LUẬN A TỲ ĐẠT MA THUẬN CHÁNH LÝ
Tác giả: Tôn giả Chúng Hiền
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 42

Phẩm thứ 4: BIỆN VỀ NGHIỆP, phần 10

Nay nên xét chọn về tướng thành nghiệp đạo. Nghĩa là ngang bằng với lượng nào thì gọi là tự sát sinh, cho đến bằng với mức độ nào gọi là tà kiến?

Tức trước là phân biệt về tướng sát sinh. Tụng nêu:

Sát sinh do cố tư

Tưởng khác không ngộ sát.

Luận nói: Chủ yếu do trước hết phát khởi cố ý muốn giết hại. Đối với hữu tình khác khởi tưởng là hữu tình khác, tạo gia hạnh sát hại, không lầm lẫn mà giết. nghĩa là chỉ giết hữu tình kia, không giết càn hữu tình khác, ngang với mức này, gọi là nghiệp đạo sát sinh.

Có trường hợp mang tâm do dự là gốc cây trơ trụi hay là con người: Nếu như lại là người, là người kia hay không phải người kia, nhân đó khởi quyết chí. Hoặc phải, hoặc không phải, ta nhất định sẽ giết. Do tâm không đoái nghĩ, hoặc giết hữu tình cũng thành nghiệp đạo.

Nghiệp đạo như thế, hoặc quyết định, hoặc nghi ngờ, chỉ đủ duyên giết hại, đều có lý thành.

Đối với sát-na diệt, tội hành sát sinh vì sao là thành? Vì sao là không thành?

Vì không có nghĩa sát hại. Nghĩa là mạng chúng sinh, quá khứ đã diệt, hiện tại tự diệt, vị lai chưa đến, thế nên tất không có lý giết sinh mạng.

Vì sao nói là diệt?

Ngọn lửa đèn, tiếng chuông, căn cứ theo vật kia cũng tức nên chung nơi nghĩa sát sinh. Nghĩa là chướng ngại nơi mạng sẽ sinh nên sinh, không sinh. Do khởi tâm ác nơi gia hạnh hành sát sinh, khiến kẻ bị giết, khi mạng hiện có bị diệt, không thể làm nhân dẫn mạng đồng loại, chướng ngại mạng nên sinh khiến vĩnh viễn không sinh, nên gọi là sát sinh. Do đấy, mắc phải tội. Mạng đã bị đoạn này là thuộc về ai? Nghĩa là mạng nếu không có, thì mạng kia gọi là người chết, tức là thân, đối tượng nương dựa của mạng này.

Nêu dẫn tiếng thứ sáu để làm rõ nghĩa cùng hệ thuộc. Như Già-tha đã nói câu thọ, noãn v.v… nên thân có mạng gọi là có mạng, không phải thật có ngã, lý ấy là quyết định.

Đã phân biệt về sát sinh. Sẽ biện về không cho mà lấy. Tụng nêu:

Không cho, lấy vật người

Sức trộm lấy thuộc mình.

Luận nói: Câu nói không lầm v.v… ở trước, như chỗ ứng hợp dẫn đến phần sau. Nghĩa là chủ yếu trước hết phát khởi cố ý muốn trộm cắp, ở trong vật của người khác, khởi tưởng là vật của người khác. Hoặc dùng sức, hoặc trộm lấy, khởi gia hạnh trộm cắp. Không lầm mà lấy khiến thuộc về thân mình. Ngang vớiu mức này gọi là tội không cho mà lấy. Nếu có kẻ trộm lấy vật nơi tháp, thì đắc tội với Phật. Đức Phật sắp nhập Niết-bàn, đã thọ nhận chung vật của thế gian dâng cúng.

Có thuyết nói: Tội này đối với người có thể bảo vệ tháp. Tức người kia tự cho phép nên nên không có tội. Vì thế thuyết trước về lý là hơn.

Trộm lấy vật của Tăng đã qua đời, đã tác bạch yết-ma, đối với Tăng của giới nội thì đắc tội trộm cắp, yết-ma chưa xong, đối với tất cả Tăng, nếu trộm của người khác cùng voi, ngựa v.v… thì ra khỏi trụ xứ, nghiệp đạo mới thành.

Đã biện về không cho mà lấy. Sẽ biện về hạnh tà dục. Tụng nêu:

Hạnh tà dục, bốn thứ

Làm điều không nên làm.

Luận nói: Gồm có bốn thứ làm không nên làm, đều được gọi là tội hạnh tà dục:

1. Ở nơi không phải cảnh. Nghĩa là người nữ được người khác bảo hộ. Hoặc mẹ, hoặc cha, hoặc người thân của cha mẹ, cho đến hoặc cảnh được người chồng bảo vệ.

2. Ở nơi không phải đạo. Nghĩa là đặt nơi miệng vợ mình và đường khác.

3. Ở nơi không phải chỗ. Nghĩa là ở nơi xứ xa xôi vắng vẻ, trong chùa tháp.

4. Ở nơi phi thời. Nghĩa là thời gian vợ đang mang thai, thời gian cho con bú, lúc thọ trai giới.

Có thuyết cho: Nếu người chồng đã chấp nhận cho vợ mình thọ trai giới, mà có vi phạm, mới gọi là phi thời. Câu nói đã không lầm, cũng được dẫn đến đây. Nếu đối với vợ của người khác, cho là vợ mình, hoặc ở nơi vợ mình, cho là vợ của người khác. Đạo, không phải đạo v.v… chỉ có tâm lầm lẫn, tuy có hành dâm, nhưng không phải là nghiệp đạo. Nếu đối với vợ của người khác, khởi tưởng là vợ của người khác, hành phi phạm hạnh. Có thuyết nói: Cũng thành gia hạnh, vì khi thọ dụng, đều ở nơi cảnh của người khác.

Có thuyết nêu: Như nghiệp đạo sát sinh không thành gia hạnh, vào thời gian cuối cùng, vì cảnh trước đều riêng khác.

Về Bí-sô-ni v.v… như vợ có giới, nếu có xâm phạm, cũng thành nghiệp đạo.

Có thuyết cho: Về tội này, đối với chỗ vua ở, vì có thể gìn giữ cùng không ưng thuận. Nếu nhà vua tự phạm, thì nghiệp đạo cũng thành. Vì thế ở trước đã nói, về lý là hơn.

Đã biện về hạnh tà dục. Sẽ biện về nói lời hư dối. Tụng nêu:

Nhiễm tưởng khác, phát ngôn

Hiểu nghĩa, nói hư dối.

Luận nói: Nói vì sức lắng nghe, nên thành nói lời hư dối. Nghĩa là đối với điều đã nói, khởi tưởng khác để phát ngôn cùng người bị lừa dối, hiểu nghĩa đã nói. Tâm nhiễm không nhầm lẫn mới thành nghiệp đạo. Kẻ bị lừa dối chưa hiểu là thuộc về lời nói uế tạp. Lời nói do nhiều chữ hình thành, chủ yếu là ở biểu nghiệp, vô biểu nghiệp của niệm sau cùng mới thành nghiệp đạo.

Hoặc tùy nơi người bị lừa dối hiểu nghĩa tức thành. Chữ trước đều cùng hành, đều là gia hạnh này. Trong đây hiểu nghĩa là căn cứ nơi người bị lừa dối có thể hiểu, gọi là hiểu, không phải là nghĩa hiểu đúng.

Ngang với mức nào gọi là có thể hiểu và hiểu đúng?

Trước cho hiểu là khi ở nơi nhĩ thức. Về sau cho là đang có thể phân biệt về nghĩa kia. Nếu hiểu đúng về nghĩa là do ý thức nhận biết. Ngữ biểu, nhĩ thức đều cùng lúc diệt, nên nghiệp đạo này chỉ là vô biểu thành.

Do thế về lý tức nên là nghĩa thiện, theo người nói, người nghe ở nơi phần vị nhĩ thức, thì nghiệp đạo tức thành, vì có thể lừa dối là gồm đủ biểu, vô biểu.

Có thuyết nói: Người bị lừa dối còn tùy ở chỗ hiểu, không hiểu, chỉ do tưởng khác nói là nghiệp đạo tức thành. Không như vậy thì ở đây là đồng với nói lời ly gián. Tùy ở nhẫn, không nhẫn, chủ yếu là nhận hiểu mới thành nghiệp đạo.

Kinh nêu rõ các lời nói, lược có mười sáu thứ. Nghĩa là ở trong sự việc không thấy, không nghe, không hiểu, không biết, nói là thật thấy v.v… Trong việc đã thấy v.v… nói là không thấy v.v…

Tám thứ như thế, gọi là không phải là Thánh ngôn.

Trong không thấy v.v… nói là không thấy v.v… Trong sự việc đã thấy v.v… nói là thật thấy v.v…

Tám thứ như thế gọi là Thánh ngôn.

Những gì gọi là tướng của đối tượng thấy v.v…? Tụng nêu:

Do nhãn, nhĩ, ý thức

Cùng ba chỗ chứng khác

Như thứ lớp gọi là

Chỗ thấy, nghe, hiểu, biết.

Luận nói: Nếu cảnh do mắt, tai, ý cùng thức khác đã chứng, thì như thứ lớp gọi là đối tượng thấy biết v.v… Mũi, lưỡi, thân căn nhận lấy, vì đi đến cảnh nên gọi chung là hiểu biết. Kinh quyết định nói về chỗ nhận lấy của ba căn là đối tượng nhận biết. Kinh nói: Đại mẫu! Ý của ông nghĩ sao? Các sắc hiện có không phải là mắt ông thấy, không phải là ông đã từng thấy, không phải là ông sẽ thấy, không phải là ông mong cầu thấy.

Vì nhân nơi các thứ này nên khởi dục, khởi tham, khởi thân, khởi ái, khởi A-lại-da, khởi Ni-diên-để, khởi tham đắm chăng?

Không như vậy, bạch Đại đức!

Các tiếng hiện có, không phải là tai của ông nghe, nói rộng cho đến các pháp hiện có không phải là ý của ông nhận biết. Nói rộng cho đến: Không như vậy, bạch Đại đức!

Đức Phật lại bảo: Đại mẫu! Ông ở đây nên biết! Đối tượng thấy chỉ có đối tượng thấy. Nên biết đối tượng nghe, đối tượng hiểu, đối tượng biết, chỉ có đối tượng nghe, hiểu, biết.

Kinh này đã đối với cảnh của sắc, thanh, pháp, nói là đối tượng thấy, đối tượng nghe, đối tượng nhận biết.

Căn cứ theo đây, nên ở nơi phần còn lại, nhất định lập đối tượng hiểu biết. Nếu không thừa nhận như thế, thì đối tượng hiểu biết là gì? Lại, ba cảnh như hương v.v… ở bên ngoài đối tượng thấy v.v… Đối với cảnh của ba thứ kia, tức nên không khởi ngôn thuyết.

Kinh chủ bác bỏ nói: Lập luận này không thành chứng, vì nghĩa của kinh là riêng khác. Không phải trong kinh này Đức Phật muốn phán quyết về bốn tướng đã nói. Nhưng nhận thấy nghĩa của kinh này đã nói. Nghĩa là Đức Phật khuyên Đại mẫu kia ở trong sáu cảnh cùng đối với bốn sự việc đã nói như thấy v.v… nên biết, chỉ có lời nói như đối tượng thấy v.v… không nên tăng ích tướng ái, phi ái.

Nếu như vậy tướng nào được gọi là đối tượng thấy v.v…?

Có Sư khác cho: Nếu là cảnh hiện đã chứng của năm căn, thì gọi là đối tượng thấy. Nếu do kẻ khác truyền nói thì gọi là đối tượng nghe. Nếu vận dụng tâm mình, dùng vô số thứ lý để so sánh, lường xét về điều được thừa nhận, gọi là đối tượng hiểu. Nếu ý hiện chứng thì gọi là đối tượng biết. Ở trong năm cảnh đều cùng dấy khởi bốn. Đối với cảnh thứ sáu, trừ thấy tức có ba. Do hiểu này nên gọi là không phải không có đối tượng chỉ rõ. Ba cảnh như hương v.v… ngôn thuyết không phải là không có.

Lại dẫn lời Sư xưa giải thích riêng về bốn cảnh này. Nay cho Kinh chủ chỉ phô bày lối chấp của mình, không phải là điều tôi đã thừa nhận. Kinh này phán quyết về tướng đã nói, nên chỉ nói kinh chứng. Đối tượng nhận lấy của ba căn gọi là đối tượng hiểu. Vì khởi nói của đối tượng hiểu, nên tông của Sư tôi tùy thuận kinh này, lập các tướng như đối tượng thấy v.v… về lý là không trái. Tuy nói là để ngăn chận sự việc tăng ích nơi tướng ái, phi ái kia, nhưng không phải là không hợp lý.

Nói sáu, bốn riêng, về lý là không đúng, vì nghĩa của kinh trước, kinh sau là giống nhau. Tôi thấy nghĩa của kinh này đã nêu bày, nghĩa là giáo hóa Đại mẫu, như ở trong cảnh như sắc v.v… của ba thời, nếu không thấy v.v… thì không mong cầu, nên dục v.v… không sinh. Như thế, nếu nhận biết cảnh như đối tượng thấy v.v… chỉ có đối tượng thấy v.v… thì dục v.v… cũng không sinh dục v.v… Chỉ do tự phân biệt, nên tôi tùy theo nghĩa của kinh nhằm giải thích văn kinh này. Không phải như Kinh chủ tùy nơi sự phân biệt của mình. Về sau, Đại Mẫu đã lãnh hội lời Phật giáo hóa. Tôi thì giải thích về nghĩa do Đức Thế Tôn đã nêu:

Thấy sắc đã mất niệm

Vọng, gia tăng tướng ái

Tâm liền thọ ái nhiễm

Cùng trụ nơi tham đắm.

Kia do khởi đây thọ

Rất nhiều tướng hiện tiền

Nên tâm kia luôn thời

Bị các tham não hại.

Hợp các khổ như thế

Liền xa nơi Niết-bàn

Ái hết nên Niết-bàn

Ngày gần như đã nói.

Thấy sắc rồi, chánh niệm

Không tăng thêm tướng ái

Tâm không thọ ái nhiễm

Cùng không trụ tham đắm.

Kia do không khởi thọ

Rất nhiều tướng hiện tiền

Nên tâm kia luôn thời

Lìa các tham não hại.

Như thế, diệt các khổ

Liền gần với Niết-bàn

Ái hết nên Niết-bàn

Ngày gần như đã nói.

Như thế, đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp, mỗi mỗi đều nói rộng. Đức Thế Tôn cũng khen ngợi, vì có thể hiểu rõ như thế: “Lành thay! Lành thay!”. Nên Kinh chủ nói nghĩa của kinh có riêng khác, tức đúng như đã nêu bày. Do nghĩa của kinh riêng khác, nên Kinh chủ ở đấy đã phân biệt khác.

Lại do ý nghĩa sâu xa gì để nêu rõ cách giải thích trái với lý giáo của hai Sư kia, mà riêng càng thêm trái với ngôn thuyết thuận theo lý giáo của phái Tỳ Bà Sa. Tức như hai Sư kia đã giải thích trái với giáo. Các tướng như đối tượng thấy v.v… ở trong kinh, Đức Phật đối với cảnh như sắc v.v… nói riêng một cách phân minh. Nhưng hai Sư kia đã từ bỏ phần khác để kiến lập, nên cũng cùng với giáo tùy thuận, trái nhau với chánh lý.

Nêu rõ trong năm cảnh, mỗi cảnh đều có đủ bốn, trên cảnh thứ sáu chỉ có ba v.v… Tuy nhiên, pháp hoàn toàn có thể lập tên đối tượng thấy, không phải trong âm thanh v.v… có thể gọi là đối tượng thấy. Như nói: Đức Phật thấy đời khứ, lai v.v… đối tượng thấy này đều là cảnh không chung của ý thức.

Từng không có Thánh giáo nào nói: Tai thấy tiếng, mũi thấy hương v.v… Vì sao năm cảnh đều gọi là đối tượng thấy, chỉ không phải là thứ sáu?

Lại, Sư kia tự nói: Nếu ý hiện chứng, gọi là đối tượng biết, thì pháp đã là đối tượng biết, nên gọi là đối tượng thấy. Vì hiện đã chứng, nên cũng như sắc v.v…

Ở đây có lý gì vì chỉ năm đối tượng chứng để lập tên đối tượng thấy?

Lại, về sau, Sư giải thích: Tự nội đã thọ nhận và tự đã chứng gọi là đối tượng biết.

Nếu như vậy thì thấy về duyên nào không phải là đối tượng thọ nhận của tự nội? Thế thì đối tượng thấy tức nên tức là đối tượng biết. Lại, đối tượng hiểu biết tức nên không có sai biệt, vì đều cùng là đối tượng tự chứng của ý thức. Lại, các tỷ lượng, hiện lượng làm ưu tiên cho người thấu đạt chánh lý đều đã cùng thừa nhận.

Nếu là cảnh của tỷ lượng mới gọi là đối tượng hiểu rõ, không nên cho đối tượng hiểu rõ ở trước đối tượng nhận biết. Nên về nghĩa của hai Sư kia là không có đầu mối.

Nay cho Kinh chủ có chấp sai lạc ở tâm, trái với chánh tông này, hợp với bè nhóm của tà thuyết kia.

Từng có do thân biểu khác với nghĩa của tưởng nên thành nói dối chăng?

Có. Nên luận nói: Từng có thân bất động tiếp xúc với tội sát sinh chăng? Có. Nghĩa là phát ngữ.

Từng có không phát ngữ mà tiếp xúc với tội nói dối chăng?

Có. Nghĩa là thân động.

Từng có thân bất động không phát ngữ mà đã tiếp xúc hai tội chăng?

Có. Nghĩa là ý của người tiên phẫn nộ và khi nghiệp được nuôi lớn. Kinh chủ ở đây đã lập ra vấn nạn như thế này: Nếu thân bất động, cũng không phát ngữ, thì dục không có vô biểu, lìa biểu mà sinh hai pháp này vì sao được thành nghiệp đạo?

Đối với vấn nạn như thế, nên nêu đạt sự việc khó nhọc. Kinh chủ kia cho thật sự không có biểu nghiệp, vô biểu nghiệp. Há cùng không lập hai nghiệp đạo này? Kinh chủ kia cũng nên biện về nhân tiếp xúc với hai tội, không phải chỉ khởi tư duy ác, vì có lỗi thái quá. Nếu chủ yếu dựa vào tư chuyển biến của hai môn thân, ngữ, thì khởi tâm muốn sát hại, lừa dối, tức nên thành trái ngược. Nếu nghiệp đạo kia không thành, thì tiên v.v… nên đồng?

Đã cho thân không động, cũng không phát ngữ, vì sao thành nghiệp đạo?

Cùng dựa vào môn thân ngữ, tức nên thiết lập sự khó nhọc để giải thích về vấn nạn như thế. Nhưng tôi lại giải thích: Khi hành Bố sái tha (Bố-tát), như do thân động, có thể biểu hiện nghĩa ngữ, sinh nghiệp đạo ngữ. Nếu thân bất động, có thể biểu hiện nghĩa ngữ thì nghiệp đạo cũng sinh. Nhưng khi thuyết giới, người kia có chỗ phạm thì im lặng biểu hiện sự thanh tịnh, khiến chúng đều biết, vì sao không sinh nghiệp đạo nói dối? Ý của người tiên giận dữ, nghĩa cùng bảo cho người khác biết vị tiên kia đối với hữu tình, tâm không có chiếu cố, không phải kẻ cung kính vị tiên kia, nhận biết có tâm ác. Thân động là nghiệp đạo sát hại chúng sinh đó.

Người tiên do biểu gì để khiến cho quỷ nhận biết tâm?

Tiên kia do ý phẫn nộ, thân ngữ tất biến đổi. Hoặc do chú thuật nguyền rủa, tất thân ngữ động.

Có Sư khác cho: Không phải ở nơi cõi dục tất cả vô biểu đều dựa vào biểu sinh. Như khi đắc quả thì năm Bí-sô cùng được giới biệt giải thoát. Bất thiện cũng nên như thế, nhưng Bí-sô kia, thời gian trước quyết định có biểu, phần còn lại cũng nên như thế. Trước tiên như trước nói: Khi hành bố tát, người được nói dối, nghĩa là người không thanh tịnh, dối trá vào trong Tăng ngồi hiện bày oai nghi, hoặc có nói năng. Đây gọi là biểu trước. Phần còn lại so sánh theo đấy nên suy xét.

Đã biện về nói lời hư dối. Sẽ biện về ba ngữ còn lại. Tụng nêu:

Tâm nhiễm hoại ngữ khác

Gọi là ngữ ly gián

Ngữ thô ác, phi ái

Các ngữ nhiễm uế tạp

Khác nói khác ba nhiễm

Dua nịnh cả tà luận.

Luận nói: Nếu tâm nhiễm ô, phát khởi lời nói phá hoại người khác. Nếu người khác bị phá hoại, không phá hoại, đều cùng thành nói lời ly gián. Hiểu nghĩa không lầm dẫn đến trong đây. Nếu dùng tâm nhiễm, phát khởi ngôn ngữ phi ái, hủy báng chê trách người khác, gọi là nói lời thô ác. Ngôn ngữ của tâm nhiễm ở trước dẫn đến đây. Hiểu nghĩa không lầm cũng cùng với trước là đồng. Tất cả tâm nhiễm đã phát ra các lời nói, gọi là nói lời uế tạp. Vì đều uế tạp, nên chỉ chữ ngữ ở trước là dẫn đến trong đây.

Có thuyết nói: Khác với ba thứ trước, tâm nhiễm còn lại đã phát ra lời nói dua nịnh, ca hát, tà luận v.v… mới thuộc về nói lời uế tạp.

Dua nịnh nghĩa là Bí-sô cầu danh lợi tà vạy, phát khởi ái ngữ dua nịnh. Ca hát nghĩa là xướng hát, tâm nhiễm làm vui lòng người khác, tạo ra các từ khúc. Tâm nhiễm nghĩa là ngâm vịnh cùng vui đùa.

Tà luận nghĩa là ngôn ngữ ác kiến chú thuật của Thắng luận, Số luận, Minh luận. Tức tâm nhiễm đã phát ra lời nói buồn than và ngôn ngữ hý luận.

Thời kỳ Luân vương xuất hiện, thì các ngôn ngữ ca hát ngâm vịnh tùy thuận xuất ly, cùng với nhiễm là trái nhau, nên chúng đều không phải thuộc về ngôn ngữ uế tạp.

Có thuyết cho: Lời nói có gả cưới v.v… thuộc về ngôn ngữ uế tạp, không phải thuộc về nghiệp đạo. Vì là loại Bạc trần, nên không dẫn vô biểu, không phải là không có vô biểu để có thể thuộc về nghiệp đạo.

Đã biện về ba ngữ. Sẽ biện về ý có ba. Tụng nêu:

Dục ác, tham của người

Ghét hữu tình giận dữ

Các kiến bỏ thiện ác

Gọi nghiệp đạo tà kiến.

Luận nói: Đối với của cải vật dụng của người khác, tham cầu phi lý, muốn khiến thuộc về mình, hoặc dùng sức, hoặc trộm. Dục ác như thế gọi là nghiệp đạo tham.

Há không phải là ái dục đều gọi là tham?

Như kinh Ngũ Cái nói: Dựa vào cái tham dục, Đức Phật nói nên đoạn trừ. Tham của thế gian này, tuy đều gọi là tham, nhưng không phải đều là nghiệp đạo. Do trước đã nói trong các hành ác đã gồm thâu phẩm thô làm mười nghiệp đạo, nên chỉ đối với vật của người khác khởi dục tham ác, gọi là nghiệp đạo tham. Nếu khác với đây, thì nghiệp đạo tham đắm vật dụng của mình, tức nên thành. Luân vương châu Bắc là nạn cũng như thế. Đối với loài hữu tình khởi tâm ghét giận, muốn gây bức bách, gọi là nghiệp đạo sân. Đối với việc thiện, ác v.v… khởi ác kiến bài bác cho là không có, thì kiến này gọi là nghiệp đạo tà kiến.

Nêu lên phần đầu để thâu tóm phần sau, nên nói vân vân. Đầy đủ nên như Khế kinh đã nêu tức hủy báng nhân quả, hai Đức Thế Tôn v.v… Nói chung là có mười một loại tà kiến không đồng, nghĩa là không có bố thí, cho đến nói rộng.

Như thế là đã biện về tướng của mười nghiệp đạo. Dựa vào nghĩa nào để giải thích tên gọi của các nghiệp đạo. Tụng nêu:

Trong ấy ba chỉ đạo

Bảy nghiệp cũng là đạo.

Luận nói: Trong mười nghiệp đạo thì ba thứ sau chỉ là đạo. Vì là đạo của nghiệp nên lập tên nghiệp đạo. Các thứ kia tương ưng với tư nên gọi là nghiệp. Vì nghiệp kia chuyển nên chuyển, vì nghiệp kia hành nên hành. Như theo uy lực của nghiệp kia mà tạo tác. Bảy thứ trước là nghiệp là thân, ngữ nghiệp, cũng là đạo của nghiệp, là đối tượng đi đến của tư, do có thể cùng khởi tư của thân, ngữ nghiệp, vì nhờ nơi thân, ngữ nghiệp làm cảnh chuyển. Vì nghiệp nơi đạo của nghiệp nên lập tên nghiệp đạo. Cho nên ở trong đây nói nghiệp đạo, là hiển bày đủ về đạo của nghiệp, nghiệp của nghiệp và nghiệp của đạo. Tuy về loại là không đồng, nhưng một là phần khác, trong luận Thế Ký đều cùng cực thành.

Hoặc vì là đạo của nghiệp, nên gọi là nghiệp đạo, vì cũng là nghiệp, cũng là đạo, nên gọi là nghiệp đạo. Đầy đủ nên nói nghiệp đạo của nghiệp đạo, vì một là phần khác nên chỉ nói nghiệp đạo. Nghĩa của nghiệp đạo thiện, so sánh với đây nên biết.

Gia hạnh, hậu khởi nên gọi là nghiệp đạo. Vì tư cũng duyên với chúng làm cảnh chuyển, nên về lý cũng nên nói, nhưng không nói, vì gốc dựa vào gốc thì nghiệp kia mới chuyển. Vì trước có nói về phẩm thô, là nghiệp đạo. Lại, do căn bản có giảm, tăng, nên khiến vật trong ngoài có giảm, có tăng. Hai phần kia không như vậy, nên không phải là nghiệp đạo. Tất cả nghiệp đạo ác đều hiện bày là cùng trái với thiện.

Đoạn dứt các căn thiện là do nghiệp đạo nào? Đoạn dứt tướng thiện nối tiếp có sai biệt thế nào? Tụng nêu:

Chỉ tà kiến đoạn thiện

Đã đoạn dục sinh đắc

Bỏ nhân quả tất cả

Đoạn dần, hai cùng bỏ.

Người ba châu nam nữ

Kiến hành đoạn, phi đắc

Nối thiện, nghi có kiến

Liền hiện, trừ người nghịch.

Luận nói: Trong nghiệp đạo ác, chỉ có phẩm thượng là gồm đủ tà kiến, có thể đoạn dứt căn thiện.

Nếu như vậy thì do đâu trong Bản luận nói: Thế nào là các căn bất thiện thuộc phẩm thượng? Nghĩa là các căn bất thiện có thể đoạn dứt căn thiện. Hoặc ở phần vị lìa dục đầu tiên đã trừ, do căn bất thiện có thể dẫn sinh tà kiến, nên sự việc của tà kiến suy tìm ở nơi căn bất thiện kia. Như lửa đốt làng xóm, là lửa do giặc khởi, nên thế gian nói: Làng xóm bị giặc đốt.

Những căn thiện nào bị đoạn do căn bất thiện này?

Nghĩa là chỉ căn thiện sinh đắc của cõi dục, vì thiện của cõi sắc, vô sắc, trước không thành tựu, nên như Luận Thi Thiết Túc đã nêu nên làm sao thông hợp? Như Luận kia nói: Chỉ do lượng này là người đã đoạn căn thiện của ba cõi.

Nương dựa nơi căn thiện đạt được, lại nói xa, khiến cho căn thiện này cùng nối tiếp không phải là vật chứa đựng căn thiện kia.

Do đâu chỉ đoạn căn thiện sinh đắc?

Do gia hạnh nơi căn thiện trước đã thoái mất. Như nói: Bổ-đặcgià-la như thế thành tựu pháp thiện, cho đến nói rộng.

Thành tựu pháp thiện đã nói trong đây, là nói chung về sự thành tựu gia hạnh sinh đắc. Lại nói pháp thiện ẩn mất, tức lời nói này chỉ nói về thiện gia hạnh. Lúc sắp đoạn thiện, thì đầu tiên xả bỏ, nên nói có người tùy thuận cùng hành căn thiện chưa đoạn. Đây là làm rõ cũng có căn thiện sinh đắc. Nơi thời gian sau đó, kẻ kia tất cả đều đoạn. Do sự đoạn này, nên gọi là đoạn căn thiện.

Sự việc đoạn căn thiện này là nhân nào nơi phần vị nào?

Nghĩa là có một loại hữu tình trước đã tạo thành tùy miên có ý lạc bạo ác, sau gặp phải sức duyên của bạn ác trợ giúp chuyển tăng mạnh thêm, nên căn thiện giảm, căn bất thiện tăng. Về sau dấy khởi tà kiến bác bỏ cho không có nhân quả, khiến tất cả thiện đều chìm mất. Do sự cùng nối tiếp này lìa thiện mà trụ. Tức nhân này phần vị này đoạn các căn thiện.

Vì sao gọi là tà kiến bác bỏ nhân, bác bỏ quả?

Hủy báng hành diệu, hành ác, gọi là bác bỏ nhân. Hủy báng dị thục của quả, gọi là bác bỏ quả.

Tà kiến có hai: Nghĩa là duyên của tự giới và duyên của tha giới. Hoặc duyên nơi hữu lậu và duyên nơi vô lậu.

Ai có thể đoạn dứt căn thiện?

Nên nói tất cả có thể đoạn dứt căn thiện. Chín phẩm căn thiện là có thể đoạn dứt tức khắc.

Như kiến đạo đoạn dứt là do kiến đạo đoạn chăng? Không như vậy thì thế nào?

Nghĩa là đoạn dần dần chín phẩm tà kiến, chín phẩm căn thiệnđối nhau theo thuận nghịch, thứ lớp đoạn dần. Như tu đạo đoạn dứt là do tu đạo đoạn Hoặc. Nghĩa là phẩm hạ hạ đoạn dứt phẩm thượng thượng, đến phẩm thượng thượng đoạn dứt phẩm hạ hạ. Nên Bản luận nói: Thế nào gọi là căn thiện vi tế cũng hành? Nghĩa là khi đoạn căn thiện thì xả bỏ sau cùng. Do xả bỏ căn thiện kia, nên gọi là đoạn căn thiện.

Nếu như vậy thì văn kia vì sao lại nói: Thế nào là các căn bất thiện thuộc phẩm thượng? Nghĩa là các căn bất thiện có thể đoạn trừ căn thiện, không nên ở đây lại gạn hỏi về nghĩa lý đó.

Nhân theo trước để hỏi về lý đó đã thành. Nghĩa là ở đây nhân nơi trước đoạn căn thiện vi tế, tức hỏi về khả năng đoạn căn bất thiện trên. Căn thiện vi tế trước đã thuộc về phẩm hạ, sau có thể đoạn, về lý tức thuộc về phẩm thượng, nên ở đây không nhọc công nêu hỏi, vấn nạn.

Đã như tu đạo đoạn trừ hoặc, về lý ở trung gian, thì chung cho cả khởi và không khởi. Quả của các luật nghi có từ gia hạnh, có từ tâm thiện sinh đắc sinh ra. Nếu từ tâm thiện gia hạnh sinh, thì luật nghi trước xả sau đoạn căn thiện. Tuy nhiên, đoạn thiện thì gia hạnh căn bản đều gọi là đoạn căn thiện.

Dựa nơi đấy nên nói phần vị đoạn căn thiện đã xả bỏ các luật nghi.

Nếu từ tâm thiện sinh đắc sinh ra, thì tùy theo đoạn phẩm nào có thể sinh căn thiện.

Luật nghi đã sinh, bấy giờ liền xả bỏ. Xả bỏ khả năng cùng khởi, thì căn thiện kia xả bỏ theo.

Vì ở xứ nào có thể đoạn căn thiện?

Ba châu của nẻo người, không phải ở nẻo ác, cũng không phải ở nẻo trời. Vì sao? Vì trong nẻo ác, tuệ nhiễm, không nhiễm thì không bền chắc. Do trong nẻo trời hiện thấy quả của các nghiệp thiện ác.

Nói ba châu là trừ Bắc Câu lô, vì xứ ấy không có A-thế-da (ý lạc) cực ác.

Có Sư khác cho: Chỉ nơi châu Thiệm bộ.

Nếu như vậy thì trái với Bản luận đã nêu. Như Bản luận nói: Người châu Thiệm bộ ít nhất là thành tựu tám căn. Châu Đông Tây cũng vậy.

Như thế thì đoạn căn thiện là dựa vào loại thân nào?

Chỉ thân nam, nữ, vì ý chí quyết định.

Có Sư khác nêu: Cũng không phải là thân nữ, vì dục, tinh tấn, tuệ v.v… đều tối kém.

Nếu như thế thì trái với Bản luận đã nói. Như Bản luận nêu rõ: Nếu thành tựu nữ căn, thì nhất định thành tựu tám căn. Nam căn cũng như vậy.

Là hành giả nào có thể đoạn trừ căn thiện?

Chỉ người kiến hành, không phải là kẻ ái hành. Các người kiến hành thì A-thế-da ác (ý lạc ác) bền sâu. Do ý lạc ác kia suy cầu cùng nối tiếp, nên gọi là rất bền chắc. Vì kiến xa theo đấy mà nhập, nên gọi là rất sâu. Vì rất bền sâu, nên có thể đoạn trừ căn thiện. Các người ái hành, vì A-thế-da ác rất thô động. Do nghĩa lý này, nên không phải các loại người Phiến-quắc v.v… có thể đoạn trừ căn thiện. Lại người loại này như ác dấy khởi.

Căn thiện này đoạn, Thể của nó là gì?

Căn thiện đoạn nên biết là lấy phi đắc làm Thể, do khi tà kiến nặng hiện ở trước, có thể khiến căn thiện đắc thành tựu diệt, đắc không thành tựu cùng nối tiếp mà sinh. Ở phần vị này được gọi là căn thiện đã đoạn, nên Thể của đoạn căn thiện tức là phi đắc.

Trước đã thành lập phi đắc là thật có. Căn thiện đoạn rồi, do đâu lại nối tiếp?

Do nghi có kiến, nghĩa là ở phần vị thiện nối tiếp. Hoặc do sức của nhân. Hoặc dựa nơi thiện hữu. Có người đối với nhân quả, bỗng nhiên lại sinh nghi. Sự việc chiêu cảm nơi đời sau là không hay là có. Có người đối với nhân quả bỗng sinh khởi chánh kiến, nhất định là có đời sau. Trước chấp là tà, bấy giờ căn thiện thành tựu, được khởi trở lại, đắc không thành tựu, bị diệt, gọi là căn thiện nối tiếp. Chín phẩm căn thiện tức thì nối tiếp, khởi dần dần, như tức khắc trừ bệnh, khí lực tăng dần.

Ở trong hiện thân có thể nối tiếp căn thiện không?

Cũng có thể nối tiếp, trừ người tạo tội nghịch.

Có Sư khác nói: Người đoạn kiến tăng, cũng không phải hiện đời có thể nối tiếp căn thiện. Dựa vào hai loại người kia, kinh nêu bày: Người kia nhất định ở nơi hiện pháp không thể nối tiếp căn thiện. Người kia nhất định từ nơi địa ngục sắp mất, hoặc tức đối với người kia khi sắp thọ sinh, có thể nối tiếp căn thiện, không phải ở phần vị khác. Cho nên nói phần vị sắp sinh, nghĩa là trong trung hữu. Nói khi sắp mất, nghĩa là người kia sắp chết. Nếu do sức của nhân, thì người đoạn căn thiện kia, khi sắp chết sẽ được nối tiếp. Nếu do sức duyên thì người đoạn căn thiện kia, khi sắp sinh sẽ được nối tiếp. Do lực tự tha, nên biết cũng như thế.

Lại, ý lạc hủy hoại, không phải gia hạnh hủy hoại, người đoạn căn thiện, người này nơi hiện đời có thể nối tiếp căn thiện. Nếu ý lạc hủy hoại, gia hạnh cũng hủy hoại, thì người đoạn căn thiện, chủ yếu là sau khi thân hoạimới nối tiếp căn thiện. Nghĩa là thế gian có người bác bỏ cho không có đời sau, gọi là ý lạc hủy hoại, mà không tùy thuận ý lạc kia để tạo tác, không phải gia hạnh hủy hoại. Tức kiến hoại giới không hoại, kiến hoại giới cũng hoại.

Người đoạn căn thiện, nên biết cũng như thế. Không phải nơi kiếp sắp hoại và kiếp mới thành, có sự việc đoạn căn thiện. Vì khí thế gian hoại làm sức tăng thượng, vì thấm nhuần cùng nối tiếp. Người hành trì hành diệu không đoạn căn thiện, do tâm bền chắc, có an lạc.

Bốn trường hợp đoạn căn thiện do tà định có sai biệt: Nghĩa là Bổ-thích-noa, vua Vị Sinh Oán, Đề-bà-đạt-đa, cùng người khác v.v… Như thứ lớp đó, nên biết là có sai biệt. Đoạn căn thiện do tà kiến, phá tăng, nói dối, nên biết nhất định chiêu cảm dị thục vô gián, nghiệp vô gián khác. Hoặc chiêu cảm dị thục vô gián, hoặc chiêu cảm dị thục của địa ngục khác.

Đã nhân nơi nghĩa nên biện về đoạn căn thiện. Nay lại nên làm rõ về nghĩa của nghiệp đạo căn bản. Như đã nói trong hai nghiệp đạo thiện ác, có bao nhiêu thứ cùng sinh, đều cùng chuyển với tư? Tụng nêu:

Nghiệp đạo tư cùng chuyển

Bất thiện một đến tám

Thiện chia chung đến mười

Ngăn riêng một, tám, năm.

Luận nói: Ở trong các nghiệp đạo cùng chuyển với tư. Như bất thiện cùng với tư, là từ một chỉ đến tám.

Một cùng chuyển: Nghĩa là ngoài phần lìa bỏ, trong ba thứ như tham v.v… tùy theo một hiện khởi. Nếu gia hạnh ở trước đã tạo nghiệp ác, thì tham v.v… cùng tâm nhiễm và không nhiễm còn lại lúc hiện tiền, tùy theo một mà đạt tới tột cùng. Kinh chủ chỉ nói là tâm không nhiễm ô. Lời nói này là tổn giảm thái quá, vì lúc mạn, nghi cùng tâm nhiễm dấy khởi, cũng có do gia hạnh ở trước đã khởi nghiệp đạo thành. Lại nói gia hạnh tạo nghiệp ác nơi cõi sắc. Nên cõi sắc là nói tăng thái qúa. Vô sắc không cùng có gia hạnh ở trước đã tạo, tâm không nhiễm khởi, nghiệp đạo mới thành, vì cần phân biệt, sau so sánh với loại như thế, phải nên loại bỏ.

Có Sư khác cho: Ba nghiệp đạo của thân, mỗi mỗi đều có tư cùng chuyển. Nghĩa là sát sinh, trộm cắp, tà dâm, về lý không nên như thế. Vì tà dâm tất có hai, không sai khiến người khác làm. Vì tham tất đạt tới tột cùng. Còn sát sinh, trộm cắp tự làm, cũng tất có hai. Nếu như căn cứ theo chỗ sai người khác làm, nên nói là có sai biệt. Tức lúc đạt tới tột cùng, thì tham v.v… không khởi.

Lại nói, nói lời uế tạp và ba thứ như tham, sân v.v…, tùy nơi một hiện tiền, gọi là một cùng chuyển.

Giải thích này cũng phi lý, vì thiếu chỉ là lời nói. Như tôi trước đã nói, về lý là tốt.

Hai cùng chuyển: Nghĩa là hành tà hạnh. Nếu tự hành sát sinh, trộm cắp, nói lời uế tạp, hoặc sai bảo người khác làm, tùy nơi một thành vị, tham, sân, tà kiến tùy một hiện tiền. Nếu gia hạnh ở trước đã tạo nghiệp ác, thì tham v.v… cùng tâm nhiễm và không nhiễm còn lại lúc hiện tiền, là tùy nơi hai đạt được cứu cánh.

Kinh chủ ở đây đã nói thế này: Nghĩa là nghiệp sát sinh đạt tới tột cùng khi tâm giận dữ. Nếu khởi phần vị tham, thì thành không cho lấy, hoặc hành dục tà, hoặc nói lời uế tạp.

Điều này cũng phi lý, vì nếu tự nó đạt cứu cánh, tức nên đối với sát sinh, không nhọc sức nói về giận dữ. Ở đây, lại không cùng có đạt đến cứu cánh khác. Đối với trộm cắp, tà hạnh, nói tham cũng như thế.

Nói khi khởi tham, thành nói lời uế tạp, lời nói này là thiếu giảm, vì chấp nhận có ba thành.

Nếu gia hạnh ở trước, vào lúc đạt đến cứu cánh, thì mỗi mỗi nên nói tham v.v… tùy theo một.

Có Sư khác nêu: Đối với của cải, thân mạng người khác, khởi tâm muốn sát hại, trộm cắp, khiến người ấy lúc vừa chết là lấy. Hoặc nô tỳ v.v… của người khác ở trong thuyền v.v… sau khi phạm tà hạnh, trộm lấy rời khỏi bản xứ. Hành này không phải chỉ có hai, do trong tham, sân, tùy chỗ thích hợp tất có một. Lại nói về nói lời hư dối, ly gián, thô ác, lúc tùy khởi một cũng có hai cùng chuyển.

Giải thích này cũng phi lý, vì ba thứ như tham v.v… tùy chỗ ứng hợp, chấp nhận có một.

Do đấy, ở nơi trước nói, về lý là tốt.

Ba cùng chuyển: Nghĩa là gia hạnh ở trước đã tạo nghiệp ác, lúc tham v.v… khởi, tùy theo hai đạt được cứu cánh. Nếu sai bảo một, khiến tạo sát sinh v.v… là một. Tự hành dâm v.v…, đều cùng thời đạt được cứu cánh. Nếu tự tạo tác hai, thì như lý nên suy xét. Nếu gia hạnh ở trước đã tạo nghiệp ác, thì tham v.v… cùng tâm nhiễm và không nhiễm còn lại lúc hiện tiền, thì tùy ở ba đạt được cứu cánh. Nếu lúc khởi tham v.v… cùng tâm nhiễm khác, thì tự thành thâu tóm nghiệp nói lời hư dối, ly gián v.v… liền tạo ra một v.v… như lý nên suy xét.

Có Sư khác nói: Sai khiến hai sứ, rồi tự hành tà hạnh, thì lúc cùng đạt được cứu cánh và ba nghiệp về ngữ ở trước, tùy theo đấy cùng có khởi hai.

Giải thích này cũng phi lý, vì lúc dâm đạt được cứu cánh, nhất định có tham. Phát khởi nghiệp đạo ngữ, trong ba thứ như tham v.v… chấp nhận có một. Nếu như khởi tâm khác, tức nên có sai biệt.

Bốn cùng chuyển: Nghĩa là vì muốn phá hoại người khác, nên nói lời hư dối, hoặc nói lời thô ác, tức nghiệp đạo của ý một, nghiệp đạo của ngữ ba. Hoặc sai khiến hai sứ rồi tự hành dâm v.v… Nếu gia hạnh ở trước đã tạo nghiệp ác, lúc tham v.v… dấy khởi, tùy nơi ba đạt được cứu cánh.

Các loại như thế, căn cứ theo đấy để so sánh, nên suy xét.

Có Sư khác cho: Đều cùng nói bốn thứ thuộc ngữ.

Thuyết này phi lý, vì nên phân biệt. Như thế, năm sáu bảy đều như lý, nên tư duy.

Tám cùng chuyển: Nghĩa là gia hạnh ở trước tạo sáu nghiệp ác. Tự hành tà dục, đều cùng thời đạt được cứu cánh. So sánh với thứ khác nên suy xét.

Vì ba nghiệp sau không cùng có, nên không có chín, mười.

Do đâu tà dục chủ yếu tự đạt được cứu cánh, không phải như sát sinh v.v…?

Sai khiến người khác làm cũng thành sát sinh v.v… Sai khiến người khác vì tâm nhiễm quyết định. Nghĩa là nếu sai khiến người khác hành sát sinh v.v… thì nhất định đã có tâm nhiễm. Sai khiến người khác hành dâm thì cũng có tâm không nhiễm, như gả con gái v.v….

Lại, loại Hoặc này tất hiện tiền. Nghĩa là do loại phiền não này hiện khởi, tự hành sát sinh v.v… khiến người khác làm cũng như thế. Không phải khiến người khác dâm, hoặc tất như tự mình. Lại, tự mình xa lìa hành không nên làm, không phải sai khiến người khác làm, gọi là tự phạm. Nghĩa là có kẻ xa lìa hành không nên làm. Trao con gái cho chồng nó, tự mình không phạm. Nếu ở nơi cảnh này, tự lìa sát sinh, lúc sai bảo người khác giết, tự gọi là giết. Tức như từng nghe Bồ-tát đem con gái của mình thí cho người khác, nên đạt được quả ái. Nhưng phi phạm hạnh là thuộc về nghiệp bất thiện. Nếu khiến người khác phạm, tức so với mình làm là đồng.

Há cùng an trụ nơi gia hạnh của nghiệp ác có thể chiêu cảm quả phước? Hoặc các Bồ-tát tức nên phạm tà hạnh.

Lại, lìa sát sinh v.v… là dựa nơi ngăn chận cảnh mà thành. Lìa hành tà dâm, vì ngăn chận nơi thân mình. Do đấy, không phải giết tất cả hữu tình đều thành tội Tha thắng (Tội Ba la di), tùy ở nơi tất cả, chỉ có hành dâm đều gọi phạm trọng.

Lại, về lý tất như thế. Vì các Bí-sô chỉ sai khiến người giết, tất thành tội Tha thắng, tuy làm mai mối nhưng không phạm trọng.

Do đâu sai khiến lìa sát, không được giới lìa sát, chỉ sai khiến người khác sát sinh liền phạm tội sát sinh?

So sánh này là không cân xứng. Vì không phải không có tư của sát mà có sai bảo người khác giết. Nhưng có tư không lìa sát, mà sai bảo người khác lìa sát, về nghĩa là không đồng.

Lại, thọ trì giới, ở nơi xứ mình, miễn cưỡng xả phạm Thi la, ở nơi xứ người khác là hơn, nên đối với sự việc phạm giới, có sai bảo người khác phạm, gọi là tự phạm. Nếu đối với việc trì giới, không sai bảo người khác vâng giữ, gọi là tự hành trì.

Lại như trước đã nêu bày. Trước đã nêu bày là thế nào?

Nghĩa là trong cõi dục, ác hơn, thiện kém. Lại vì pháp duyên khởi có vô số thứ sai khác không thể tạo vấn nạn. Lại như nhãn thức không trụ trong sắc, cũng không phải trụ ở mắt theo mắt tăng tổn mà không theo sắc.

Lại như từ tâm sinh đại, hiển bày v.v… không tùy theo sức của tâm thành tánh như thiện v.v… mà hiện bày thiện v.v… có sai biệt tùy nơi tâm.

Lại, tiếng ngữ nghiệp, tánh tùy theo tâm chuyển. Còn tiếng búng ngón tay v.v… thì tánh không tùy theo tâm.

Lại, người khác mạng chung mới thành nghiệp sát sinh. Người khác bị hoại, không bị hoại, đều thành ly gián v.v… Như thế đối với giới, sai khiến người khác thọ trì, tự mình không vâng giữ. Hoặc đối với sự việc phạm giới, sai khiến người khác hủy phạm, tức có tự hủy phạm. Ở đây sai khiến sát sinh, trở thành chủ nhân sát sinh. Sai khiến người khác hành dâm, thì không thành người hành dâm.

Như thế là đã nói về nghiệp đạo bất thiện, cùng với tư đều cùng chuyển, số lượng có không đồng. Nghiệp đạo thiện cùng với tư phân chia chung cùng đến mười.

Căn cứ riêng để làm rõ cùng ngăn chận một, tám, năm.

Hai cùng chuyển: Nghĩa là năm thức thiện và dựa vào vô sắc, lúc tận trí vô sinh trí hiện ở trước, thiện không phân tán bảy. Trí này tương ưng với tuệ, tánh không phải là kiến, vì định vô sắc đều cùng là không luật nghi.

Ba cùng chuyển: Nghĩa là cùng với chánh kiến tương ưng. Khi ý thức hiện tiền, không có bảy sắc thiện.

Bốn cùng chuyển: Nghĩa là tâm ác vô ký ở phần vị hiện tiền thì được luật nghi Cận trụ, Cận sự, Cần sách.

Sáu cùng chuyển: Nghĩa là năm thức thiện, lúc hiện tiền, tức được ba giới trên.

Bảy cùng chuyển: Nghĩa là ý thức thiện, không tùy chuyển nơi sắc, tương ưng với chánh kiến, khi hiện ở trước, thì được ba giới trên.

Hoặc tâm ác vô ký khi hiện tiền, được giới Bí-sô.

Chín cùng chuyển: Nghĩa là năm thức thiện và dựa nơi vô sắc, lúc tận trí vô sinh trí hiện ở trước, được giới Bí-sô. Hoặc tĩnh lự gồm thâu tận trí vô sinh trí, tương ưng với ý thức lúc hiện ở trước.

Mười cùng chuyển: Nghĩa là ý thức thiện không tùy chuyển nơi sắc, tương ưng với chánh kiến, lúc hiện ở trước, được giới Bí-sô. Hoặc còn lại tất cả có tùy chuyển với sắc, tương ưng với chánh kiến, ở phần vị tâm đang khởi.

Căn cứ riêng hiển bày cùng đối tượng ngăn chận như thế. Căn cứ chung nơi ẩn, hiển thì không có đối tượng ngăn chận. Nghĩa là lìa luật nghi có một, tám, năm.

Một cùng chuyển: Nghĩa là tâm ác vô ký khi hiện ở trước thì được một chi xa lìa.

Năm cùng chuyển: Nghĩa là ý thức hiện không có tùy chuyển nơi sắc, tương ưng với chánh kiến, khi hiện ở trước, được hai chi v.v…

Tám cùng chuyển: Nghĩa là ý thức này lúc hiện tiền tức được năm chi v.v…

Nghiệp đạo thiện ác, ở nơi cõi, nẻo, xứ nào? Có bao nhiêu thứ chỉ thành tựu? Bao nhiêu thứ cũng hiện hành chung? Tụng nêu:

Bất thiện trong địa ngục

Thô tạp, sân, chung hai

Tham, tà kiến tạo nên

Châu Bắc thành ba sau.

Tạp ngữ hiện thành chung

Dục khác, mười chung hai

Thiện ở tất cả xứ

Ba sau chung hiện thành.

Vô sắc trời vô tưởng

Bảy trước chỉ thành tựu

Trừ xứ thành hiện chung

Trừ địa ngục, châu Bắc.

Luận nói: Lại như ở trong mười nghiệp đạo bất thiện, thì trong Na-lạc-ca có ba chung cả hai thứ. Nghĩa là nói lời thô ác, nói lời uế tạp, giận dữ, ba thứ này đều chung cả hiện hành, thành tựu. Luôn bức bách cùng mắng nhiếc, nên có nói lời thô ác. Vì oán than, buồn kêu, nên có nói lời uế tạp. Thân tâm thô mạnh, hung ác không thuận, oán ghét lẫn nhau, nên có giận dữ. Tham cùng tà kiến thì thành tựu nhưng không hiện hành, vì không có cảnh khả ái, vì hiện thấy quả của nghiệp.

Vì không có pháp cùng hại, nên không có sát sinh. Nghĩa là người kia chỉ do nghiệp hết, nên chết. Vì không có thâu tóm của cải, người nữ, nên không có trộm cắp, tà dâm. Do vô dụng, nên không có nói lời hư dối. Hoặc nói lời hư dối, khiến người khác khởi tưởng điên đảo. Vì tưởng của người kia thường điên đảo, nên không có nói lời hư dối. Do người kia thường lìa, hoặc vì vô dụng, nên không có nói lời ly gián. Nơi châu Bắc câu lô, thì tham, sân, tà kiến đều quyết định thành tựu, nhưng không hiện hành. Vì không thâu tóm ngã sở. Vì thân tâm mềm mại. Vì không có sự việc não hại. Vì không có ý lạc ác. Chỉ có nói lời tạp uế, chỉ chung cho cả thành tựu cùng hiện hành.

Do người của xứ kia có lúc theo tâm nhiễm ca hát ngâm vịnh. Do thọ lượng nhất định, nên không có sát sinh. Vì không có thâu tóm của cải vật dụng và người nữ, nên không có không cho mà lấy và hành dục tà.

Vì không có tâm lừa dối, nên không có nói lời hư dối.

Hoặc vì không dụng, vì thường hòa thuận, nên không có nói lời ly gián.

Vì ngôn thuyết thanh nhã, đẹp đẽ, nên không có nói lời thô ác.

Người của xứ kia hành tác phi phạm hạnh như thế nào?

Nghĩa là khi người nam, nữ kia cùng khởi tâm ái nhiễm, thì nắm tay dắt nhau đi đến dưới tàng cây, cành cây rũ xuống che khuất họ, thì biết là nên hành dâm. Nếu cây không rũ nhánh xuống, thì hai người cảm thấy thẹn, rồi từ biệt.

Trừ châu Bắc câu lô và địa ngục nêu trước, còn lại trong cõi dục thì mười nghiệp đạo đều chung cả hai. Nghĩa là nơi trời thuộc cõi dục, quỷ, bàng sinh và người nơi ba châu. Mười nghiệp đạo ác đều chung cả thành tựu và hiện hành. Nhưng có sai biệt. Nghĩa là trời, quỷ, bàng sinh, bảy nghiệp đạo trước chỉ có ở giữa (Phi luật nghi phi bất luật nghi) và đều gồm thâu không có bất luật nghi. Người trong ba châu thì hai thứ đều cùng có.

Tuy các thiên chúng không có giết hại nhau, nhưng hoặc có khi sát hại nẻo khác.

Có Sư khác cho: Trời cũng giết hại trời, tuy chi thân của trời đoạn rồi thì mọc trở lại. Nhưng trong việc chém đầu, nếu đứt rồi thì không sinh nữa. Thế nên trong trời thuộc cõi dục có nghiệp đạo sát sinh.

Đã nói về bất thiện. Ba thứ như không tham v.v… trong nghiệp đạo thiện, ở nơi năm nẻo của ba cõi, đều chung cả hai thứ, nghĩa là thành tựu và hiện hành.

Bảy chi thân ngữ nơi trời vô tưởng, cõi vô sắc chỉ cùng có thành tựu, tất không hiện hành. Nghĩa là Thánh hữu tình sinh nơi cõi vô sắc, thành tựu luật nghi vô lậu quá khứ, vị lai. Hữu tình nơi trời vô tưởng tất thành tựu luật nghi tĩnh lự của tĩnh lự thứ tư thuộc quá khứ, vị lai.

Nhưng Thánh thì tùy dựa vào địa của tĩnh lự nào để từng khởi từng diệt Thi la vô lậu?

Lúc sinh nơi cõi vô sắc thì thành tựu tĩnh lự kia thuộc quá khứ. Nếu sáu địa của đời vị lai đều thành, thì hai xứ đều không có nghĩa hiện khởi. Nghĩa là cõi vô sắc chỉ có tánh của bốn uẩn, còn hữu tình của trời vô tưởng thì ở nơi định không có tâm, nên luật nghi tất nương nhờ đại chủng. Tâm định nơi hai xứ đều cùng không có, nên không hiện khởi. Cõi, nẻo, xứ còn lại, trừ địa ngục, châu Bắc, bảy thiện đều chung cả hiện hành và thành tựu. Nhưng có sai biệt. Nghĩa là quỷ, bàng sinh có nghiệp đạo ở giữa lìa luật nghi. Nếu ở cõi sắc chỉ có luật nghi, thì nơi trời dục và ba châu đều đủ hai thứ.

Nghiệp đạo thiện ác được quả như thế nào? Tụng nêu:

Đều chiêu cảm dị thục

Quả đẳng lưu tăng thượng

Đây khiến khác thọ khổ

Vì đoạn mạng, hoại uy.

Luận nói: Lại như trước đã phân biệt mười nghiệp đạo ác đều chiêu cảm ba quả.

Ba quả ấy là gì?

Là dị thục, đẳng lưu, tăng thượng riêng biệt. Nghĩa là đối với mười thứ ác, hoặc tập, hoặc tạo, hoặc tạo tác nhiều. Do sức dụng này, nên sinh nơi Nại-lạc-la, là quả dị thục.

Từ địa ngục kia ra khỏi rồi, thì lại sinh trong đồng phần của nhân gian này, là thọ quả đẳng lưu. Nghĩa là kẻ sát sinh thọ lượng ngắn ngủi. Kẻ không cho mà lấy, thì luôn thiếu thốn về tiền của. Người hành dục tà, thì vợ không trinh thục. Người nói lời hư dối, thì phần nhiều gặp phải kẻ phỉ báng. Kẻ nói lời ly gián, thì bạn thân bất hòa. Người nói lời thô ác, thì luôn nghe tiếng xấu ác. Người nói lời tạp uế, thì ngôn thuyết không uy lực, nghiêm túc. Người tham thì tham luôn tăng. Kẻ giận dữ thì sân hận gia tăng. Người tà kiến thì si tăng thượng.

Do đâu tà kiến khiến si chuyển tăng? Hành tập dị học không thích ứng, khiến dị học tăng trưởng?

Kinh chủ tạo ra giải thích này: Phẩm kia vì si tăng. Há không phải tà kiến tương ưng với vô minh, không phải tướng dụng tăng vì dựa vào tà kiến. Nay, xem xét nghĩa này, khi tà kiến khởi, ở trong hữu sự, không có hành tướng chuyển hủy hoại sự việc hiện thấy. Ở đây cùng với tham sân tương ưng với vô minh. Si kia tăng nặng, thì tham, sân ở nơi cảnh hữu có hành tướng chuyển. Hoặc là người kiến hành, do sức của tà kiến có thể khiến chân trí xa lại càng xa hơn. Vì si gia tăng nên tà kiến liền tăng. Do si chuyển khiến suy cầu điên đảo. Người tà kiến tăng thì si lại chuyển tăng. Do kiến chuyển khiến chướng ngại chân trí. Do đấy nên nói tà trí là kẻ oán gần của chánh trí. Vì cùng với vô minh kết làm bè nhóm. Đó gọi là quả đẳng lưu riêng khác của nghiệp đạo.

Vì sao thọ lượng là đẳng lưu của sát sinh? Thọ mạng của con người tất nên là quả của nghiệp thiện.

Vấn đề này, Kinh chủ đã giải thích như vầy: Không nói thọ mạng của con người tức là quả của nghiệp sát sinh, chỉ nói do giết người nên thọ lượng ngắn. Nên biết nghiệp sát sinh cùng với mạng căn của con người đã làm nhân chướng ngại khiến không sống lâu.

Ngôn thuyết đã nêu ra ở đây, về nghĩa thật khó nhận biết. Nếu sát sinh làm nhân có thể chiêu cảm thọ mạng ngắn, thì tên gọi ngắn ấy tự pháp nào là quả của sát sinh không phải là thọ mạng? Ví như thỏi vàng ròng ngắn, tức là vàng, thọ mạng cũng nên như vậy, thì ngắn há không phải là thọ mạng? Vậy sao có thể nói thọ mạng không phải là quả của sát sinh? Nếu cho nghiệp sát sinh có thể chiêu cảm tai họa của thọ mạng, nên sát sinh làm nhân không phải chiêu cảm thọ mạng, thì trong đây nên biện thế nào gọi là tai họa của thọ mạng không thể nói? Nghĩa là đao kiếm, thuốc độc v.v… Đao kiếm v.v… chỉ là duyên của tai họa.

Lại, không nên nói là đẳng lưu của sát sinh, vì đó là quả tăng thượng của hữu tình. Nên tai họa của thọ mạng, chướng ngại của thọ mạng, nghĩa ấy chỉ là một. Đã nói nghiệp sát sinh làm nhân chướng ngại thọ mạng, tức nên biện trong đây chướng ngại của thọ mạng là gì? Nếu cho chướng ngại của thọ mạng, tức thọ mạng không sinh, thì đây lại nên suy xét là có hay không có? Nếu không có là quả, thì Thể không thành, vì không phải con người trụ ở bản tâm, nói vô vi có quả. Nếu là hữu vi thì vô vi này không phải là khác với thọ mạng, liền trái với phần đã nói thọ mạng không phải là quả của sát sinh. Về lý nên giải thích nói: Không nói thọ mạng của người là dị thục của sát sinh, chỉ nên nói là quả tăng thượng gần của nghiệp sát sinh. Nghĩa là tuy thọ mạng của con người là do nghiệp thiện chiêu cảm, nhưng do sức tăng thượng của sát sinh, nên khiến thọ mạng kia được nối tiếp chỉ trải qua thời gian ít, vì trong cõi dục thì bất thiện vượt hơn thiện, và có sức tăng thượng có thể chế phục thiện.

Nếu như vậy thì vì sao gọi là quả đẳng lưu?

Vì hiển bày trong quả tăng thượng có thứ rất gần. Nếu cả hai cùng lập tên quả tăng thượng, thì không làm rõ quả có gần xa riêng biệt. Nếu cho không như vậy, thì vì sao bất thiện dùng vô phú vô ký do tu đạo đoạn làm quả đẳng lưu? So với lý thì không trái, thế nên có thể nói tức thọ mạng ngắn của con người là do đẳng lưu đã dẫn của nghiệp sát sinh. Mười nghiệp đạo này đã chiêu cảm quả tăng thượng. Nghĩa là các thứ của cải vật dụng nuôi sống hiện có ở bên ngoài do sát sinh, nên vẻ sáng tươi tốt ngày càng rất ít.

Vì không cho mà lấy, nên phần nhiều gặp phải sương muối, mưa đá, lúa thóc thu được không nhiều, quả chắc rất ít. Vì hành dục tà nên có nhiều các thứ trần cấu. Vì nói lời hư dối, nên tạo nhiều các thứ xú uế. Vì nói lời ly gián, nên nơi chốn cư trú luôn quanh co, hiểm trở. Vì nói lời thô ác, nên tiếp xúc nhiều sự xấu ác, ruộng đồng đầy dẫy gai gốc, sỏi đá, muối mặn. Vì nói lời uế tạp, nên thời tiết khí hậu đổi thay. Vì tham nên quả ít. Vì sân nên quả thưa. Do tà kiến, nên quả thiếu, hoặc không có. Đó gọi là quả tăng thượng dị biệt của nghiệp đạo.

Tạo một nghiệp sát sinh, chiêu cảm địa ngục xong, lại chiêu cảm thọ mạng ngắn bên ngoài quả ác nữa chăng?

Có Sư khác cho: Tức một nghiệp sát sinh, trước thọ dị thục, tiếp theo tăng thượng gần, sau là tăng thượng xa, nên có ba quả. Về lý thật thì khi giết hại tức có thể khiến người bị giết thọ khổ, mạng bị đoạn hoại, mất hết uy lực. Vì khiến người khác khổ, nên sinh vào địa ngục. Vì đoạn mạng người khác, nên thọ mạng trong loài người ngắn ngủi. Trước là quả của gia hạnh, sau là quả của căn bản. Căn bản cận phần đều cùng gọi là sát sinh. Do hủy hoại dáng vẻ uy lực, nên chiêu cảm vật dụng bên ngoài luôn xấu ác.

Thế nên nghiệp sát có ba thứ quả. Nghiệp đạo ác còn lại, như lý nên tư duy.

Do đấy, nên căn cứ để nhận biết ba quả của nghiệp đạo thiện. Lại như đối với lìa sát sinh, hoặc tập, hoặc tu, hoặc tạo tác nhiều, do sức này, nên được sinh trong cõi trời là thọ nhận quả dị thục. Từ nơi cõi trời kia mất, rồi đến sinh trong nẻo người, tức thọ nhận quả tăng thượng gần là hết sức trường thọ. Tức lại do đấy, chiêu cảm các thứ vật dụng bên ngoài, có uy lực lớn, là quả tăng thượng xa.

Ba quả của nghiệp đạo thiện còn lại, tức trái với ác, nên nêu bày như thế.

Lại, Khế kinh nói: Trong tám chi tà, chia nghiệp sắc làm ba tức là tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng.

Lìa tà nghiệp, tà ngữ, tà mạng là thế nào?

Tuy lìa các thứ kia là không có, nhưng đã nêu bày riêng. Tụng nêu:

Tham sinh thân, ngữ nghiệp

Vì tà mạng khó trừ

Chấp mạng giúp tham sinh

Trái kinh, nên phi lý.

Luận nói: Sân, si đã sinh hai nghiệp ngữ thân. Như thứ lớp chỉ gọi là tà ngữ, tà nghiệp. Từ tham đã sinh hai nghiệp thân ngữ, gọi là tà ngữ, tà nghiệp, cũng gọi là tà mạng. Do khó loại trừ, nên lập riêng khác với hai thứ kia.

Tham vi tế có thể đoạt lấy tâm của các hữu tình. Người rất thông tuệ cũng khó ngăn chận, phòng giữ. Nên tà mạng này đối với hai thứ tà ngữ, tà nghiệp là rất khó trừ diệt. Các người tại gia khó đoạn trừ tà kiến vì có nhiều vọng chấp về an lành v.v… Những người xuất gia khó trừ bỏ tà mạng vì duyên mạng hiện có đều thuộc về người khác, vì ở nơi chánh mạng khiến phải trân trọng tu trì, nên Đức Phật đã lìa phần trước, nói riêng là một.

Có Sư khác chấp: Tiền của vật dụng của duyên mạng nơi tham dục sinh ra hai nghiệp thân ngữ mới gọi là tà mạng, không phải là tham khác sinh ra. Vì sao? Vì tự vui đùa, ưa thích ca múa v.v… không phải là hỗ trợ nuôi sống thân mạng. Điều này là trái với kinh, nên về lý nhất định không đúng. Trong kinh Giới Uẩn nói về việc xem voi đấu nhau, Đức Thế Tôn cũng lập ở trong tà mạng, kể cả các thứ thọ nhận sai lạc các cảnh bên ngoài, hư giả kéo dài thọ mạng. Do đấy không phải chỉ riêng tư lương của thọ mạng, từ tham phát sinh thân ngữ mới gọi tà mạng. Chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng là trái với các tà này, nên biết.

Do đâu trong nghiệp đạo, trước là thân, sau là ngữ, còn ở trong tám chi đạo, trước là ngữ, sau là thân?

Vì trong nghiệp đạo tùy theo thô tế để nói. Nơi tám chi đạo, thứ lớp như thế bị căn cứ theo thuận hợp cùng sinh. Nên trong Khế kinh nói tầm tứ rồi phát ngữ.

HẾT – QUYỂN 42