LUẬN A TỲ ĐẠT MA THUẬN CHÁNH LÝ
Tác giả: Tôn giả Chúng Hiền
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 16

Phẩm thứ 2: BIỆN VỀ SAI BIỆT, phần 8

Như thế là đã biện về tướng của nhân câu hữu. Tướng của nhân đồng loại thứ ba là thế nào?

Tụng nêu:

Nhân đồng loại tương tợ

Tự bộ địa sinh trước

Đạo lần lượt chín địa

Chỉ cùng hơn làm quả

Gia hạnh sinh cũng thế

Do văn, tư tạo thành.

Luận nói: Có thể nuôi dưỡng, có thể sinh khởi, hoặc xa hoặc gần các quả đẳng lưu, gọi là nhân đồng loại. Nên biết nhân này chỉ là pháp tương tợ. Đối với pháp tương tợ, không phải đối với khác loại. Như năm uẩn thiện cùng với năm uẩn thiện lần lượt đối chiếu nhau làm nhân đồng loại. Nhiễm ô, vô ký nên biết cũng như thế.

Có Sư khác nói: Uẩn tịnh vô ký, năm là quả của sắc. Bốn là nhân của phi sắc, vì tánh thấp kém.

Có Sư khác cho: Năm là bốn quả. Sắc không phải là bốn nhân, vì uy lực kém.

Có Sư khác nêu: Sắc cùng với bốn uẩn lần lượt đối chiếu nhau, đều không làm nhân, vì loại khác yếu kém, nếu căn cứ nơi phần vị để nói.

Có Sư khác cho: Phần vị Yết-lạt-lam, có thể cùng với mười phần vị làm nhân đồng loại. Chín phần vị như Át-bộ-đàm v.v… mỗi mỗi phần vị đều trừ phần vị trước cùng với phần vị còn lại làm nhân. Phần vị sau đối chiếu với phần vị trước, chỉ có nghĩa của duyên.

Nếu như vậy, đầu tiên, sắc của Yết-lạt-lam tức nên không có nhân. Sau cùng sắc của lão tức nên không có quả, về lý là không đúng.

Lại có Sư nói: Mười phần vị sinh trước, mỗi mỗi đều cùng với mười phần vị sinh sau, đều là sắc của tự loại làm nhân đồng loại. Do phương diện này, tất cả phần ngoài đều ở nơi tự loại, như chỗ ứng hợp sẽ nói.

Phái Thí Dụ cho: Các sắc quyết định không có nhân đồng loại. Chỉ do chúng duyên hòa hợp hỗ trợ mà được sinh trưởng. Hiện thấy có mầm sinh trong bùn được đào xới ra từ dưới giếng. Không phải ở dưới đất, từng có hạt giống sinh. Mầm từ đâu khởi? Nên biết sắc pháp không có nhân đồng loại.

Chấp của phái kia là trái hại với Bản luận đã nói. Tức Bản luận nói: Đại chủng của quá khứ, đại chủng của vị lai là nhân tăng thượng v.v…

Phái kia nói: Thuyết của tôi đối với Bản luận này là không trái, do tăng thượng duyên có gần, có xa. Như tiếp theo nói là nhân tăng thượng. Không có phương sở có thể tránh khỏi vấn nạn, nên giả lập lời nói này, tuy giống như thuận với văn, nhưng thật sự là trái với lý. Lại, không thừa nhận là sắc có nhân đồng loại, nên đối với lý, đối với văn, tức có chỗ trái hại. Nhưng có mầm sinh trong bùn, được đào xới ra từ dưới giếng: Nghĩa là mầm kia trước đã có hạt giống, vì thiếu duyên hòa hợp, nên chưa sinh mầm v.v… Nay, duyên hòa hợp nên mầm v.v… mới sinh. Nếu trong đất bùn kia, không có nhân đồng loại mà được sinh, tức nên sinh tất cả, hoặc hoàn toàn không sinh, vì không có nhân cố định. Vì các thứ tương tợ đối với pháp tương tợ đều có thể được gọi là nhân đồng loại. Không như vậy thì vì sao tự bộ, tự địa chỉ cùng với tự bộ, tự địa làm nhân. Thế nên nói là tự bộ, tự địa. Bộ nghĩa là năm bộ, tức là do kiến khổ đoạn, cho đến do tu đạo đoạn. Địa tức là chín địa, nghĩa là cõi dục là một, bốn tĩnh lự, bốn vô sắc là tám.

Trong đây, phiền não nơi cõi dục do kiến khổ đoạn trở lại cùng với phiền não nơi cõi dục do kiến khổ đoạn làm nhân đồng loại. Như thế, cho đến phiền não nơi cõi dục do tu đạo đoạn trở lại cùng với phiền não nơi cõi dục do tu đạo đoạn làm nhân đồng loại. Như nói năm bộ đoạn, thì nơi tĩnh lự, vô sắc đều trong bốn địa tùy theo chỗ thích hợp đều nói như thế. Đây là tất cả. Không như vậy, thì sinh trước, nghĩa là chỉ sinh trước, cùng với sau là tương tợ, sinh pháp chưa sinh là nhân đồng loại. Đấy gọi là tướng của nhân đồng loại viên mãn. Nếu chỉ nói sinh trước cùng với quả sinh sau làm nhân đồng loại, thì đối với nghĩa tức là thiếu, vì không nói cùng với pháp chưa sinh làm nhân đồng loại. Chỉ nói quá khứ cùng với vị lai, hiện tại làm nhân đồng loại, thì đối với nghĩa cũng là thiếu, vì không nói quá khứ có nhân quả.

Nếu như trước đã nói là gồm thâu chung như Bản luận đã nêu, pháp sinh trước cùng với pháp sinh sau cùng nói quá khứ là nhân của hiện tại, vị lai. Hiện tại chỉ là nghĩa nơi nhân của vị lai. Vị lai vì sao không có nhân đồng loại? Vì vị lai kia không có nghĩa thứ lớp trước, sau.

Há không phải là các pháp ở vào lúc đang sinh đã có thể loại trừ tất cả chướng ngại. Đối với pháp chưa sinh, được nói là trước. Lại nhân dị thục, đối với đời vị lai, cũng nên không có, do quả dị thục đối chiếu với nhân dị thục, là không có trước sau. Chủ yếu là dựa vào trước sau để lập nhân đồng loại. Không phải là lúc đang sinh, đã vượt qua phần vị sau, vì chưa có tác dụng. Như vị lai khác, quá khứ chỉ là trước, vị lai chỉ là sau, hiện tại thì chung cả trước sau. Vì căn cứ theo thế gian có cố định. Các pháp quá khứ tuy đều là trước, nhưng khi nhận lấy quả, là đã quyết định trước sau. Không phải pháp vị lai, đối với khi đang sinh có tác dụng riêng, pháp còn lại có thể lập trước sau. Chủ yếu là đến trong phần vị đã sinh của hiện tại mới phân biệt vị lai, khiến thành phần vị sau. Do đã có tác dụng, nhận lấy pháp kia làm quả.

Nếu như vậy nhân dị thục cũng chớ cho vị lai là có, vì đây kia không phải là loại. Vì sao? Vì nhân đồng loại này với quả đẳng lưu thiện v.v… là không có dị biệt. Nếu không có trước sau thì nên cùng làm nhân. Đã cùng làm nhân tức nên cùng làm quả. Cùng làm nhân quả thì cùng với lý là trái nhau. Đã không có lý để có thể ngăn chận cùng làm quả, tức nên thừa nhận có quả ở trước nhân, cũng có hai tâm cùng làm nghĩa của nhân, tức là trái hại với văn của Luận Phát Trí. Nhân dị thục kia cùng với quả là cùng dị biệt. Tuy lìa trước sau, nhưng không có lỗi trên, nên là nhân đồng loại, căn cứ nơi phần vị để kiến lập, vị lai là không có. Nếu nhân dị thục căn cứ nơi tướng để kiến lập thì vị lai không phải là không có. Nếu là nhân đồng loại thì vị lai không có. Há không phải là nghĩa của nhân nay có xưa không? Vì thừa nhận nên không có lỗi. Căn cứ nơi phần vị không phải là thể, do phần vị có tác dụng hòa hợp, quả không phải là quả của thể. Tác dụng hòa hợp là pháp hòa hợp của nhân duyên có sai khác, là vị khác của pháp hành. Vị khác của pháp hành, không phải lìa thể thành, nhưng hành của phần vị khác, cũng không phải tức là thể.

Như thế phần vị khác từ phần vị khác sinh. Nhân quả đồng loại gọi là phần vị khác, nên phần vị của tác dụng hòa hợp, quả không phải là quả của Thể, về lý tuy không có lỗi, nhưng về văn thì có trái. Như Bản luận nói: Nếu pháp cùng với pháp kia làm nhân, thì không có lúc nào pháp này không phải là nhân của pháp kia.

Há không phải là quá khứ, hiện tại cùng với pháp kia làm nhân, vị lai không phải nhân, tức là trái với thuyết này, không trái với lỗi ấy. Đây là dựa vào câu hữu, tương ưng, dị thục, chung cho nhân của ba đời, theo mật ý để nói.

Có Sư khác giải thích: Tuy ở đây dựa chung nơi sáu nhân để tạo luận, nhưng không có lỗi. Vị lai đã không có đồng loại, biến hành, vì sao có thể nói không lúc nào là không phải nhân?

Vị lai tuy không có, nhưng ở đây nói có thể làm nhân, về sau không lúc nào không phải là nhân. Lại, vị lai này cũng nhất định nên có. Nghĩa là pháp hữu vi ở vào lúc đang sinh, nhất định có thể làm nhân. Vì dứt hết các chướng, nên dựa vào đấy mật ý nói không lúc nào không phải là nhân. Nhưng Kinh chủ cho: Thuyết kia không phải là giải thích tốt, vì phần vị đang sinh của pháp vị lai, trước không phải là nhân đồng loại, về sau mới thành.

Vấn nạn về lỗi như thế, trước đã giải thích thông hợp. Nghĩa là không phải vì vị lai có trước sau, nên căn cứ theo ba đời để nói không lúc nào không phải là nhân. Ý làm rõ lại không có thời thứ tư.

Nếu như vậy đẳng vô gián nên đồng với thuyết này, nhưng Bản luận không thừa nhận. Bản luận nói: Nếu khi pháp này chưa đến, đã sinh, thì không phải là đẳng vô gián, không có lỗi lầm này. Vì sao? Vì đẳng vô gián duyên là căn cứ ở sức mở rộng, không phải là phần vị đang sinh có khả năng mở rộng. Chủ yếu là lúc đã sinh mới có sức mở rộng. Nếu đến rồi diệt thì gọi là đã mở rộng là nhân đồng loại.

Như pháp chủng tử, ở nơi phần vị đang sinh, trụ trong pháp chủng, đến khi đã sinh, là đang có thể nhận lấy quả, nên nhân không phải giống với đẳng vô gián duyên.

Có Sư khác giải thích: Tiếp sau phần vị đang sinh thì nhân đồng loại này nhất định nhân lấy tự quả. Đẳng vô gián duyên thì không quyết định, vì có phần vị đã diệt mới nhận lấy tự quả, nên không thể dựa vào thời gian đang sinh để nói.

Tỳ-bà-sa giải thích: Vì hiện hai môn, như nơi xứ kia nói, ở đây cũng nên như thế. Như nơi xứ này nói, thì xứ kia cũng nên như thế.

Nhưng Kinh chủ cho: Tạo văn như thế thì đạt được công đức gì? Chỉ hiển bày Luận chủ là không khéo về văn. Như không có lỗi này, tức chuyển biến làm rõ Luận chủ đối với văn là thiện xảo. Nghĩa là có thể hiển bày chỉ rõ các văn đã tạo là có ý chưa đầy đủ, có ý hoàn toàn đầy đủ, đâu cần chỉ làm rõ văn của ý chưa đầy đủ. Văn của ý chưa đầy đủ xứ xứ đều có, nên ở nơi xứ nào có tiếp theo sau sẽ biện.

Như thế là khéo thông hợp với Luận Phát Trí đã nói. Còn Luận Phẩm Loại Túc thì làm sao thông hợp?

Như Luận kia nói: Hoặc có khổ đế dùng hữu thân kiến làm nhân, không phải cùng với hữu thân kiến làm nhân, ngoại trừ hữu thân kiến vị lai cùng khổ đế tương ưng với hữu thân kiến kia, còn lại là các khổ đế nhiễm ô kia. Hoặc có khổ đế dùng hữu thân kiến làm nhân, cũng cùng với hữu thân kiến làm nhân. Tức là các pháp đã được trừ. Là lỗi của người tụng đọc. Về văn không có lời nói này.

Luận kia chỉ nói: Trừ hữu thân kiến vị lai tương ưng với khổ đế không có câu nói kia. Nếu như có câu nói như thế thì căn cứ nơi nghĩa nên biết là sai lầm.

Còn Luận Thi Thiết Túc thì nên thông hợp như thế nào?

Luận kia nói các pháp có bốn sự quyết định: Đó là nhân, quả, đối tượng nương dựa, đối tượng duyên. Nên biết văn của Luận kia nói về nhân, nghĩa là nhân năng tác, câu hữu, tương ưng, dị thục. Nói về quả, nghĩa là quả tăng thượng, sĩ dụng, dị thục. Đối tượng nương dựa, nghĩa là sáu căn như mắt v.v… Đối tượng duyên, nghĩa là sáu cảnh như sắc v.v…

Lại, như nơi Luận Phẩm Loại Túc thì làm sao thông hợp?

Như nói: Thế nào là pháp không phải tâm làm nhân?

Nghĩa là tâm vô lậu đầu tiên của Bổ-đặc-già-la kia đã nhập chánh tánh ly sinh cùng phàm phu khác, quyết định sẽ nhập chánh tánh ly sinh được tâm vô lậu đầu tiên. Nhưng phàm phu kia ở nơi vị lai hiện có các tâm vô lậu, đều không phải tâm làm nhân. Vì sao chỉ nói tâm vô lậu đầu tiên kia?

Có giải thích này: Văn của Luận kia không biện về nghĩa của nhân đồng loại. Do đâu chỉ biện về hai hạng phàm phu, nghĩa là có pháp bát Niết-bàn và không có pháp bát Niết-bàn. Văn tuy không nêu không có pháp bát Niết-bàn, nhưng về nghĩa, căn cứ nơi môn lý đã chỉ bày rõ, nên biết là có. Nghĩa là Luận kia đã nói: Có phàm phu khác quyết định sẽ nhập chánh tánh ly sinh.

Do căn cứ nơi nghĩa này, tức cũng có phàm phu quyết định không nhập chánh tánh ly sinh.

Có Sư khác giải thích: Văn của Luận kia cũng biện về nghĩa của nhân đồng loại. Nhưng Luận kia chỉ nói: Nếu tâm rốt cùng không phải tâm làm nhân, tuy người kia chưa nhập chánh tánh ly sinh, mà các tâm vô lậu đều là không phải tâm làm nhân. Nhưng người kia nếu nhập chánh tánh ly sinh thì chỉ có tâm vô lậu đầu tiên là pháp không phải tâm làm nhân. Tâm khác đều dùng tâm làm nhân.

Luận Thức Thân Túc thì nên thông hợp như thế nào? Như Luận kia nói: Ở nơi quá khứ, nhãn thức nhiễm ô hiện có các tùy miên, chúng đối với tâm này hoặc có thể làm nhân không phải được tùy tăng. Hoặc được tùy tăng nhưng không thể làm nhân. Hoặc có thể làm nhân cũng được tùy tăng. Hoặc không thể làm nhân cũng không phải được tùy tăng.

Lại, có thể làm nhân không phải được tùy tăng: Nghĩa là các tùy miên biến hành đồng loại ở trước tâm này. Tức tùy miên kia, nếu không duyên nơi tâm này, nếu như duyên rồi đoạn và tùy miên tương ưng với tâm này đã đoạn.

Được tùy tăng nhưng không thể làm nhân: Nghĩa là các tùy miên biến hành, đồng loại ở sau tâm này. Tức tùy miên kia duyên nơi tâm này chưa đoạn.

Có thể làm nhân cũng được tùy tăng: Nghĩa là các tùy miên đồng loại, biến hành ở trước tâm này. Tức tùy miên kia duyên nơi tâm này chưa đoạn và tùy miên tương ưng của tâm này chưa đoạn.

Không thể làm nhân cũng không phải được tùy tăng: Nghĩa là các tùy miên biến hành, đồng loại ở sau tâm này. Tức tùy miên kia, nếu không duyên nơi tâm này, nếu như duyên rồi đoạn. Hoặc duyên còn lại, hoặc tùy miên khác, hoặc tùy miên biến hành không đồng cõi. Như nhãn thức nhiễm ô ở nơi quá khứ kia, thì nhãn thức nhiễm ô ở nơi vị lai cũng như thế.

Bốn trường hợp của quá khứ, về lý có thể như thế. Vị lai làm sao có thể lập bốn trường hợp?

Có người nêu ra giải thích: Tùy miên kia ở nơi vị lai, nên lập ba trường hợp. Trừ được tùy tăng không thể làm nhân, vì tùy tăng kia không có phần sau. Tuy nhiên, nói vị lai như quá khứ: Là làm rõ về lúc đang sinh, tất nhập nơi hiện tại, đối với pháp khác chưa khởi có thể lập làm trước. Đối với phần trước này, có thể nói pháp còn lại, gọi là sau.

Có Sư khác giải thích: Ở đây nói về vị lai cũng có bốn trường hợp.

Không nói vị lai có ở nơi sau tâm, đồng với quá khứ. Nghĩa là có tùy miên đồng loại, biến hành ở nơi đời vị lai. Đối với nhãn thức ô nhiễm của vị lai kia duyên mà chưa đoạn, là được tùy tăng, nhưng không làm nhân.

Nói nhân đồng loại chỉ là tự địa, là định dựa vào gì để nói?

Định dựa nơi hữu lậu. Nếu đạo vô lậu thì lần lượt cùng hướng đối, mỗi mỗi đều cùng với chín địa làm nhân. Nghĩa là bốn tĩnh lự và ba vô sắc cùng vị chí, trung gian, đó gọi là chín địa. Pháp khác không có đẳng dẫn, vì không phải mạnh nhanh, nên đều không thể phát khởi. Thánh đạo vô lậu thì đạo đế của chín địa lần lượt làm nhân. Vì sao? Vì đạo đế này không phải hệ thuộc nơi địa. Không phải các địa dùng chấp ái làm cái có của mình. Do đạo đế này tuy địa không đồng nhưng đều lần lượt làm nhân, vì đồng chủng loại. Nhưng không phải tất cả làm nhân của tất cả.

Cùng với cái gì làm nhân?

Nghĩa là cùng với quả thù thắng, do gia hạnh sinh, không phải là nhân yếu kém. Thánh đạo của định thứ nhất có nương dựa vào định thứ nhất, cho đến có nương dựa vào xứ vô sở hữu. Đạo của hai định v.v…, nên biết cũng như thế. Đối với nương dựa nơi tự trên là có. Đối với nương dựa nơi địa dưới là không. Nghĩa là dựa vào định thứ nhất, thì Thánh đạo của định thứ nhất cùng với Thánh đạo nương dựa nơi chín định, chín địa làm nhân đồng loại. Tức ở đây chỉ dùng dựa vào đạo của định thứ nhất làm nhân đồng loại, không dùng Thánh đạo dựa vào định trên làm nhân, vì tánh yếu kém.

Dựa vào định thứ hai thì Thánh đạo của định thứ nhất, trừ dựa vào định thứ nhất, cùng với Thánh đạo dựa vào chín địa của định còn lại làm nhân đồng loại. Tức ở đây chỉ dùng Thánh đạo dựa vào chín địa của hai định đầu làm nhân đồng loại, không phải dựa vào địa trên.

Dựa vào định thứ ba thì Thánh đạo của định thứ nhất, trừ dựa vào hai định đầu, cùng với Thánh đạo dựa vào chín địa của định còn lại làm nhân đồng loại. Tức ở đây chỉ dùng Thánh đạo dựa vào chín địa của ba định thứ nhất, thứ hai, thứ ba làm nhân đồng loại, không phải nương dựa địa trên.

Cho đến nếu dựa vào xứ vô sở hữu, thì Thánh đạo của định thứ nhất chỉ cùng với Thánh đạo dựa nơi chín địa của xứ vô sở hữu này làm nhân đồng loại. Tức ở đây dùng chung Thánh đạo dựa nơi chín địa của định thuộc chín địa làm nhân đồng loại.

Như Thánh đạo của định thứ nhất dựa nơi chín định, thì Thánh đạo của các định còn lại, dựa nơi chín địa, tùy theo chỗ ứng hợp, nên xét chọn rộng.

Lại, một địa gồm thâu các đạo vô lậu, cũng không phải tất cả làm tất cả nhân. Vì là nhân bằng nhau và thù thắng, không phải là nhân yếu kém. Lại như khổ pháp trí nhẫn đã sinh, trở lại cùng với khổ pháp trí nhẫn vị lai làm nhân đồng loại. Đây gọi là bằng nhau. Lại, tức nhẫn này lại có thể cùng với từ khổ pháp trí đến vô sinh trí ở sau làm nhân đồng loại. Đấy gọi là thù thắng.

Nói rộng như thế, cho đến các vô sinh trí đã sinh chỉ cùng với loại bằng nhau làm nhân đồng loại, tức không có loại hơn. Lại, các thứ kiến đạo, tu đạo và đạo vô học đã sinh, tùy theo thứ lớp ấy, cùng với ba, hai, một thứ kia làm nhân đồng loại. Lần lượt làm nhân cũng không trái lý.

Vì sao đạo vô lậu thù thắng sinh sau có thể cùng với đạo vô lậu yếu kém sinh trước làm nhân đồng loại mà không trái lý?

Ai nói sự thù thắng sinh sau là nhân của yếu kém sinh trước?

Chủng tánh tu đạo của độn căn sinh trước cùng với vị lai tự cùng nối tiếp quyết định không sinh chủng tánh kiến đạo của lợi căn làm nhân đồng loại.

Lý nào làm chướng ngại?

Tất cả hữu tình đều có sự cùng nối tiếp riêng khác. Pháp như thế an lập sáu thứ chủng tánh. Vô học đối chiếu với trước, nên biết cũng như thế. Nhưng có sai biệt. Nghĩa là có Thánh đạo vô học sinh trước đối với tu đạo sinh sau tự cùng nối tiếp làm nhân đồng loại. Vô học thoái thất xong, ở trong tu đạo, có thể có nghĩa chuyển sinh lợi căn.

Nếu như vậy tức nên cùng với Bản luận là trái nhau?

Như nói dĩ tri căn cùng với vị tri đương tri căn làm sở duyên, tăng thượng, không phải là nhân, không phải là đẳng vô gián.

Như thế, cụ tri căn đối với hai căn cũng vậy, điều này là không trái nhau, vì ý chưa đầy đủ. Như tiếp theo trước nói văn của ý chưa đầy đủ xứ xứ đều có, tức là nghĩa này. Tức nên hiển thị văn của ý chưa đầy đủ. Nay trong văn này có ý chưa đầy đủ nào? Nghĩa là dựa vào, căn tánh như thế sinh sau đã gồm thâu dĩ tri căn, tức đối chiếu với căn tánh như thế sinh trước đã gồm thâu vị tri căn, ngầm tạo ra lời nói như thế. Là sở duyên, tăng thượng, không phải là nhân, đẳng vô gián, vì yếu kém, vì sinh sau. Văn này chỉ nói đã khởi tác dụng, dựa vào các căn vô lậu cùng nối tiếp chuyển biến. Như nói pháp thế đệ nhất có dụng.

Nếu như vậy thì hữu tình đều có sự cùng nối tiếp riêng khác. Pháp như thế an lập Bồ-đề của ba thừa. Như thế, đạo Thanh văn thừa cũng nên được làm nhân của đạo Độc giác thừa, Phật thừa. Đạo Độc giác thừa làm nhân của Phật đạo. Không có lỗi lầm này, vì tánh là rất xa. Nếu người đã bước lên đạo Thanh văn, thì không thể sinh lại nơi đạo của thừa khác.

Nếu như vậy đã bước lên đạo tùy tín hành, đạo tùy pháp hành, thì không thể sinh lại. Tức là đạo tùy tín hành sinh trước cùng với đời vị lai, rốt cuộc không sinh nơi đạo tùy pháp hành. Nên không làm nhân cũng không có lỗi này.

Đạo của các vị độn căn có thể có chuyển biến thành đạo của hàng lợi căn. Nghĩa là tức do các uẩn cùng nối tiếp của căn tùy tín hành kia, có thể có chuyển được thuộc nơi uẩn cùng nối tiếp của căn tùy pháp hành. Không phải do các uẩn cùng nối tiếp đã bước lên đạo Thanh văn thừa, có thể có chuyển biến đạt được đạo cùng nối tiếp của uẩn Độc giác thừa, Phật thừa.

Dựa vào lý như thế, nên có thuyết nói: Tuy không có xứ này, nhưng là giả phân biệt. Nếu trong kiến đạo có xuất quán, thì đạo tùy tín hành cũng có chuyển biến đạt được căn tùy pháp hành. Nhưng không có nghĩa xuất, nên căn có sai biệt cùng với thừa là không đồng.

Do đấy nên nói: Đạo của các vị độn căn cùng với độn và lợi làm nhân đồng loại. Nếu đạo của hàng lợi căn thì chỉ làm nhân của đạo lợi căn. Như đạo tùy tín hành cùng đạo tín thắng giải, thời giải thoát, tùy theo thứ lớp kia cùng với sáu, bốn, hai thứ làm nhân đồng loại. Nếu là đạo tùy pháp hành cùng đạo kiến chí, phi thời giải thoát, tùy theo thứ lớp ấy, cùng với ba hai một thứ làm nhân đồng loại.

Ở đây cũng căn cứ theo trước, nên biết là không nhất định. Các đạo của địa trên làm nhân của địa dưới. Vì sao gọi là hoặc bằng hoặc hơn? Do nhân tăng trưởng và do căn. Vì chỉ Thánh đạo, chỉ cùng với phần bằng và hơn làm nhân đồng loại. Không như vậy thì thế nào?

Pháp thế gian khác do gia hạnh sinh cùng với phần bằng, hơn làm nhân, không phải là nhân yếu kém. Pháp do gia hạnh sinh, thể ấy là thế nào? Nghĩa là do văn tạo thành, do tư tạo thành v.v… Vân vân là cùng nhận lấy do tu tạo thành, cùng nhân nơi văn, tư, tu đã sinh ra công đức, gọi là do các pháp kia tạo thành. Gia hạnh sinh thì chỉ cùng với phần bằng và hơn làm nhân, không phải là phần kém. Như pháp do văn tạo thành hệ thuộc cõi dục, có thể cùng với pháp do văn, tư tạo thành của tự giới làm nhân đồng loại. Không phải là nhân của tu tạo thành, vì ở cõi dục là không có. Pháp do tư tạo thành cùng với pháp do tư tạo thành làm nhân đồng loại, không phải là nhân của văn tạo thành, do pháp kia là yếu kém.

Nếu pháp do văn tạo thành hệ thuộc cõi sắc, có thể cùng với pháp do văn, tu tạo thành của tự giới làm nhân đồng loại. Không phải là nhân của tư tạo thành, vì nơi cõi sắc là không có. Pháp do tu tạo thành chỉ cùng với pháp do tu tạo thành của tự giới làm nhân đồng loại. Không phải là nhân của văn tạo thành, vì pháp kia là yếu kém. Pháp do tu tạo thành hệ thuộc cõi vô sắc, chỉ cùng với pháp do tu tạo thành của tự giới làm nhân đồng loại. Không phải là nhân của văn, tư tạo thành, do không có và do yếu kém.

Có Sư khác cho: Pháp do tư tạo thành cùng với pháp do tu tạo thành làm nhân đồng loại. Há không phải là nơi cõi dục có pháp do tư tạo thành, không có pháp do tu tạo thành. Hoặc ở cõi sắc có pháp do tu tạo thành, không có pháp do tư tạo thành. Nhưng pháp thế gian chỉ cùng với pháp của tự giới làm nhân đồng loại. Trước đã nói về tự bộ, tự địa làm nhân, vì dựa vào hữu lậu, vì sao thuyết kia nói tư làm nhân cho tu?

Có giải thích này: Tức ở nơi cõi dục, có phương tiện thù thắng đã gồm thâu căn thiện. Tuy do tư tạo thành, nhưng rất tịch tĩnh, giống như tu tuệ, nên gọi là do tu tạo thành. Tư là nhân của tu kia, nên nói cũng không có lỗi.

Có Sư khác giải thích: Khi đạt được tận trí, đã tu pháp do tư tạo thành ở cõi dục là quả tu tuệ của A-la-hán, giống như tu tuệ, nên gọi là do tu tạo thành. Tư là nhân của tu kia, nên nói cũng không có lỗi.

Các pháp do văn, tư, tu này tạo thành đều có chín phẩm. Nghĩa là hạ hạ v.v… Nếu phẩm hạ hạ là nhân của chín phẩm, thì trung hạ là tám nhân, cho đến thượng thượng, chỉ là nhân của thượng thượng, vì đã trừ phần kém trước. Pháp thiện sinh đắc cùng với pháp thiện do gia hạnh làm nhân đồng loại. Không phải thiện do gia hạnh làm nhân cho thiện sinh đắc, vì pháp kia là yếu kém.

Lại, thiện sinh đắc cũng có chín phẩm, tất cả cùng đối chiếu, lần lượt làm nhân, thâu nhận mỗi mỗi phẩm về sau đều hiện tiền.

Có Sư khác nói: Vì trong định nhất tâm là đạt được tất cả, nhưng do chín phẩm của dị thục hiện hành, có thể thiết lập có chín phẩm sai biệt. Chín phẩm nhiễm ô căn cứ theo đây nên biết. Lại, do đối trị nên có chín phẩm, có thể thiết lập có chín phẩm sai biệt. Vô phú vô ký gồm có bốn thứ, nghĩa là dị thục sinh, đường oai nghi, xứ công xảo, phẩm tâm biến hóa cùng có, tùy theo thứ lớp kia, có thể cùng với bốn, ba, hai, một thứ làm nhân.

Có Sư khác cho: Tất cả cùng đối chiếu, lần lượt làm nhân, vì đồng một sự trói buộc.

Thuyết này là phi lý, vì chớ cho bốn pháp như noãn v.v… của tĩnh lự thứ nhất lần lượt làm nhân. Lại, tâm biến hóa của cõi dục có quả của bốn tĩnh lự, không phải quả của tĩnh lự trên, là nhân của quả thuộc tĩnh lự dưới. Không phải là nhân của gia hạnh đạt được quả thấp kém. Chớ cho thiết lập công dụng mà không có thu đạt. Nghĩa của nhân như thế, nên có câu hỏi:

Từng có các pháp vô lậu đã sinh, không phải là nhân của pháp vô lậu ở phần vị chưa sinh chăng?

Có. Nghĩa là phẩm khổ pháp trí đã sinh, ở nơi tự chủng tánh, các pháp vị lai không sinh phẩm, khổ pháp trí nhẫn cùng hợp. Như thế, cho đến các hữu tình đã sinh phẩm định kim cang dụ, cùng với phần vị dưới của tự chủng tánh, chưa sinh các pháp vô lậu. Lại, tất cả phần vượt hơn đối với tất cả phần yếu kém, dùng pháp gia hạnh làm nhân đồng loại. Quả đã đạt được, hoặc bằng, hoặc hơn.

Từng có các pháp vô lậu của một thân, trước đã nhất định đạt được, không phải là nhân của pháp sinh sau chăng?

Có. Nghĩa là phẩm khổ pháp nhẫn của vị lai, về sau đã sinh phẩm khổ pháp trí, do quả tất không ở trước nhân, hoặc là nhân đồng loại, vì vị lai không có.

Từng có các pháp vô lậu sinh trước, không phải về sau đã khởi nhân của pháp vô lậu chăng?

Có. Nghĩa là pháp vô lậu thù thắng sinh trước, về sau đã khởi pháp vô lậu yếu kém. Như trước khổ pháp trí đã sinh đạt được, về sau khổ pháp nhẫn đã sinh đạt được. Khổ pháp nhẫn kia tuy sinh sau, nhưng là yếu kém. Như thế, tất cả các đắc của Thánh đạo, trước hơn, sau kém, căn cứ theo đây nên biết.

Trong đây, Kinh chủ dùng quả trên thoái chuyển quả dưới hiện tiền để đáp lại câu hỏi. Lời đáp này là không quyết định. Quả trên thoái chuyển xong, chấp nhận có luyện căn, khởi vô lậu vượt hơn hiện tiền. Thuyết kia nên phân biệt ở đây. Nhưng nhân đồng loại này cùng với công dụng của quả không có cùng tận. Không phải như nhân dị thục cùng với công dụng của quả nhất định có tận cùng. Các A-la-hán nhận lấy nhân đồng loại, quả cũng chưa hết, nhưng vì Niếtbàn, nên không phải nhân đồng loại nhất định có thể sinh quả. Nghĩa là có nhân đồng loại, do có chướng ngại, nên quả hoặc ở thời khác khởi, hoặc vĩnh viễn không sinh, nên ở trong đây có nêu ra câu hỏi này: Nhân đồng loại cùng với quả cũng có thể nhận lấy quả chăng?

Về tướng chung, đáp nói: Các thứ cùng với quả tất có thể nhận lấy quả. Vì sao? Vì không nhận lấy mà cho, về lý là không thành. Nên có chủ thể nhận lấy quả mà không có chủ thể cho. Nghĩa là các uẩn sau cùng của A-la-hán, do các uẩn trước tuy có thể cho quả, nhưng chưa tận cùng liền bát Niết-bàn. Lại đối với các nghiệp như nghe tụng, tư duy, lựa chọn v.v… tuy đồng với gia hạnh, gặp cùng trợ duyên, mà nhận thấy căn thiện tích tập có khác, nên biết dụng của nhân không phải chỉ ở nơi đời này. Nhưng nói là tùy theo sức của căn thiện cùng hợp, căn thiện sinh, là căn cứ nơi sự thành tựu mà nói. Ý của thuyết này nói: Nhân tuy thành tựu và không thành tựu đều có thể sinh quả. Nhưng thành tựu thì sức sinh quả mạnh. Mạnh, yếu tuy khác, nhưng về nghĩa làm nhân thì đồng. Lại, nhân gần xa tuy cùng thành tựu nhưng đối với việc sinh quả cũng có hơn, kém. Nếu chỉ là nhân, thì nhân kia tùy theo căn thiện cùng hợp, căn thiện sinh. Căn thiện đoạn xong, tức nên rốt cùng là không nối tiếp căn thiện. Nên nhân đồng loại căn cứ nơi công dụng cho quả, thọ dụng vô tận, không phải là nhân dị thục.

Môn nghĩa như thế, từng ở nơi xứ nào nói? Há không phải là trong phần biện về tướng nhân này đã nói.

Vị lai, hiện tại là nhân của quá khứ. Quá khứ, hiện tại là nhân của vị lai. Lại có duyên gì ở nơi phần vị đang mạng chung của A-lahán, tâm tâm sở pháp ngăn chận đẳng vô gián duyên, thừa nhận tánh của nhân đồng loại. Hai pháp này cho quả bằng nhau, không phải là cùng hợp. Nên đẳng vô gián duyên do sức mở rộng, các A-la-hán khi đang mạng chung, không có tâm tâm sở pháp vô gián sinh, do thiếu nhân duyên hòa hợp sinh, nên không có quả đẳng vô gián đã mở rộng. Thế nên cũng không có năng lực mở rộng, nên ngăn chận tướng đẳng vô gián duyên của pháp sau cùng. Nhưng quả của nhân đồng loại là chung cho gần xa. Lại, quả đã dẫn là không có hạn lượng, không phải quả đã nhận lấy tất định sẽ khởi, nên không thể giống với đẳng vô gián duyên. Ngăn chận phần vị sau, lập tánh của nhân đồng loại.

Có thuyết khác nói: Nhất định nên chỉ thừa nhận nơi quả vô gián, lập nhân đồng loại. Lại không nên nói tâm thiện, ác, vô ký thứ lớp khởi phần vị, không phải do niệm trước làm nhân đồng loại để tâm niệm sau khởi. Do nhận thấy hạt giống, mầm, cộng, lá, đơm hoa, kết trái của thế gian, là vật không giống nhau, lúc theo thứ lớp sinh, vô gián làm nhân, cùng nối tiếp mà khởi, không có cách vượt. Lại như lông, sừng có thể sinh cỏ bồ, cỏ lau.

Thuyết kia nói là phi lý. Vì hiện thấy thiện, ác, lúc tùy theo một pháp tăng, thì một pháp còn lại giảm. Lại, tu chủ thể đối trị, đối tượng đối trị nên tăng, thì vĩnh viễn tức nên không có nghĩa giải thoát khổ.

Lại, tập đối tượng đối trị, chủ thể đối trị nên tăng, là đều trở thành đạo của chủ thể đối trị. Các lỗi như thế v.v… thuyết kia đã không thể lìa bỏ. Lại, nhận thấy trí của thế gian học tập các thứ sách luận, công xảo v.v… đã được vững trụ, tuy gặp phải duyên khác, ở nơi trung gian khởi, nhưng phần vị sinh sau, trở lại dùng sự cùng nối tiếp của đồng loại nơi thời gian trước làm nhân mà khởi, nên nhân đồng loại cũng có cách vượt.

Các dụ như hạt giống, mầm v.v… đối với chứng cứ là không có công năng. Vật bên ngoài cùng sinh, theo thứ lớp an trụ. Pháp bên trong thì không như vậy, nên dụ là không có công năng. Như hạt giống vô gián, nhất định có mầm sinh, không phải là cộng, lá v.v… Tâm thiện vô gián không thấy nhất định có tâm như thế sinh. Lại, mầm vô gián, có thể có cộng thân sinh, không phải cộng thân vô gián, có thể có mầm sinh. Tâm thiện ác sinh theo thứ lớp là không nhất định.

Lại, các vật bên ngoài là theo thời phần quyết định. Pháp bên trong thì không như vậy, nên dụ không có công năng. Nghĩa là do công năng chuyên cần mạnh mẽ, và sức mạnh như giáo pháp v.v… thù thắng, người tu hành quán, lúc tâm thiện nhiều, cùng nối tiếp mà chuyển. Các kẻ tập dục, khi tâm ác nhiều, cùng nối tiếp mà chuyển. Không phải như mầm, cộng thân v.v… Do thời phần không nhất định, nên trong ngoài riêng khác. Lại, các loại lúa v.v… trong thứ lớp sinh khởi, tánh vô ký là đồng, có thể có nghĩa của nhân. Một loại như tâm v.v… trong thứ lớp sinh, tánh thiện v.v… là khác, không nên làm dụ.

Nói từ lông sừng, sinh cỏ bồ, cỏ lau, là Luận thế tục, cùng với lý là trái nhau. Nếu thừa nhận tương sinh, không có phân biệt đồng khác, vì sao không từ hai đều hai quả sinh. Nhưng lông sừng kia như hơi ấm của phân v.v… đối với sự việc sinh cỏ bồ, cỏ lau, chỉ tạo ra duyên thuận. Nên nhân đồng loại chỉ ở nơi tự loại hữu gián, vô gián, đều được thành nhân.

Như thế là đã biện về tướng của nhân đồng loại. Tướng của nhân tương ưng thứ tư là thế nào?

Tụng nêu:

Nhân tương ưng quyết định

Tâm tâm sở đồng nương.

Luận nói: Chỉ tâm tâm sở là nhân tương ưng. Há không phải là trong đây, vì không có phân biệt, nên hành tướng của thời, cảnh có dị biệt cũng tương ưng? Nếu như nói phân biệt ba thứ này là đồng, thì thân khác đồng nhờ dựa, nên nói là tương ưng. Nên nói đồng nương dựa, là nhằm ngăn chận chung vấn nạn này. Nghĩa là cần đồng dựa nơi tâm tâm sở pháp mới được lại cùng làm nhân tương ưng. Trong đây, nói đồng là chỉ rõ về đối tượng nương dựa là một. Nghĩa là nếu nhãn thức dùng nhãn căn của sát-na này làm chỗ nương dựa, tương ưng với thọ v.v… cũng tức dùng nhãn căn này làm chỗ nương dựa. Cho đến ý thức và pháp tương ưng, đồng dựa nơi ý căn, nên biết cũng như thế. Nay nên xét chọn. Các căn như mắt, tai v.v… tánh của đối tượng nương dựa là đồng, do đâu nói thức của chủ thể nương dựa kia cùng với đối tượng nương dựa đều khác, khiến phải nêu ra câu hỏi? Đối tượng nương dựa của các thức là dựa vào tánh tuy đồng, nhưng loại thì riêng khác.

Nếu như vậy vì sao nói nhận biết là đồng dựa, vì chỉ căn cứ nơi sát-na cùng sinh dựa vào nghĩa để nói nhãn thức v.v… là đồng một chỗ dựa. Không phải căn cứ vào thời gian dài, dựa vào nghĩa của chủng loại, nói các nhãn thức đồng một chỗ dựa. Lại, vô gián dựa nơi chủng loại là đồng, nên các thức như nhãn v.v… là nhân tương ưng. Đức Thế Tôn cũng dựa vào nghĩa của chủng loại đồng để nói các căn là chỗ dựa của các thức như nhãn v.v… Nên Khế kinh nói: Mắt thấy sắc xong, sinh ưu, hỷ, xả. Lại Khế kinh nói: Dùng mắt làm môn, chỉ vì thấy sắc. Những pháp này đều nói chủng loại đồng nương dựa. Thế nên trong tụng nên phân biệt như thế. Nghĩa là tâm tâm sở đồng thời, đồng nương dựa, nên trong giải thích kia, tự gồm thâu hai nghĩa. Tức là nếu nhãn thức dùng nhãn căn của sát-na này làm chỗ nương dựa, cho đến nói rộng.

Trong tụng đã thiếu câu nói đồng thời, làm sao biết được đây là đồng nương dựa. Không phải một chủng loại là một sát-na. Nếu cho trong giải thích đã thâu tóm, nên không có lỗi, nên tụng được tạo không nói đồng nương dựa, chỉ nói nhân tương ưng là tâm tâm sở quyết định.

Lại, nói tương ưng là đủ để ngăn chận các vấn nạn. Phi thời, nương dựa khác mà có thể có tương ưng. Chỉ nói tương ưng, tức nhận biết tất cả thời gian, chỗ nương dựa, hành tướng, cảnh sự đều đồng. Nếu thời gian, chỗ nương dựa khác, cảnh, hành tướng khác, là không tương ưng. Không phải là một, nhiều sự của chủng loại đều cùng khởi, là cùng tương ưng. Hai nhân câu hữu và tương ưng có sai biệt gì? Lại, pháp của nhân tương ưng, cũng là nhân câu hữu. Có pháp của nhân câu hữu, không phải là nhân tương ưng. Nghĩa là sắc tùy chuyển, đại chủng như sinh v.v… Nếu nhân tương ưng tức là nhân câu hữu, thì nghĩa của hai nhân trong đây có khác biệt gì? Không phải nhân tương ưng tức là nhân câu hữu, do nghĩa của hai nhân này đều khác. Nhưng tức một pháp là nhân tương ưng, cũng là nhân câu hữu, về nghĩa có sai biệt. Nghĩa không lìa nhau là nhân tương ưng. Nghĩa đồng một quả là nhân câu hữu. Lại, sức mạnh Lần lượt đồng sinh, trụ v.v… là nhân câu hữu. Nếu sức mạnh lần lượt đồng duyên nơi một cảnh là nhân tương ưng.

Có Sư khác cho: Do nghĩa cùng làm quả, lập nhân câu hữu. Như đám thương nhân cùng nương vào nhau, cùng đi qua đoạn đường nguy hiểm. Do nghĩa của năm thứ bình đẳng, lập nhân tương ưng. Tức như đám thương nhân đồng thọ nhận, đồng tạo ra sự việc ăn uống v.v…, thiếu một trong số ấy đều không tương ưng. Thế nên cực thành cùng làm nghĩa của nhân.

Như thế là đã biện về tướng của nhân tương ưng. Tướng của nhân biến hành thứ năm là thế nào?

Tụng nêu:

Biến hành tức khắp trước

Là nhân nhiễm đồng địa.

Luận nói: Nhân biến hành: Nghĩa là trước đã sinh tùy miên biến hành và pháp của phẩm cùng có, cùng với các pháp nhiễm ô của tự bộ, tha bộ nơi đồng địa sau đấy làm nhân biến hành.

Những gì gọi là pháp của phẩm Biến hành?

Trong phẩm Tùy miên sẽ phân biệt rộng. Do uy lực của nhân này, vượt quá uy lực của nhân đồng loại mà chuyển, nên kiến lập riêng. Cũng là nhân của pháp nhiễm nơi bộ khác, nên do uy lực ấy, phiền não của bộ khác và quyến thuộc của chúng cũng sinh trưởng, tức ở nơi tự bộ đã gồm thâu các phiền não. Vậy hai nhân đồng loại, biến hành có khác biệt gì? Do hữu thân kiến, các ái được sinh, các ái cũng có thể sinh hữu thân kiến.

Hai tướng sai biệt, vì sao có thể nhận biết. Hai nhân của tự bộ mình cũng có sai biệt. Nghĩa là chấp ngã, có thể khiến các ái sinh khởi kiên cố, tăng rộng, mãnh liệt, vì ngã kiến đã duyên khắp cảnh của các ái. Còn ái thì khiến cho ngã kiến sinh khởi kiên cố, nhưng không thể khiến tăng rộng mãnh liệt, không thể duyên khắp cảnh ngã kiến. Do các hoặc biến hành lần lượt cùng đối chiếu, đều có thể duyên khắp cảnh của đối tượng duyên. Mỗi mỗi hoặc biến hành đều cùng có thể khiến sinh khởi kiên cố, tăng rộng mãnh liệt. Nên hai nhân này không phải là không có sai biệt. Một thời, một phẩm, có thể làm hai nhân đồng loại, biến hành. Thế chúng có khác biệt gì? Tuy đồng thời nhận lấy hai quả đẳng lưu, nhưng quả của tự bộ thì tăng thịnh không phải là thứ khác, nên hai nhân kia cũng có sai biệt.

Do đâu tự bộ đã tăng thịnh?

Do môn của hai nhân đã được nuôi lớn. Do nhân này là nhân sinh gần của nhân kia, nên khiến nhân kia tăng rộng cùng mãnh liệt. Chỉ sinh nơi tự bộ thì hai nhân sao có khác biệt? Không có nhân biến hành, chỉ sinh nơi tự bộ. Nghĩa là pháp biến hành lúc đang hiện tiền, cùng lúc có sức nhận lấy quả của năm bộ.

Lại, như trước đã nói, hai nhân kia có sai biệt. Có Sư khác cho: Một phần của nhân câu hữu là nhân tương ưng. Một phần của nhân đồng loại là nhân biến hành.

Ý của Sư kia nói: Nghĩa của nhân biến hành tức là nhân đồng loại, nhưng không hợp lý, vì bộ khác cũng nên là đồng loại, tức không phải là biến hành, phải đối chiếu với bộ khác mới thành nhân đồng loại. Như thế là các nhân nên thành tạp loạn. Tuy các nhân lại đều không có Thể riêng, nhưng nghĩa của chúng thì cùng không xen tạp. Nếu pháp biến hành có thể làm nhân của pháp nhiễm ô nơi năm bộ, tức do kiến đạo đoạn, nên là nhân của tất cả pháp nhiễm ô. Tông đã thừa nhận như thế, không nên nêu vấn nạn. Luận Phẩm Loại Túc đã nói như thế này: Thế nào là pháp của nhân do kiến đạo đoạn? Nghĩa là các pháp nhiễm ô cùng pháp đã chiêu cảm dị thục do kiến đạo đoạn.

Thế nào là pháp của nhân thuộc vô ký?

Nghĩa là các pháp hữu vi vô ký và pháp bất thiện. Hoặc có khổ đế dùng hữu thân kiến làm nhân, không phải cùng với hữu thân kiến làm nhân. Nói rộng cho đến trừ hữu thân kiến ở vị lai và pháp tương ưng của hữu thân kiến kia là sinh, lão, trụ, vô thường, còn lại là khổ đế của các nhiễm ô.

Nếu như vậy tức nên trái với Luận Thi Thiết Túc. Như Luận kia nói: Từng có pháp là bất thiện, chỉ là bất thiện làm nhân?

Có. Nghĩa là Thánh nhân lìa dục bị thoái chuyển do đầu tiên đã khởi tư nhiễm ô. Dựa nơi nhân chưa đoạn, mật ý nói như thế. Nhân của tư nhiễm ô này tuy có đủ bất thiện, vô ký, nhưng nhân vô ký trước đã vĩnh viễn đoạn. Thánh nhân thoái chuyển vị, các Hoặc do kiến đạo đoạn, đều đã đoạn, nên tất cả kiến đạo tất không có thoái chuyển. Vô ký, nhiễm ô của cõi dục đều do kiến đạo đoạn, nên chỉ là nhân bất thiện thoái thất là thành, nói là chưa đoạn, thế nên không có lỗi.

Nếu pháp đã đoạn cũng có thể làm nhân, thì do đâu các Thánh, Bổ-đặc-già-la, ở trong các loại mạn của triền giận dữ nặng không có ái từng không hiện khởi?

Vì đoạn kiến, tà kiến, Tát-ca-da-kiến, đều đã đoạn, nên không có ái v.v… Theo thứ lớp ấy, vì ái kia là khởi gần, nên ái ấy ở nơi phần vị hiện nay. Vì sao là nhân?

Không phải ái kia ở nơi hiện nay mới thành nghĩa của nhân, mà ở tại phần vị phàm phu, các pháp nhiễm do tu đạo đoạn trừ, đã dùng kiến đạo đoạn làm nhân biến hành.

Nếu pháp cùng với pháp kia làm nhân, thì không lúc nào pháp này không phải là nhân của pháp kia. Nên tuy đã đoạn, nhưng nhân thì có thể nói. Nên biết trong đây, tùy miên biến hành của quá khứ, hiện tại, làm nhân của năm bộ, có thể duyên nơi năm bộ, cũng là đối tượng tùy tăng của năm bộ. Pháp tương ưng của tùy tăng kia, trừ sinh v.v… của đối tượng tùy tăng, lại trừ chủ thể duyên nơi năm bộ, thì đắc của các pháp kia không phải là nhân biến hành. Hoặc vì trước sau, vì tánh thưa, xa, và vì không phải là một quả. Có tùy miên biến hành, không phải là nhân biến hành. Nghĩa là tùy miên biến hành của đời vị lai. Có nhân biến hành, không phải là tùy miên biến hành. Nghĩa là tùy miên biến hành của quá khứ, hiện tại, nơi pháp của một quả có cùng. Nghĩa là tùy miên biến hành của quá khứ, hiện tại, có cùng khôngf. Tức là các pháp còn lại. Có ở trong đây, nêu vấn nạn như thế này: Nếu nói các kiến, nghi và vô minh làm nhân biến hành, sinh quả của loại khác, cùng với dị biệt khác, gọi là biến hành, thì trong không phải là biến hành cũng có dụng này. Nghĩa là tùy miên tham, tham đắm ở nơi cảnh, có thể làm căn bản của tất cả hành tà. Như có tà kiến khiến tùy miên tham, ở trong các cảnh đã tham đắm, mãnh liệt.

Như thế, có tham cũng khiến tà kiến ở nơi đối tượng duyên của chính nó đã tăng rộng, thêm mãnh liệt. Cho đến dẫn dắt tà kiến kia khiến đoạn dứt căn thiện. Như có tà kiến hủy báng diệt, đạo, đã dẫn dắt tùy miên tham khiến ưa thích sinh tử.

Như vậy, có tham ưa thích sinh tử rồi, có thể dẫn dắt tà kiến khiến hủy báng diệt, đạo.

Thế nên chỉ chấp kiến nghi vô minh làm nhân biến hành, sinh quả của năm bộ, không phải thứ khác như tham v.v…, về lý là nhất định không thành.

Vấn nạn này là không đúng, vì dụng của nhân có riêng khác. Do tùy miên không hiện bày khắp, nên dùng chung các pháp nhiễm ô của năm bộ, chỉ là quả sĩ dụng và quả tăng thượng, lần lượt có thể làm đẳng vô gián duyên khiến hiện khởi và khi pháp kia sinh không bị chướng ngại, nên tùy miên biến hành cũng dùng các pháp nhiễm ô của năm bộ làm quả đẳng lưu. Quả này, pháp kia đâu có đắc riêng khác như thế. Vì tùy miên biến hành duyên chung nơi tất cả pháp hữu lậu, nên uy lực kiên cố, tăng rộng, mãnh liệt. Lúc vừa sinh xong, liền có thể dẫn phát quả của loại đồng, dị. Tùy miên không hiện khắp thì không như thế, vì cảnh của duyên hẹp, ít, công năng kém. Nên tuy tùy miên tham đắm chấp nơi cảnh giới, cũng cùng với tà kiến làm nhân lần lượt. Cho đến dẫn dắt khiến đoạn các gốc thiện. Nhưng không phải là vừa khởi đã tức thì dẫn dắt pháp nhiễm ô của năm bộ tự tha, làm quả đẳng lưu. Có tùy miên tham ưa thích sinh tử rồi, có thể dẫn dắt tà kiến hủy báng diệt, đạo: Tức là trong một bộ này lần lượt cùng dẫn dắt, không phải ở nơi bộ khác, nên cũng không trái nhau. Hoặc lại vì nghĩa của nhân rất xâu xa khó hiểu rõ, có vô biên khác biệt, không phải dễ có thể nhận biết. Nghĩa là trong các pháp, đều không có tác dụng của tác giả chân thật, nhưng lại nói có vô lượng thứ nhân, có thể chiêu cảm các quả. Tức đối với các quả, đây là nhân gần, đây là nhân xa. Nhân này khiến sinh, nhân này khiến diệt. Nhân này khiến cho quả kia có. Nhân này không làm hại. Nhân này có thể lôi kéo, dẫn dắt. Nhân này làm chỗ dựa. Nhân này như bạn hỗ trợ. Nhân này như hạt giống. Nhân này như thức ăn uống. Nhân này như thuốc chữa bệnh.

Các nghĩa của nhân như vậy là sai biệt vô biên, chỉ là cảnh giới nơi đối tượng hành hóa của Đức Phật, Thế Tôn.

Như thế là đã biện về tướng của nhân biến hành. Tướng của nhân dị thục thứ sáu là thế nào?

Tụng nêu:

Nhân dị thục bất thiện

Cùng thiện chỉ hữu lậu.

Luận nói: Chỉ các pháp bất thiện và pháp thiện hữu lậu là nhân dị thục. Vì pháp dị thục tùy theo chỗ ứng hợp. Nhân này có thể chiêu cảm quả dị thục, nên gọi là nhân dị thục.

Nay ở trong đây, nhân là nghĩa gì? Nghĩa là pháp tùy theo nghiệp, có thể phân biệt hữu tình, nên Khế kinh nói: Các loại hữu tình hơn kém, cao thấp, do nghiệp đã phân biệt. Lại, Khế kinh nói: Nghiệp là nhân sinh. Trong tụng cùng âm thanh làm rõ nhân này cùng với tánh tướng của quả tuy khác nhưng phẩm loại không có xen tạp. Nói chữ chỉ (Chỉ các pháp…) là nhằm ngăn chận Thể của nhân dị thục gồm thâu nghĩa của các nhân. Nghĩa là có Sư khác cho: Tất cả quả đều gọi là dị thục. Kinh kia cũng nên thừa nhận Thể của nhân dị thục gồm thâu tất cả nhân. Nói chỉ là khiến chớ nên đồng với lối cố chấp của Sư khác như thế.

Sư kia do đâu lại chấp tất cả quả đều gọi là dị thục?

Do Khế kinh đã nói: Ánh sáng lớn này có dị thục gì? Lại Khế kinh nói: Hai thứ thí thức ăn đã chiêu cảm dị thục bình đẳng, bình đẳng. Lại nói: Ái là dị thục của thọ. Lại nói: Như Lai nếu không nói lời này, thì các thời chúng không có dị thục như thế. Lại nói: Giấc mộng này có dị thục gì? Lại các thế gian cũng nói: Ăn v.v… là dị thục của vui thích. Loại này thật là nhiều.

Các lời nói dị thục này đều căn cứ nơi dụ để giả nói. Như mắt, phước điền, ái, nói tiếng là biển, lửa, mẹ.

Làm sao nhận biết trước cũng căn cứ nơi dụ để nói? Nếu không như vậy, thì các pháp vô lậu nên có dị thục chăng?

Tuy nhiên, các Khế kinh đều đã ngăn chận nghĩa của pháp vô lậu có dị thục, nên nói tư vô lậu là không phải đen, không phải trắng, là nghiệp không có dị thục, có khả năng dứt hết các nghiệp, nên nói là pháp vô lậu. Đã dẫn dắt đẳng lưu gọi là dị thục: Tức tuy hữu tình kia chấp lập danh ngôn khác nhưng về nghĩa thì không khác. Lại trong các kinh cũng có căn cứ nơi dụ để giả nói như thế. Như người có thọ mạng ngắn, nói là quả đẳng lưu sát của sinh. Tăng thượng ở đây được nói bằng từ đẳng lưu, cho vô phú vô ký của nghiệp bất thiện làm quả đẳng lưu, là không hợp lý.

Do đâu nhất định nhận biết chỉ là pháp bất thiện và pháp thiện hữu lậu là nhân dị thục?

Vì Khế kinh nói. Nghĩa là Khế kinh nói: Có nghiệp của dị thục đen đen. Có nghịêp của dị thục trắng trắng. Có nghiệp của dị thục đen trắng, đen trắng. Có nghiệp của dị thục không phải đen, không phải trắng, có khả năng dứt hết các nghiệp.

Lại, Khế kinh nói: Hiện thấy lãnh nhận dị thục vừa ý. Hoặc lại lãnh nhận dị thục buồn khổ, thảm thương. Do thiện bất thiện.

Lại nói: Ta gặp phải lúc thân nghiệp v.v… bị tổn hại. Nghĩa là khổ thọ sinh dị thục thọ nhận khổ. Lại nói: Ta gặp được lúc thân nghiệp v.v… có tăng ích. Nghĩa là lạc thọ sinh dị thục thọ nhận lạc.

Các chứng cứ như thế v.v… loại ấy là rất nhiều. Lại, như hai nhân đồng loại, dị thục, về nghĩa không cùng xen tạp. Hai quả đẳng lưu, dị thục, cũng nên không cùng lẫn lộn. Tuy các dị thục không vượt quá đẳng lưu, nhưng dị thục kia không phải là đẳng lưu ấy, nên biết quả đẳng lưu, dị thục là khác. Đức Phật quán xét sự lãnh hội thích hợp của đối tượng được hóa độ có khác biệt, nên giảng nói pháp có khác nhau. A-tỳ-đạt-ma dựa nơi lý chân thật để phán quyết các pháp, nên không phải dị thục đã gồm thâu chung các quả. Kinh nói: Các nghiệp có ba quả. Nếu tất cả quả đều là dị thục, thì kinh không nên nói quả cùng dị thục. Nếu chấp các quả đều là quả dị thục, thì nên thừa nhận các nhân đều là nhân dị thục. Kinh nói: Các nghiệp là nhân sinh. Như mắt, tai v.v… là do nghiệp đời trước làm nhân, nên từ nhân sinh đều do nghiệp đời trước. Đây tức là kinh nói vô minh làm nhân, khởi tham, sân, si.

Cùng có kinh nói: Vì có nhân duyên nên chúng sinh đắm nhiễm. Các nhân duyên này đều nên nhân nơi nghiệp đời trước, thừa nhận cũng đâu có lỗi. Như vô số thứ thân là quả của nghiệp đời trước, phiền não hiện hành có sai biệt cũng như thế. Tức là nên đồng với tà luận ly hệ, không phải là đệ tử Phật. Lại, phần luận thêm phá trừ ngu tối như thế nên dừng. Pháp tướng căn bản, nay nên chánh biện.

Vì sao vô lậu không chiêu cảm dị thục?

Tỳ-bà-sa nói: Vì không có ái làm thấm nhuần. Như hạt giống chắc thật, không có nước tưới thấm. Lại, pháp vô lậu đã không hệ thuộc nơi địa làm sao có thể chiêu cảm dị thục hệ thuộc nơi địa? Vì sao vô ký không chiêu cảm dị thục?

Do sức yếu kém. Như hạt giống hư mục. Thiện, bất thiện còn lại, có thể chiêu cảm dị thục. Như có nước làm thấm nhuần các hạt giống chắc thật. Nhưng nhân dị thục, hoặc là trì nghiệp thích. Nên Khế kinh nói: Dị thục sinh mắt. Hoặc là y chủ thích. Nên Khế kinh nói: Dị thục của nghiệp, nghĩa như trước đã biện. Nói dị thục: Nghĩa là hoặc lìa nhân mà thục, hoặc khác (dị) nhân mà thục. Hai thứ này thuộc về quả. Hoặc nghiệp đã tạo, đến khi đắc quả, biến đổi mà có thể thục. Một nghiệp này là thuộc nhân. Nhưng Kinh chủ nói: Sư Tỳbà-sa tạo ra giải thích như thế này: Khác (dị) loại mà thục, là nghĩa của dị thục. Nghĩa là nhân dị thục, chỉ là khác loại mà thục. Nhân câu hữu v.v… chỉ là đồng loại mà thục. Một nhân năng tác gồm cả đồng loại dị loại mà thục, nên chỉ một nhân này, gọi là nhân dị thục. Cho đến nói rộng. Giải thích như thế đều không hợp lý.

Sư Tỳ-bà-sa không phải quyết định nói: Sáu nhân đã đạt được đều gọi là thục.

Nếu như thừa nhận như thế, là tên gọi khác của quả, cũng không có lỗi. Nhân dị thục này, nói chung có hai: (1) Khả năng lôi kéo, dẫn dắt. (2) Khả năng viên mãn.

Lại, chúng đồng phần cùng với mạng căn, không phải là bất tương ưng hành, một mình đã có thể lôi kéo, dẫn dắt.

Làm sao nhận biết như thế?

Do Khế kinh nói. Như Khế kinh nói: Nghiệp là nhân sinh. Lại nói: Nghiệp khiến sinh tử luân chuyển. Lại nói: Nghiệp lực có thể phân biệt hữu tình. Lại nói: Cõi thấp kém do nghiệp tư đã dẫn dắt. Nên biết cõi thấp kém tức là dục hữu. Lại, Luận Phẩm Loại Túc nói: Các mạng căn là dị thục của nghiệp, không phải là nghiệp. Bất tương ưng hành không là nghiệp. Có các giải thích câu nói của Luận Phẩm Loại Túc này cho: Tất cả mạng căn đều là dị thục. Đối với sự việc chiêu cảm dị thục thì sức của nghiệp là hơn hết. Do ý nghĩa sâu xa này nên nêu bày như thế. Há không phải là giải thích này lại chuyển biến có thể ngăn chận bất tương ưng hành có sức lôi kéo, dẫn dắt như là nghiệp đối với dị thục? Vì là nhân vượt hơn, nên chúng đồng phần của mạng căn là dị thục thù thắng. Thừa nhận chỉ nghiệp chiêu cảm chúng đồng phần của mạng căn, mới có thể nói được, là đối với sự việc chiêu cảm dị thục thì sức của nghiệp là hơn hết. Nếu khác thì không nên như thế. Chủ yếu là lúc nghiệp lôi kéo, dẫn dắt chúng đồng phần của mạng căn, thì không phải nghiệp duyên ở đây cũng có thể chiêu cảm dị thục. Nếu chấp phi nghiệp cũng có khả năng lôi kéo, dẫn dắt dị thục vượt hơn, thì không nên nói là đối với sự việc chiêu cảm dị thục thì sức của nghiệp là hơn hết. Thế nên cách giải thích kia nhất định là không hợp lý. Không phải tâm tùy chuyển nơi hai nghiệp thân, ngữ nhất định không thể dẫn dắt chúng đồng phần của mạng căn. Không như vậy là trái với chánh lý của Khế kinh. Kinh nói: Cõi thấp kém do tư đã dẫn dắt. Đây là nói chúng đồng phần của mạng căn thuộc dục hữu, chỉ do ý nghiệp chiêu cảm, không phải là thân, ngữ nghiệp. Biểu nghiệp thân ngữ có rất nhiều cực vi, do một tâm đã khởi, trong ấy chỉ một dẫn dắt chúng đồng phần cùng với mạng căn, pháp khác thì không có công năng này, là không hợp lý.

Nếu thừa nhận đồng thời cùng chiêu cảm một quả, tức nên lại cùng làm nhân câu hữu. Sắc được tạo có đối làm nhân câu hữu, không phải là Tông đã thừa nhận, vì nhân này không phải do sức lần lượt sinh ra. Lại, không phải thứ lớp nơi mỗi mỗi cực vi lôi kéo, dẫn dắt mạng căn và chúng đồng phần. Vì một tâm khởi, không phải một tâm khởi, không khác với công năng dẫn dắt riêng sinh sau, nhưng không có lỗi. Không phải là mãn nghiệp cũng có lỗi này. Ở trong một sinh, đều có thể riêng nhận lấy sắc, hương, vị v.v… Vì quả viên mãn, nên dựa vào vô biểu này, cũng đồng với giải thích ấy. Phần nhiều là xa lìa thể, vì một tâm khởi, nên không thừa nhận cùng làm nhân câu hữu. Nếu sắc được tạo không có đối, có không phải nhân câu hữu mà nói câu có đối tức là vô dụng, làm rõ sắc được tạo có đối đều không phải là nhân câu hữu. Nên nói thế này: Có sắc được tạo không có đối có thể làm nhân câu hữu, không thể đồng với sắc được tạo có đối kia.

Nếu cho hai nghiệp thân ngữ hệ thuộc cõi dục, không thể lôi kéo dẫn dắt, là trái với Khế kinh. Như nói: Sát sinh, hoặc tạo, hoặc hành tác, hoặc hành tác nhiều thì sinh nơi Na-lạc-ca, cho đến nói rộng. Lại trái với Bản luận. Như nói: Ở trong ba hành ác này thì tội nào là lớn nhất? Nghĩa là có thể tùy thuận vọng ngữ phá hoại tăng. Nghiệp này có thể nhận lấy dị thục một kiếp thọ mạng trong ngục vô gián. Thọ mạng nhất định nói là đã lôi kéo dẫn dắt đến quả. Đây là nói về đối tượng khởi, hiển bày chủ thể khởi là tư. Vì thô dễ hiểu rõ, nên không có lỗi trái nhau. Ở trong cõi dục, có khi một uẩn làm nhân dị thục, cùng chiêu cảm một quả. Nghĩa là đắc hữu ký và sinh v.v… của đắc đó. Có khi hai uẩn làm nhân dị thục, cùng chiêu cảm một quả. Nghĩa là sắc thiện, bất thiện và sinh v.v… Có khi bốn uẩn làm nhân dị thục, cùng chiêu cảm một quả. Nghĩa là tâm tâm sở pháp thiện, bất thiện và sinh v.v… của pháp kia. Ở cõi dục không có sắc tùy chuyển, nên không có năm uẩn làm nhân dị thục, cùng chiêu cảm một quả.

Có Sư khác nói: Cõi dục cũng có năm uẩn làm nhân, cùng chiêu cảm một quả. Nghĩa là đồng với sắc biểu, vô biểu của sát-na và có thể khởi tâm tâm sở pháp này.

Sư kia nói không đúng. Vì thân ngữ được đối tượng khởi cùng với các chủ thể khởi, về dị thục là riêng khác, tức chủ thể khởi, đối tượng khởi, không phải nhất định là một thời, nên quả đã được chiêu cảm, không phải nhất định là cùng khởi. Nghĩa là chủ thể khởi, đối tượng khởi, chấp nhận ở nơi một thời, có thể nhận lấy quả. Tức nên một quả, về lý cũng không đúng. Tuy chủ thể khởi, đối tượng khởi công nhận là có một thời, nhưng quả là khác. Thế nên biểu cùng với vô biểu tuy đồng một sát-na, nhưng quả đã nhận lấy hãy còn có sai biệt. Lại, các biểu nghiệp có nhiều cực vi, vô biểu cũng có nhiều sự việc xa lìa, tất đồng thời khởi, quả hãy còn có khác nhau, huống chi là khả năng khởi tâm tâm sở pháp cùng với sắc không tùy chuyển mà đồng nhận lấy quả.

Nên thuyết kia đã nói, về lý nhất định không hợp. Ở trong cõi sắc, có khi một uẩn làm nhân dị thục, cùng chiêu cảm một quả. Nghĩa là đắc hữu ký, đẳng chí vô tưởng và sinh v.v… của đẳng chí kia. Có khi hai uẩn làm nhân dị thục, cùng chiêu cảm một quả. Nghĩa là nghiệp hữu biểu thiện của tĩnh lự thứ nhất và sinh v.v… của pháp ấy. Không phải ở tĩnh lự thứ hai trở lên, có các biểu nghiệp, vì không có khả năng khởi. Có khi bốn uẩn làm nhân dị thục, cùng chiêu cảm một quả. Nghĩa là không có sắc tùy chuyển, các tâm tâm sở pháp thiện và sinh v.v… của tâm tâm sở kia. Ở đây có sáu tâm như phần sau sẽ nói. Có khi năm uẩn làm nhân dị thục, cùng chiêu cảm một quả. Nghĩa là có sắc tùy chuyển, các tâm tâm sở pháp và sinh v.v… của pháp kia. Trong cõi vô sắc, có khi một uẩn làm nhân dị thục cùng chiêu cảm một quả. Nghĩa là đắc hữu ký, đẳng chí diệt tận và sinh v.v… của pháp ấy. Có khi bốn uẩn làm nhân dị thục, cùng chiêu cảm một quả. Nghĩa là tất cả tâm tâm sở pháp thiện.

Như thế gồm có chín nhân dị thục. Nghĩa là trong ba cõi, như số thứ lớp, là ba bốn hai thứ phẩm loại có sai biệt. Có nghiệp chỉ chiêu cảm dị thục của một xứ, nghĩa là chiêu cảm pháp xứ, tức là mạng căn v.v… Nếu chiêu cảm ý xứ, nhất định chiêu cảm hai xứ, là ý cùng với pháp. Nếu chiêu cảm xúc xứ, nên biết cũng chiêu cảm hai, là xúc cùng với pháp. Nếu chiêu cảm sắc xứ, nhất định chiêu cảm ba xứ, là sắc, xúc và pháp. Nếu chiêu cảm hương, vị, nên biết cũng có ba, là mỗi thứ hương, vị đều là một và xúc cùng với pháp. Nếu chiêu cảm thân xứ, nhất định chiêu cảm bốn xứ, là thân xứ, sắc xứ, xúc xứ, pháp xứ. Nếu chiêu cảm nhãn xứ, nhất định chiêu cảm năm xứ, là nhãn, thân, sắc, và xúc xứ, pháp xứ. Chiêu cảm các xứ nhĩ, tỷ, thiệt nên biết cũng có năm xứ, là nhĩ, tỷ, thiệt đều là một cùng bốn xứ thân sắc xúc pháp.

Có nghiệp có thể chiêu cảm sáu, bảy, tám, chín, mười, mười một xứ. Vì thanh không phải là dị thục, nên ở đây không luận. Nghiệp hoặc có ít quả, hoặc có nhiều quả. Như quả của chủng loại ngoài, hoặc ít, hoặc nhiều. Như chủng loại sen v.v… có rễ, mầm, cộng, hoa, đài, tua, lá với nhiều thứ quả khác. Chủng loại bồ đào v.v… thì không như thế. Chủng loại Ba đạp ba có nhiều rễ, cộng, nhánh, cành, hoa, lá, với vô số thứ quả khác. Có các chủng loại như cây cỏ sống dưới nước, trên đất liền, chỉ có một cộng, như cây châm mao v.v… Hoặc chỉ có lá, không có cộng thân v.v… Pháp sinh chủng tử là như thế, không nên nêu nghi vấn.

Có nghiệp một niệm sinh dị thục nhiều niệm. Không có nghiệp nhiều niệm sinh dị thục một niệm. Chớ nên nêu đặt cho quả khó nhọc thì nhân giảm. Có nghiệp của một đời sinh dị thục của ba đời. Không có nghiệp của ba đời sinh dị thục của một đời. Uy lực chiêu cảm dị thục là pháp như thế. Nhưng quả dị thục không cùng với nghiệp đều cùng có. Không phải lúc tạo nghiệp liền thọ nhận quả.

Lại, nghiệp hiện tại, không phải tức là pháp của quả đã thục. Môn thọ nghiệp theo lý quyết định, nên cũng không phải là vô gián. Do sức của đẳng vô gián duyên nơi sát-na tiếp theo đã dẫn dắt, nên sức của sát-na đang khởi là khó chế ngự. Lại, nhân dị thục chiêu cảm quả của loại khác, tất phải chờ đợi sự cùng nối tiếp mới có thể hoàn thành.

Đã nói về sáu nhân. Sẽ nói về thế định (Xác định ở vào đời nào).

Tụng nêu:

Biến hành cùng đồng loại

Ba đời, ba đời, ba.

Luận nói: Biến hành, đồng loại, chỉ ở nơi đời quá khứ, hiện tại. Đời vị lai thì không có, về lý như trước đã nói. Ba nhân tương ưng, câu hữu, dị thục, ở trong ba đời thảy đều có khắp. Tụng đã không nói về nghĩa thuộc nơi chốn cư trú của nhân năng tác. Căn cứ theo đấy nên biết là chung cho cả ba đời, cùng không phải đời, không thể nói về thời phần nhất định của nhân kia.

HẾT – QUYỂN 16