LUẬN A TỲ ĐẠT MA THUẬN CHÁNH LÝ
Tác giả: Tôn giả Chúng Hiền
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 18

Phẩm thứ 2: BIỆN VỀ SAI BIỆT, phần 10

Nhân nơi quả ly hệ, Luận thêm đã khắp, gốc cần làm rõ, nay sẽ nói.

Ở đây là biện về năm quả: Dị thục, Đẳng lưu, Ly hệ, Sĩ dụng và Tăng thượng.

Năm quả như thế, đối với sáu nhân nêu trước, nên nói quả nào do nhân nào đạt được?

Tụng nêu:

Nhân sau: quả dị thục

Nhân trước: quả tăng thượng

Đồng loại, biến, đẳng lưu

Cùng tương ưng, sĩ dụng.

Luận nói: Trong năm quả, quả ly hệ thứ ba, không phải là nhân sinh đạt được, nên ở đây không luận. Lại biện về sáu nhân đạt được bốn quả còn lại.

Nói nhân sau: Nghĩa là nhân dị thục. Đối với nhân thì trong tụng nói sau cùng. Còn quả dị thục là đầu tiên, tức do nhân này đạt được.

Có thuyết nói: Dị thục là từ dị thục sinh, nên ở đây không nên gọi là không có dị thục.

Thuyết kia nói là phi lý. Vì hai nhân dị thục, đồng loại đã sinh, nghĩa đều riêng khác. Nghĩa là dị thục trước làm nhân đồng loại sinh. Dị thục sau làm quả đẳng lưu. Tức dị thục sau do nghiệp trước tạo thành, có thể thành các nghiệp, gọi là nhân dị thục. Dị thục đã thành tức là quả dị thục. Thể của hai nhân khác với phần nghĩa của hai quả. Nhân quả giống nhau khác nhau không có lỗi cùng xen tạp. Nhưng thể dị thục, như thứ ăn uống chín. Đối với dị thục sinh, vì không có công năng vượt hơn, nên chỉ là bất thiện và thiện hữu lậu. Nhân dị thục này gọi là có dị thục.

Nói nhân trước: Nghĩa là nhân năng tác. Đối với nhân thì trong tụng nói đầu tiên. Còn quả tăng thượng ở sau, tức do nhân này đạt được. Quả của sự tăng thượng, gọi là quả tăng thượng. Chỉ trụ nơi không có chướng ngại, thì có tăng thượng gì?

Há không phải tức do trụ không có chướng ngại, nên nói là tăng thượng. Đâu cần phải nêu dẫn cật vấn.

Lại, trước đã biện trong phần nhân năng tác, nói nhân năng tác cũng có sức hơn hẳn. Nghĩa là nhãn thức v.v… ở vào lúc đang sinh thì nhĩ v.v… lần lượt có sức tăng thượng. Vì nghe xong liền sinh vui thích, thấy, muốn. Đối với các vật của khí thế giới lúc sinh, nghiệp của các hữu tình có sức tăng thượng. Các quả đáng yêu thích, đối với nghiệp bất thiện. Các quả không đáng yêu thích đối với nghiệp thiện, cũng có lần lượt sinh dụng sinh tăng thượng. Các thứ tăng thượng này như chỗ ứng hợp nên suy xét. Nhân đồng loại, biến hành đạt được quả đẳng lưu. Vì quả giống với nhân, nên gọi là đẳng lưu.

Hai nhân như thế, vì tướng của quả tương tợ, nên nhân tuy hai nhưng quả chỉ một. Nhân câu hữu, tương ưng đạt được quả sĩ dụng. Không phải siêu vượt thể của sĩ, có sĩ dụng riêng, tức chỗ đạt được của hai nhân này, gọi là quả sĩ dụng. Tên gọi sĩ dụng là chỉ rõ về pháp nào? Tức chỉ rõ về công năng hiện có của các pháp.

Như thế, phù hợp hoàn toàn với văn của tụng sau nói. Nếu nhân nơi sức của sĩ kia sinh, thì quả này gọi là sĩ dụng.

Tuy nhiên, Kinh chủ cho: Tên sĩ dụng này, tức chỉ rõ về tác dụng hiện có của các pháp. Tức là tụng kia nên nói như thế này: Đồng lôi kéo một quả, nên gọi là sĩ dụng.

Nếu như vậy chỉ nên vô gián cách vượt là có quả sĩ dụng. Trong cùng sinh là không có. Không phải trong câu sinh có thể có tất cả đều cùng đồng đạt được một quả sĩ dụng. Vì tự thể không nhân nơi tự lực sinh. Cũng không thể nói đều lôi kéo riêng quả. Chớ cho nhân câu hữu không phải là một quả. Trong đây, sĩ dụng, sĩ lực, sĩ năng, thế phần của sĩ, về nghĩa đều không riêng khác. Công năng của các pháp, vì như sĩ dụng, nên gọi là sĩ dụng. Như người tráng kiện dũng mãnh, vì giống với sư tử, nên gọi là sư tử.

Há không phải là hai nhân đồng loại, biến hành từ vô gián đã sinh, cũng là quả sĩ dụng. Nhưng hai nhân của quả đẳng lưu từ vô gián đã sinh các pháp, hoặc phải hoặc không phải, tất cả quyết định, gọi quả sĩ dụng. Do đâu chỉ nói nhân câu hữu, nhân tương ưng đạt được quả sĩ dụng, không phải đồng loại, biến hành? Vì chỉ hai nhân này có đầy đủ công năng đạt được hai quả sĩ dụng câu sinh vô gián, không phải là hai nhân trước, thế nên không nói. Quả đẳng lưu thành tựu, chỉ giống với nhân của chính nó. Quả của nhân đồng loại, biến hành chỉ là giống nhau, nên quả của hai nhân kia chỉ gọi là đẳng lưu. Quả còn lại không phải là đẳng lưu, vì không phải do hai nhân này đạt được. Lại, quả sĩ dụng về nghĩa cùng có thì mạnh. Nhân câu hữu, nhân tương ưng riêng có thể đạt được quả sĩ dụng cùng có, thế nên nói riêng. Lại, nhân đồng loại tuy cũng có thể đạt được các quả sĩ dụng vô gián sinh, nhưng không phải tất cả đều có thể quyết định đạt được. Do các uẩn sau cùng của A-la-hán không có quả sĩ dụng vô gián sinh. Nên hai nhân câu hữu, tương ưng, quyết định đạt được quả sĩ dụng. Vì thế đã nói riêng.

Có Sư khác nói: Nhân năng tác v.v… cũng có nghĩa có thể đạt được quả sĩ dụng, không phải là nhân dị thục. Vì hai quả sĩ dụng câu sinh, vô gián, đối với nhân này là không có.

Có Sư khác cho: Nhân dị thục này cũng có được quả sĩ dụng cách vượt xa. Ví như nông phu đã thu hoạch quả thật.

Đã biện về nhân quả quyết định đối nhau. Nay sẽ chính thức biện về tướng của quả có sai biệt. Các quả như dị thục v.v… tướng của chúng là thế nào?

Tụng nêu:

Dị thục: pháp vô ký

Hữu tình, hữu ký sinh

Đẳng lưu giống tự nhân

Ly hệ do tuệ tận.

Nếu nhân sức kia sinh

Quả ấy, gọi sĩ dụng

Trừ pháp hữu vi trước

Hữu vi quả tăng thượng.

Luận nói: Chỉ ở trong pháp vô phú vô ký, có quả dị thục.

Nếu như vậy tức nên số phi hữu tình cũng là dị thục. Vì nhằm phân biệt với số phi hữu tình kia, nên trong tụng nói từ hữu tình. Tức chỉ ở nơi hữu tình là có dị thục.

Nếu như thế thì ở trong số hữu tình kia được nuôi lớn, đẳng lưu, tức nên là dị thục. Lại, vì phân biệt với pháp vô ký kia nên nói: Hữu ký sinh. Tất cả pháp bất thiện và thiện hữu lậu, vì có thể ghi nhận dị thục, nên gọi là hữu ký. Từ thời gian sau kia, dị thục mới khởi, không phải cùng có vô gián gọi là hữu ký sinh. Như thế gọi là tướng của quả dị thục.

Há không phải là dị thục, cũng dùng thể của quả dị thục ở phần vị trước làm nhân đồng loại. Là quả đẳng lưu của dị thục trước, tức nên cũng nói là từ vô ký sinh, là tánh đẳng lưu. Vì sao chỉ nói là từ hữu ký sinh, không phải là tánh đẳng lưu?

Không có lỗi như thế. Vì thể của quả dị thục: Do nhân đồng loại thì tướng có tạp loạn. Do nhân dị thục thì tướng không có tạp loạn. Thế nên chỉ nói: Từ hữu ký sinh.

Do đấy so sánh để nhận biết: Không phải tánh đẳng lưu, vì quả đẳng lưu cùng với nhân là giống nhau, tức có tạp loạn.

Nếu là quả dị thục, thì cùng với tướng của nhân là khác nhau, tức không có tạp loạn.

Số phi hữu tình cũng từ nghiệp sinh. Vì sao không nói là quả dị thục?

Điều này không nên vấn nạn. Vì chỉ quả có được của nghiệp không chung mới gọi là dị thục.

Vì sao phi tình, không phải chỉ là quả có được của nghiệp không chung?

Vì ngoài pháp phi tình, có thể trong ấy cùng thọ dụng.

Há không phải là phi tình được trụ nơi trời Đại Phạm là quả nghiệp riêng, cũng nên nói các thứ kia gọi là dị thục của nghiệp, vì sao lại nói là không phải?

Có thuyết nói như vầy: Trụ xứ của Đại Phạm là do tất cả nghiệp của Đại Phạm tăng thượng sinh.

Có thuyết khác cho: Trụ xứ của Đại Phạm là cùng nối tiếp chưa hoại. Trụ xứ còn lại có thể ở trong ấy có lý thọ dụng, nên không phải là không chung.

Vì sao nghiệp của vô lượng hữu tình đã cùng chiêu cảm một vật?

Há không phải như đã nói: Ngoài pháp phi tình, có thể ở trong ấy cùng thọ dụng?

Nếu quả của phi tình được chiêu cảm do nghiệp không chung, tức nên tùy theo dị thục cùng thời khởi hết. Lại, thế gian hiện thấy, khi quốc chủ qua đời thì quốc độ của vua đã trị vì cũng cùng nối tiếp tồn tại. Nếu nước của vua đã cai trị chỉ do nghiệp của chủ chiêu cảm, không phải do nghiệp của hữu tình khác cùng chiêu cảm, thì các hữu tình khác tức nên không thể ở trong ấy thọ dụng. Lại, nếu do nghiệp riêng của phi tình đã chiêu cảm tức nên mỗi mỗi nơi chốn cư trú của thân hữu tình như nhà cửa, vườn rừng, ao hồ, thành quách, núi sông, thảy đều khác nhau. Nhưng thật sự thì không như vậy. Nên biết một vật đã được cùng chiêu cảm do nghiệp của vô lượng hữu tình.

Há không phải vì thể của nghiệp có vô số thứ, nên không thể chiêu cảm quả không có vô số thứ, vì sao có thể nói là nhiều nghiệp của vô lượng hữu tình, đồng chiêu cảm một vật phi tình? Không có lỗi như thế. Ví như mầm cây v.v… Quán xét nhân tự loại mà thành một. Nghĩa là như mầm cây v.v…, tuy nhân nơi các sức như đất, nước, thời gian, nhân công, phân v.v… mới sinh khởi, nhưng vì quán về nhân của tự loại, nên thành một. Không phải vì quán các nhân như đất v.v… nên thành nhiều.

Phi tình như thế, vì quán xét về tự nhân, nên thể thành một vật, không phải do quán xét về vô lượng nghiệp của hữu tình kia nên thể của chúng thành nhiều.

Lại, nhận thấy ở thế gian không phải vô số thứ nghiệp sinh vô số thứ quả.

Vì sao không thừa nhận vô số thứ nghiệp sinh không phải vô số thứ quả?

Do nghiệp đã được chiêu cảm ở trong quả của phi tình.

Có nhân nào dùng nghiệp ở nơi quả của phi tình kia làm nhân năng tác?

Có. Như trước đã biện.

Như thế là đã biện về tướng của quả dị thục. Tướng của quả đẳng lưu, nay tiếp theo sẽ biện. Pháp giống với tự nhân, gọi là quả đẳng lưu. Nghĩa là giống với hai nhân: đồng loại, biến hành. Như nhân đồng loại có thiện, nhiễm, vô ký, quả đẳng lưu kia, tướng của chúng cũng như thế. Như nhân biến hành chỉ là nhiễm ô, quả đẳng lưu kia, tướng của nói cũng như thế.

Há không phải là tánh của quả sĩ dụng cùng khởi, cũng giống với tự nhân? Vì sao có thể nói pháp giống với tự nhân, gọi là quả đẳng lưu? Không có quả đẳng lưu nào không giống với tự nhân. Nhưng có quả sĩ dụng cùng với tự nhân là khác. Cho nên pháp giống với tự nhân, gọi là quả đẳng lưu, nhất định không có lỗi lẫn lộn với quả sĩ dụng kia.

Há không phải cũng có nhân của quả đẳng lưu, như nhân biến hành ở nơi Dị bộ dùng pháp của Dị bộ làm quả đẳng lưu. Đẳng lưu của bộ kẻ khác, tánh của nhân nơi bộ mình, vì đồng nhiễm ô, nên không phải là không giống nhau. Tánh của quả sĩ dụng kia cũng có khác. Thế nên cùng với nhân không phải nhất định tương tợ.

Có Sư khác giải thích: Nói giống với tự nhân: Nghĩa là quả cùng với nhân, đủ hai sự giống nhau: (1) Loại thể giống. (2) Loại tánh giống

Nói loại thể: Nghĩa là thọ, tưởng v.v… Nói loại tánh: Nghĩa là thiện, nhiễm v.v… Nếu ở trong quả sĩ dụng cùng khởi, thì loại tánh tuy đồng, nhưng thể tất có khác, vì quả sĩ dụng như thọ, không phải thọ v.v… Nếu ở trong quả sĩ dụng khởi sau, thì loại thể, loại tánh đều cùng có khác, nên không thể nói quả nhất định giống với nhân.

Nếu là quả đẳng lưu thì tánh tất giống với nhân. Ở trong đó cũng có Thể giống với nhân. Nghĩa là chỉ quả đẳng lưu nhất định giống với tự nhân, nên giống với nhân, là không có lỗi cùng lẫn lộn.

Nếu nhân biến hành cũng được quả đẳng lưu, thì vì sao không thừa nhận quả này tức gọi là nhân đồng loại? Ở quả của tự bộ, thực sự là nhân đồng loại, nếu đối chiếu với bộ khác, thì chỉ là biến hành không phải là đồng loại. Nhưng pháp không phải biến hành, thì tùy theo loại tánh kia, đều đối chiếu với tự bộ, chỉ là nhân đồng loại. Nếu các pháp biến hành đối chiếu với bộ khác đồng với loại nhiễm ô, thì chỉ là nhân biến hành. Nhân này đối chiếu với tự bộ có đủ nghĩa của hai nhân, nên nhân biến hành tuy được quả đẳng lưu, nhưng không thể thừa nhận, tức gọi là nhân đồng loại.

Như thế là đã biện về tướng của quả đẳng lưu. Tướng của quả ly hệ, nay tiếp theo sẽ biện.

Do pháp của tuệ hết, gọi là quả ly hệ. Diệt nên gọi là tận. Trạch nên gọi là tuệ. Tức nói trạch diệt gọi là quả ly hệ. Do trạch (lựa chọn) làm nhân, lìa các thứ trói buộc, chứng đắc diệt này, nên gọi là quả.

Như thế là đã biện về tướng của quả ly hệ. Tướng của quả sĩ dụng, nay tiếp theo sẽ biện.

Nếu pháp nhân nơi uy lực của pháp kia nên được sinh, tức nói pháp này gọi là quả sĩ dụng. Quả này có bốn thứ: Cùng sinh, vô gián, cách vượt và không sinh, như trước đã nói.

Nói cùng sinh: Nghĩa là đồng một thời, lại cùng được sức của nhân khiến sinh khởi.

Nói vô gián: Nghĩa là tiếp theo thời gian sau, do sức của nhân nơi niệm trước nên được sinh khởi, như pháp thế đệ nhất sinh khổ pháp trí nhẫn.

Nói cách vượt: Nghĩa là thời gian cách xa, lần lượt được sức của nhân khiến sinh khởi. Như nông phu v.v… đối với các thứ lúa thóc v.v…

Nói không sinh: Nghĩa là Niết-bàn. Do sức của đạo vô gián đạt được. Quả này đã không sinh, vì sao có thể nói do sức của pháp kia sinh, nên gọi là quả sĩ dụng? Hiện thấy đối với đắc, cũng nói tên sinh. Như nói: Của cải của tôi sinh, là nghĩa tôi được của cải.

Nếu đạo vô gián đoạn trừ các tùy miên, đã chứng trạch diệt, thì trạch diệt như thế, gọi là quả ly hệ và quả sĩ dụng. Nếu đạo vô gián không đoạn trừ tùy miên, lại chứng trạch diệt đã chứng của thời xưa, thì trạch diệt như thế, không phải là quả ly hệ, chỉ là quả sĩ dụng. Nghĩa là người hoàn toàn chưa lìa tham của cõi dục, lúc nhập kiến đạo, khổ pháp trí nhẫn đoạn trừ mười tùy miên, đã chứng trạch diệt, thì trạch diệt như thế, gọi là quả ly hệ và quả sĩ dụng. Nếu là người hoàn toàn đã lìa tham của cõi dục, lúc nhập kiến đạo, khổ pháp trí nhẫn không đoạn trừ tùy miên, chứng đắc trạch diệt gốc, thì trạch diệt như thế, không phải là quả ly hệ, vì trước đã ly hệ tức chỉ là quả sĩ dụng. Do sức của nhẫn này, lại khởi đắc khác mà chứng lần nữa.

Nếu người đã lìa một phần tham của cõi dục, lúc nhập kiến đạo, khổ pháp trí nhẫn đối với mười tùy miên, có đoạn, không đoạn, đã chứng trạch diệt, có mới, có cũ, như thứ lớp ấy là hai quả, một quả. Như thế, cho đến đạo pháp trí nhẫn. Nếu người hoàn toàn chưa lìa, đã lìa từng phần lìa tham của cõi dục, đối với tám tùy miên, hoàn toàn đoạn, không đoạn, được từng phần, không đoạn, đã chứng trạch diệt, có mới, có cũ, cùng có mới cũ, như thứ lớp ấy là hai quả, một quả. Hai quả, một quả, nghĩa như trước đã giải thích. Nếu hoàn toàn chưa lìa tham của cõi sắc, vô sắc, lúc nhập kiến đạo, khổ loại trí nhẫn, đoạn mười tám tùy miên của cõi sắc, vô sắc, đã chứng trạch diệt, thì trạch diệt như thế, gọi là quả ly hệ và quả sĩ dụng. Nếu đã lìa một phần tham của cõi sắc, vô sắc, lúc nhập kiến đạo, khổ loại trí nhẫn đối với mười tám tùy miên của cõi sắc, vô sắc, có đoạn không đoạn, đã chứng trạch diệt, có mới có cũ, như thứ lớp ấy là hai quả, một quả.

Như thế, cho đến đạo loại trí nhẫn. Nếu hoàn toàn chưa lìa và đã lìa một phần tham của cõi sắc, vô sắc, đối với mười bốn tùy miên của cõi sắc, vô sắc, cũng có hoàn toàn đoạn, đoạn từng phần, không đoạn, đã chứng trạch diệt, có mới có cũ, như thứ lớp ấy, cũng có hai quả. Nghĩa của hai quả, một quả, như trước đã giải thích.

Ở trong tu đạo, các đạo vô gián đều tùy theo nghĩa của hai quả, một quả kia. Như đã so sánh, nên suy xét.

Như thế là đã biện về tướng của quả ly hệ.

Tướng của quả tăng thượng, nay tiếp theo sẽ biện. Các pháp hữu vi, trừ ở đời trước, hữu vi còn lại ấy là quả tăng thượng. Tất không có ít quả ở nơi nhân sinh trước. Quả ở nơi trước nhân thì quả này có lỗi gì?

Nếu pháp vị lai, quả của pháp ấy đã sinh, tức là vị lai đối tượng hành tác đã xong, vì không có công dụng, nên không sinh nữa. Không phải vốn không sinh mà có thể có diệt. Vì không sinh diệt, thì các hành nên là thường. Nếu cho các hành này nên như pháp không sinh, thì tuy không có sinh diệt, nhưng Thể không phải là thường. Phần biện hộ giúp này là không hợp lý. Vì thấy chủng loại của các hành kia là có sinh diệt, đối chiếu với pháp không sinh, có thể là vô thường. Nếu các hành xưa nay đều không có sinh diệt, thì đối chiếu với gì để có thể nói Thể của hành kia không phải là thường. Cho nên biện hộ giúp là không thành.

Hai quả tăng thượng và sĩ dụng có sai biệt, làm sao nên nhận biết?

Đối với người tạo tác, người thọ nhận có sai biệt nên biết có sai biệt. Tên của quả sĩ dụng, chỉ đối với người tạo tác. Tên của quả tăng thượng thì gồm luôn đối với người thọ nhận. Như lúa thóc v.v… đối với các nông phu, gọi là quả sĩ dụng. Do sức của nông phu kia sinh, nên cũng là quả tăng thượng. Vì sự thọ dụng kia, nên chỉ đối với người thọ nhận thì chỉ là quả tăng thượng, không phải sức của nông phu kia sinh, vì họ thọ dụng. Công thợ đã thành. Đối với các công thợ cùng đối với không phải công thợ là hai quả, một quả. Dựa theo như trên nên biết. Pháp còn lại đối chiếu đều như thế.

Trong sáu thứ nhân đã nói ở trên, nơi phần vị nào, nhân nào nhận lấy quả và cho quả?

Tụng nêu:

Năm nhân quả chỉ hiện

Hai cho quả cũng thế

Quá, hiện cho hai nhân

Một cho chỉ quá khứ.

Luận nói: Năm nhân nhận lấy quả, chỉ ở nơi hiện tại, nhất định không phải quá khứ. Vì quá khứ kia đã nhận lấy. Cũng không phải vị lai, vì vị lai kia không có dụng. Nói nhận lấy quả: Là nghĩa khả năng dẫn. Nghĩa là dẫn dắt vị lai, khiến pháp kia sinh v.v… Đối với loại thể đồng, có thể làm chủng tử. Đối với loại thể khác, do đồng một quả. Đối với không phải một quả, do loại tánh đồng. Đối với loại tánh khác nhưng do có, là vì tự tụ cùng nối tiếp. Thế nên tất cả đều gọi khả năng dẫn.

Khả năng dẫn như thế, gọi là nhận lấy quả. Công dụng nhận lấy quả này chỉ ở hiện tại có, không phải ở nơi quá khứ, vị lai. Chỉ nhận lấy quả này, có thể gọi là tác dụng của hữu vi.

Ở trong sáu nhân đã phân biệt loại bỏ nhân nào mà nói là năm nhân?

Chỉ hiện tại nhận lấy quả. Nghĩa là trong sáu nhân, trừ nhân năng tác. Nhân năng tác này vì sao bị phân biệt?

Có Sư khác cho: Nhân năng tác này khi nhận lấy quả, cùng cho quả thì không quyết định, nên trong nhận lấy và cho đều không phân biệt.

Thuyết kia là phi lý. Vì sao? Vì nhân này nhận lấy quả đều ở hiện tại. Lại, không phải không nhận lấy mà có nghĩa cho. Vì sao lại nói là thời gian không quyết định?

Nhưng nhân năng tác, có thể nhận lấy quả, nhất định chỉ ở hiện tại, còn cho quả thì chung ở quá khứ, hiện tại. Nên như hai nhân đồng loại, biến hành, song không phải tất cả có quả tăng thượng, có thể nhận lấy hoặc cho, nên ở đây không nói.

Há không phải là nhân này công dụng co nhận lấy quả cũng chung cả quá khứ. Vì sao vừa nói: Có thể nhận lấy quả, nhất định chỉ ở hiện tại?

Nên trong Bản luận đã nói như thế này: Các pháp quá khứ làm đẳng vô gián, có thể sinh hai tâm. Nếu tâm xuất định vô tưởng diệt tận, do tâm nhập định. Hiện tại nhận lấy, tức nên hai định vĩnh viễn không hiện tiền.

Lại, không phải không nhận lấy mà có nghĩa cho, thế nên nhận lấy quả cũng chung nơi quá khứ.

Không có sự việc như thế. Tâm nhập hai định, chỉ là thời hiện tại, có thể nhận lấy quả của tâm nhập và xuất hai định. Tuy nhiên, do hai định là đối tượng đang cầu đạt, tất nên khởi trước. Do ở đây bị chướng ngại, khiến tâm xuất định không phải là ở nơi tâm nhập vô gián tức khởi. (Nghĩa này nơi phần sau sẽ lại phân biệt). Nên ở trên đã nói: Nhân này nhận lấy quả đều ở hiện tại. Lại, không phải không nhận lấy mà có nghĩa cho, lý ấy cực thành. Nhưng Tỳ-bà-sa đã nói như thế này: Nhân năng tác kia nhận lấy quả, cho quả, đều cùng chung nơi quá khứ, hiện tại.

Về lý thì không nên như thế. Vì pháp ở hiện tại, cũng như hai nhân đồng loại, biến hành, nhận lấy chung vị lai làm tự quả. Nhân câu hữu tương ưng cho quả cũng thế, chỉ ở nơi hiện tại. Do hai nhân này nhận lấy quả cùng cho quả, tất đều cùng thời. Hai nhân đồng loại, biến hành cho quả, là chung nơi quá khứ, hiện tại. Trong nhân năng tác có các quả tức nên nói đồng với hai nhân này. Nhưng vì không phải tất cả đều cùng có quả, nên ở đây không luận về hai nhân đồng loại, biến hành cho quả.

Quá khứ có thể như thế, còn hiện tại thì cho quả đẳng lưu như thế nào?

Vì có quả đẳng lưu vô gián sinh. Nghĩa là hai nhân này có quả đẳng lưu vô gián sinh. Tức nơi thời hiện tại, đối với quả vô gián, cũng nhận lấy, cũng cho. Quả này sinh, nhân dứt ở nơi quá khứ, gọi đã nhận lấy, cho. Nếu hai nhân này diệt đi đến quá khứ thì quả đẳng lưu kia mới đến lúc sinh, tức là hai nhân này ở nơi quả đang sinh, trước nhận lấy, nay cho.

Nói cho quả: Nghĩa là các nhân này đang cùng với sức của quả kia, khiến quả kia sinh v.v… Nhân năng tác này đang ở nơi hiện tại, quả tăng thượng kia có hiện đã sinh. Như nhãn căn v.v… làm nhân năng tác, sinh nhãn thức v.v… Các quả tăng thượng có vô gián sinh. Như pháp thế đệ nhất v.v… làm nhân năng tác sinh khổ pháp trí nhẫn v.v… Các quả tăng thượng có cách vượt sinh, như căn thiện v.v… của thuận phần giải thoát, làm nhân năng tác, sinh tận trí v.v… của Bồ-đề nơi ba thừa. Các quả tăng thượng nơi nhân đồng loại thiện, có lúc nhận lấy quả mà không cho quả. Nên nêu ra bốn trường hợp.

Trường hợp thứ nhất: Nghĩa là khi đoạn căn thiện, sau cùng đã bỏ và đạt được.

Trường hợp thứ hai: Nghĩa là khi căn thiện nối tiếp, chỗ đắc đầu tiên đã đạt được. Kinh chủ ở đây đã lầm khi nói lời này. Nên nói bấy giờ là nối tiếp phần đắc trước kia. Nay đã rõ là thuyết kia về lý không ứng hợp. Vì sao? Vì không phải chỉ ở nơi phần vị đoạn, đã xả bỏ sau cùng, đắc cùng với thời hiện nay nối tiếp, là quả đẳng lưu đầu tiên đạt được. Do ở phần vị đoạn, đắc của trước đã diệt, cũng cùng với thời gian nối tiếp đạt được đẳng lưu.

Vì sao nơi nhiều sát-na của phần vị trước đắc làm nhân đồng loại, đều nhận lấy đắc hiện nay, nhưng ở vào thời hiện nay, chỉ nói một sát-na sau cùng đắc cho quả đắc hiện nay?

Vì thế nên như Bản văn là tốt nhất.

Trường hợp thứ ba: Nghĩa là không đoạn căn thiện, ở nơi các phần vị còn lại.

Trường hợp thứ tư: Nghĩa là trừ các tướng nêu trước.

Lại, ở trong nhân đồng loại bất thiện cũng có bốn trường hợp:

Trường hợp thứ nhất: Nghĩa là khi lìa dục tham, sau cùng đã xả đắc.

Trường hợp thứ hai: Nghĩa là khi thoái chuyển sự lìa dục, đầu tiên đã được đắc. Ở đây Kinh chủ cũng nói thế này: Nên nói là bấy giờ người thoái chuyển đã thoái thất phần đắc trước kia. Nay xem rõ thuyết ấy, về lý cũng không đúng, do có lỗi như trước đã nói.

Trường hợp thứ ba: Nghĩa là chưa lìa dục tham ở nơi các phần vị còn lại.

Trường hợp thứ tư: Nghĩa là trừ các tướng nêu trước.

Trong nhân đồng loại hữu phú vô ký cũng có bốn trường hợp: Đối với A-la-hán, lúc đắc, lúc thoái, chưa đắc và pháp còn lại, như lý nên nêu bày.

Trong nhân đồng loại vô phú vô ký, có thuận với trường hợp sau. Nghĩa là khi cho quả tất cũng nhận lấy quả. Vô phú vô ký làm nhân đồng loại, cho đến Niết-bàn, là luôn cùng nối tiếp. Hoặc có khi nhận lấy quả mà không cho quả. Nghĩa là các uẩn sau cùng của A-la-hán.

Căn cứ nơi sát-na sai biệt có đối tượng duyên, nhân đồng loại thiện, nên tạo ra bốn trường hợp.

Trường hợp thứ nhất: Nghĩa là tâm thiện vô gián, khởi tâm nhiễm vô ký.

Trường hợp thứ hai: Nghĩa là cùng với trên là trái nhau.

Trường hợp thứ ba: Nghĩa là tâm thiện vô gián trở lại khởi tâm thiện

Trường hợp thứ tư: Nghĩa là trừ các tướng nêu trước.

Tâm bất thiện v.v… như chỗ ứng hợp của nó, cũng có bốn trường hợp. Nêu dẫn đối trị theo đây nên nói. Dị thục cho quả chỉ ở nơi quá khứ, do quả dị thục không cùng với nhân cùng có, hoặc vô gián.

Các Sư phương Tây nói quả có chín: Ngoài năm quả nêu trước, lập riêng bốn quả.

1. Quả gia hạnh. Nghĩa là như vô sinh trí v.v… xa là các quả như bất tịnh v.v…

2. Quả an lập. Nghĩa là như thủy luân là quả của phong luân, cho đến cây cỏ v.v… là quả của đại địa. Như thế tất cả pháp của đối tượng an lập nên biết đều là quả của chủ thể an lập.

3. Quả hòa hợp. Nghĩa là như mầm v.v… là quả của thời gian, đất, nước, hạt giống v.v… Và như nhãn thức v.v… là quả của mắt, sắc, ánh sáng, tác ý v.v…

4. Quả tu tập. Nghĩa là như tâm biến hóa v.v… là quả của các tĩnh lự.

Bốn quả như thế đều thuộc về quả sĩ dụng, tăng thượng. Do đấy nên nói quả chỉ có năm.

Nói về nhân quả xong, lại nên xét chọn.

Trong đây pháp nào có bao nhiêu nhân đã sinh?

Nên biết pháp trong đây lược có bốn: Nghĩa là pháp nhiễm ô, pháp dị thục sinh, pháp vô lậu đầu tiên, pháp còn lại ngoài ba pháp trước. Pháp còn lại là gì? Nghĩa là trừ dị thục, còn lại là pháp vô ký. Trừ vô lậu đầu tiên, còn lại là các pháp thiện. Bốn pháp như thế, tụng nêu:

Nhiễm ô: dị thục sinh

Khác, Thánh đầu, như tiếp

Trừ dị thục, biến hai

Và đồng loại khác sinh

Đây là tâm tâm sở

Khác và trừ, tương ưng.

Luận nói: Các pháp nhiễm ô, trừ nhân dị thục, do năm nhân còn lại sinh. Vì nhân dị thục đã sinh các pháp, không phải là nhiễm ô. Pháp dị thục sinh, trừ nhân biến hành, do năm nhân còn lại sinh. Vì nhân biến hành đã sinh các pháp, chỉ là nhiễm ô. Pháp còn lại ngoài ba pháp trước, cùng trừ hai nhân dị thục, biến hành, do bốn nhân còn lại sinh. Do pháp ấy không phải là tánh dị thục và không phải là nhiễm ô. Pháp vô lậu đầu tiên trừ nhân đồng loại, cùng nói là hiển bày, cũng trừ hai nhân dị thục, biến hành, tức do ba nhân còn lại sinh. Do pháp vô lậu đầu tiên, không có pháp đồng loại sinh trước và là thiện.

Có Sư nói khác cho: Trong đây, nên nói các pháp nhiễm ô chỉ do bốn nhân sinh. Vì sao? Vì thể của nhân biến hành, nếu lìa nhân đồng loại, thì không có tánh riêng.

Sư kia nói phi lý. Vì sao? Vì nếu pháp nhiễm ô kia không nói là nhân biến hành, tức là không nói về nhân nhiễm của bộ khác. Nếu pháp nhiễm ô kia không nói là nhân đồng loại tức là không nói về pháp không phải biến hành và biến hành đạt được nhân của các pháp nhiễm. Nhưng thật ra, tham cùng với tham cùng làm nhân. Đắc do nhân của đắc mà được sinh khởi. Nên pháp nhiễm ô trừ nhân dị thục, do năm nhân còn lại sinh. Thuyết này hợp lý.

Bốn pháp như thế là nói về những gì?

Nên biết chỉ là tâm tâm sở pháp.

Nếu như vậy thì bất tương ưng hành còn lại và bốn pháp sắc, lại có bao nhiêu nhân sinh? Như tâm tâm sở, ngoài nhân đã trừ và trừ nhân tương ưng, nên biết pháp còn lại do từ bốn, ba, hai nhân còn lại sinh. Nghĩa là sắc nhiễm ô, bất tương ưng hành, như tâm tâm sở, trừ nhân dị thục và trừ nhân tương ưng, tức do bốn nhân còn lại sinh. Sắc dị thục sinh, bất tương ưng hành, như tâm tâm sở, trừ nhân biến hành và nhân tương ưng, do bốn nhân còn lại sinh. Sắc còn lại ngoài ba pháp trước, bất tương ưng hành, như tâm tâm sở, cùng trừ hai nhân dị thục, biến hành và trừ nhân tương ưng, do ba nhân còn lại sinh. Sắc vô lậu đầu tiên, bất tương ưng hành, như tâm tâm sở, trừ ba nhân trước và trừ nhân tương ưng, do hai nhân còn lại sinh. Một nhân sinh pháp, quyết định là không có. Nay nên xét chọn.

Trong tất cả pháp, pháp nào có thể làm tự tánh của bao nhiêu nhân?

Nghĩa là hoặc có pháp có thể làm đầy đủ tự tánh của sáu nhân. Thứ lớp cho đến có pháp có thể làm tự tánh của một nhân. Trong đây có pháp có thể làm đầy đủ tự tánh của sáu nhân: Nghĩa là các tâm tâm sở pháp biến hành bất thiện của quá khứ, hiện tại.

Có pháp có thể làm tự tánh của năm nhân: Nghĩa là các tâm tâm sở pháp phi biến hành bất thiện của quá khứ, hiện tại. Hoặc tâm tâm sở pháp biến hành vô ký. Hoặc tâm tâm sở pháp thiện hữu lậu. Hoặc bất tương ưng hành, biến hành bất thiện.

Có pháp có thể làm tự tánh của bốn nhân: Nghĩa là các sắc pháp bất thiện của quá khứ, hiện tại. Hoặc sắc thiện hữu lậu, tâm bất tương ưng hành. Hoặc tâm bất tương ưng hành, phi biến hành bất thiện. Hoặc tâm bất tương ưng hành biến hành vô ký. Hoặc tâm tâm sở pháp phi biến hành vô ký. Hoặc các tâm tâm sở pháp vô lậu. Hoặc các tâm tâm sở pháp thiện hữu lậu, bất thiện của vị lai.

Có pháp có thể làm tự tánh của ba nhân: Nghĩa là các sắc pháp vô ký của quá khứ, hiện tại. Hoặc tâm bất tương ưng hành phi biến hành vô ký. Hoặc tâm bất tương ưng hành của sắc vô lậu. Hoặc tâm bất tương ưng hành của sắc thiện hữu lậu và bất thiện của vị lai. Hoặc tâm tâm sở pháp vô lậu, vô ký.

Có pháp có thể làm tự tánh của hai nhân: Nghĩa là các tâm bất tương ưng hành của sắc vô lậu, vô ký ở vị lai.

Có pháp có thể làm tự tánh của một nhân: Nghĩa là pháp vô vi. Không pháp không nhân. Có pháp không phải quả. Đó là hư không và phi trạch diệt. Lại nên xét chọn.

Sáu nhân như thế, tự tánh cùng đối chiếu, có thuần, có tạp. Lại, nhân năng tác đối chiếu với nhân câu hữu, là thuận với trường hợp sau. Nghĩa là nhân câu hữu tất có xen tạp với nhân năng tác. Có nhân năng tác là thuần, không phải là nhân câu hữu. Nghĩa là pháp vô vi. Lại, nhân năng tác đối chiếu với nhân đồng loại, cũng thuận với trường hợp sau. Nghĩa là nhân đồng loại, tất xen tạp với nhân năng tác. Có nhân năng tác là thuần, không phải là nhân đồng loại. Nghĩa là pháp vị lai và pháp vô vi.

Lại, nhân năng tác đối chiếu với nhân tương ưng, cũng thuận với trường hợp sau. Nghĩa là nhân tương ưng tất có xen tạp với nhân năng tác. Có nhân năng tác là thuần không phải là nhân tương ưng. Tức là các sắc pháp, bất tương ưng hành và pháp vô vi.

Lại, nhân năng tác đối chiếu với nhân biến hành, cũng thuận với trường hợp sau. Nghĩa là nhân biến hành tất có xen tạp với nhân năng tác. Có nhân năng tác là thuần không phải là nhân biến hành. Tức là pháp vị lai, pháp không phải là biến hành của quá khứ, hiện tại và pháp vô vi.

Lại, nhân năng tác đối chiếu với nhân dị thục cũng thuận với trường hợp sau. Nghĩa là nhân dị thục tất có xen tạp với nhân năng tác. Có nhân năng tác là thuần, không phải là nhân dị thục. Tức là pháp vô ký và pháp vô lậu.

Nếu nhân câu hữu đối chiếu với nhân đồng loại, là thuận trường hợp sau. Nghĩa là nhân đồng loại tất có xen tạp với nhân câu hữu. Có nhân câu hữu là thuần không phải là nhân đồng loại. Tức là pháp vị lai.

Nếu nhân câu hữu đối chiếu với nhân tương ưng, cũng thuận với trường hợp sau. Nghĩa là nhân tương ưng tất có xen tạp với nhân câu hữu. Có nhân câu hữu là thuần, không phải là nhân tương ưng. Tức là các sắc pháp, bất tương ưng hành.

Lại, nhân câu hữu đối chiếu với nhân biến hành, cũng thuận với trường hợp sau. Nghĩa là nhân biến hành tất có xen tạp với nhân câu hữu. Có nhân câu hữu là thuần, không phải là nhân biến hành. Tức là pháp vị lai, pháp không phải biến hành của quá khứ, hiện tại.

Lại, nhân câu hữu đối chiếu với nhân dị thục cũng thuận với trường hợp sau. Nghĩa là nhân dị thục tất có xen tạp với nhân câu hữu. Có nhân câu hữu là thuần, không phải là nhân dị thục. Tức là pháp vô lậu, vô ký trong các hữu vi.

Nếu nhân đồng loại đối chiếu với nhân tương ưng, nên nêu ra bốn trường hợp: Trường hợp thứ nhất: Nghĩa là sắc quá khứ, hiện tại, bất tương ưng hành. Trường hợp thứ hai: Nghĩa là tâm tâm sở pháp của đời vị lai. Trường hợp thứ ba: Nghĩa là tâm tâm sở pháp của đời quá khứ, hiện tại. Trường hợp thứ tư: Nghĩa là bất tương ưng hành, sắc vị lai và pháp vô vi.

Lại, nhân đồng loại đối chiếu với nhân biến hành, là thuận với trường hợp sau. Nghĩa là nhân biến hành tất có xen tạp với nhân đồng loại. Có nhân đồng loại là thuần, không phải là nhân biến hành. Tức là pháp không phải là biến hành của đời quá khứ, hiện tại.

Lại, nhân đồng loại đối chiếu với nhân dị thục, nên nêu ra bốn trường hợp: Trường hợp thứ nhất: Nghĩa là pháp vô lậu, vô ký của quá khứ, hiện tại. Trường hợp thứ hai: Nghĩa là pháp thiện hữu lậu và pháp bất thiện của vị lai. Trường hợp thứ ba: Nghĩa là pháp thiện hữu lậu và pháp bất thiện của quá khứ, hiện tại. Trường hợp thứ tư: Nghĩa là pháp vô lậu, vô ký của đời vị lai và pháp vô vi.

Nếu nhân tương ưng đối chiếu với nhân biến hành nên nêu ra bốn trường hợp: Trường hợp thứ nhất: Nghĩa là tâm tâm sở pháp của đời vị lai. Tâm tâm sở pháp phi biến của quá khứ, hiện tại. Trường hợp thứ hai: Nghĩa là bất tương ưng hành biến hành của quá khứ, hiện tại. Trường hợp thứ ba: Nghĩa là tâm tâm sở pháp biến hành của quá khứ, hiện tại. Trường hợp thứ tư: Nghĩa là các sắc pháp, tất cả bất tương ưng hành của vị lai, bất tương ưng hành không phải biến hành của quá khứ, hiện tại và pháp vô vi.

Lại, nhân tương ưng đối chiếu với nhân dị thục cũng nêu ra bốn trường hợp: Trường hợp thứ nhất: Nghĩa là tâm tâm sở pháp vô lậu, vô ký. Trường hợp thứ hai: Nghĩa là sắc thiện hữu lậu, bất thiện, bất tương ưng hành. Trường hợp thứ ba: Nghĩa là tâm tâm sở pháp thiện hữu lậu, bất thiện. Trường hợp thứ tư: Nghĩa là sắc vô lậu vô ký bất tương ưng hành và pháp vô vi.

Nếu nhân biến hành đối chiếu với nhân dị thục nên nêu ra bốn trường hợp: Trường hợp thứ nhất: Nghĩa là pháp biến hành vô ký của quá khứ, hiện tại. Trường hợp thứ hai: Nghĩa là pháp thiện hữu lậu và pháp bất thiện của vị lai. Pháp không phải biến hành, thiện hữu lậu, bất thiện của quá khứ, hiện tại. Trường hợp thứ ba: Nghĩa là pháp biến hành bất thiện của quá khứ, hiện tại. Trường hợp thứ tư: Nghĩa là pháp vô lậu, vô ký của đời vị lai, pháp không phải biến hành vô ký vô lậu của quá khứ hiện tại và pháp vô vi.

Lại, nên xét chọn. Sáu nhân như thế, các môn như sắc, phi sắc v.v… có sb. Nghĩa là trong sáu nhân thì hai nhân tương ưng, biến hành là phi sắc. Bốn nhân còn lại là chung nơi sắc, phi sắc. Có thấy, không thấy, có đối, không đối, nên biết cũng như thế.

Lại, trong sáu nhân, chỉ nhân tương ưng chỉ là pháp tương ưng. Các nhân còn lại thì chung nơi pháp tương ưng và bất tương ưng. Có chỗ dựa, không có chỗ dựa, có phát ngộ, không có phát ngộ, có hành tướng, không có hành tướng, có đối tượng duyên, không có đối tượng duyên, nên biết cũng như thế.

Lại trong sáu nhân thì hai nhân dị thục, biến hành chỉ là hữu lậu. Bốn nhân còn lại là chung cả hữu lậu, vô lậu. Lại, trong sáu nhân thì một nhân năng tác là chung nơi hữu vi, vô vi. Năm nhân còn lại hoàn toàn là hữu vi. Lai, trong sáu nhân thì một nhân biến hành chỉ là nhiễm. Năm nhân còn lại thì chung cho nhiễm, không nhiễm. Có tội, không tội, đen, trắng, hữu phú, vô phú, thuận với thoái chuyển, không thuận với thoái chuyển, nên biết cũng như vậy.

Lại, trong sáu nhân thì một nhân dị thục chỉ có dị thục. Năm nhân còn lại là chung cả có dị thục và không có dị thục.

Lại, trong sáu nhân thì một nhân năng tác là chung nơi ba đời và không phải đời. Ba nhân câu hữu, tương ưng, dị thục đều chung nơi ba đời. Hai nhân đồng loại, biến hành chỉ chung nơi quá khứ, hiện tại.

Lại, trong sáu nhân thì một nhân biến hành là bất thiện, vô ký. Một nhân dị thục thì chung cho thiện, bất thiện. Bốn nhân còn lại đều chung nơi ba tánh.

Lại, trong sáu nhân thì hai nhân dị thục, biến hành là hệ thuộc chung nơi ba còi. Bốn nhân còn lại thì hệ thuộc chung nơi ba cõi và không hệ thuộc.

Lại, trong sáu nhân thì hai nhân biến hành, dị thục chỉ là phi học phi vô học. Bốn nhân còn lại đều chung cho ba loại.

Lại, trong sáu nhân thì một nhân biến hành chỉ là do kiến đạo đoạn. Một nhân dị thục thì chung do kiến đạo, tu đạo đoạn. Bốn nhân còn lại là chung cho kiến đạo, tu đạo đoạn và không đoạn.

Lại, trong sáu nhân thì một nhân năng tác là thuộc chung về bốn đế và không thuộc về đế. Hai nhân biến hành và dị thục thì chỉ thuộc chung về khổ đế, tập đế. Ba nhân còn lại thì thuộc chung về ba đế khổ, tập, đạo.

Lại, trong sáu nhân thì hai nhân tương ưng, biến hành chỉ thuộc về bốn uẩn. Ba nhân câu hữu, đồng loại, dị thục thì thuộc chung về năm uẩn. Một nhân năng tác thì thuộc chung về năm uẩn và không thuộc về uẩn.

Lại, trong sáu nhân thì hai nhân tương ưng, biến hành là thuộc về ý xứ, pháp xứ. Một nhân dị thục là thuộc về bốn xứ sắc, thanh, ý, pháp. Ba nhân còn lại thuộc về mười hai xứ.

Lại, trong sáu nhân thì một nhân biến hành là thuộc về ba giới: ý giới, pháp giới, ý thức giới. Một nhân tương ưng thì thuộc chung về bảy tâm giới, pháp giới. Một nhân dị thục thì thuộc chung về sắc giới, thanh giới và bảy tâm giới, pháp giới. Ba nhân còn lại là thuộc về mười tám giới.

Các tướng sai biệt của những thứ nhân quả này, không phải là bậc Nhất thiết trí thì không thể nhận biết khắp.

Chúng tôi đã tùy theo đối tượng hành của tuệ giác, trong nghĩa nhân quả, đã biện rộng về tướng của chúng. Nhằm làm sáng tỏ lần nữa nên xét chọn về các duyên. Những gì là các duyên?

Tụng nêu:

Nói có bốn thứ duyên

Nhân duyên: tánh năm nhân

Đẳng vô gián, không sau

Tâm tâm sở đã sinh

Sở duyên tất cả pháp

Tăng thượng, tức năng tác.

Luận nói: Ở nơi xứ nào nói? Nghĩa là trong Khế kinh. Như trong Khế kinh nói về tánh của bốn duyên. Nghĩa là tánh nhân duyên, tánh đẳng vô gián duyên, tánh sở duyên duyên và tánh tăng thượng duyên.

Trong đây, tánh của duyên tức là bốn duyên. Như bốn chốn cư trú, tức là tánh của chốn cư trú.

Vì nhằm làm rõ chủng loại, nên nói chữ tánh, ý là biện về các duyên, tùy sự có sai biệt, nên có vô lượng Thể. Nhưng thâu tóm nghĩa ấy đều gồm thâu vào trong bốn chủng loại. Nghĩa là tất cả duyên đều không vượt qua tánh này.

Ở trong sáu nhân, trừ nhân năng tác, năm nhân còn lại là tánh của nhân duyên. Như Bản luận nói: Thế nào là nhân duyên? Nghĩa là tất cả pháp hữu vi. Luận đã không nói là cũng gồm thâu vô vi, nên lập năm nhân làm tánh của nhân duyên.

Vô vi vì sao không lập làm nhân duyên?

Nghĩa này như trước đã giải thích. Chỉ trụ không có chướng ngại, lập làm nhân năng tác, không phải thuộc về nhân khác. Thể của nhân năng tác thâu tóm pháp trọn khắp. Tùy theo sự bất đồng, nên có nhiều thứ sai biệt. Ví như hành uẩn là pháp giới, pháp xứ, pháp bảo, pháp quy, pháp niệm trụ v.v… Vì gồm thâu pháp rất nhiều nên lập riêng tên chung. Vì thâu tóm năm nhân và nghĩa đã không gồm thâu nơi tánh của ba duyên, lập nhân năng tác và tăng thượng duyên, vì thể đều cùng rộng.

Lại, tướng của các nhân có sai biệt như thế nào?

Tướng sai biệt của các nhân lược có hai thứ: (1) Nhân sinh. (2) Nhân liễu.

Lại có hai thứ: (1) Nhân định. (2) Nhân bất định.

Lại có hai thứ: (1) Nhân chung. (2) Nhân không chung.

Lại có hai thứ: (1) Nhân gần. (2) Nhân xa.

Lại có hai thứ: (1) Nhân sinh trước. (2) Nhân cùng khởi.

Lại có hai thứ: (1) Nhân tự tha cùng nối tiếp. (2) Nhân của số phi hữu tình.

Tuy tánh của các pháp là vốn có, không phải là không có, nhưng công dụng thành, tất phải chờ đợi sức của nhân. Như thể của các sắc được tạo vốn không phải là không có, nhưng công dụng thành, tất phải nhân nơi đại chủng. Phần hơn hẳn trong nhân kia, chỉ là năm nhân. Như nhân hơn hẳn của sắc được tạo là không có năm. Không có pháp hữu vi nào thành tựu mà không do nhân. Như người bệnh gầy ốm không thể tự đứng dậy.

Do nghĩa như thế, nên nói tụng:

Không ít thành lập không do nhân

Tất cả do nhân Phật đã nói

Các pháp nhân nhiều nhỏ khó hiểu

Đời mê liền cho chung không nhân.

Nhưng Thượng tọa nói: Tánh của nhân duyên: Nghĩa là từ lâu, tùy theo giới. Tức các hữu tình lần lượt cùng nối tiếp, có thể làm tánh của nhân. Thượng tọa kia cho, Đức Thế Tôn trong Khế kinh đã nói, nên biết Bổ-đặc-già-la như thế, pháp thiện ẩn mất, pháp ác xuất hiện, có tùy theo căn thiện cùng hành, chưa đoạn. Do chưa đoạn, nên từ căn thiện này cũng có thể sinh khởi nghĩa của căn thiện khác. Tùy thuận căn thiện cùng có, tức từ lâu là tùy theo giới, lần lượt cùng nối tiếp, có thể làm tánh của nhân. Các loại như vậy được gọi là nhân duyên. Ở đây cũng đồng với nghĩa của chủng tử do Kinh chủ đã chấp ở trước đã bị phá bỏ. Từ lâu tùy theo giới này, tức chủng tử kia gọi là sai biệt. Nay, nhân nơi nghĩa thuận tiện, tùy theo chỗ chấp kia, về danh nghĩa có khác, lại ngăn chận loại trừ rộng. Xem kiến giải tùy theo giới kia chỉ có hư ngôn. Suy cầu, nên hỏi về thể của chúng đều không thể được. Vì thế cũng không thể nói kiến giải này là lần lượt cùng nối tiếp có thể làm tánh của nhân. Các hữu cùng nối tiếp, lần lượt làm nhân, có Thể có thể đạt được, như sắc, thọ v.v…

Nếu cho từ lâu tùy theo giới, là có cùng nối tiếp, lần lượt làm nhân, nên như sắc v.v… có Thể có thể đạt được, thì đấy là tướng gì? Là vô số thứ pháp đã huân tập thành giới, dùng làm tướng kia. Điều này cũng khó nhận biết. Vì thể là sắc, cho đến là thức. Tùy theo giới, gọi là cũ, lâu nên là hữu vi. Tất cả ữu vi đều thuộc về năm uẩn. Thế nên nếu là có, tức ở trong tánh của năm uẩn như sắc v.v… tùy là một loại. Hoặc Thượng tọa kia, nên nói: Có hữu vi nào không phải thuộc về năm uẩn như sắc v.v…? Nhưng thể là có, có thể là cực thành, nên chỉ có ngôn thuyết đều không có thể thật.

Lại, cho từ lâu tùy theo giới không có Thể để có thể nhận biết, cũng như hợp hành, hòa hợp nên có v.v… Từ lâu tùy theo giới này, Thể là không thể nêu bày. Chỉ có thể nói là nghiệp phiền não đã huân tập sáu xứ, chiêu cảm quả sinh khác. Giới này không phải chỉ Thể không thể nói, chỉ chấp là có, cùng với lý là trái. Không phải là thể không thể nói là có đã cực thành, do các Bổ-đặc-già-la giả có thể nói như bình v.v…. là không có Thể riêng.

Nếu các pháp thật có như sắc, thọ v.v…, mỗi mỗi thứ đều có thể nói là có Thể riêng, không phải như từ lâu tùy theo giới có thể nói, cũng như Bổ-đặc-già-la giả có như bình v.v…, cũng không phải là pháp thật có, như sắc v.v… Vì thế không nên chấp các pháp ấy là có.

Đã như thế đâu có thể chấp làm nhân duyên. Lại nói tùy theo giới, không phải là Thánh giáo nói, chỉ là Thượng tọa chuyên lập tên gọi này. Lại, Thượng tọa kia thừa nhận các phiền não nghiệp nào đã huân tập sáu xứ, chiêu cảm quả sinh khác? Vì phiền não nghiệp đều cùng có sinh diệt, là về thời gian sau này cùng nối tiếp sinh hay là vô gián sinh dị thục?

Nếu phiền não nghiệp cùng sinh sáu xứ, có thể chiêu cảm quả, thì sáu xứ sau tức không có khả năng chiêu cảm quả, đều cũng nên như thế.

Há có thể chiêu cảm quả, tức nên chỉ phiền não nghiệp có khả năng chiêu cảm quả, thì đâu cần chấp sáu xứ, chiêu cảm quả sinh khác.

Lại, Thượng tọa kia không nên nhất định chấp. Mắt v.v… làm nhân hỗ trợ cho phiền não nghiệp cùng khởi. Người mù v.v… chỉ nhờ dựa vào duyên của phiền não nghiệp, cũng chiêu cảm sinh mắt, tai khác v.v…

Lại, nhân cùng với quả, đã thừa nhận cách vượt thành, đâu dùng chấp nhân này là từ lâu tùy theo giới. Nếu thời gian sau này cùng nối tiếp nơi sáu xứ, có thể chiêu cảm quả, tức cùng với phiền não nghiệp đều không tương ưng, vì sao huân tập nhân quả kia để có thể thành tùy theo giới, không phải nghĩa tương ưng của có, cùng với không có.

Há không phải là nhân quả đạt được có tương ưng cùng với tướng kia đồng khiến thành duyên, nên nói tướng kia đồng, về lý là không tương ưng. Do nói tướng kia là nêu rõ tướng của pháp kia tức nên nói tướng này cùng với tướng kia là đồng. Nhưng ở trong đây đã lược bỏ lời nói của tướng này. Phiền não nghiệp này cùng với thời gian sau kia cùng nối tiếp sáu xứ, loại tánh đều riêng khác. Làm sao cho tướng này cùng với tướng kia là đồng? Há được tương ưng, khiến thành tánh của duyên? Hoặc ý của Thượng tọa kia cho, phiền não nghiệp cùng có sáu xứ sắp diệt, cùng với sáu xứ sau, tướng của chúng là đồng, khiến thành duyên thì cũng không hợp lý. Tướng của sáu xứ trước ở vào lúc sắp diệt, thì thể sau chưa có. Vì thể chưa có, nên tướng kia cũng không có, đâu có tướng đồng, khiến thành tánh của duyên. Nên thuyết kia đã nói chỉ có hư ngôn. Nếu nói tướng kia là dựa vào sẽ có để nói, như thế gian nói nấu cơm, xay bột. Do sự việc kia là sẽ đến nên có là cực thành.

Dụ này là phi lý, vì cùng với Tông đã lập là cùng không thành. Lại dụ cùng với pháp, vì thế tục chấp nhận có, không chấp nhận có. Lại nên xét kỹ trước, thắng nghĩa nơi nấu xay là có tự tánh, hoặc loại khác nhau, vì rốt cùng là không có, cũng như hoa đốm nơi khoảng không, nên dụ cùng với Tông là không thành nghĩa như nhau.

Nếu căn cứ ở thế tục chấp nhận có nấu xay, thì dựa vào đấy tức có thể nói là nấu cơm, xay bột, không thừa nhận có pháp cùng với không có là tương đồng. Nên dụ này không chứng minh được sức mạnh của Tông. Nhưng cơm bột này không phải là sẽ có danh xưng để hiện có cực thành cơm cùng bột. Xem đây có thể nói: Đề-bà-đạtđa cùng với tướng này là đồng. Dụ về nấu cơm, xay bột thì không như thế, nên không tương ưng. Lại, cơm, bột đã nấu xay thành rồi thì nơi chốn ấy cùng nối tiếp cũng tồn tại, kia đây tương đồng, đều cùng hiện có thể đạt được.

Sáu xứ của niệm sau, đến lúc đã sinh, bấy giờ đã không có sáu xứ của niệm trước, nên không thể nói kia đây là tương đồng. Do sau chưa sinh và phần vị đã sinh, đều cùng không thể nói đây kia là đồng nhau, nên dụ đã lập cùng với pháp không phải là bằng nhau. Nếu như thừa nhận cơm, bột là danh xưng sẽ có, thì chỗ dụ tương đồng cũng không hợp lý. Do không phải sáu xứ của niệm trước đã sinh cùng với phiền não nghiệp đều cùng hành nơi sáu xứ, vì phiền não nghiệp làm duyên cùng hỗ trợ. Có tướng khác khởi, không phải là nhân quả. Vì sao có sức khiến về sau thành duyên? Nên không thể nói cùng với phiền não nghiệp đều cùng hành nơi sáu xứ, hơn sáu xứ trước, cùng với sau tương đồng, khiến thành tánh của duyên.

Thế nên nếu nói sáu xứ trước diệt, trở lại có thể sinh sáu xứ của tự loại sau thì phiền não nghiệp diệt, trở lại sinh phiền não nghiệp sau của tự loại.

Như thế, có thể nói dựa vào danh xưng sẽ có, có nghĩa tương đồng. Nếu phiền não nghiệp cùng hành nơi sáu xứ, thì so với trước là không khác, mà có thể khiến cho sau có tướng khác sinh, thành tánh của duyên, thì không nên nói so với sáu xứ sau, tướng của chúng là đồng, khiến thành tánh của duyên.

Lại tướng này vì sao khiến về sau thành duyên? Nên lời Thượng tọa kia đã nói đều không có thật nghĩa. Nếu là vô gián có thể sinh dị thục nơi sáu xứ làm nhân có thể chiêu cảm quả, tức nên không thuận với nghiệp hiện thọ, chỉ là nhân vô gián sinh dị thục, nên không có lỗi này. Lần lượt gần gũi, có thể dẫn dắt đến quả, như chủng loại hoa v.v… Lần lượt gần gũi tức có thể dẫn đến quả sinh.

Nếu như vậy lại gây nên lỗi lầm càng nặng. Thuận sinh nghiệp hậu thọ, tức nên tạp loạn. Tông của ông tự thừa nhận một nghiệp đã huân tập, sáu xứ cùng nối tiếp dẫn dắt một quả.

Lại, hạt giống mầm v.v… một cùng nối tiếp gồm thâu hạt giống mầm v.v…, tuy diệt nhưng quả sau có thể sinh. Sáu xứ của phiền não nghiệp cùng nối tiếp, đều là phiền não nghiệp riêng diệt xong, đâu thâu nhận tự loại của sáu xứ nơi thời gian sau, lần lượt cùng nối tiếp, đến thời gian sau cùng, có thể sinh quả kia, nên nghĩa của pháp, dụ ấy là không tương ưng.

Lại, phiền não nghiệp đều cùng sinh sáu xứ. Thượng tọa kia không nên thừa nhận phiền não nghiệp đã huân tập. Chớ cho đồng thời có nhân quả. Vì sao từ không phải phiền não nghiệp kia đã huân tập sáu xứ, lại không có duyên riêng, nhưng vào thời gian sau, bỗng nhiên lại sinh khởi các phiền não nghiệp đã huân tập sáu xứ. Nên Tông của ông đã lập về lý là không khéo thành.

Nếu cho như thần khí, phân, đất đã cung cấp, huân tập, có thể sinh mầm v.v… Điều này cũng phi lý, vì tôi đã thừa nhận.

Lại, không thành. Nghĩa là Tông của tôi đã thừa nhận có nhân đồng thời, có thể lập dụ này. Tông của ông không như vậy, vì sao như hạt giống, phân, đất, đã cung cấp huân tập?

Lại, ở trong đây là đang lập pháp dụ về hạt giống nên chính là dụ cho tâm của phiền não nghiệp. Sáu xứ nên nói cũng như phân, đất, tức loại phiền não nghiệp nên gọi là tùy theo giới, vì sao nói sáu xứ là tùy theo giới?

Không phải do phân, đất đã cung cấp huân tập hạt giống, nên trở lại khiến sinh khởi phân, đất, loại mầm, vì thế hạt giống chỉ nên dụ cho sáu xứ. Do phiền não nghiệp của sáu xứ này đã huân tập, sinh quả dị thục của sáu xứ vị lai, nên lời biện hộ giúp này là phi lý, không phải quả của sáu xứ sau, tức nói dùng sáu xứ trước làm nhân. Nghĩa là kinh nói mắt v.v… dùng phiền não nghiệp làm nhân, như hạt giống làm nhân, sinh ra mầm v.v… Không phải mầm v.v… dùng phân v.v…

làm nhân. Thế nên chỗ biện hộ giúp kia không phải là hợp lý.

Lại, kinh nói nghiệp sinh làm nhân, không phải chính là sáu xứ. Sáu xứ làm hạt giống, không phải phiền não nghiệp làm nhân chiêu cảm khiến sinh, có thể chấp sáu xứ làm chủng tử kia, nên năm căn như mắt v.v… ở nơi chiêu cảm sẽ sinh, hoàn toàn không có dụng hơn hẳn. Ý xứ hoặc có khi cùng với phiền não nghiệp có nghĩa đồng một quả nên dụ đã lập so với pháp là trái nhau. Hoặc hạt giống cùng nối tiếp cùng với phân đất kia đều cùng thời cùng nối tiếp có thể sinh quả khác. Các phiền não nghiệp cùng nối tiếp từ lâu đã diệt, mà cho sáu xứ cùng nối tiếp làm nhân, sinh ra quả khác do phiền não nghiệp đã lôi kéo. Pháp, dụ như thế sao có thể nói là đồng. Lại, hạt giống, phân, đất đều cùng có phần, nên trong mầm có thể có hai quả nối tiếp sinh. Làm sao có thể cùng với không phần, có phần, đồng tạo lấy một quả làm đồng pháp dụ.

Nếu chấp trong mầm, phân, đất cùng với thể của hạt giống quả không có dị biệt, tức là năng dụ cùng với sở lập là đồng, vì cùng không thành. Lại, Thượng tọa kia vì chứng minh từ lâu tùy theo giới là có, đã dẫn lời Thánh nói có căn thiện tùy thuận cùng hành chưa đoạn. Kinh này trở lại chứng minh Thượng tọa kia đã vọng chấp về từ lâu tùy theo giới là không có. Do các căn thiện tánh của chúng là không tham v.v… Căn thiện ấy ở nơi phần vị này không hiện tiền, vì có thể chưa bỏ nên gọi là chưa đoạn. Dựa nơi thiện sắp đoạn, nên nói lời này. Căn thiện trong đây, chỉ là thiện sinh đắc, các thiện gia hạnh vì trước đã đoạn, nên căn thiện sinh đắc. ở nơi phần vị thiện nối tiếp, vì tùy theo tâm nhiễm có được, nên cho là tùy hành chín phẩm tức khắc đạt được, tức nói là cùng hành. Hoặc căn thiện này trước được, sau khởi, nên cho là tùy hành. Hiện khởi cùng với đạt được là không trái hại nhau, nên nói là cùng hành.

Đây là cú nghĩa chân thật của kinh này. Căn thiện đoạn: Nghĩa là cũng hiện không có tùy thuận cùng căn thiện ấy. Nên kinh này nói: Căn thiện kia ở nơi thời gian sau, tất cả đều đoạn, là tùy thuận cùng căn thiện. Còn đã từ lâu tùy theo giới, thì căn thiện ấy là không có, nên tùy theo giới kia cũng không có. Tùy theo giới đã không có, thì về sau nhân nơi pháp nào căn thiện nối tiếp khởi.

Lại, căn thiện của phần vị nối tiếp đầu tiên hiện không có, nên không có tùy theo giới. Đã không tùy theo giới, thì duyên nào gọi là nối tiếp để căn thiện sau khởi? Lại từ nhân nào? Nhưng Khế kinh nói: Từ căn thiện này, về sau, căn thiện khác nhất định sẽ trở lại khởi. Tức kinh này trở lại chứng minh từ lâu tùy theo giới là không có.

Lại, Thượng tọa kia tự nói: Từ lâu tùy theo giới này, Thể của chúng là không thể nói, vì sao ở đây nói là căn thiện, là tánh của nhân căn thiện. Lại ở trong Thể của một niệm, một tâm, không có phần vi tế, vì sao có thể lôi kéo ái và phi ái đều cùng có quả trái nhau, vì nhất định nhân sai biệt là không thể đạt được.

Lại, tâm thiện, bất thiện và vô ký ở trong tất cả thời gian tức nên cùng hiện khởi, nhưng không nên thừa nhận là cùng trái nhau. Nghĩa là đối với tâm thiện đang ở phần vị hiện hành, thì cảnh giới của tâm bất thiện, vô ký luôn tùy thuận. Các tâm kia cùng với tâm thiện không phải là có Thể riêng.

Vậy dựa vào lý nào để nói các pháp kia là không hiện hành. tâm của hai tánh khác đang ở phần vị hiện hành đều nêu dẫn hai tánh, cũng nên đồng với đây.

Lại, Thượng tọa kia nên nói: Nếu trong một tâm có nhiều phẩm loại, cảnh giới tâm đang theo đuổi, do đâu từ nơi nhiều tâm này đã tùy theo giới mà thời gian sau chỉ khởi tâm của một phẩm loại? Tuy nhiên, ở vào một thời, có nhân duyên, đẳng vô gián duyên, thuộc cảnh giới làm chỗ dựa của tất cả thức.

Lại, đầy đủ vì sao không đều khởi?

Vì mỗi mỗi sát-na của chỗ dựa kia đều có nghĩa có thể sinh tất cả thức.

Pháp nào làm chướng ngại? Ở trong một thời gian, không phải từ một căn đều sinh nhiều thức. Nhưng Thượng tọa kia đối với vấn đề này nói: Có một niệm, một căn cùng sinh hai thức. Như cùng một thân căn nơi chim Mạng mạng v.v… Không thể một xứ có hai thân căn sinh. Như thế là trái với tánh của pháp có đối. Lời nói này chỉ thuận với tự tâm của Thượng tọa. Không có nghĩa hai hữu tình đồng một căn, vì nơi sự cùng nối tiếp là khác. Nhưng như chim Mạng mạng v.v… hai căn tạp trụ. Như thân căn, thiệt căn. Nên từ hai căn sinh ra hai thức, không phải hai thức trên một căn đều sinh. Cũng không có một căn, hai hữu tình cùng chung. Về lý nên như thế. Nghĩa là có một căn là quả của nhiều nghiệp, về lý là không thành. Nhưng tất cả căn đều không phải là cùng có.

Như thế, Thượng tọa theo lý nào để có thể ngăn chận ở nơi một sự cùng nối tiếp đồng thời nương dựa vào một căn, nhiều căn phát sinh nhiều thức là lỗi? Nên từ lâu tùy theo giới, không phải là giảng nói về thiện. Lại, Thượng tọa v.v… chỉ chấp các pháp từ vô gián sinh. Há không phải là bậc Đại sư nói về tánh nhân duyên, nên là vô dụng.

Do pháp hiện có, sinh đã nhờ dựa nơi nhân cùng sức của đẳng vô gián đủ để có thể hoàn thành, đâu cần phải ngoài đẳng vô gián này, lại nói về nhân duyên. Tuy Thượng tọa kia giải thích nói: Sức của đẳng vô gián với sức mạnh của nhân sinh, về nghĩa có khác. Ở trong pháp sinh cùng có công dụng. Nhưng không có thật lý, chỉ có hư ngôn. Tức sức của tùy theo giới, là vô gián trụ, nên không phải sức của đẳng vô gián lìa tâm v.v… thì có thể nói có riêng công dụng của nhân duyên.

Lại, Thượng tọa kia chấp có Thể của pháp, tuy trải qua kiếp diệt, nhưng tự cùng nối tiếp, lần lượt vẫn như nhau, cũng làm tánh của nhân. Nay, quán xét pháp kia chỉ có thể làm duyên, tự tâm sinh vui mừng, vọng chấp vui thích, không phải ở nơi pháp sinh thật có thể làm nhân. Vì sao? Vì nếu có Thể của pháp, tuy trải qua kiếp diệt, cũng có thể làm nhân. Tức thể của pháp kia làm nhân, đủ có thể sinh pháp, đâu phải nhọc công hư cấu, tùy theo giới làm nhân. Lại, nếu pháp kia tuy không có Thể, mà có thể làm nhân sinh pháp được sinh, tức là nên thừa nhận con của các thạch nữ, cũng có thể làm nhân sinh ra con cháu khác.

Nếu cho Thể của nhân xưa có, nay không, thì con của các thạch nữ xưa cũng không có, tức nên pháp kia không thành nhân duyên, vì khi xưa có nhân, pháp của quả chưa khởi. Nay, quả ở nơi phần vị khởi, thì thể của nhân đã không có, nên nói nhân duyên nhất định nên là vô dụng. Nếu Thượng tọa thừa nhận chỉ sự tự cùng nối tiếp sinh khởi quyết định được làm nhân duyên, thì vì sao lại thừa nhận pháp thiện, bất thiện làm nhân duyên sinh dị thục vô ký, không phải pháp thiện, bất thiện, tùy theo giới làm nhân, có thể sinh vô ký, vì cùng nối tiếp có khác.

Nếu thiện, bất thiện vô gián có thể sinh dị thục vô ký, thì ở đây nên nói: Do đâu và vì sao thiện, bất thiện làm nhân sinh ra dị thục vô ký? Nếu nói vì vô ký đã huân tập thiện, bất thiện, nên thiện, bất thiện là nhân của vô ký, thì điều này cũng phi lý. Vì trước đã thường biện về sự huân tập thiện, bất thiện kia cho là không có thật nghĩa. Lại, theo Thượng tọa kia vì sao pháp thiện, bất thiện, được vô ký huân tập, nên thành nhân dị thục?

Nếu cho thời gian trước vì dị thục huân tập, tức nên dị thục là nhân của dị thục. Nếu quả dị thục do pháp thiện, bất thiện làm nhân nên sinh, mà nói trong đây không có công dụng của nhân duyên, chỉ thuộc về tăng thượng, thì thật là phi lý. Vì sao? Vì thiện, bất thiện làm nhân, có thể dẫn dắt khiến khởi quả kia.

Nhân này đối với quả kia vì sao không phải là nhân?

Lại thuyết kia đã nói là trái vượt Thánh giáo. Như Khế kinh nói: Nhân này, duyên này, khiến hữu tình kia sinh vào địa ngục v.v… Lại nói: Mắt v.v… dùng nghiệp làm nhân.

Lại nói: Các sinh nghiệp làm nhân v.v… Trong đây, Thượng tọa nêu ra giải thích này: Các tăng thượng duyên không vượt quá tánh của nhân, nên tôi đã nói: Lý kia khéo thành.

Giải thích này cũng phi lý. Vì lìa ngoài nhân duyên, kinh đã nói riêng có tăng thượng duyên. Lại, từng không có xứ đồng với thuyết kia. Nghĩa là từng không có kinh nào nêu giảng như thế. Tánh của tăng thượng duyên tức là nhân duyên.

Sư của Luận Chánh Lý chấp nhận tạo ra giải thích này. Không phải là Phái Thí Dụ có thể nói lời ấy. Do nhân năng tác, không phải được Thượng tọa kia thừa nhận.

Lại, Thượng tọa kia vì sao có thể chấp nói: Nhất tâm có đủ vô số thứ cảnh giới, nhiều giới huân tập một tâm, về lý là không thành. Không phải trong Thánh giáo đã thừa nhận pháp thắng nghĩa là có, chỉ một Thể, nhiều Thể tập hợp thành.

Nếu nói có tâm, thì Thể của tâm đó tuy một, nhưng ở trong ấy giới có rất nhiều. Nhiều giới cùng với tâm, về Thể là không khác, tức giới nên thành một, tâm cùng với nhiều giới, vì Thể không khác tâm tức nên thành nhiều. Các giới cùng đối chiếu, vì Thể không khác, nên Thể của một cùng với Thể của tất cả tức nên cùng xen tạp.

Chấp này hoàn toàn là phi lý. Nên dừng phần xét chọn rộng. Tuy nhiên danh xưng tùy theo giới nên nói là tùy theo lỗi, vì có vô lượng lỗi lầm đã theo đuổi. Xem rõ Thượng tọa kia chỉ vì muốn phá bỏ Thánh giáo, hủy hoại chánh lý, nên giả lập danh xưng này. Hoặc Thượng tọa kia chỉ do pháp tánh thâm diệu vi tế, không thể chịu đựng lâu, văn tư mỏi mệt, vì thế ở đấy chưa có thể thông đạt. Nhưng trong các chúng đệ tử của Phật, có loại không có phương tiện để cầu thấu đạt xưng tán, giả lập hư danh tùy theo giới như thế.

Do đấy, nên tùy thuận chánh lý đã nêu bày của A-tỳ-đạt-ma để giải thích về nhân duyên.

Thế nên nhân duyên do năm nhân làm tánh, đúng là đã thuyết giảng về thiện, không thể khuynh động.

HẾT – QUYỂN 18