn được người khác tôn trọng. Nếu tự tay bố thí, liền có thể chiêu cảm được ở nơi của cải rộng lớn yêu thích thọ dụng. Nếu hành thí hợp thời, thì chiêu cảm của cải hợp thời, cần dùng đúng thời, không phải là thời khác. Nếu thí không tổn hại người khác, tức chiêu cảm tiền của không bị nạn lửa nước, vua quan v.v… xâm hoại. Do của cải đã thí có sai biệt. Tụng nêu:

Của cải khác do sắc

Được sắc diệu, danh tốt

Chúng yêu, thân mềm mại

Tùy lúc ưa tiếp xúc.

Luận nói: Do của cải đã thí, hoặc thiếu, hoặc đủ sắc, hương, vị, xúc, như thứ lớp liền được hoặc thiếu, hoặc đủ quả như sắc diệu v.v… Nghĩa là vì của cải đã thí màu sắc đầy đủ, liền chiêu cảm được sắc diệu. Hương đầy đủ tức chiêu cảm danh tốt, như hương thơm phức lan tỏa khắp các phương. Vị đầy đủ nên liền chiêu cảm được nhiều yêu thích, như vị ngon đẹp, được mọi người yêu thích. Xúc đầy đủ tức chiêu cảm thân mềm mại cùng có tùy thời sinh xúc lạc thọ. Nếu thí thiếu thì ứng theo đấy là quả giảm.

Như thế cũng do gồm đủ sắc, hương v.v… nên gọi là của cải khác. Do của cải khác, nên Thể của thí và quả đều có sai biệt. Do ruộng đã thí có sai biệt. Tụng nêu:

Ruộng khác do nẻo khổ Ân đức có sai biệt.

Luận nói: Do ruộng của đối tượng thí: Về nẻo khổ, ân đức, đều có sai biệt, nên gọi là ruộng khác, do ruộng khác nên quả thí có khác.

Do nẻo riêng khác: Như Đức Thế Tôn nói: Nếu thí cho nẻo bàng sinh, thì thọ nhận quả gấp trăm lần. Thí cho người phạm giới thì thọ nhận nhân quả gấp ngàn lần.

Lượng quả thọ nhận gấp trăm lần, ngàn lần là thế nào?

Tùy theo ruộng đã hành thí, do thọ nhận thức ăn v.v… khiến cho thọ mạng v.v… của họ được tăng theo từng ấy số lượng. Thí chủ do đấy ở trong nẻo người, trời, thọ nhận cùng vượt hơn gấp trăm lần, ngàn lần những hữu tình kia. Nên Đức Thế Tôn nêu rõ: Khi thí chủ hành thí nơi đối tượng thí, năm sự như ruộng, thọ mạng v.v… thì thí chủ do đấy ở trong nẻo người, trời, sẽ trở lại đạt được năm quả như thọ mạng v.v…

Do khổ riêng khác: Như bảy hữu dựa trong sự, phước, nghiệp. Trước hết là nói nên thí cho khách đi đường, bệnh nhân, kẻ chăm sóc vườn rừng, thức ăn thường xuyên cùng y phục, thuốc thang, tùy theo thời tiết như giá rét, gió bão v.v… Lại nói: Nếu có những người nam, người nữ đầy đủ tín tịnh, thành tựu bảy thứ hữu đã nói ở đây, dựa trong sự phước nghiệp, thì phước đức đạt được là không thể nhận lấy, lường tính. Nay, ở trong đây, do duyên có sai biệt, nên khổ có khác. Do trừ khổ có sai biệt của người nhận, nên quả có riêng khác.

Do ân riêng khác: Như cha, mẹ, thầy và người có ân khác. Như gấu, nai v.v… nơi Kinh Bản Sinh đã nói. Các loại có ân đối với đối tượng có ân, khởi các nghiệp ác, thì quả hiện có thể nhận biết. Do đấy, so sánh nhận biết, hành báo ân thiện thì quả kia là tất định.

Do đức riêng khác: Như Khế kinh nói: Thí cho người trì giới thì được quả gấp trăm lần, ngàn lần. Cho đến phụng thí Phật thì quả là vô lượng tối thắng. Tuy đều là vô lượng, nhưng cũng có ít nhiều, như giọt nước của sông Căng già đối với giọt nước của biển cả. Như so với tài thí thì pháp thí là tôn quý.

Căn cứ trong tài thí thì những gì là tối thắng? Tụng nêu:

Bồ-tát thoát nơi thoát

Thí thứ tám tối thắng.

Luận nói: Nếu người đã giải thoát, thí cho ruộng đã giải thoát, thì ở trong tài thí, thí này là tối thắng. Nếu các Bồ-tát dùng ý lạc thù thắng nhằm tạo lợi ích cho tất cả hữu tình, vì đại Bồ-đề mà hành huệ thí, thì tuy không phải là giải thoát thí cho ruộng giải thoát, nhưng trong phước thí, thì thí này là tối thắng. Trừ thí này, lại có thí phước thứ tám trong tám loại thí, cũng là tối thắng. Tám loại thí đó là: (1) Thí tùy người đến. (2) Thí trừ bỏ sợ hãi. (3) Thí báo ân. (4) Thí cầu báo. (5) Thí theo tập quán trước. (6) Thí mong sinh thiên. (7) Thí chủ yếu vì danh. (8) Vì tâm trang nghiêm, vì tâm hỗ trợ, vì trợ giúp Du già, vì đạt được nghĩa trên hết mà hành huệ thí.

Thí tùy người đến: Nghĩa là tùy theo hữu tình gây tạo đến nay, tùy nghi thí cho y phục, thức ăn uống, không phải kính trọng sâu nặng.

Thí trừ bỏ sợ hãi: Nghĩa là trông thấy các thứ tai ách, vì khiến cho lặng dứt mà hành huệ thí. Hoặc thấy tướng hoại của vật này hiện tiền thà thí cho để không mất, nên hành huệ thí.

Thí theo tập quán trước: Nghĩa là hành tập theo người trước là pháp nhà của tổ phụ mà hành huệ thí.

Vì tâm nghiêm: Nghĩa là dẫn phát Thánh tài như tín v.v… nên hành huệ thí.

Tâm hỗ trợ: Nghĩa là vì muốn diệt trừ các thứ cấu uế của keo kiệt bỏn sẻn mà hành huệ thí.

Trợ giúp Du già: Nghĩa là cầu định lạc, lần lượt sinh nhân mà hành huệ thí. Tức do thí nên liền được không hối tiếc, lần lượt cho đến tâm tánh một cảnh.

Được nghĩa trên hết: Nghĩa là đạt được Niết-bàn. Do đầu tiên xả bỏ của cải, cho đến lần lượt tất cả sinh tử đều có thể xả bỏ. Lại, hành huệ thí là nhân sinh thù thắng, vì dựa vào nhân này, có thể dẫn phát chứng pháp Niết-bàn.

Các thứ thí còn lại thì dễ hiểu rõ, nên không giải thích riêng. Như Đức Thế Tôn đã nêu bày về thí cho Thánh quả đạt được là vô lượng.

Từng có thí cho không phải là Thánh quả đạt được cũng vô lượng chăng? Tụng nêu:

Cha mẹ bệnh, pháp sư

Bồ-tát đời sau cùng

Như Thánh giả không chứng

Thí quả cũng vô lượng.

Luận nói: Năm loại như thế, nếu như kẻ thí là phàm phu, thì cũng có thể chiêu cảm quả là vô lượng. Trụ nơi hữu sau cùng gọi là đời sau cùng.

Pháp sư trong bốn ruộng là thuộc về ruộng nào?

Là thuộc về ruộng ân. Vì sao? Vì nói Pháp sư là người có thể bảo cho biết sắp bị đọa vào các nẻo ác, là người mở ra cổng thành an ổn, chỉ rõ về đạo giải thoát sinh thiên, có thể khiến hành giả đã tạo tác phi lý có thể chuyển biến ở trong đối tượng tạo tác như lý mà hành. Có thể khéo tuyên dương tự tánh của pháp nơi phẩm đen, trắng và quả đối trị v.v… Có thể thí tuệ nhãn cho kẻ mù không có trí. Do nêu bày về sức của giáo pháp đã thuyết giảng của Pháp sư, quán xét không điên đảo về phẩm nhiễm tịnh. Nói tóm lại, Pháp sư khéo thuyết giảng, cho đến có thể làm các sự việc của Đức Phật đã làm. Nên chỉ đây là ruộng ân thắng nghĩa.

Người thí tất nên chiêu cảm quả vô lượng. Tất cả nghiệp có thể chiêu cảm quả vô lượng, nơi loại phẩm thượng hạ đều bình đẳng chăng? Không như vậy thì thế nào?

Do sáu nhân nên khiến tất cả nghiệp trở thành phẩm nhẹ, nặng. Sáu nhân ấy là những gì? Tụng nêu:

Căn bản, ruộng, hậu khởi

Gia hạnh, tư, ý lạc

Do nơi trên, dưới này

Nghiệp thành phẩm thượng hạ.

Luận nói: Hậu khởi: Nghĩa là tạo nghiệp này xong, hoặc tạo tức thí, hoặc thường xuyên theo trước mà làm. Ruộng: Nghĩa là đối với sự việc tạo thiện, tạo ác. Căn bản: Nghĩa là nghiệp đạo căn bản. Gia hạnh: Nghĩa là dẫn khởi thân, ngữ kia. Tư: Nghĩa là do nghiệp đạo kia đạt đến cứu cánh. Ý lạc: Nghĩa là ý nghĩa sâu xa hiện có, ta cần phải nên tạo như thế, như thế.

Nếu có sáu nhân đều là phẩm thượng, thì nghiệp này là rất nặng. Trái với đây là rất nhẹ. Trừ hai thứ này thì trung gian là không phải rất nhẹ, nặng. Nghĩa là hoặc có nghiệp chỉ do hậu khởi thâu nhận, nên được thành phẩm nặng, nhất định an lập quả dị thục kia. Cho đến hoặc có nghiệp chỉ do ý lạc, hoặc do hai, ba nhân v.v… như lý nên biết. Như Khế kinh nói: Xét kỹ tư tác nghiệp, gọi là tạo tác, cũng gọi là tăng trưởng. Nhân nào nói nghiệp gọi là tăng trưởng?

Do năm thứ nhân. Những gì là năm? Tụng nêu:

Do xét tư tròn đủ

Không ố tác, đối trị

Vì dị thục có bạn

Nghiệp này gọi tăng trưởng.

Luận nói: Do xét kỹ tư: Nghĩa là xét kỹ tư duy mà làm, không phải đột nhiên tư duy tạo tác, cũng không phải hoàn toàn không tư duy.

Do tròn đủ: Nghĩa là ngang với lượng nghiệp này, tức nên đọa nơi nẻo ác. Nghiệp này tròn đủ gọi là tăng trưởng. Phần còn lại chỉ là tạo tác. Như có một loại hữu tình ở trong hành ác, do một thứ làm nhân liền bị đọa nơi nẻo ác. Hoặc có một loại hữu tình, cho đến do ba thứ. Trong mười nghiệp đạo, hoặc có hữu tình do một hoặc cho đến mười mới bị đọa nơi nẻo ác.

Do không có ố tác đối trị: Nghĩa là không có nhớ nghĩ hối tiếc, không có nghiệp đối trị.

Do có bạn: Nghĩa là tạo nghiệp bất thiện, thì bất thiện làm trợ bạn. Như trộm của cải của người khác, lại làm nhiễm ô nhà người khác, giết con v.v… của người khác.

Do dị thục: Nghĩa là thời gian bất định, nghiệp thì nhất định. So với dị thục thiện ở trên là trái nhau. Khác với đây, nên biết chỉ gọi là tạo tác.

Như trên đã nêu, người chưa lìa dục v.v… phụng thí tháp Phật, chỉ là tự tạo lợi ích. Đã không có người thọ dụng, thì phước của thí làm sao thành? Tụng nêu:

Chế đa phước loại xả

Như từ, không có thọ.

Luận nói: Không phải ngã thì chỉ thừa nhận của cải vật dụng đã xả. Người thọ, thọ dụng, thì phước của thí mới thành. Đối tượng thừa nhận là gì? Nghĩa là phước của các thí, lược có hai loại: (1) Xả. (2) Thọ.

Phước của loại xả: Nghĩa là do tâm thiện, chỉ xả tiền bạc, của cải, phước của thí liền khởi.

Phước của loại thọ: Nghĩa là ruộng của đối tượng thí, thọ dụng vật thí, thì phước của thí mới khởi. Đối với tháp Phật, đã phụng thí các vật dụng, cúng dường tuy không có phước của loại thọ, nhưng có phước của loại xả, Nhưng phước của loại xả, đầu tiên xả bỏ tiền của, thì phước này tức thành đối trị tham. Do vô tham đều cùng tư cùng khởi, nên xả tiền của xong, thì tùy theo ruộng của đối tượng thí thọ dụng. Hoặc phước của không thí, không mất.

Nếu không như vậy, thì có thí cho các vị Tăng già, hoặc người riêng khác v.v… các thứ vật dụng nuôi sống. Hoặc người kia chưa dùng thì vật liền hư hoại mất.

Như thế, vật của thí chủ đã thí tức nên vô ích, phước của thí không sinh, không có quả ứng hợp, vì người kia chưa dùng, thì phước do đâu sinh? Phước dụng tuy không có, nhưng có phước thọ. Tháp Phật không có thọ nhận thì phước do gì sinh? Lại, nhân đâu chứng biết phước sinh, chủ yếu là do ở thọ, vì không thọ thì đối với phước kia không có thâu tóm lợi ích.

Giải thích này không phải là chứng cứ nhất định. Vì sao? Vì như tu từ bi v.v… phước cũng sinh. Nghĩa là tu định từ, đối với các hữu tình, bình đẳng phát khởi ý lạc ban cho vui, tuy không có người thọ, cũng không có gồm thâu lợi ích, nhưng sức của thắng giải có nhiều phước sinh.

Tu các định như bi v.v… đạt được phước cũng như vậy. Phước của phụng thí tháp Phật so sánh cũng nên như thế. Đối với ruộng có đức, theo đấy sinh thăng giải, khởi tâm tôn kính tột cùng, phụng thí tháp Phật, tuy không có người thọ, cũng không có gồm thâu lợi ích, nhưng do sức tư duy của chính mình, có nhiều phước sinh, nhưng không vô ích. Khởi nghiệp thí kính, chủ yếu nhân nơi khởi nghiệp mới khởi tư duy thù thắng. Tư duy thù thắng mới có thể sinh phước hơn hết. Như có một loại hữu tình muốn hại kẻ oán đối, kẻ oán đối kia mạng chung, nhưng hữu tình ấy vẫn còn mang tưởng oán thù, phát khởi nhiều thứ nghiệp thân ngữ ác, sinh nhiều phi phước, không phải chỉ khởi tâm.

Như thế, bậc Đại sư tuy đã là quá khứ, nhưng xét nêu kính dưỡng, khởi nghiệp thân ngữ mới sinh nhiều phước, không phải chỉ khởi tâm.

Có người lập vấn nạn nói: Ở nơi ruộng tốt, gieo trồng giống nghiệp bố thí, đã sinh quả ái. Gieo trồng ở nơi ruộng xấu, quả tức nên phi ái?

Vấn nạn này là phi lý. Vì sao? Tụng nêu:

Ruộng xấu có quả ái

Giống quả không điên đảo.

Luận nói: Hiện thấy trong ruộng, hạt giống, quả không có trái ngược. Từ hạt giống Mạt-độ-ca, quả đắng rốt cuộc không sinh. Trong giống Nhẫm-bà không sinh quả ngọt. Không phải do sức của ruộng, giống, quả có trái ngược. Nhưng do lỗi của ruộng, khiến giống đã gieo trồng hoặc sinh quả ít, hoặc quả hoàn toàn không có.

Như thế, tuy ở nơi ruộng xấu gieo giống bố thí, nhưng do tâm tạo lợi lạc cho người khác của thí chủ, chỉ quả ái sinh, không chiêu cảm quả phi ái.

Đã biện về loại thí, loại giới sẽ biện. Tụng nêu:

Lìa phạm giới cùng ngăn

Gọi giới đều có hai

Nhân không phạm giới hoại

Dựa nơi trị diệt tịnh v.v…

Luận nói: Nói phạm giới: Nghĩa là các sắc bất thiện, tức từ sát sinh, cho đến nói lời uế tạp. Trong đây, tánh tội lập phạm giới. Gọi là già, nghĩa là Đức Phật ngăn chận, tức như ăn phi thời v.v… Tuy không phải là tánh tội, nhưng Đức Phật vì bảo vệ hữu tình của chánh pháp, nên ý riêng ngăn trừ người thọ giới phạm, cũng gọi là phạm giới. Vì phân biệt tánh tội, nên chỉ lập tên già. Lìa tánh và già, đều cùng gọi là giới. Giới này đều có hai, nghĩa là biểu và vô biểu. Vì thân ngữ nghiệp làm tự tánh, nên giới đủ bốn đức được mang tên thanh tịnh. Tùy có chỗ giảm thiếu thì không gọi là thanh tịnh.

Nói bốn đức là:

1. Không bị phạm giới hủy hoại. Nói phạm giới, nghĩa là xét kỹ tư phạm.

2. Không bị nhân của phạm giới kia hủy hoại. Nhân kia nghĩa là phiền não, tùy phiền não như tham v.v…

3. Dựa nơi trị. Nghĩa là dựa nơi niệm trụ v.v… Niện trụ này có công năng đối trị phạm giới và nhân.

4. Dựa nơi diệt. Nghĩa là nương dựa nơi Niết-bàn, hồi hướng Niết-bàn, không phải có của cải. Nói vân vân (đẳng) là làm rõ lại có thuyết khác.

Có thuyết cho: Giới tịnh do năm thứ nhân: (1) Căn bản tịnh. (2) Quyến thuộc tịnh. (3) Không phải tầm hại. (4) Niệm thâu nhận. (5) Hồi hướng tịch diệt.

Có Sư khác nêu: Giới có bốn thứ:

1. Giới trừ bỏ sợ hãi: Nghĩa là trừ bỏ các thứ sợ: không sống nổi, tiếng xấu ác, bị trị phạt, nẻo ác, nên thọ giữ Thi la.

2. Giới mong cầu: Nghĩa là do tham có các địa vị hơn, nhiều của cải, được cung kính, khen ngợi, nên thọ trì tịnh giới.

3. Giới thuận giác chi: Nghĩa là cầu giải thoát cùng chỉ quán, nên thọ trì tịnh giới.

4. Giới thanh tịnh: Nghĩa là giới vô lậu. Người giữ giới kia có thể vĩnh viễn lìa mọi thứ cấu uế của nghiệp Hoặc.

Đã biện về loại giới, sẽ biện về loại tu. Tụng nêu:

Đẳng dẫn thiện gọi tu

Rất có thể huân tâm.

Luận nói: Đẳng dẫn thiện: Nghĩa là tự tánh của đẳng trì ở trong định và định kia đều cùng có. Tức đẳng dẫn này gọi là tu, vì huân tập tột cùng tâm, nên tu là nghĩa huân tập. Như hoa xông ướp, hạt mè. Nghĩa là các định thiện ở nơi tâm cùng nối tiếp, hoàn toàn có thể huân tập, khiến thành loại đức. Vì là định thiện, nên riêng gọi là tu.

Trước đã biện về phước của thí, có thể chiêu cảm giàu có lớn. Hai loại giới, tu đã chiêu cảm như thế nào? Tụng nêu:

Giới, tu thắng theo lớp

Cảm sinh thiên, giải thoát.

Luận nói: Giới chiêu cảm sinh thiên, tu chiêu cảm giải thoát. Nói thắng là làm rõ căn cứ nơi phần hơn để nói. Nghĩa là thí cũng có thể chiêu cảm quả sinh thiên. Căn cứ theo chỗ hơn để nói giới. Giữ giới cũng có thể chiêu cảm quả ly hệ. Căn cứ theo chỗ hơn để nói tu.

Như thế, giới tu cũng chiêu cảm quả giàu có lớn. Căn cứ theo chỗ hơn để nói thí, theo đấy so sánh nên biết.

Kinh nêu rõ bốn loại người có thể sinh phạm phước:

1. Vì cúng dường Như Lai Đà Đô, kiến tạo tháp Phật ở nơi xứ chưa từng có.

2. Vì cúng dường Tăng già bốn phương, xây cất chùa, dâng thí vườn, cung cấp bốn sự.

3. Đệ tử Phật bị phá xong có thể khiến hòa hợp.

4. Đối với hữu tình tu rộng khắp tâm từ.

Như thế, phạm phước, lượng ấy là thế nào? Tụng nêu:

Chiêu cảm kiếp sinh thiên

Là lượng một phạm phước.

Luận nói: Có Sư khác cho: Tùy theo phước có thể chiêu cảm sinh thiên một kiếp, thọ hưởng các thứ diệu lạc, ngang với mức này gọi là lượng của một phạm phước. Do phước kia đã chiêu cảm khi thọ hưởng diệu lạc, là đồng với trời Phạm phụ, thọ mạng một kiếp. Vì ở bộ khác, có Già tha nói:

Người chánh kiến có tín

Người tu mười thắng hạnh

Liền được sinh phạm phước

Chiêu cảm thiên lạc kiếp.

Người đã lìa dục, tu bốn vô lượng tâm, sinh nơi trời cõi trên, thọ hưởng diệu lạc của thọ mạng một kiếp. Nếu người chưa lìa dục, kiến lập tháp, xây cất chùa, hòa hợp Tăng, có thể siêng tu tập gia hạnh như từ v.v… thì người kia cũng như tu vô lượng căn bản, chiêu cảm diệu lạc của trời trong một kiếp.

Há không phải như trước đã nói: Cõi dục không có nghiệp thiện có thể chiêu cảm dị thục một kiếp. Không có một nghiệp thiện nào cũng như bất thiện, chỉ một sát-na có thể chiêu cảm thọ mạng một kiếp.

Dựa nơi lý như thế, nên nêu bày như vậy. Tuy nhiên, đối với một sự phát khởi nhiều tư, theo thứ lớp có thể chiêu cảm diệu lạc của trời với lượng một kiếp. Nghĩa là ở nơi kia chết, lại ở nơi đây sinh, nên câu nói kiếp diệu lạc không có lỗi trái với trước.

Có Sư khác cho: Ở đây, như đã biện về lượng phước đã nêu trong nghiệp tướng diệu, nghĩa là nói chỉ trừ Bồ-tát của hữu sau cùng, tất cả hữu tình còn lại đã tu tập đều chiêu cảm nghiệp của quả giàu vui, là lượng v.v… của một phước.

Khế kinh nói thí lược nêu có hai thứ: (1) Tài thí. (2) Pháp thí.

Về tài thí đã biện xong. Pháp thí là thế nào? Tụng nêu:

Pháp thí là như thật

Không nhiễm biện giải kinh.

Luận nói: Nếu có thể như thật, vì các hữu tình đem tâm không nhiễm để biện giải về Khế kinh, khiến sinh chánh giải, tức gọi là pháp thí. Câu nói như thật là hiển bày về chủ pháp thí. Đối với Khế kinh v.v… hiểu không có điên đảo. Câu nói không nhiễm là làm rõ về chủ pháp thí, không mong cầu lợi dưỡng, cung kính, tiếng khen. Không như vậy tức là mình, người cùng tổn hại.

Khế kinh v.v… thì vân vân là chỉ cho mười một thứ còn lại. Tức hiển bày từ Khế kinh, cho đến Luận nghị.

Nói Khế kinh: Nghĩa là có thể gồm thâu chung, dung nạp các lời nói của lý chắc thật tùy thuận thế tục, thắng nghĩa. Như thế, Khế kinh là do Phật đã giảng nói. Hoặc đệ tử Phật được Phật cho phép nên thuyết giảng.

Nói Ứng tụng: Nghĩa là dùng ngôn từ thắng diệu để biên chép, theo đấy thuật tán phần Khế kinh đã nói ở trước. Có thuyết cho cũng là kinh không liễu nghĩa.

Nói Ký biệt: Nghĩa là tùy theo các câu hỏi đáp khác, phân tích, biện biệt. Như đã biện biệt trong Ba-la-diễn-noa v.v… Hoặc các biện biệt hiện có từng sẽ hiện ngôn ngữ nghĩa lý chân thật, đều gọi là ký biệt. Có thuyết nói: Là các kinh liễu nghĩa của Phật.

Nói Phúng tụng: Nghĩa là dùng ngôn từ thắng diệu, biên chép câu lời, không phải tùy thuận thuật lại phần đã thuyết giảng ở trước mà là tán vịnh, hoặc hai, ba, bốn, năm, sáu câu v.v…

Nói Tự thuyết: Nghĩa là không nhân thỉnh, Đức Thế Tôn vì muốn khiến chánh pháp trụ lâu, đều là sự việc hy hữu, kỳ diệu, vừa ý, tự thuyết giảng, diệu biện cùng lưu truyền. Như thuyết giảng: “Na già này do Na già v.v… kia”.

Nói Duyên khởi: Nghĩa là nói về tất cả nguyên do khởi thuyết, phần nhiều là điều phục, tương ưng, luận đạo. Các pháp kia do duyên khởi nên được hiển bày.

Nói Thí dụ: Nghĩa là vì khiến cho chúng hữu tình đều tỏ ngộ về tông nghĩa đã thuyết giảng, nên dẫn rộng nhiều môn để so sánh, khai thị. Các Khế kinh như Trường dụ đã giảng nói.

Có thuyết nói: Đây là trừ các Bồ-tát, thuyết giảng về bản hạnh khác, có thể có đối tượng chứng đắc, chỉ rõ về người được hóa độ.

Nói Bản sự: Nghĩa là thuyết giảng về sự việc từ xưa, lần lượt truyền đến nay, không nói rõ về người, chỉ bàn về sự việc đã nêu.

Nói Bản sinh: Nghĩa là thuyết giảng về các hành gốc của Bồ-tát đã hành hóa. Hoặc dựa nơi sự việc quá khứ, khởi các ngôn luận. Tức do các sự việc quá khứ mà ngôn luận đạt được cứu cánh. Đó gọi là Bản sự, như kinh Mạn Đa Đa. Nếu dựa nơi sự việc hiện tại khởi các ngôn luận, thì chủ yếu là do sự việc quá khứ nên ngôn luận đạt được cứu cánh. Đây gọi là Bản sinh. Như kinh La Sát Tư.

Nói Phương quảng: Nghĩa là dùng chánh lý để biện giải rộng về các pháp, do tánh tướng của tất cả pháp là rất nhiều, nếu không phải ngôn từ rộng thì không thể biện giải. Cũng gọi Quảng phá. Do ngôn thuyết rộng này, có khả năng phá tan bóng tối của vô trí rất kiên cố.

Hoặc gọi là vô tỷ. Do nghĩa lý sâu xa của ngôn thuyết rộng này là rất rộng lớn sâu xa, pháp khác không thể so sánh.

Có thuyết cho: Đây là biện rộng về tư lương của Đại Bồ-đề.

Nói pháp Hy hữu: Nghĩa là ở đây chỉ thuyết giảng về pháp xuất thế gian hy hữu, kỳ diệu, do đấy có thể chính thức hiển bày về sự hy hữu của ba thừa.

Có Sư khác nêu: Biện minh về Tam bảo, nói thế gian ít được nghe, nên gọi là pháp hy hữu.

Nói Luận nghị: Nghĩa là trong các phần nghĩa đã nêu bày ở trên, hiển bày chỉ rõ không đảo lộn nhằm giải thích vấn nạn, quyết trạch.

Có thuyết nói: Đối với nghĩa thâm diệu mà kinh đã thuyết giảng, người đã thấy chân thật, hoặc người trí khác, tùy thuận lý, biện biệt, giải thích, cũng gọi là Luận nghị. Tức ở đây gọi là Ma-đát-lý-ca. Lúc giải thích nghĩa của kinh khác, luận nghị này là bản mẫu, nên lại gọi là A-tỳ-đạt-ma. Do có thể hiện đối tướng của các pháp, nên hiển thị thuận hợp tướng của các pháp.

Như thế là đã nói về mười hai phần giáo, lược nêu tức nên biết là thuộc về ba Tạng.

Nói ba Tạng:

Tạng Tố-đát-lãm.

Tạng Tỳ-nại-da.

Tạng A-tỳ-đạt-ma.

Ba Tạng như thế có sai biệt là thế nào?

Chưa gieo trồng căn thiện, chưa hoan hỷ đối với thắng nghĩa, khiến gieo trồng, hoan hỷ, nên nói là Khế kinh. Đã gieo trồng, đã hoan hỷ, khiến cùng nối tiếp thành thục, hành tác theo đối tượng tạo tác nên nói là Điều phục (Tỳ-nại-da). Đã thành thục, đã tạo tác, khiến được tỏ ngộ, giải thoát, dùng chánh phương tiện nên nói là Đối pháp (A-tỳ-đạt-ma). Hoặc dùng văn từ thanh diệu, rộng lược, kết nối, biên tập các pháp tạp nhiễm và thanh tịnh, khiến dễ hiểu rõ, gọi là Khế kinh. Tuyên thuyết tu hành phép tắc Thi la, tạo phương tiện tịnh mạng, gọi là Điều phục. Khéo có thể hiển bày chỉ rõ về nghĩa lý thâm diệu trong các Khế kinh, nên gọi là Đối pháp. Hoặc dựa vào tâm học, giới học, tuệ học tăng thượng để khởi biện luận đạo. Như thứ lớp ấy, gọi là Khế kinh, Điều phục, Đối pháp.

Hoặc Tạng Tố-đát-lãm là đẳng lưu của lực. Do trong các kinh đã thuyết giảng về nghĩa lý cứu cánh, không gì có thể khuất phục.

Tạng Tỳ-nại-da là đẳng lưu của đại bi. Do biện nói về Thi la, là để cứu độ nẻo ác.

Tạng A-tỳ-đạt-ma là đẳng lưu của vô úy. Do trong pháp tướng chân thật, đã có thể khéo an lập về hỏi dáp, quyết trạch, vì vô sở úy.

Các loại ba Tạng như thế v.v… là không dồng, trong Tỳ-bà-sa đã phân biệt rộng.

Trước đã giải thích riêng về ba pháp phước nghiệp sự. Nay trong phần giải thích kinh, nên thuận với ba phần thiện. Tụng nêu:

Thuận phước, thuận giải thoát

Thuận phần quyết trạch ba

Được quả ái Niết-bàn

Thánh đạo thiện như tiếp.

Luận nói: Thuận phần phước thiện, nghĩa là chiêu cảm chủng tử của quả ái trong nẻo người, trời v.v… của thế gian. Do diệu lực này, nên có thể chiêu cảm các sắc diệu, giàu có lớn, tông tộc lớn, cao quý của thế gian. Luân vương, Đế thích, Ma vương, Phạm vương, các loại như thế v.v… là các thứ quả khả ái. Thuận phần giải thoát thiện, nghĩa là an lập A-thế-da giải thoát thiện, khiến không khuynh động.

Do đấy, quyết định nên bát Niết-bàn. Biện về địa v.v… thuộc tự tánh của căn thiện này, nên biết như phần biện về xứ Hiền Thánh đã nói. Thuận phần quyết trạch thiện, nghĩa là bốn pháp như noãn v.v… ở đây, cũng như phần sau biện về xứ Hiền Thánh sẽ nói. Như thế gian nói về sách vở, in ấn, toán, văn, số.

Tự thể của năm thứ này là thế nào, nên biết. Tụng nêu:

Các như lý đã khởi

Ba nghiệp có thể phát

Như thứ lớp, sách, in

Tự thể toán, văn, số.

Luận nói: Như lý khởi là chánh gia hạnh sinh, ba nghiệp, nên biết tức là thân, ngữ, ý. Có thể phát tức là có thể khởi ba thứ ấy, như chỗ ứng hợp của chúng là các pháp như thọ, tưởng v.v… Trong đây, sách vở, in ấn, dùng thân nghiệp trước và năm uẩn của chủ thể phát kia làm Thể. Không phải các chữ, hình tượng, tức gọi là sách, đối tượng khắc in văn tức gọi là in, nhưng do nghiệp tạo chữ, hình tượng in văn, nên biết gọi là sách in trong đây, tiếp theo là toán và văn. Dùng ngữ nghiệp trước và năm uẩn của chủ thể phát kia làm Thể. Số sau nên biết lấy ý nghiệp trước và bốn uẩn của chủ thể phát kia làm Thể, chỉ do pháp có thể tính đếm của ý tư, nên biện giải trong các pháp tướng của Thánh giáo phần ít tên gọi khác, khiến không mê lầm. Tụng nêu:

Vô lậu thiện, gọi diệu

Nhiễm có tội, phú, kém

Hữu vi thiện: Nên tập

Giải thoát gọi vô thượng.

Luận nói: Pháp vô lậu thiện cũng gọi là diệu, vì hơn đối với pháp nhiễm vô ký và pháp hữu lậu. Nên chỉ pháp này riêng nhận tên diệu. Các pháp nhiễm ô cũng gọi là có tội, vì bị các người trí nhàm chán, quở trách. Cũng gọi là hữu phú, do có thể ngăn che đạo giải thoát. Cũng gọi là thấp kém, vì rất thô xấu, uế tạp, tức nên phải từ bỏ.

Căn cứ nơi diệu, kém này, pháp ở giữa khác đã thành, nên tụng không biện, tức là hữu lậu thiện, vô phú vô ký, gọi chung là ở giữa. Các hữu vi thiện cũng gọi là Nên tập. Pháp còn lại không phải Nên tập, nghĩa căn cứ theo đấy đã thành.

Vì sao vô vi không gọi là Nên tập?

Vì không thể nêu bày ở trong phần cùng nối tiếp thường hành tập, khiến tăng và không có quả. Nghĩa là nếu có pháp ở trong phần cùng nối tiếp, có thể luôn khiến sinh tập, khiến tăng trưởng, như Thánh đạo v.v… tức có thể gọi là Nên tập. Vì vô vi thì không như thế, nên không lập tên Nên tập. Tuy nhiên, khuyên đem Niết-bàn đặt ở trong tâm, nhằm giáo hóa loài hữu tình khiến hướng đến Niết-bàn. Khuyên khiến thường hiện khởi duyên nơi trí thiện của Niết-bàn, nên nói như thế này: Không phải cho là Nên tập. Lại, vì là quả nên tập, vô vi thì không quả.

Bất thiện, vô ký, không phải là Nên tập, do Thể của các pháp kia không phải là pháp thăng tấn. Giải thoát, Niết-bàn cũng gọi là vô thượng, vì không có một pháp nào có thể vượt hơn Niết-bàn, vì là thiện, là thường, vượt lên trên các pháp.

Niết-bàn là thiện, vì sao?

Nên biết do Khế kinh nói là hoàn toàn an ổn. Lại nói: An ổn là nghĩa thiện. Pháp khác là hữu thượng, nghĩa căn cứ theo đấy đã thành, tức tất cả hữu vi, hư không phi trạch diệt.

HẾT – QUYỂN 44