LUẬN A TỲ ĐẠT MA THUẬN CHÁNH LÝ
Tác giả: Tôn giả Chúng Hiền
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 43

Phẩm thứ 4: BIỆN VỀ NGHIỆP, phần 11

Như trước đã nói quả có năm thứ. Những nghiệp nào có bao nhiêu quả? Tụng nêu:

Đoạn đạo nghiệp hữu lậu

Đầy đủ có năm quả

Nghiệp vô lậu có bốn

Là chỉ trừ Dị thục.

Thiện, ác hữu lậu khác

Cũng bốn, trừ Ly hệ

Còn vô lậu vô ký

Ba trừ chỗ trừ trước.

Luận nói: Đạo có thể chứng đoạn và có thể đoạn trừ Hoặc được mang tên đoạn đạo, tức đạo vô gián. Đạo này có hai thứ là hữu lậu, vô lậu. Nghiệp của đạo hữu lậu có đủ năm quả.

Quả Đẳng lưu: Nghĩa là phần đẳng sau trong tự địa, nếu tăng các pháp tương tợ.

Quả Dị thục: Nghĩa là đoạn đạo trong tự địa đã chiêu cảm dị thục đáng yêu thích.

Quả Ly hệ: Nghĩa là sức của đạo này đoạn trừ Hoặc, chứng trạch diệt vô vi.

Quả Sĩ dụng: Nghĩa là đạo đã dẫn dắt các thứ câu hữu, giải thoát, đối tượng tu tập và đoạn trừ.

Nói câu hữu: Nghĩa là pháp cùng sinh. Nói giải thoát: Nghĩa là vô gián sinh, tức là đạo giải thoát. Nói đối tượng tu tập: Nghĩa là tu vị lai. Đoạn: Nghĩa là trạch diệt. Do sức của đạo, nên đắc kia mới khởi.

Quả Tăng thượng: Có thuyết nói như thế này: Nghĩa là lìa tự tánh, là pháp hữu vi còn lại, chỉ trừ sinh trước.

Có thuyết cho: Đoạn cũng nên là quả tăng thượng của đạo, vì sức tăng thượng của đạo có thể chứng quả kia.

Nếu như vậy vì sao trong Tỳ-bà-sa chỉ nói đoạn mười tùy miên của cõi dục là quả ly hệ, sĩ dụng của khổ pháp trí nhẫn, từng không nói quả tăng thượng chăng?

Không phải do không nói, nên không phải là quả kia, mà do văn của Tỳ-bà-sa kia đã nói về khổ pháp trí là quả đẳng lưu, sĩ dụng của khổ pháp trí nhẫn, từng không nói là quả tăng thượng. Nhưng thật ra khổ pháp trí là quả tăng thượng kia, sở dĩ không nói là vì nghĩa đã cực thành. Điều này cũng nên như thế, tức nêu quả sĩ dụng, về lý tức đã nêu quả tăng thượng, nên không phải chỉ có thể sinh là quả tăng thượng.

Nói phi trạch diệt là quả của tâm, vì lìa quả này, lại không có nghĩa của quả nào khác. Tức nghiệp của đạo vô lậu trong đoạn đạo, chỉ có bốn quả, nghĩa là trừ Dị thục. Thiện hữu lậu khác và nghiệp bất thiện cũng có bốn quả, nghĩa là trừ Ly hệ. Khác với đoạn đạo ở trước, nên nói là khác. Tiếp theo sau, nói khác là so sánh với khác này, nên giải thích. Nghĩa là vô lậu còn lại và nghiệp vô ký, chỉ có ba quả, là trừ quả đã trừ ở trước, tức trừ Dị thục và Ly hệ.

Đã phân biệt chung về các nghiệp có quả. Tiếp theo là biện về nghiệp của môn quả, có tướng của quả, trong đó trước là biện về ba nghiệp như thiện v.v… Tụng nêu:

Thiện cùng đối với thiện

Đầu có bốn, hai, ba

Giữa có hai, ba, bốn

Sau hai, ba, ba quả.

Luận nói: Điều đã nói sau cùng đều nêu bày như thứ lớp, hiển bày nghĩa theo chỗ ứng hợp khắp các môn trước. Lại như ba nghiệp thiện, bất thiện, vô ký, mỗi mỗi làm nhân, như thứ tự ấy, đối với ba pháp thiện, bất thiện, vô ký, biện về số lượng có quả, sau đấy thì so sánh nên biết. Nghĩa là nghiệp thiện đầu tiên, dùng pháp thiện làm bốn quả, trừ quả dị thục. Dùng bất thiện làm hai quả, là quả sĩ dụng và quả tăng thượng. Dùng vô ký làm ba quả, trừ quả đẳng lưu và quả ly hệ. Nghiệp bất thiện giữa dùng pháp thiện làm hai quả, là quả sĩ dụng và quả tăng thượng. Dùng bất thiện làm ba quả, trừ quả dị thục và quả ly hệ. Dùng vô ký làm bốn quả, trừ quả ly hệ.

Quả đẳng lưu: Nghĩa là tất cả nghiệp bất thiện do kiến khổ đoạn trừ và nghiệp bất thiện biến hành do kiến tập đoạn trừ. Dùng các pháp vô ký của phẩm thân kiến, biên kiến trong cõi dục làm quả đẳng lưu. Nghiệp vô ký sau dùng pháp thiện làm hai quả là quả sĩ dụng và quả tăng thượng. Dùng pháp bất thiện làm ba quả, trừ quả dị thục và quả ly hệ.

Quả đẳng lưu: Nghĩa là các nghiệp vô ký của phẩm thân kiến, biên kiến, dùng năm bộ bất thiện làm đẳng lưu. Dùng vô ký làm ba quả như bất thiện.

Đã biện về ba tánh. Sẽ biện về ba đời. Tụng nêu:

Quá ở ba đều bốn

Hiện nơi vị cũng thế

Hiện đối hiện hai quả

Vị đối vị, quả ba.

Luận nói: Ba nghiệp quá khứ, hiện tại, vị lai, mỗi mỗi làm nhân. Như chỗ ứng hợp của chúng, dùng quá khứ v.v… làm quả. Riêng biệt, nghĩa là nghiệp quá khứ, dùng pháp của ba đời, đều làm bốn quả, trừ quả ly hệ. Nghiệp của đời hiện tại, dùng vị lai làm bốn quả, như trước đã nói. Dùng hiện tại làm hai quả, là quả sĩ dụng và quả tăng thượng. Nghiệp của đời vị lai dùng vị lai làm ba quả, trừ quả đẳng lưu và quả ly hệ.

Không nói nghiệp sau có quả trước: Nghĩa là pháp trước nhất định không phải là quả của nghiệp sau.

Đã biện về ba đời. Sẽ biện về các địa. Tụng nêu:

Địa đồng có bốn quả

Địa khác hai hoặc ba.

Luận nói: Ở trong các địa tùy theo nghiệp của địa nào, dùng pháp của địa đồng làm bốn quả, trừ quả ly hệ. Nếu là hữu lậu thì dùng pháp của địa khác làm hai quả là quả sĩ dụng và quả tăng thượng. Nếu là vô lậu thì dùng pháp của địa khác làm ba quả, trừ quả dị thục và quả ly hệ. Vì không rơi vào cõi, nên không ngăn cản đẳng lưu.

Đã biện về các địa. Sẽ biện về học v.v… Tụng nêu:

Học ở ba đều ba

Vô học: một, ba, hai

Phi học phi vô học

Có hai, hai, năm quả.

Luận nói: Ba nghiệp như học v.v… mỗi mỗi làm nhân, như thứ tự đó, đều dùng ba pháp làm quả. Riêng khác: Nghĩa là nghiệp học dùng pháp học làm ba quả, trừ quả dị thục và quả ly hệ. Dùng pháp vô học làm ba quả cũng như vậy. Dùng phi hai làm ba quả, trừ quả dị thục và quả đẳng lưu. Nghiệp vô học dùng pháp học làm một quả, là quả tăng thượng. Về lý nên nói hai, nghĩa là thêm quả đẳng lưu. Dùng vô học làm ba quả, trừ quả dị thục và quả ly hệ. Dùng phi hai làm hai quả, là quả sĩ dụng và quả tăng thượng. Nghiệp phi hai dùng pháp học làm hai quả, là quả sĩ dụng và quả tăng thượng. Dùng pháp vô học làm hai quả cũng như vậy. Dùng phi hai làm năm quả.

Đã biện về học v.v… Sẽ biện về kiến đạo đoạn v.v… Tụng nêu:

Nghiệp do kiến đạo đoạn

Mỗi mỗi đều ở ba

Đầu có ba, bốn, một

Giữa hai, bốn, ba, quả

Sau có một, hai, bốn

Như thứ lớp nên biết.

Luận nói: Ba nghiệp do kiến đạo đoạn v.v… như thứ lớp, mỗi mỗi làm nhân, đều dùng ba pháp làm quả. Riêng khác: Nghĩa là nghiệp do kiến đạo đoạn đầu tiên, dùng pháp do kiến đạo đoạn làm ba quả, trừ quả dị thục và quả ly hệ. Dùng pháp do tu đạo đoạn làm bốn quả, trừ quả ly hệ. Dùng pháp không đoạn làm một quả, là quả tăng thượng. Nghiệp do tu đạo đoạn ở giữa, dùng pháp do kiến đạo đoạn làm hai quả, là quả sĩ dụng và quả tăng thượng. Dùng pháp do tu đạo đoạn làm bốn quả, trừ quả ly hệ. Dùng pháp không đoạn làm ba quả, trừ quả dị thục và quả đẳng lưu. Nghiệp do không đoạn ở sau, dùng pháp do kiến đạo đoạn làm một quả, là quả tăng thượng. Dùng pháp tu đạo đoạn làm hai quả, là quả sĩ dụng và quả tăng thượng. Dùng pháp không đoạn làm bốn quả, trừ quả dị thục. Đều như thứ tự: Nghĩa là tùy chỗ ứng hợp của chúng, hiện bày khắp các môn trên.

Lược nêu về pháp, tức nên như thế, nhân biện về các nghiệp, nên lại hỏi: Như trong Bản luận đã nói về ba nghiệp, nghĩa là nghiệp nên tạo, nghiệp không nên tạo và nghiệp không phải nên tạo, không phải không nên tạo. Tướng của chúng là thế nào? Tụng nêu:

Nghiệp nhiễm không nên tạo

Có thuyết cũng hoại pháp

Nghiệp nên tạo trái đây

Cùng trái nhau thứ ba.

Luận nói: Có thuyết nói: Nghiệp thân ngữ ý nhiễm ô, gọi là không nên tạo, vì từ tác ý phi lý sinh.

Có Sư khác cho: Các nghiệp thân, ngữ, ý hủy hoại phép tắc, nếu như không nhiễm, thì cũng không nên tạo, do chúng không hợp với phép tắc của thế gian. Nghĩa là các thân nghiệp vô phú vô ký, hoặc đứng hoặc đi, hoặc ăn uống v.v… các hữu không hợp với lễ nghi của thế tục, đều gọi là thân nghiệp hủy hoại phép tắc. Các hữu ngữ nghiệp vô phú vô ký, khi ngôn thuyết hủy hoại hiện ra cùng tác giả v.v… chỉ có không hợp với lễ nghi của thế tục, đều gọi là ngữ nghiệp

v.v… hủy hoại phép tắc. Tư cùng khởi hai nghiệp trước, gọi là ý nghiệp hủy hoại phép tắc. Nghiệp này và nghiệp nhiễm, gọi là không nên tạo. Nghiệp nên tạo tức cùng với đây là trái nhau. Đều cùng trái với hai nghiệp trước, là nghiệp thứ ba.

Nếu dựa nơi thế tục thì thuyết sau nêu bày cũng có thể như thế. Nếu căn cứ theo thắng nghĩa, thì thuyết trước là tốt. Nghĩa là chỉ nghiệp thiện, gọi là nên tạo. Chỉ các nghiệp nhiễm, gọi không nên tạo. Nghiệp thân ngữ ý vô phú vô ký gọi là không phải nên tạo, không phải không nên tạo. Tuy nhiên, không phải tất cả nghiệp không nên tạo đều thuộc về hành ác, vì chỉ có bất thiện là tánh ác, nên được mang tên hành ác. Do chiêu cảm quả ái gọi là hành diệu, chiêu cảm quả phi ái gọi là hành ác. Hữu phú vô ký tuy là không nên tạo, nhưng không phải thuộc về hành ác, vì hành này quyết định không chiêu cảm quả ái, phi ái.

Nay ở trong đây, lại nên xét chọn: Là do một nghiệp chỉ dẫn một đời hay là dẫn nhiều đời? Lại, vì một đời chỉ do một nghiệp dẫn hay là nhiều nghiệp dẫn? Tụng nêu:

Một nghiệp dẫn một đời

Nhiều nghiệp nên gồm đủ.

Luận nói: Nếu dựa nơi chánh lý, thì nên quyết định nói: Chỉ do một nghiệp, chỉ dẫn một đời. Nói một đời này là làm rõ về chúng đồng phần, vì được đồng phần mới gọi là đời. Nếu nói một đời do nhiều nghiệp dẫn, hoặc nói một nghiệp có thể dẫn nhiều đời. Hai lời nói như thế, về lý thì có lỗi gì? Lời nói trước là có lỗi. Nghĩa là quả của nghiệp trước trong một đời hết thì quả của nghiệp sau khởi. Vì quả của nghiệp riêng khác, nên có chết sống, hoặc tức nên nhiều đời, không có chết sống. Về lý quả của nghiệp chung cuộc khởi, vì như một đời. Cả hai cùng có lỗi: Trong một bản hữu, nên có rất nhiều tử hữu, sinh hữu. Hoặc tức nên cho đến Niết-bàn vô dư, thì trung gian là vĩnh viễn không có tử và sinh.

Do đâu hạn định trong một nẻo, xứ có quả của nghiệp khác sinh, liền có sống, chết? Có quả của nghiệp khác khởi nhưng không có chết, sống? Quả của một nghiệp hết thì quả của nghiệp khác khởi?

Về lý nhất định nên lập có chết, có sống. Lại, thừa nhận một đời nhất định đã được dẫn do nhiều thứ nghiệp tạo tác tăng trưởng, tức nên quyết định không có kẻ chết yểu giữa chừng. Hoặc tức nên không thọ nhận quả mà vĩnh viễn từ bỏ nghiệp kia. Tuy nhiên như trước đã nói.

Trước đã nói là thế nào?

Nghĩa là về lý, tất không có định nghiệp của thời phần đã chiêu cảm dị thục chuyển biến, vào thời gian khác thì thọ nhận. Lại về lý tất không có định nghiệp của thời phần, không phải tạo tác tăng trưởng, tất thọ nhận dị thục.

Nếu cho có sinh do nhiều thứ nghiệp định bất định dẫn dắt. Hoặc lại có sinh chỉ do nhiều thứ định nghiệp dẫn dắt, nên có kẻ chết yểu giữa chừng và có người sống hết thọ mạng.

Giải thích này cũng không hợp lý, vì quả nghiệp của thời phần thì quyết định, không quyết định, còn thọ nhận thì không quyết định. Nếu có quả nghiệp nơi thời phần quyết định của một loại trung, lão niên, tức nên thọ nhận quả nghiệp của trẻ con, đồng tử, thiếu niên.

Người thọ không định thì thọ ấy lại như thế nào?

Về lý tất không chấp nhận trước lìa, sau có. Hoặc nên phần vị trước hiện có quả nghiệp, tất là nhất định thọ, vì quả thọ nhất định. Nhưng vì ở trong đây không có lý quyết định, khiến nghiệp của phần vị trước quyết định thọ quả, làm cho nghiệp của phần vị sau thọ quả không nhất định.

Thế nên không có một đời có nhiều nghiệp dẫn dắt.

Lời nói sau cũng có lỗi, vì một nghiệp dẫn dắt nhiều đời, thì định nghiệp của thời phần nên thành tạp loạn. Ở đây không có tạp loạn, như trước đã biện, nên không có một nghiệp có thể dẫn dắt nhiều đời.

Nếu như vậy thì do đâu Tôn giả Vô Diệt tự nói: Ta nhớ lại xưa kia, vào một thời nọ, đối với phước điền thù thắng, có được dị thục của một lần thí thức ăn. Từ đây, bảy lần trở lại sinh nơi trời Ba mươi ba. Bảy lần sinh trong nẻo người, làm Chuyển luân Thánh đế. Sau cùng sinh ở gia tộc Đại Thích Ca, đầy đủ của cải châu báu, thọ dụng nhiều diệu lạc.

Sư phái Tỳ-bà-sa đã giải thích điều này nói: Một lần thí thức ăn là dựa khởi nhiều tư nguyện thù thắng, có thể dẫn vị riêng khác với nhiều dị thục sinh, nên nói như thế này: “Dị thục của một lần thí thức ăn ”, không nên nói dị thục có thể lại chiêu cảm sinh. Chỉ vì làm rõ dựa vào cảnh của một lần thí thức ăn để khởi nhiều tư nguyện, đã chiêu cảm phần vị dị thục có sai biệt, nên nói lời ấy. Hoặc hiển bày về nền móng ban đầu, nên nói như vậy. Vị kia do một nghiệp chiêu cảm trong một đời được đại quý, nhiều của cải và túc sinh trí, nhân đấy lại tạo tác chiêu cảm phước của đời khác. Như thế lần lượt đến thân sau cùng, sinh vào nhà giàu sang, đắc quả cứu cánh. Như có duyên một Ca-lật-sa-bát-noa, dùng phương tiện siêng năng cầu lợi tức, thành nhiều gấp ngàn lần, nói: Ta vốn do một Ca-lật-sa-bát-noa, cho đến thời nay trở thành đại phú quý.

Thế nên một nghiệp chỉ dẫn dắt một đời. Tuy nói một đời do một nghiệp dẫn dắt, nhưng vẫn thừa nhận phần viên mãn là do nhiều nghiệp thành. Ví như họa sư, trước hết dùng một màu định vẽ về hình trạng của người kia, sau đó tô thành nhiều màu sắc.

Nay ở trong đây một màu sắc đã thí dụ làm một loại nghiệp, là một sát-na. Nếu dụ cho một loại trái với lý của tông này, vì không phải một nghiệp dẫn dắt một đời. Nói có thể căn cứ theo một loại, vì loại tất là nhiều, nên nhiều loại dẫn một đời là không hợp lý. Nếu nói một sắc dụ cho một sát-na, không phải một sát-na có thể họa về hình trạng, tức dụ đã lập đối với chứng là không có khả năng.

Nay nhận thấy ở đây dụ về một loại nghiệp. Vì sao dẫn nghiệp căn cứ theo loại mà được thành? Vì dẫn đến một nẻo thì nghiệp có rất nhiều. Lời nói này ý là nhằm làm rõ trong một loại nghiệp, chỉ một sát-na dẫn chúng đồng phần, có đồng loại, dị loại, vì nhiều sát-na thì nghiệp có thể làm viên mãn. Nói là nhiều nên như một màu sắc, trước vẽ về hình trạng, sau tô điểm nhiều màu sắc. Lời nói này là hợp lý.

Thế nên tuy có cùng bẩm thọ thân người, nhưng ở trong ấy có đủ chi thể, các căn, hình lượng, sắc lực trang nghiêm. Hoặc có khi ở trước có nhiều thiếu giảm, vì chỉ do nghiệp có thể dẫn mãn đời. Không như vậy, thì uy lực mạnh nơi pháp một quả của tất cả nghiệp, cũng dẫn mãn đời so với dẫn nghiệp này là trái nhau, vì có thể mãn, không phải là dẫn nghiệp.

Hai loại như thế, Thể của chúng là gì? Tụng nêu:

Hai không tâm định được

Chẳng thể dẫn chung khác.

Luận nói: Hai định không tâm tuy có dị thục, nhưng không có uy lực để dẫn dắt chúng đồng phần do so với các nghiệp không phải là cùng có. Nên tất cả bất thiện thiện hữu lậu đạt được cũng không có uy lực để dẫn dắt chúng đồng phần. Do so với các nghiệp không phải là một quả. Các pháp bất thiện thiện hữu lậu khác đều dung thông cả hai, tức dẫn và mãn. Đức Thế Tôn nói chướng nặng có ba, tức là nghiệp chướng, phiền não chướng và dị thục chướng. Ba chướng như thế, Thể của chúng là thế nào? Tụng nêu:

Ba chướng nghiệp vô gián

Và thường hành phiền não

Cùng tất cả nẻo ác

Châu Bắc, trời Vô tưởng.

Luận nói: Thể của nghiệp chướng: Nghĩa là năm vô gián: (1) Hại mẹ. (2) Hại cha. (3) Hại A-la-hán. (4) Phá hòa hợp Tăng. (5) Khởi tâm ác làm thân Phật chảy máu.

Thể của phiền não chướng: Nghĩa là thường hành phiền não, phiền não thuộc phẩm hạ.

Nếu có kẻ thường hành, tuy muốn chế ngự loại trừ phiền não, nhưng khó được thuận tiện. Do phiền não kia lần lượt khiến phẩm thượng sinh, vì khó có thể điều phục, trừ bỏ, nên cũng gọi là chướng. Phiền não phẩm thượng, nếu không thường hành, khi đạo đối trị sinh, thì dễ được thuận tiện. Tuy rất mạnh mẽ, nhanh nhạy, nhưng không phải thuộc về chướng. Tuy ở cõi dục, trói buộc đủ hữu tình, nhưng đều như nhau, đều thành tất cả phiền não. Nếu hiện hành riêng lẻ, vì chướng bất đồng, nên trong phiền não, tùy nơi phẩm thượng, hạ, chỉ thường hành, gọi là phiền não chướng.

Thể của dị thục chướng: Nghĩa là ba nẻo ác hoàn toàn và một phần nẻo thiện, tức châu Bắc và trời Vô tưởng.

Vì sao gọi là chướng có thể làm chướng ngại Thánh đạo cùng tư lương của đạo và sự việc lìa nhiễm? Không phải chỉ vô gián là Thể của nghiệp chướng. Định nghiệp hiện có có thể làm chướng ngại kiến đế, tất cả đều nên thuộc về nghiệp chướng. Nghĩa là có các nghiệp tạo tác, tăng trưởng, có thể chiêu cảm noãn sinh, thấp sinh của nẻo ác, thân nữ, người trời, hữu thứ tám v.v… cùng chiêu cảm nghiệp thuận hậu thọ của Đại phạm, hoặc hai sinh của một xứ sắc, vô sắc. Có nghiệp này vì đều không nhập nơi lý của kiến đế.

Do đâu không nói là nghiệp chướng gồm thâu kiến?

Vì trong loại này có không phải quyết định. Nghĩa là ở trong chủng loại nghiệp như thế, đều có duyên mạnh có thể khiến xoay chuyển lại, không chướng ngại Thánh đạo cùng tư lương đạo, nên ở đây tuy có ít nghiệp không thể chuyển, không lập làm chướng, nhưng vì chủng loại vô gián đều không thể chuyển, nên chỉ ở đây lập làm nghiệp chướng.

Tỳ-bà-sa nêu rõ: Năm nhân duyên của vô gián này dễ thấy, dễ biết, nên nói là nghiệp chướng. Nghĩa là xứ, nẻo, sinh, quả cùng Bổđặc-già-la. Xứ: Tức là năm vô gián này quyết định dùng mẹ v.v… làm xứ dấy khởi. Nẻo: Nghĩa là năm vô gián này quyết định lấy địa ngục làm nẻo. Sinh: Nghĩa là năm vô gián này quyết định là vô gián sinh, chiêu cảm dị thục. Quả: Nghĩa là năm vô gián này quyết định có thể chiêu cảm quả phi ái. Bổ-đặc-già-la: Nghĩa là năm tội nghịch này dựa vào Bổ-đặc-già-la đã hành tác hoặc nặng, cùng hiểu rõ người này có thể hại mẹ v.v… Nghiệp khác thì không như vậy, nên không lập làm chướng. Về chướng khác thì sự việc phế lập, như chỗ ứng hợp nên biết. Trong ba chướng này thì phiền não chướng là nặng nhất, vì có thể phát khởi nghiệp, nghiệp chiêu cảm quả.

Có Sư khác cho: Hai chướng phiền não và nghiệp đều rất nặng. Do có chướng này, nên trong đời thứ hai cũng không thể đối trị.

Vô gián có nghĩa gì?

Nghiệp vô gián này, ở nơi vô gián sinh, tất thọ nhận quả, vì không có nghiệp khác sinh quả có thể gián cách.

Có thuyết nêu: Bổ-đặc-già-la tạo nghịch, từ đấy mạng chung, quyết định đọa trong địa ngục, vì không có gián cách, nên gọi là vô gián. Nẻo kia có vô gián nên được mang tên vô gián, cùng với pháp vô gián là hợp, nên gọi là vô gián. Như cùng với Sa-môn là hợp, nên gọi là Sa-môn.

Ba chướng nên biết là trong nẻo nào có? Tụng nêu:

Ba châu có vô gián

Chẳng phải Phiến quắc kia v.v…

Ít ân, ít xấu hổ

Trừ chướng, chung năm nẻo.

Luận nói: Không phải tất cả chướng nơi các nẻo đều có. Lại như nghiệp vô gián chỉ có nơi ba châu của con người, không phải châu Bắc Câu Lô, nẻo khác, cõi khác. Ở trong ba châu, chỉ người nữ và nam, không phải hàng Phiến quắc v.v… như không có giới ác.

Có thuyết nói: Cha mẹ đối với kẻ kia ít có ân. Kẻ kia đối với cha mẹ ít có hổ thẹn. Nghĩa là kẻ kia do cha mẹ sinh, không đầy đủ niệm thân ái. Lại, vì nhỏ ít, nên nói là ân thiếu. Kẻ kia đối với cha mẹ, hổ thẹn cũng nhỏ ít. Chủ yếu đã hủy hoại tâm hổ thẹn nặng, mới tiếp xúc tội vô gián. Tuy nhiên, Thượng tọa nói: Hạng Phiến quắc kia v.v… nếu hại mẹ v.v… cũng thành vô gián. Loại ngu si ấy đã tạo nghiệp không nên tạo. Há chấp nhận nhân nơi tạo tác này sinh lên cõi trời Đổ-sử-đa? Há chỉ có con người làm điều không nên làm chăng? Sinh nơi xứ trời kia, tức quyết định sinh vào địa ngục. Tuy nêu hỏi tạo vấn nạn nhưng lời lẽ là trái lý, đều không có suy lường, tối tăm phát ra ngôn thuyết này. Lại, Thượng tọa tự nêu hỏi về nẻo bàng sinh v.v… cũng hại cha mẹ, vì sao không phải là vô gián?

Liền tự giải thích nói: Vì tuệ giác kém. Vì tưởng biến hoại. Vì từ ái mỏng. Há không phải nhân đây mà đối với hạng Phiến quắc v.v… cũng chấp nhận được có, nên không có vô gián. Nếu như thừa nhận loại kia có tội vô gián, không phải Thượng tọa nói khiến ít tin biết, nên tông của tôi về lý là tốt. Nếu có người hại cha mẹ của hàng phi nhân, cũng không thành tội nghịch, vì ít ân, ít hổ thẹn. Nghĩa là cha mẹ kia đối với con không có như người có ân. Con đối với cha mẹ kia không có như con người biết hổ thẹn.

Đã biện về nghiệp chướng chỉ ở nơi ba châu của con người. Về chướng còn lại, nên biết năm nẻo đều có. Nhưng phiền não chướng thì có khắp tất cả xứ. Hoặc dị thục chướng thì hoàn toàn nơi ba nẻo ác. Con người thì chỉ châu Bắc. Trời thì chỉ trời Vô tưởng. Há không phải xứ của ba châu và thân của Phiến quắc v.v… không phải là pháp khí của Thánh đạo, nên thuộc về dị thục chướng? Không có lý như thế, vì dẫn nghiệp đối với hạng kia sinh đã dẫn dắt đồng phần cùng nối tiếp, có thể thành nam, là pháp khí của Thánh đạo. Chỉ ba nẻo ác, trời Vô tưởng, châu Bắc, là quyết định không có nghĩa chấp nhận chứng Thánh đạo, nên chỉ ở nơi đấy lập dị thục chướng.

Có thuyết cho: Xứ kia chỉ thuộc phàm phu. Xứ khác đều chấp nhận cùng chung với Thánh giả, nên không nói là thuộc về dị thục chướng.

Ở trong ba chướng nặng mà trước đã biện, nói năm vô gián là Thể của nghiệp chướng.

Năm nghiệp vô gián, Thể của chúng là gì?

Lại như Thượng tọa nói: Ba nghiệp làm Thể. Thân nghiệp, ngữ nghiệp, mỗi mỗi nghiệp riêng có thể chiêu cảm quả dị thục. Về lý khó thành, nên chỉ do ý nghiệp đã tạo tác sự việc nặng, tức thừa nhận có thể chiêu cảm dị thục thù thắng. Ý nghiệp này là rất xa, lờ mờ. Xa, lờ mờ vì sao ông đã thừa nhận tư dựa nơi thân ngữ chuyển, gọi là thân, ngữ nghiệp? Nay thừa nhận ý nghiệp là Thể của vô gián, tức nên vừa khởi dục là tạo nghịch, tư tức thành vô gián.

Lại nói ý nghiệp đã tạo tác sự việc nặng, thừa nhận đã chiêu cảm quả dị thục thù thắng, điều này chỉ thừa nhận giả dối, vì trái với tự tông. Nghĩa là nếu có tư phát động khởi thân, ngữ, thì tư này có thể nói là đã tạo sự việc nặng, nhưng tư kia không thể nói là ý nghiệp, vì dựa vào hai môn thân ngữ chuyển. Nếu tư không thể phát động khởi thân ngữ, thì Thượng tọa kia đã thừa nhận là ý nghiệp, nhưng chỗ tạo tác không phải nặng, thì đâu thể nói ý nghiệp đã tạo tác sự việc nặng. Nếu cho phát động khởi hai nghiệp thân ngữ, nên tư là ý nghiệp, tư đã tạo tác sự việc nặng, tức nói ý nghiệp đã tạo tác nặng, điều này cũng phi lý, vì sự việc không phải nặng, nên chỉ có tư thì không thành hai nghiệp thân, ngữ. Ý nghiệp dẫn sự việc kia nặng đâu thể thành đối tượng tạo tác là sự việc nặng. Nói rõ về phát động khởi thân ngữ nên chỗ tạo tác thành nặng, không phải là tư của ý nghiệp. Nếu quán sát quả, vì tư đã tạo tác nặng, nên cũng nói ý nghiệp đã tạo tác nặng.

Nghĩa là tư trước của ý nghiệp, có thể dẫn đến quả của ý nghiệp. Vì sự của quả nặng, nên cũng gọi là sự việc nặng. Như thế tức nên có lỗi thái quá.

Lại, không phải ý nghiệp cùng với tư, thân, ngữ, vì là tánh nhân quả, nên cùng chiêu cảm dị thục. Chớ cho ý nghiệp kia cùng với tư trước nó, cũng vì nhân quả, nên đồng chiêu cảm dị thục.

Như thế tức nên có lỗi phi ái.

Lại, Thượng tọa kia trước nói chứng biết nhân này. Nói thân nghiệp, ngữ nghiệp, riêng chiêu cảm dị thục vì khó thành.

Lời nói này có nghĩa gì? Há cùng với ý nghiệp chiêu cảm chung dị thục, tức khiến Thể loại đây kia là đồng. Riêng tư lìa tâm, có thể chiêu cảm dị thục là cũng khó thành, tức nên thừa nhận tâm là Thể vô gián, hoặc Thể là tư.

Lại nên tìm tòi, nêu hỏi nói có ý nghiệp là vô gián.

Lại như kẻ hại mẹ, do sức của tư nào dẫn sinh địa ngục?

Là tư của tư duy hay là tư của nghiệp đạo? Nếu là tư của tư duy thì vì sao đối với mẹ hoàn toàn chưa có tổn hại mà nhất định dẫn sinh địa ngục? Nếu là tư của nghiệp đạo thì vì sao có thể nói không phải nghiệp thân ngữ, lại riêng có thể chiêu cảm quả? Không phải do tư của tư duy, người kia mới nhận lấy quả.

Lại, thuyết kia tự thừa nhận: Tư của tư duy trước, tư của nghiệp đạo sau. Trước là ý nghiệp, sau là thân, ngữ nghiệp. Khi trước sau đối chiếu nhau, thì tướng đều khác. Không có lý của một quả, vì sao có thể nói thân nghiệp, ngữ nghiệp chiêu cảm riêng dị thục? Vì lý đó khó thành, nên thuyết kia đã nói là ở ngoài Thánh giáo. Nhưng tông của tôi là nghĩa quyết định. Tụng nêu:

Trong năm vô gián này

Bốn thân, một ngữ nghiệp

Ba sát, một ngữ dối

Một gia hạnh sát sinh.

Luận nói: Trong năm vô gián, có bốn là thân nghiệp, một là ngữ nghiệp. Ba là sát sinh, một là nói lời hư dối, đều là nghiệp đạo căn bản. Một là gia hạnh của nghiệp đạo sát sinh, vì thân Như Lai là không thể hại. Vô gián phá Tăng là nói lời hư dối. Đã là nói lời hư dối, thì do đâu gọi là phá Tăng?

Nhân thọ nhận tên của quả, hoặc là chủ thể phá.

Nếu như vậy thì Tăng bị phá, Thể ấy là gì? Người của chủ thể phá, đối tượng bị phá, ai đã tạo thành? Tụng nêu:

Tăng phá không hòa hợp

Tâm bất tương ưng hành

Tánh vô phú vô ký

Tăng bị phá, đã thành.

Luận nói: Thể của Tăng bị phá là không hòa hợp, tánh là vô phú vô ký, thuộc về uẩn của tâm bất tương ưng hành, há thành vô gián?

Như thế Tăng bị phá, nhân nơi ngữ lừa dối sinh, nên nói phá Tăng là quả vô gián. Không phải chủ thể phá thành. Tăng bị phá này chỉ là Tăng chúng đã bị phá thành. Người có thể phá này ở nơi chốn nào tạo thành?

Dị thục của phá Tăng là ở xứ nào? Có bao nhiêu thời gian? Tụng nêu:

Người phá Tăng chỉ thành

Tội ngữ hư dối ấy

Trọn một kiếp vô gián

Theo tội tăng, khổ tăng.

Luận nói: Người có thể phá Tăng thành tội phá Tăng. Tội phá Tăng này dùng nói lời hư dối làm tánh. Tức Tăng bị phá đều cùng sinh nghiệp ngữ biểu vô biểu. Người này tất bị đọa trong đại địa ngục vô gián, trải qua một trung kiếp, thọ khổ rất nặng. Các tội nghịch khác không hẳn sinh nơi vô gián. Nhưng người này không trải qua một đại kiếp, là vì ở cõi dục, không có thọ lượng này, nên thời gian một trung kiếp cũng không đầy đủ.

Kinh nêu rõ: Thiên Thọ (Đề-bà-đạt-đa) vào thời kỳ con người có thọ mạng bốn vạn tuổi, sẽ đến sinh trong loài người, chứng đắc Bồ-đề Độc giác, nhưng không trái ngược với thọ mạng một kiếp. Nói trong phần ít của một kiếp lập tên gọi một kiếp, nên hiện có một phần, cũng lập tên hoàn toàn. Như nói: Ngày này tôi có chướng ngại. Hoặc như nói: Giặc đốt làng v.v…

Nếu gây tạo nhiều tội nghịch, thì một tội nghịch đầu đã chiêu cảm sinh ngục vô gián, tội nghịch còn lại nên là không có quả. Không có lỗi không có quả, vì người tạo nhiều tội nghịch, chỉ một tội là có thể dẫn các tội còn lại là hỗ trợ mãn. Tùy theo tội kia tăng, thì khổ lại tăng kịch liệt. Nghĩa là do nhiều tội nghịch đã chiêu cảm thân mềm mại lớn trong địa ngục, nhiều vật dụng tạo khổ mãnh liệt, thọ gấp hai, ba, bốn, năm lần khổ nặng. Hoặc không có chết yểu giữa chừng mà thọ khổ nhiều thời gian, vì sao có thể nói tội còn lại tức nên không có quả?

Thượng tọa ở đây tạo ra giải thích như thế này: Hoặc ở địa ngục, chết rồi sống lại.

Nếu như vậy thì sao không phải là nghiệp thuận hậu thọ? Thượng tọa kia đối với vấn nạn này là cật vấn để đáp nói: Nếu có kẻ trước tạo nghiệp bất thiện khác, đã dẫn đến địa ngục, về sau tạo nghiệp vô gián thì nghiệp này vì sao thành nghiệp vô gián? Vì có thế gian thiên ở trung gian chăng? Há không tùy theo vô gián ở trước tức thọ?

Tôi ở phần trước đã biện về định nghiệp của thời phần, không có lý chuyển biến thọ nhận dị thục của phần vị khác. Do đấy không nên tạo cật vấn như thế.

Có thuyết nói: Trước đã tạo nghiệp ác quyết định khác, dẫn tiếp theo sinh nơi địa ngục, về sau không tạo vô gián.

Có thuyết cho: Nếu như tạo thì chỉ thành mãn nghiệp. Như tạo nhiều tội nghịch thì trước dẫn, sau mãn, không phải chỉ có thể dẫn, gọi là nghiệp vô gián. Nên Thượng tọa kia lại nêu cật vấn ở lời đáp là không thể được. Tuy nhiên, phần sau đã nói là có thế gian thiên ở trung gian, thì điều này là rất thô sơ, đối với sự chiêu cảm đời tiếp theo không có dụng đồng. Như vì bị ngăn cách do nghiệp thiện của thế gian thiên nên nghiệp ác đã không có sức để chiêu cảm tiếp theo sinh nơi địa ngục, nên nêu bày gọi là nghiệp thuận hậu thọ.

Như thế nghiệp khác của địa ngục đã bị gián cách, không có sức để có thể chiêu cảm tiếp theo là sinh nơi địa ngục, vì sao không như thế gian thiên bị ngăn cách, khiến về sau tạo tội nghịch thành thuận hậu thọ? Cho nên tông Đối pháp đã giải thích là không có lỗi.

Kinh nói: Năm tội nghịch là thuận sinh thọ. Người nào ở nơi xứ nào có thể phá với ai? Phá vào thời gian nào? Trải qua thời gian bao lâu để phá? Tụng nêu:

Bí-sô thấy tịnh hạnh

Phá người ngu xứ khác

Nhẫn khi sư đạo khác

Gọi phá không qua đêm.

Luận nói: Người có thể phá Tăng, chủ yếu là Đại Bí-sô, tất không phải là người tại gia, hoặc Bí-sô-ni v.v…, vì chỗ nương dựa của họ không có uy đức. Chỉ là người kiến hành, không phải là người ái hành, vì ý lạc ác là rất sâu bền, vì đối với phẩm nhiễm tịnh đều cùng thô động. Chủ yếu là người trụ nơi tịnh hạnh mới có thể phá Tăng, do người phạm giới thì không có uy đức. Tức do đấy chứng biết kẻ sau khi tạo tội nghịch khác, thì không thể phá Tăng, vì tạo tội nghịch khác và xứ thọ nhận quả kia là không nhất định. Ở đây, lại nêu dẫn tịnh hạnh làm loại đầu tiên, là nhằm làm rõ ngôn ngữ đoan nghiêm, là gồm đủ, viên mãn v.v… Vì thâu nạp người xấu xí v.v… là không có khả năng phá. Chủ yếu là ở nơi xứ khác dấy khởi phá không phải đối với Đại sư, do các Đức Như Lai không hề khinh suất, bức bách. Ngôn từ uy lực luôn nghiêm túc, kẻ đối diện tất không thể làm gì được.

Chỉ phá phàm phu, không phải phá Thánh giả, vì người khác không thể dẫn dắt đạt được chứng tịnh.

Có thuyết cho: Đắc nhẫn cũng không thể phá, do nhẫn quyết định như Đức Phật đã nói. Vì bao hàm hai nghĩa nên nói chữ người ngu. Chủ yếu về chỗ phá Tăng là nhận Sư khác với Phật. Thừa nhận Sư khác với Phật tức nói có Thánh đạo khác, nên nói Tăng bị phá ở vào thời gian như thế. Đêm này tất cùng hành, không trải qua ở đêm.

Như thế gọi là phá pháp luân Tăng, do có thể làm chướng ngại pháp luân Phật, vì hủy hoại sự hòa hợp của Tăng. Nghĩa là do khi tín bị hủy hoại, thì tà đạo chuyển, Thánh đạo bị ngăn chận tạm thời không chuyển.

Nói tà đạo: Nghĩa là Đề-bà-đạt-đa dối nêu năm sự việc là đạo xuất ly: (1) Không nên thọ dụng sữa v.v… (2) Đoạn thịt. (3) Đoạn muối. (4) Nên mặc y phục không cắt. (5) Nên ở nơi chúng của chùa bên cạnh thôn xóm.

Nếu chịu thừa nhận khi người kia đã nói, gọi là phá pháp luân, cũng gọi là Tăng bị phá.

Người của châu nào, bao nhiêu người phá pháp luân Tăng, phá yết-ma Tăng? Bao nhiêu người ở châu nào? Tụng nêu:

Châu Thiệm Bộ gồm chín v.v…

Mới phá pháp luân Tăng

Chỉ phá yết ma Tăng

Chung ba châu là tám.

Luận nói: Chỉ người của châu Thiệm bộ, ít nhất là chín. Hoặc lại nhiều hơn số này, có thể phá pháp luân. Không phải ở nơi châu khác, vì ở đấy không có Phật. Chủ yếu là ở xứ có Phật để có thể lập sư khác. Chính là có tám Bí-sô, chia làm hai chúng, dùng làm đối tượng phá, vì chủ thể phá là thứ chín, nên chúng ít nhất cũng cần chín người.

Nói vân vân (Câu tụng thứ nhất: Châu Thiệm bộ gồm chín v.v…) là nêu rõ vượt qua số này, là không hạn chế. Chỉ phá yết ma Tăng là chung ở ba châu, ít nhất là tám người, nhiều cũng không hạn chế.

Chung cho ba châu: Do có Thánh giáo và có chúng đệ tử xuất gia. Chủ yếu là trong một giới, Tăng chia làm hai bộ, tác yết ma riêng, nên cần tám người. Vượt qua số này, vì không ngăn chận, nên cũng nói vân vân. Ở vào thời phần nào chấp nhận có phá Tăng, phá yết ma Tăng? Từ sau kiết giới, đến nay cũng có đến lúc pháp chưa diệt, có phá pháp luân Tăng. Trừ sáu thời phần. Những gì là sáu? Tụng nêu:

Đầu sau vỡ hai trước

Phật diệt, chưa kiết giới

Nơi sáu vị như thế

Không phá pháp luân Tăng.

Luận nói: Đầu: Nghĩa là Đức Thế Tôn thành Phật chưa lâu, vì hữu tình có A-thế-da (ý lạc) thiện, nên A-thế-da ác cũng còn chưa khởi. Sau: Nghĩa là Đức Thiện Thệ sắp bát Niết-bàn, Thánh giáo tăng rộng, vì khéo an trụ, tất Tăng hòa hợp, Phật mới Niết-bàn.

Có Sư khác cho: Vì chứng pháp tánh nhất định, vì chúng đều lo buồn. Không phải đầu, không phải sau, ở trong Thánh giáo, hai thứ giới, kiến bị đổ vỡ. Nếu ở phần vị chưa khởi, cũng không có phá Tăng. Chủ yếu là thấy đổ vỡ phát sinh mới dám phá. Khi chưa lập chỉ quán là đối thứ nhất. Pháp như thế do Tăng kia nhanh chóng hợp trở lại. Thời kỳ sau Đức Phật diệt độ, người khác không tín thọ, không có Phật thật để đối xứng. Thời gian chưa kiết giới, không có một nội giới. Tăng chia ra hai bộ, có thể gọi là Tăng bị phá. Đối với sáu phần vị này không có phá pháp luân.

Như thế phá Tăng thì chư Phật đều có. Không như vậy tức chủ yếu có túc nghiệp phá người khác. Ở nơi Hiền kiếp này, thời kỳ Phật Ca Diếp Ba, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vì từng phá chúng khác. Nên dừng phần luận thêm. Phải biện về duyên nghịch. Tụng nêu:

Bỏ hoại ruộng ân đức

Chuyển hình cũng thành nghịch

Mẹ là nhân máu kia

Lầm là không hoặc có

Tâm nghịch xuất máu Phật

Sau hại vô học không.

Luận nói: Do đâu sát hại mẹ v.v…. thì thành vô gián, không phải là thứ khác? Do từ bỏ ruộng ân, hủy hoại ruộng đức. Nghĩa là hại cha mẹ là từ bỏ ruộng ân.

Vì sao có ân là gốc của thân sinh? Vì sao dứt bỏ cha mẹ, gọi là xả bỏ ân kia?

Ruộng đức: Nghĩa là A-la-hán khác v.v… có đủ các đức thù thắng cùng có thể sinh khởi chúng. Vì hủy hoại đối tượng nương dựa của đức nên thành tội nghịch. Nếu có người con của cha mẹ, lúc mới sinh, bị giết đem bỏ ngoài đường, cho sói báo ăn thịt v.v… Hoặc còn ở trong thai, dùng phương tiện muốn giết. Do sức của định nghiệp, đứa con không mạng chung. Người mẹ kia có ân gì mà từ bỏ thì thành tội nghịch?

Người mẹ kia nhất định do có sự sợ hãi không sống nỗi v.v… nên đối với sự việc của đứa con đã khởi gấp tâm muốn giết hại. Tuy nhiên, khi từ bỏ con, người mẹ tất mang tâm xót thương, thường xuyên duyên nhớ đến con, tình luyến ái luôn vây buộc tâm. Nếu từ bỏ ân này, là phạm tội nghịch phẩm hạ.

Vì hiển bày tội nghịch có hạ, trung, thượng, nên nói dứt bỏ ân đều thành tội nghịch. Hoặc do người mẹ là ruộng có vật chứa đựng pháp. Nhưng nếu người mẹ kia không có ân, thì chỉ sát hại mạng người mẹ ấy, tất nên vô gián sinh trong địa ngục. Các người thông tuệ đều nêu bày thế này: Đức Thế Tôn ở nơi pháp đã thấu đạt căn nguyên. Nêu bày như thế tức chỉ nên tin sâu xa. Cha mẹ hiện ra chuyển sát hại thành tội nghịch. Vì tội nghịch cũng thành nương dựa nơi một.

Do nghĩa như thế, nên có câu hỏi: Từng có kẻ khiến người nam lìa mạng căn, không phải là cha A-la-hán, mà là tạo tội vô gián không?

Có. Nghĩa là người mẹ chuyển hình. Cùng với đây trái nhau, hỏi về người nữ cũng như vậy. Nếu như có người nữ, Yết-lạt-lam bị rơi rớt, người nữ khác nhặt lấy, đem đặt trong sản môn mình rồi sinh con. Vậy giết người mẹ nào thì thành nhân nghịch hại mẹ? Vì huyết của người kia sinh, thức nhờ gửi mới tăng, nên người nữ thứ hai chỉ như mẹ nuôi?

Tuy các việc đã làm đều nên thưa hỏi, quyết định nhưng sát hại chỉ thành đồng loại vô gián.

Thượng tọa ở đây nói như thế này: Nếu Yết-lạt-lam có mạng không rơi rớt. Nếu có rơi rớt tất đã mạng chung. Hữu tình tất không trụ nơi phân uế.

Do không có sự việc này nên hỏi là vô ích. Nếu như có hại như thế, thì về sau thành tội nghịch. Do dứt bỏ ân nặng, nên hại trước là không đúng, vì ân nặng đối với con, không phải là liên quan đến tội nghịch kia.

Thượng tọa quyết định đối với nghiệp trong nẻo, không thể xét biết công năng có sai biệt, vì sao trung hữu xuyên qua kim cương, còn bụng mẹ đã bọc lấy, thì không đi đến xứ khác. Lửa trong bụng mẹ có thể làm tiêu tan vàng đá, nhưng Yết-lạt-lam ở trong ấy đã tăng trưởng. Trung hữu của địa ngục hiện trong bụng mẹ mà không thể thiêu đốt bụng mẹ cùng đồng loại. Điều này cũng nên như vậy, vì nghiệp lực là khó xét lường. Tuy trong bụng này Yết-lạt-lam đã rơi rớt, đâu có trở ngại chuyển đến trong bụng khác tăng trưởng.

Từng nghe trong kinh nói: Có Tôn giả Đồng tử Ca Diếp, như thế mà sinh, đã đặt nơi sản môn, vì hút hơi vào đến xứ thai, nên không thể nói là ở trong phân uế. Hoặc có trường hợp chỉ từ miệng uống vào bụng, cũng do nghiệp lực chuyển đến xứ thai, vì nghiệp dụng của hữu tình là không thể nghĩ bàn. Tuy tâm không muốn, nhưng do nghiệp lực có khi hút hơi đến bụng, tức thành tạng thai. Người mẹ sau tuy có ân như mang giữ, nuôi nấng, nhưng đối với thân con, không phải là gốc có thể sinh. Nếu hại công ơn mang giữ, nuôi nấng v.v… tức thành tội nghịch. Người giết người mẹ nuôi nên thành vô gián. Do đấy chỗ lập luận kia cho: Dứt bỏ ruộng ân nặng, liền có lỗi không thành, hoặc lỗi bất định. Người mẹ trước tuy thiếu công ơn mang giữ, nuôi nấng v.v…, nhưng đối với thân của con là gốc của chủ thể sinh. Nếu không phải là người mang giữ nuôi nấng mình mà sát hại, thì không thành tội nghịch. Như trước đã nói: Vì mẹ đối với con có thù oán, nên con trở lại hại mẹ, tức không có vô gián, nên chỗ lập nêu kia là không liên hệ với nhân, cũng có lỗi không thành và bất định. Nên chỉ nơi nẻo người kết sinh duyên vượt hơn nếu sát hại, thành tội nghịch hại mẹ, không phải chỉ là người mang giữ, nuôi nấng. Nếu đối với cha mẹ khởi gia hạnh sát hại, rồi giết lầm người khác, thì không có tội vô gián. Nếu đối với người không phải là cha mẹ, khởi gia hạnh sát hại, rồi giết lầm cha mẹ, cũng không thành tội nghịch. Nếu một gia hạnh hại mẹ và người khác, hai vô biểu sinh biểu, chỉ là tội nghịch, vì uy lực của nghiệp vô gián mạnh. Tôn giả Diệu Âm nói: Ở trong vị vô gián này cũng có hai biểu. Biểu là do chứa nhóm cực vi thành. Nay, xem rõ ý của Tôn giả kia cho biểu có nhiều cực vi. Có tội nghịch gồm thâu. Có thuộc về tội khác. Có đối với A-la-hán không có tưởng A-lahán, cũng không quyết định nhận hiểu đây không phải là A-la-hán. Do không có phân biệt, nên hại là thành tội nghịch. Không phải đối với cha mẹ, hoàn toàn cùng với tội nghịch này đồng. Vì dễ nhận biết mà không biết rõ, nên tuy làm việc sát hại nhưng không có tâm từ bỏ ân.

Người A-la-hán không có biểu hiện riêng tướng, đã khó nhận biết về phải, cũng khó nhận biết về không phải, nên tâm buông thả giết hại, cũng thành vô gián. Nếu có kẻ sát hại cha, cha là A-la-hán, thì chỉ mắc tội nghịch, do chỗ nương dựa là một.

Nếu như vậy thì dụ nêu ra nên làm sao thông hợp? Như nói: Đức Phật bảo Thủy Khiếm Trì: Ông đã gây tạo hai tội nghịch, đó là hại cha, giết A-la-hán. Dụ kia hiển bày một tội nghịch do hai duyên thành. Hoặc dùng hai môn để quở trách tội kia.

Nếu ở nơi trụ xứ của Phật, khởi tâm ác, làm thân Phật chảy máu, thì tất cả đều đắc tội vô gián chăng?

Chủ yếu là do tâm sát hại mới thành tội nghịch. Đem tâm khiến chảy máu thì không có vô gián, vì không có tâm quyết định hủy hoại ruộng phước.

Nếu ở nơi phần vị gia hạnh sát hại, người kia chưa thành tựu bậc vô học, khi sắp chết mới chứng đắc quả A-la-hán, vậy giết người ấy thì có phạm tội nghịch không?

Không. Vì đối với thân vô học, không có gia hạnh sát hại.

Nếu tạo gia hạnh vô gián không thể chuyển, thì có lìa nhiễm và được quả Thánh không? Tụng nêu:

Tạo gia hạnh định nghịch

Không lìa nhiễm, đắc quả.

Luận nói: Gia hạnh vô gián, nếu tất định thành thì trung gian quyết định không có lìa nhiễm, đắc quả, vì trung gian gia hạnh là của nghiệp đạo ác khác. Nếu Thánh đạo sinh, thì nghiệp đạo không khởi, chuyển được cùng nối tiếp nhất định, vì trái với Thánh đạo kia. Không phải là người đã kiến đế, tội của nghiệp đạo đã tiếp xúc, gia hạnh vô gián là có thể chuyển nhưng nói nếu người kia không thể chuyển. Có người nói như thế này: Đều không thể chuyển. Cho nên Bản luận nêu rõ: Từng có kẻ chưa hại sinh, nghiệp sát sinh chưa diệt, thì nghiệp này thọ dị thục là quyết định sinh nơi địa ngục chăng?

Có. Như tạo nghiệp vô gián, nhưng ở nơi phần vị gia hạnh mạng chung. Chỉ man (Ương quật ma la) tuy phát tâm muốn hại mẹ, nhưng chưa chính thức khởi gia hạnh hại mẹ. Ở chỗ Đức Thế Tôn, tuy có tâm hại, nhưng cũng chưa chính thức khởi gia hạnh hại Phật. Người kia tạo ý này: Đến gần mới xuống tay. Đức Thế Tôn vì nhằm ngăn chận nghiệp chướng của ông ta, nên đến chưa sinh tin thì không khiến được gần. Thất-lợi-cục-đa đối với Đức Bạc-già-phạm cũng không hoàn toàn khởi, không có tâm chiếu cố, vì phát ý nói: Bạch Thế Tôn! Nếu là bậc Nhất thiết trí, thì tự nhận biết tránh khỏi.

Có Sư khác nói: Cũng có thể chuyển. Bản luận không nói gia hạnh vô gián đều không thể chuyển, chỉ nói gia hạnh không dứt, người chết nhất định sinh vào địa ngục. Gia hạnh dứt thì không phải Luận kia bàn đến. Tuy nhiên, theo Tông của tôi thì gia hạnh vô gián nói chung có hai: (1) Gần. (2) Xa.

Ở đây gần là không thể chuyển. Bản luận đã dựa theo đấy để nêu vấn đáp. Nghĩa là có kẻ đối với mẹ khởi gia hạnh sát hại, vừa đánh liên hồi nhưng mạng người mẹ chưa hết. Hoặc vì sức của người mẹ mạnh trở lại hại con mình. Hoặc bị vua v.v… bắt giam để giết.

Hoặc thọ mạng của người con đã hết, tự dẫn đến mạng chung.

Bản luận đã dựa vào đấy để nói như thế. Trong đây, xa: Là do hãy còn chưa đến phần vị không thể chuyển nhưng chấp nhận có thể chuyển. Nếu không như vậy thì Đức Thế Tôn nên nói gia hạnh vô gián cũng là tội vô gián chăng?

Phái Thí dụ nói: Năm nghiệp vô gián hãy còn có thể chuyển, huống chi là gia hạnh vô gián kia. Nên Khế kinh nêu rõ: Nếu có một loại hữu tình đối với năm vô gián tạo tác tăng trưởng, thì vô gián tất đọa vào Nại-lạc-ca.

Căn cứ theo một loại này để nói nhận biết có riêng một loại tuy tạo vô gián, nhưng không sinh vào địa ngục. Không như vậy thì nói một loại tức thành vô dụng.

Lại, Đức Thế Tôn nói: Bà La! Nếu như hiểu nghĩa như Ta đã thuyết giảng. Song đã không có khả năng hiểu rõ. Trong đây đã chỉ nêu không hiểu lời đã nói là chướng quyết định. Nên biết Đức Thế Tôn thuyết giảng tất cả nghiệp thảy đều có thể chuyển. Lại, Đức Thế Tôn nói: Đi nhiễu quanh tháp thì tất cả đều sẽ được sinh lên cõi trời. Lại, Đức Thế Tôn đã nói về Đề-bà-đạt-đa: Sau khi đoạn căn thiện thì không thể đối trị. Lại như phiền não chướng, nghiệp chướng cũng có thể chuyển.

Những điều đã nói như thế, đều không phải là chủ thể lập, vì đối với kinh và lý đã không khéo hiểu rõ. Lại như phái kia đã dẫn có một loại kinh, ý làm rõ có người tạo đủ năm tội nghịch, vô gián, tất đọa trong Nại-lạc-ca. Hoặc có kẻ cho đến chỉ tạo một tội nghịch. Hoặc có kẻ tạo xong nhiều môn tăng trưởng. Hoặc có kẻ chỉ tạo về sau lại không tăng, đều vô gián sinh, đọa nơi địa ngục. Lại, vì nêu lên phần đầu, nên nói câu một loại. Hoặc làm rõ có người, nhân theo nghiệp vô gián, vô gián tất đọa trong Nại-lạc-ca. Có kẻ nhân nơi nghiệp khác, nên nói một loại. Không nói một loại liền cho là chỉ nhân nơi nghiệp vô gián, nhân nơi vô gián sinh địa ngục kia. Ý của kinh Bà la là hiển bày người tạo tội nghịch do không nhận hiểu về nghĩa sâu xa mà Đức Như Lai đã thuyết giảng. Vì nghiệp chướng ngăn ngại, nên sẽ đạt được theo sức tăng thượng của quả dị thục kia, vì quán đế, căn thiện nhân đó bị tổn hại. Hoặc có kẻ ăn năn lo lắng vì bị tổn não, đối với những điều Đức Phật đã giảng nói, không thể hiểu sâu xa. Nếu chấp nghĩa của kinh thì chỉ như văn kia, tức là cực thành vô gián không chuyển.

Nói vô gián là hiển bày không có gián cách.

Lại, Đề-bà-đạt-đa kia vì hiểu thô cạn lời Phật giảng nói, do đâu tất sinh nơi địa ngục vô gián? Nên biết, đây là căn cứ theo Kinh Giải Thâm Mật thuyết giảng để hiểu. Ghi nhận thiện về lý chứng cũng không thành. Vì Đức Phật ở nơi kinh kia thuyết giảng có sai biệt. Nghĩa là kinh kia nói: Các người có nương dựa đi nhiễu quanh tháp đều được sinh thiên. Người có phương tiện gọi là người có nương dựa, tức là có chấp nhận nghĩa của lý sinh thiên. Tuy nhiên, phái Thí dụ lược dẫn kinh kia, liền phân chia hữu tình phần nhiều tạo hành ác, do thừa nhận tạo tác mãnh liệt cực trọng. Các người hành ác khởi tâm thiện phẩm hạ, hoặc tâm vô ký, ở chỗ tháp Phật, tạm thời nhiễu quang, liền diệt trừ chung. Sau khi đoạn thiện lý chứng cũng không thành. Vì chỉ đoạn căn thiện cũng có thể xoay chuyển. Đức Phật không nên nói Đề-bà-đạt-đa kia là không thể đối trị. Nên biết kinh kia nói lại có nghĩa riêng. Nghĩa là Đề-bà-đạt-đa ấy trước khởi dục ác, do đấy đã phải đọa vào nẻo ác. Tiếp theo, khởi gia hạnh, khi sắp phá Tăng, do đấy đã phải đọa nơi địa ngục. Tiếp sau, khi nói dối phá hoại Tăng, do đấy đã chiêu cảm thọ mạng của kiếp vô gián. Về sau, khởi tà kiến đoạn căn thiện xong, nhất định không thể khiến hiện khởi pháp trắng, nên nói sau này, tất không thể đối trị. Không phải cho là Đề-bà-đạt-đa kia, bấy giờ mới quyết định đọa vào địa ngục. Tuy nhiên, đối với vị này, thừa nhận có sinh nghi. Đề-bà-đạt-đa tuy đã đến vị này, Đức Phật vì sao không trị liệu, như vua Vị Sinh Oán (A xà thế). Vì trừ bỏ nghi kia, nên bày tỏ ý không trị liệu, nói: Ta không thấy Đề-bà-đạt-đa, có thể khiến hiện thân khởi một ít pháp trắng, nên Ta đã từ bỏ, không muốn trị liệu.

Nói một ít pháp trắng là làm rõ về sự ăn năn hổ thẹn hướng thiện, trong đây hiển bày Đức Phật đã hiểu rõ về các người thân, Đềbà-đạt-đa như vậy là đã tạo nghiệp ác nặng, đã đoạn dứt các gốc thiện đều không có tâm hổ thẹn. Ta phải làm sao có thể cứu giúp, chữa trị? Nói có thể trị liệu, nghĩa là có thể giáo hóa, khiến sinh thiện, tâm ăn năn, chế phục bệnh của hành ác. Nếu chưa tăng thì khiến bệnh kia không tăng. Nếu đã có tăng, thì khiến cho bệnh của hành ác kia mỏng yếu dần, không phải chủ yếu dứt tuyệt gốc, mới gọi là trị liệu. Như lương y ở đời trị bệnh, pháp như vậy dụ cho phiền não chướng, chứng cứ cũng không thành. Ta cũng không thừa nhận pháp kia có thể chuyển. Nghĩa là khi phiền não chướng phát khởi, định nghiệp tất bảo vệ dị thục đều không thể chuyển. Nên phái Thí dụ đã không khéo nhận biết rõ về kinh và nghĩa lý sâu xa, do khối vô nghĩa lớn đã ở nơi tâm mình vọng khởi tà biện.

Ở trong nghiệp vô gián của các hành ác thì tội nào là nặng nhất?

Ở trong nghiệp thiện thế gian của các hành diệu, thì quả nào là lớn nhất? Tụng nêu:

Nói hư dối phá Tăng

Lớn nhất trong các tội

Tư cảm hữu thứ nhất

Quả lớn trong thiện đời.

Luận nói: Vì phá Tăng nên đã phát khởi nói lời hư dối. Trong các hành ác thì tội này là lớn nhất.

Vì sao tội này thuộc về nói lời hư dối?

Do lời nói đã phát khởi là dựa vào tưởng khác. Nghĩa là người kia đối với pháp có tưởng về pháp, đối với phi pháp có tưởng về phi pháp. Đối với bậc Đại sư có tưởng về bậc Đại sư. Đối với thân mình có tưởng về không phải là Nhất thiết trí. Nhưng do A-thế-da ác, sâu bền, che giấu tưởng ấy tạo tưởng khác để nói.

Nếu như có không do tưởng khác để phá Tăng, thì không thể sinh tội nặng thọ mạng một kiếp.

Do đâu tội này ở trong hành ác là nặng nhất?

Do tội này đã hủy hoại làm thương tổn pháp thân Phật, tạo chướng ngại đạo giải thoát sinh thiên của thế gian. Nghĩa là Tăng đã phá, cho đến khi chưa hòa hợp, sức mạnh có thể ngăn chận các phàm phu v.v…, chưa nhập chánh định khiến không được nhập. Nếu đã nhập chánh định thì khiến không được quả khác. Nếu đã được quả khác thì khiến không được lìa nhiễm. Nếu đã được lìa nhiễm thì khiến không chứng lậu tận, tức các nghiệp như tập, định, chứa, tụng, tư v.v… đã dứt. Nói tóm lại, do Tăng bị phá, pháp luân của đại thiên thế giới không chuyển. Thân tâm của hàng trời, người, rồng v.v… bị nhiễu loạn. Do đấy quyết định chiêu cảm dị thục một kiếp nơi địa ngục vô gián. Do không phải hành ác khác, nên trong hành ác tội này là nặng nhất.

Nếu như vậy thì vì sao Đức Thế Tôn hoặc cókhi ở trong các tội nói tà kiến là nặng? Lại nói ý nghiệp trong các tội là rất lớn. Do căn cứ theo năm nghiệp vô gián, nên nói phá Tăng là tội nặng nhất.

Căn cứ theo năm thứ kiến sai lầm nên nói tà kiến là nặng. Căn cứ theo tất cả nghiệp, nên nói ý nghiệp là lớn. Hoặc căn cứ theo các tội cùng do tu đạo, kiến đạo đoạn trừ, như thứ lớp ấy để nói là rất nặng. Hoặc dựa nơi trời Quảng quả đoạn trừ các căn thiện, hại nhiều hữu tình, như thứ lớp nói về trọng tội. Tư của quả dị thục chiêu cảm hữu thứ nhất trong các thiện của thế gian là quả lớn nhất, do có thể chiêu cảm dị thục rất tĩnh lặng. Căn cứ theo quả dị thục, nên nói như thế. Như thành tựu chung năm quả kia để nói, tức là nên nói, cùng với định kim cang dụ tương ưng, thì tư có thể đạt được quả lớn. Nghĩa là ngoài quả dị thục có thể đạt được ở đây, bốn quả A-la-hán của các pháp hữu vi, vô vi, tuy tư của các đạo vô gián vô lậu, đều trừ quả dị thục, đạt được bốn quả còn lại. Nhưng chỗ đạt được này rất là thù thắng, vì các kiết đoạn dứt vĩnh viễn làm quả này. Vì phân biệt quả này, nên nói câu thiện của thế gian. Vì chỉ tội vô gián cũng nhất định sinh nơi địa ngục, các đồng loại vô gián cũng nhất định sinh nơi địa ngục kia, không phải nhất định vô gián sinh, vì không phải nghiệp vô gián.

Đồng loại vô gián, tướng của chúng là thế nào? Tụng nêu:

Nhiễm mẹ, ni vô học

Giết Bồ-tát trụ định

Và Thánh giả hữu học

Đoạt duyên hòa hợp Tăng.

Phá hoại Tốt đổ ba

Là đồng loại vô gián.

Luận nói: Nói đồng loại: Là nghĩa tương tợ. Nếu có kẻ đối với mẹ, Ni A-la-hán hành phi phạm hạnh, vì rất ô nhục, đó gọi là tướng nghiệp của đồng loại thứ nhất. Nếu có kẻ sát hại Bồ-tát trụ nơi định, đó gọi là tướng nghiệp của đồng loại hại cha.

Nếu có kẻ sát hại Thánh giả hữu học, đó gọi là tướng nghiệp của đồng loại thứ ba.

Nếu có kẻ xâm đọat duyên hòa hợp Tăng, đó gọi là tướng nghiệp của đồng loại phá Tăng.

Nếu có kẻ phá hoại tháp Phật, đó gọi là tướng nghiệp của đồng loại thứ năm. Có nghiệp của dị thục ở trong ba thời, rất có thể làm chướng ngại. Nói ba thời: Tụng nêu:

Sắp đắc nhẫn, Bất hoàn

Vô học, nghiệp làm chướng.

Luận nói: Nếu từ vị Đảnh, khi sắp được Nhẫn, nghiệp chiêu cảm nẻo ác, đều hoàn toàn làm chướng ngại, do nhẫn vượt quá địa của dị thục kia. Như người sắp rời khỏi đất nước mình đã cư trú, tất cả chủ nợ đều hoàn toàn làm chướng ngại. Nếu khi có hành giả sắp được quả Bất hoàn, thì nghiệp hệ thuộc cõi dục đều hoàn toàn làm chướng ngại. Nếu khi có hành giả sắp chứng đắc quả vô học, thì nghiệp của cõi sắc, vô sắc đều hoàn toàn làm chướng ngại.

Hai vị sau này, dụ nêu như trước. Nhưng ở trong đây dị thục trừ thuận hiện thọ và dị thục thuận bất định thọ, bất định nghiệp và trong dị thục định không phải là thục của xứ dị.

HẾT – QUYỂN 43