LUẬN A TỲ ĐẠT MA THUẬN CHÁNH LÝ
Tác giả: Tôn giả Chúng Hiền
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 12

 Phẩm thứ 2: BIỆN VỀ SAI BIỆT, phần 4

Trong pháp không sắc, đã biện về tâm tâm sở. Nay tiếp theo sẽ biện về tâm bất tương hành.

Tụng nêu:

Tâm bất tương ưng hành

Đắc, phi đắc đồng phần

Hai định vô tưởng mạng

Tướng, danh, thân các loại.

Luận nói: Đẳng (Tướng danh thân đẳng loại): Là cùng nhận lấy cú thân, văn thân và tánh hòa hợp. Loại: Là làm rõ pháp khác đã được xét tính, tức chủng loại trước, nghĩa là có xét tính. Lìa đắc v.v… thì có tánh như đắc v.v… của uẩn.

Các pháp như thế, vì không cùng với tâm tương ưng, nên gọi là tâm bất tương ưng hành. Không phải như tâm sở cùng với tâm là cùng một đối tượng nương dựa, đối tượng duyên tương ưng mà khởi.

Nói tâm: Là hiển bày trong đây đã nói về đắc v.v…, là chủng loại của tâm. Các tâm sở pháp, về đối tượng nương dựa, đối tượng duyên đều đồng với tâm, nên cũng là chủng loại của tâm. Vì phân biệt pháp tương ưng kia, nên nói bất tương ưng. Các pháp vô vi, cũng là chủng loại của tâm, vì không có đối tượng nương dựa, đối tượng duyên, nên cũng là bất tương ưng. Vì muốn phân biệt với pháp vô vi kia, nên lại nói hành. Đây là đã nêu chung. Lại nên giải thích riêng. Ở đây lại biện về tướng của đắc, phi đắc.

Tụng nêu:

Đắc là được thành tựu

Phi đắc trái với đắc

Đắc, phi đắc chỉ ở

Tự nối tiếp hai diệt.

Luận nói: Đắc là được thành tựu, nghĩa tuy là một mà môn nương dựa là khác, nói danh sai biệt. Đắc có hai thứ, nghĩa là trước chưa đắc và trước đã đắc. Trước chưa đắc mà đắc, gọi là được. Trước đã đắc mà đắc, gọi là thành tựu. Nên biết phi đắc là cùng với đắc này trái nhau. Nghĩa là trước chưa đắc và đắc rồi mất. Phi đắc của chưa đắc gọi là không được. Phi đắc của đã mất gọi là không thành tựu. Nên nói tánh phàm phu, gọi là không được pháp Thánh.

Ở trong pháp nào có đắc, phi đắc?

Là trong hữu vi, đối với tự cùng nối tiếp, có đắc, phi đắc, không phải là sự cùng nối tiếp của người khác và không phải cùng nối tiếp.

Nếu uẩn gắn liền trong phần tự cùng nối tiếp, thì có thể có thành tựu, không thành tựu. Uẩn cùng nối tiếp của người khác và uẩn phi tình, tất không có thành tựu, không thành tựu. Trong pháp vô vi, chỉ đối với hai diệt là có đắc phi đắc. Tất cả hữu tình đều thành tựu phi trạch diệt.

Nên trong Đối Pháp, có nói như thế này: Cái gì thành pháp vô lậu? Nghĩa là tất cả hữu tình, trừ Thánh giả bị trói buộc đủ (Cụ phược) nơi sát-na đầu tiên và tất cả phàm phu khác bị trói buộc đủ. Các hữu tình còn lại đều thành trạch diệt. Quyết định không có thành tựu hư không, do ở nơi hư không không có đắc, nên cũng đều thành tựu, vì không có phi đắc.

Nếu pháp có đắc, cũng có phi đắc. Nếu pháp không có đắc, cũng không có phi đắc. Lý ấy là quyết định. Dựa vào đắc ấy, nên nói như thế này: Sắc uẩn, hành uẩn, một đắc, đối tượng đắc. Uẩn khác, hành uẩn, nêu bày cũng như thế. Hữu lậu, vô lậu, một đắc, đối tượng đắc, hữu vi, vô vi, một đắc, đối tượng đắc. Các loại như thế v.v… nên tư duy như lý.

Trong đây, Kinh chủ nêu ra câu hỏi: Do đâu nhận biết có vật riêng gọi là đắc? Nên đáp lại câu hỏi kia: Vì Khế kinh nói. Như trong Khế kinh Đức Bạc-già-phạm nói: Nên biết Bổ-đặc-già-la như thế, thành tựu pháp thiện cùng pháp bất thiện.

Nếu cho kinh nói có Chuyển luân vương thành tựu bảy báu là có lỗi thái quá, thì vấn nạn này là không đúng, vì vua đối với bảy báu được tự tại vô ngại, gọi là thành tựu.

Nếu cho kinh khác đã nói về thành tựu cũng nên như thế, thì lời nói này cũng không đúng. Do hiện tại: Là chỉ ở nơi hiện tại, có sức tự tại, không phải ở quá khứ, vị lai. Nghĩa là Chuyển luân vương có sức tự tại đối với bảy báu hiện có, là quả tăng thượng, vì luôn hiện tiền, tùy theo ý thích mà chuyển, có thể gọi là thành tựu. Pháp thiện bất thiện thì không quyết định.

Lại, như pháp thiện, lúc hiện tiền, Bổ-đặc-già-la đối với pháp thiện hiện tại có thể nói là thành tựu. Ở trong pháp bất thiện của quá khứ, vị lai kia, nên lại nêu bày chỉ rõ.

Nếu không có đắc hiện tại thì do pháp riêng nào nói là tự tại?

Là pháp bất thiện hiện tiền. Nêu câu hỏi về thiện cũng như vậy. Huống chi là chấp quá khứ, vị lai hoàn toàn không có Thể, thì đối với tự tại nào nói là thành tựu?

Nếu ở nơi vị lai có thể sinh khởi sức, gọi là thành tựu, thì lý cũng không hợp, tức là nên có lỗi phi ái. Nghĩa là các phàm phu trụ nơi hữu sau cùng, nhất định sinh vô lậu nên là Thánh giả. Các A-lahán trụ nơi tâm sau cùng, quyết định không thể sinh vô lậu nữa, nên không phải là A-la-hán, bèn thoái chuyển thành phàm phu trụ nơi thế tục. Phiền não do nhẫn nơi kiến đạo đoạn trừ, tất không sinh lại, nên là quả Dự lưu. Lại, nếu thừa nhận có vật riêng gọi là đắc, thì có phi lý nào?

Phi lý như thế, nghĩa là đắc của đối tượng chấp, không có Thể để có thể nhận biết, như sắc, thanh v.v…, hoặc tham, sân v.v… Không có dụng để có thể nhận biết, như mắt, tai v.v… Nên không chấp nhận có vật riêng gọi là đắc, chấp có vật riêng, đó là phi lý. Điều này nhất định không đúng, vì không phải phi lý. Do đã thừa nhận đắc là pháp đã đạt được, không mất nhân. Lại, nhận biết đây là hệ thuộc nơi kia. Trí đã nêu dẫn, nên trừ đắc này lại có dụng lớn riêng nào có thể vượt qua đắc này, để nói đắc ấy là không có.

Nếu như vậy thì đâu dùng chấp đắc này, vì chỉ trong đối tượng nương dựa đã có các chủng tử chưa sinh khởi, chưa tổn giảm, tăng trưởng tự tại. Nơi phần vị như thế, lập tên thành tựu. Do thành tựu này, không mất các pháp đã đạt được. Cũng là đây thuộc về kia, trí đã nêu dẫn.

Điều này lại là thế nào?

Lại, các pháp thiện lược có hai thứ: (1) Không do công sức tu đắc. (2) Cần do công sức tu đắc. Tức gọi là sinh đắc và gia hạnh đắc.

Không do công sức mà tu đắc: Nếu trong đối tượng nương dựa, chửng tử chưa bị tổn hại, gọi là thành tựu. Nếu trong đối tượng nương dựa, chủng tử đã bị tổn hại, thì gọi là không thành tựu. Nghĩa là kẻ đoạn dứt thiện, do sức của tà kiến đã tổn hại chủng tử của căn thiện trong đối tượng nương dựa, nên biết gọi là đoạn. Không phải chủng tử của căn thiện trong đối tượng nương dựa hoàn toàn bị hại dứt, gọi là đoạn.

Cần do công sức mà tu đắc: Nghĩa là nếu trong đối tượng nương dựa, pháp kia đã khởi, sinh công sức kia tự tại không tổn hại, gọi là thành tựu. Cùng với đây trái nhau, gọi là không thành tựu. Bất thiện, vô ký, do đạo đối trị, đoạn trừ điều phục chủng tử, hoặc không có công sức có thể sinh hiện hành, gọi là không thành tựu. Cùng với không thành tựu này trái nhau, gọi là thành tựu. Thế nên đắc của đối tượng chấp liền là vô dụng.

Vô số thứ đối tượng chấp điên đảo như thế, chỉ có lời nói hư giả, không có nghĩa thật.

Lại, chấp nơi pháp nào gọi là chủng tử?

Nghĩa là danh cùng với sắc, đối với sinh tự quả hiện có công năng lần lượt gần gũi. Đây là do sự việc cùng nối tiếp, chuyển biến có sai biệt.

Danh sắc là gì?

Tức là năm uẩn.

Vì sao chấp năm uẩn này làm tánh của chủng tử?

Có thể làm nhân sinh của các pháp như thiện v.v… làm chung, làm riêng, làm chủng loại của chính nó.

Lại, chỗ chấp của ông chỉ nên từng ấy. Nếu nói là chung, thì Thể của chủng tử nên là giả. Giả làm nhân của thật, tức không hợp với chánh lý. Nếu nói là riêng thì vì sao có thể chấp chủng tử của sắc vô ký, làm nhân sinh của các pháp thiện, bất thiện? Nếu pháp thiện của tự chủng loại là vô gián thì pháp bất thiện sinh hoặc lại cùng trái nhau thì dùng gì làm chủng tử? Thiện ái không phải là ông đã giải thích về tánh của chủng tử. Tâm trước cùng sinh tự có sai biệt, nên công năng của tâm sau có sai biệt mà khởi. Tức công năng trên được tâm sau có sai biệt được nói là chủng tử.

Do sự cùng nối tiếp này chuyển biến có sai biệt, nên quả vị lai sinh. Ở đây ý nói, trong tâm bất thiện, có thiện đã dẫn dắt lần lượt tạo công năng gần gũi có sai biệt dùng làm chủng tử. Từ đấy pháp thiện vô gián được sinh. Hoặc trong tâm thiện có bất thiện đã dẫn dắt lần lượt tạo công năng gần gũi có sai biệt dùng làm chủng tử. Từ đấy pháp bất thiện vô gián được sinh. Nay, ông đã chấp chủng tử sai biệt của công năng cùng với tâm thiện, bất thiện kia, là có Thể riêng, hay là không có Thể riêng? Ở đây là không có Thể riêng.

Há không phải đã thừa nhận thiện làm chủng tử của bất thiện, và thừa nhận bất thiện làm chủng tử của thiện chăng?

Cái gì là có tâm? Chấp hơi ấm cùng với lửa không có Thể riêng nhưng lại chấp nói: Chỉ hơi ấm là có thể thiêu đốt, lửa thì không thể thiêu đốt, vì sao có thể chiêu cảm các quả dị thục như ở Na-lạc-ca v.v… Trong tâm bất thiện đã đặt yên chủ thể chiêu cảm dị thục khả ái, tư thiện có sai biệt, đã dẫn dắt tạo công năng nơi chủng tử khác biệt. Lại vì sao chiêu cảm các quả dị thục như ở Mạt-nô-sa v.v… Trong tâm thiện tịnh đã đặt yên chủ thể chiêu cảm dị thục phi ái, tư ác có sai biệt, đã dẫn dắt tạo công năng nơi chủng tử khác biệt. Các tâm bất thiện đối với sự việc chiêu cảm các quả dị thục khả ái là không nhận lãnh. Các tâm thiện tịnh đối với sự việc chiêu cảm các quả dị thục phi ái là không thể nhận lãnh. Làm sao nói hai tâm có thể chiêu cảm hai quả?

Như thế liền thành hủy báng trí lực xứ phi xứ trong mười lực mà chư Phật, Thế Tôn đã chứng đắc.

Lại, tức nên thừa nhận tư có sai biệt đã dẫn dắt tạo công năng nơi chủng tử có sai biệt, cùng với tâm là đồng một quả. Trong tâm vô lậu, cũng có công năng của hữu lậu có sai biệt, tâm vô lậu cũng nên có thể chiêu cảm quả của ba hữu. Trong tâm vô lậu cũng thừa nhận đã đặt yên chủng tử của phiền não. Tức tâm vô lậu cũng nên có thể tạo ra nhân sinh của phiền não. Hoặc là trong thân Thánh các Hoặc do tu đạo đoạn, nên không có chủng tử tự nhiên mà sinh. Trong tâm phiền não cũng thừa nhận đã đặt yên chủng tử của vô lậu, tức tâm phiền não cũng nên có thể tạo ra nhân sinh vô lậu. Hoặc trong thân Thánh, sau tâm phiền não đã khởi vô lậu, nên không có chủng tử sinh. Hoặc tức nên bấy giờ gọi là vô lậu đầu tiên. Lại, quả A-la-hán của tánh thoái pháp, hoặc có khi thoái chuyển khởi các phiền não. Tức trong tâm vô học của A-la-hán, nên có chủng tử phiền não của ba cõi. Có khi thoái chuyển do phiền não, phần sau sẽ biện rộng.

Lại, từng chưa thấy pháp tánh của chủng loại khác có sai biệt mà không có Thể riêng. Nên chỗ chấp của người kia rất là mê lầm. Lại, trước đã khởi tư có sai biệt cùng với tâm sai biệt của công năng sau, làm sao tạo ra nhân quả, lại cùng nghĩa tương ưng? Ở đây vì sao đã nghi? Pháp nhân quả là như thế. Chủ yếu là có tư trước có sai biệt, nên mới có công năng có sai biệt của tâm sau sinh. Nếu không có tư trước có sai biệt, thì công năng có sai biệt của tâm sau tức không khởi. Thế nên hai đắc này có nhân quả lại cùng tương ưng. Nếu khi có tư, ít có đối tượng khởi, tức có thể có nghĩa này. Nhưng lúc có tư, đều không có đối tượng khởi, vì vị lai không có. Nên tư trước tâm sau, có không có là không đều, vì sao có thể nói là nhân quả tương ưng?

Các nghĩa như thế v.v… trong phần biện về quá khứ, vị lai, sẽ lại xét chọn.

Nhưng thuyết kia đã nói không phải chủng tử của căn thiện trong đối tượng nương dựa hoàn toàn bị hại dứt, gọi là đoạn.

Vì sao chỉ nói không phải là hoàn toàn bị hại dứt?

Ở đây, chỉ nên nói là hoàn toàn không hại, vì vốn không có chủng tử. Lại, thuyết kia đã nói là trái hại với Khế kinh, do Khế kinh nói: Hoàn toàn đoạn. Như Đức Thế Tôn nói: Nên biết, Bổ-đặc-giàla như thế, là pháp thiện đã ẩn mất, pháp ác xuất hiện. Có tùy cùng hành, căn thiện chưa đoạn, do chưa đoạn nên từ căn thiện này cũng có thể khởi nghĩa của căn thiện khác. Căn thiện kia, vào thời gian sau, tất cả đều đoạn.

Vì sao tất cả căn thiện yếu kém hiện có đều đoạn?

Vì không phải hoàn toàn hại dứt, tức người kia chỉ nên do tự phân biệt đã bị yêu quái mê hoặc mới nói lời ấy.

Lại, chủng tử thiện, nếu bị sức của tà kiến làm tổn hại công dụng kia, khiến không sinh mầm. Nếu như không phải là hoàn toàn đoạn dứt, thì ở đây còn có chỗ dụng gì? Không dụng để có thể sinh mầm của căn thiện. Nếu của sức tà kiến không thể gây tổn hại tác dụng sinh mầm thiện kia, tức không nên gọi là đoạn căn thiện, vì có thể sinh thiện.

Lại, thuyết kia đã nói: Chủ yếu do công sức mà tu đắc, nếu trong đối tượng nương dựa pháp kia đã khởi, sinh công sức ấy, thì tự tại không tổn hại, gọi là thành tựu.

Điều này cũng phi lý. Vì nghĩa sinh thiện này của tông kia hãy còn không có, huống chi là có trong thân pháp kia đã khởi, sinh công sức kia là tự tại không tổn hại. Trước nói, tông kia vì cho vị lai là không có, vậy nên ở nơi xứ nào có sức tự tại, tức nhân sinh kia, về lý không phải có, vì thế không nên nêu câu hỏi, tìm kiếm nhân không sinh khác. Đã không có nhân sinh, thì dựa vào đâu để nói là sinh công sức kia, là tự tại không tổn hại? Do đấy đã ngăn chận sự việc xét tính nói về phẩm loại phiền não đoạn. Nhưng thuyết kia đã nói: Cũng như hạt giống bị lửa đốt cháy chuyển biến khác với trước, không thể sinh dụng. Thánh giả như thế trong thân của đối tượng nương dựa, không có công năng sinh khởi hoặc, gọi là phiền não đoạn. Hoặc đạo thế gian đã tổn hại chủng tử của phiền não trong đối tượng nương dựa, cũng gọi là đoạn. Cùng với trên trái nhau, gọi là chưa đoạn. Nay ở đây nên nêu bày: Dùng đạo vô lậu để đoạn trừ các phiền não cùng với đạo thế gian đoạn trừ các phiền não có sai biệt gì?

Cùng như hạt giống đã bị lửa đốt cháy, nên không sinh dụng. Nếu cho như hạt giống không phải hoàn toàn bị tổn hại, khiến vĩnh viễn không thể sinh mầm v.v… Dùng đạo thế gian để tổn hại chủng tử của phiền não cũng lại như thế. Cũng có thể như quả của các hành sinh trước cùng sẽ có thể khởi các phiền não, vì sao nói như hạt giống bị tổn hại? Hạt giống bị tổn hại: Nghĩa là không sinh mầm. Nếu có thể sinh mầm, thì không gọi là bị tổn hại. Do đạo thế tục đoạn trừ Hoặc cũng như thế. Nếu chủng tử của Hoặc bị tổn hại nên không thể sinh, về sau đã có thể sinh, thì không nên gọi là tổn hại.

Nếu không gọi là tổn hại, vì sao gọi là đoạn? Lại trong một tâm, chủ thể đoạn, đối tượng đoạn, về lý là không cùng có, nghĩa đoạn không thành. Nên người kia đã nói: Nghĩa là danh cùng với sắc, đối với sinh tự quả hiện có công năng lần lượt gần gũi gọi là chủng tử, về lý là không thành lập. Lại, người kia đã nói: Đây là do sự cùng nối tiếp chuyển biến có sai biệt.

Vì sao gọi là chuyển biến?

Nghĩa là trong sự cùng nối tiếp tánh trước sau khác.

Thế nào gọi là cùng nối tiếp?

Nghĩa là tánh nhân quả nơi các hành của ba đời.

Thế nào gọi là sai biệt?

Nghĩa là có công năng vô gián sinh quả.

Như thế các Cụ thọ: Tất cả điều đã nói, ý khác, lời khác, đứng hàng đầu kia cũng khác. Do Phái Thí Dụ cho: Không có tánh trước sau khác trong sự việc cùng nối tiếp. Cũng không có nhân quả nơi các hành của ba đời. Cũng không có công năng vô gián sinh quả (Như phần sau sẽ biện).

Phái Thí Dụ kia do ghét bỏ với tông nghĩa của Đối Pháp, nên ở trong Thánh giáo đã khởi những lỗi lầm tai hại. Như hủy báng về đắc tức đối với Thánh giáo đã khởi rất nhiều lỗi lầm trái lý.

Như thế, đối với đắc, nếu thừa nhận là thật có thì đối với nghĩa của Thánh giáo có gì trái nhau?

Ở đây Kinh chủ tuy tùy theo chỗ nắm giữ của mình, phần nhiều là có nêu bày, nhưng không hoàn thành. Như chấp về chủng tử, lý là không thành. Chủng tử đã không có, nên biết là đã thừa nhận đắc, là pháp đã đạt được, vì không mất nhân. Lại, là nhận biết đây là hệ thuộc đối với kia, trí đã nêu dẫn nên quyết định là có dụng. Dụng có đã thành, tức biết có riêng thể, nên đã thừa nhận đắc. Thể dụng là trọn thành.

Các Sư hành xử theo Tông Nghị luận, các Sư của phái Thí Dụ, phần nhiều ở trong đó đã mở rộng chỗ chấp của mình về chủng tử của các pháp, làm lầm loạn chánh nghĩa, khiến không phân minh. Lại có các Sư, đối với chủng tử này, xứ xứ theo nghĩa kiến lập danh riêng: Hoặc gọi là tùy giới, hoặc gọi là huân tập, hoặc gọi là công năng, hoặc gọi là không mất, hoặc gọi là tăng trưởng. Nên ở đây tôi đã hưng khởi rộng phần quyết trạch, dẹp bỏ các thứ chấp kia, kiến lập chánh tông.

Như thế là đã thành tánh đắc, phi đắc. Về nghĩa sai biệt này, nay nên xét rộng. Lại, đắc là thế nào?

Tụng nêu:

Pháp ba đời, đều ba

Thiện cùng chỉ là thiện

Hệ thuộc tự cõi đắc

Không thuộc đắc chung bốn

Phi học, vô học ba.

Luận nói: Pháp đắc của ba đời đều có ba loại. Nghĩa là pháp quá khứ có đắc của quá khứ, có đắc của vị lai, có đắc của hiện tại.

Như thế, pháp vị lai và pháp hiện tại đều có ba đắc. Căn cứ theo chỗ dung nạp có nghĩa, lại tạo ra thuyết này, sự sai biệt trong ấy, phần sau sẽ lại biện.

Lại, pháp thiện v.v… đắc chỉ là thiện v.v… Nghĩa là các pháp thiện, bất thiện và vô ký, như thứ lớp ấy, có ba đắc của thiện, bất thiện, vô ký. Lại có pháp hệ thuộc đắc chỉ là tự cõi. Nghĩa là pháp của cõi dục, cõi sắc, cõi vô sắc, như thứ lớp ấy chỉ có ba đắc của cõi dục, cõi sắc và cõi vô sắc. Nếu pháp không hệ thuộc, thì đắc chung nơi bốn thứ. Nghĩa là pháp không hệ thuộc, căn cứ theo chủng loại chung có đủ bốn thứ đắc, tức hệ thuộc ba cõi và không hệ thuộc.

Phân biệt riêng: Đắc của phi trạch diệt là hệ thuộc chung nơi ba cõi. Nếu là đắc của trạch diệt, thì hệ thuộc cõi sắc, vô sắc, và không hệ thuộc. Đắc của đạo đế kia thì chỉ có không hệ thuộc. Lại, pháp hữu học thì đắc chỉ là hữu học. Nếu pháp vô học, thì đắc chỉ là vô học. Vì thế nên đắc của pháp hữu học, vô học đều có một thứ. Đắc của pháp phi học vô học về loại chung có ba. Phân biệt riêng: Nghĩa là toàn năm thủ uẩn cùng ba vô vi, gọi chung là pháp phi học phi vô học. Lại, năm thủ uẩn cùng phi trạch diệt, và trạch diệt không phải do Thánh đạo đã chứng, chỉ có đắc của phi học phi vô học. Nếu trạch diệt do đạo hữu học đã chứng, thì đắc chỉ là hữu học. Nếu trạch diệt do đạo vô học đã chứng, thì đắc chỉ là vô học.

Lại nữa, pháp do kiến đạo, tu đạo đoạn như thứ lớp ấy có đắc do kiến đạo, tu đạo đoạn. Đắc của pháp không đoạn nêu chung có hai thứ. Phân biệt riêng: Các pháp vô lậu gọi là không đoạn. Nếu phi trạch diệt và trạch diệt không phải do Thánh đạo đã chứng, thì đắc chỉ là một thứ, là do tu đạo đoạn. Nếu trạch diệt do Thánh đạo đã chứng và đạo Thánh đế thì đắc chỉ là một thứ, nghĩa là không đoạn.

Trước nói ba đời đều có ba đắc. Các pháp hữu vi đều nhất định như thế chăng? Không như thế thì thế nào?

Tụng nêu:

Đắc vô ký cùng khởi

Trừ hai thông biến hóa

Sắc hữu phú cũng cùng

Dục sắc không khởi trước.

Luận nói: Đắc của vô phú vô ký chỉ là cùng khởi, không có sinh trước sau, vì uy lực yếu kém. Đắc của tất cả pháp vô phú vô ký đều nhất định như thế chăng? Không như vậy thì thế nào?

Trừ nhãn, nhĩ thông và năng biến hóa. Nghĩa là tuệ của nhãn, nhĩ thông và tâm có thể biến hóa, vì uy lực mạnh mẽ, vì gia hạnh có sai biệt đã thành tựu đầy đủ, tuy là thuộc về tánh vô phú vô ký nhưng có đắc của trước sau và cùng khởi. Lại, đắc của bốn uẩn thuộc đường oai nghi, phần nhiều là thế gian đoạn và sát-na đoạn. Chỉ trừ chư Phật, Bí-sô Mã Thắng và những người khác khéo hành tập đường oai nghi. Nếu đắc của bốn uẩn thuộc xứ công xảo, cũng phần nhiều do thế gian đoạn và sát-na đoạn, trừ yết ma Tỳ thấp phược, thiên thần và các người khác khéo hành tập xứ công xảo. Chỉ có đắc của pháp vô phú vô ký chỉ là cùng khởi chăng? Không như vậy thì thế nào? Đắc của sắc hữu phú vô ký cũng như thế. Tức chỉ là đắc của nghiệp thân, ngữ biểu nhiễm thuộc tĩnh lự thứ nhất của sắc giới cũng như trước, chỉ có cùng khởi. Tuy là nhiễm của phẩm trên, nhưng cũng không thể phát khởi vô biểu, vì uy lực yếu kém. Do định này không có pháp đắc trước sau. Các sắc của cõi dục cũng nhất định chỉ có đắc cùng khởi chăng? Không như thế thì thế nào? Nghĩa là đắc của sắc thiện, bất thiện hệ thuộc cõi dục, không có khởi trước, chỉ có cùng sinh, và đắc của khởi sau.

Như thế là đã biện về tướng sai biệt của đắc. Phi đắc có sai biệt, tướng của chúng là thế nào?

Tụng nêu:

Phi đắc, tịnh, vô ký

Đời khứ lai đều ba

Ba cõi không thuộc ba

Cho Thánh đạo phi đắc

Gọi là tánh phàm phu

Pháp đắc, địa chuyển xả.

Luận nói: Tánh có sai biệt: Tức tất cả phi đắc đều chỉ thuộc về tánh vô phú vô ký. Đời có sai biệt: Tức quá khứ, vị lai đều có ba thứ. Nghĩa là pháp quá khứ và pháp vị lai, mỗi mỗi pháp đều có phi đắc của ba đời. Nếu là pháp hiện tại, thì chỉ có phi đắc của quá khứ, vị lai, quyết định không có phi đắc của hiện tại, do pháp hiện tại cùng với không thành tựu là không cùng hành.

Có thuyết nói: Phi đắc của pháp hiện tại không có hiện tại, vì tánh là cùng trái nhau. Cõi có sai biệt: Pháp hệ thuộc ba cõi và pháp không hệ thuộc, đều có ba phi đắc. Nghĩa là pháp hệ thuộc cõi dục có phi đắc của ba cõi. Hệ thuộc cõi sắc, vô sắc và không hệ thuộc cũng như vậy. Nhất định không có phi đắc là vô lậu. Vì sao? Do đã thừa nhận phi đắc của Thánh đạo, gọi là tánh phàm phu. Như Bản luận nói: Thế nào là tánh phàm phu? Nghĩa là không đạt được pháp Thánh. Không đạt được tức là tên gọi khác của phi đắc.

Vì sao pháp vô lậu có thể gọi là tánh phàm phu không đạt được. Thánh pháp nào gọi là tánh phàm phu?

Vì nói chung là không được tất cả Thánh pháp, chỉ vì không đạt được khổ pháp trí nhẫn.

Có thuyết nói: Không đạt được tất cả Thánh pháp.

Nếu như vậy thì há không phải đều là phàm phu, vì không có một và chung thành tựu các Thánh pháp. Nếu có không đạt được, không xen tạp nơi đạt được, là tánh phàm phu. Nếu xen tạp nơi đạt được, là không phải tánh phàm phu, nên không có lỗi.

Nếu như thế Bản luận tức nên nói chữ thuần. Không như vậy thì chữ tạp là có nghĩa thấy. Như nói: Loại này là ăn nước, ăn gió. Tuy không có chữ thuần, nhưng cũng biết loại kia là thuần ăn nước, gió không lẫn lộn với thứ khác.

Có thuyết cho: Không đạt được khổ pháp trí nhẫn, nhưng không phải về sau xả bỏ, lại thành phàm phu, do trước đã vĩnh viễn loại trừ. Vì người kia là phi đắc. Kinh chủ ở đây lại nói lời này: Nếu từng chưa sinh Thánh pháp cùng nối tiếp nơi phần vị có sai biệt thì gọi là tánh phàm phu.

Do đâu Kinh chủ lại nói như thế? Cho tánh phàm phu đều là vật không thật.

Nếu như vậy thì cái gì là phần vị cùng nối tiếp?

Nghĩa là phần vị cùng nối tiếp của mắt, tai v.v…

Há phần vị như mắt v.v… của một sát-na, không phải là tánh phàm phu, mà nói mắt v.v… cùng nối tiếp mới là tánh phàm phu chăng?

Không phải một sát-na có thể gọi là cùng nối tiếp, vì sát-na tức có lỗi không phải là thật. Ở đây không phải chỉ có lỗi là lời nói trái với nghĩa mà cũng lại có lỗi khác là trái với Khế kinh. Nên Đức Thế Tôn nói: Như thế gọi là người tùy tín hành, nhập chánh tánh ly sinh, siêu vượt địa phàm phu. Địa phàm phu này tức là tánh phàm phu.

Vì sao nhận biết được?

Vì nói được, rồi bỏ. Không phải vào thời bấy giờ xả bỏ, phần ít các pháp có thể nhận biết như mắt v.v… từng đã đạt được. Như đạt được Thánh pháp chưa từng được. Thánh giả khi đang ở phần vị kiến đạo, là đã thành tựu tất cả phẩm loại của mắt v.v… đều như phần vị trước, không có thiếu giảm.

Nếu tánh phàm phu không có riêng Thể, tức là trái với kinh này. Bấy giờ, không có riêng Thể của địa phàm phu, có thể vượt qua.

Nếu cho nẻo ác là địa phàm phu, thì được vị nhẫn xong, tức nên không phải là phàm phu.

Nếu cho mắt v.v… lúc chưa chứng đắc Thánh, vì lìa Thánh pháp, nên dựa vào đấy để giả lập danh tưởng phàm phu, là tánh phàm phu. Khi nhập kiến đạo, vì vượt qua tánh phàm phu kia, nên gọi là siêu vượt địa phàm phu. Về lý cũng không đúng.

Vì sao bấy giờ các pháp như mắt v.v… vốn đã theo đuổi mà có thể nói là siêu vượt mắt v.v… Nếu nói như chứng quả A-la-hán, siêu vượt mắt v.v… về lý cũng không hợp, vì nơi thời gian sau, chứng đủ các kiết như mắt v.v… đã được đoạn dứt, tuy thành tựu mắt v.v… mà gọi là siêu vượt. Nay trong phần vị phàm phu này, mắt v.v… như vốn bị trói buộc đủ đã thành, nên dụ là không cân xứng.

Nếu cho, như nói Thánh chưa lìa dục, siêu vượt nẻo ác, về lý cũng không đúng, vì nơi nẻo ác kia, đã được phi trạch diệt. Thánh chưa lìa dục, ở nơi nẻo ác ấy không tạo tác, không hướng đến, không hành, có thể gọi là siêu vượt. Nay, ở vị kiến đạo đã vượt qua mắt v.v… nào? Nếu nói nên có các vật như chiếc bình v.v… khác là tánh của bình v.v… thì về lý cũng không hợp, vì lìa bình vỡ v.v… là xả bỏ tánh của bình v.v… lý là không thành. Khi tâm vô lậu khởi, mắt v.v… là như gốc, mà xả bỏ tánh phàm phu, nên so sánh là không cân xứng. Do đấy, đã ngăn chận về so sánh cho tánh sinh đồng. Nếu nói tánh của Bà-la-môn v.v… vì sao không như thế? Như Thánh, phàm phu, nhất định có khác biệt, còn Bà-la-môn kia thì không thấy. Nghĩa là Thánh, phàm phu đều có phần ít không tạo tác, không hướng đến. Nếu tạo tác, hướng đến, thì nhất định là riêng khác. Không có phần ít trí tuệ, công xảo, ngăn chận, có thể nhận lãnh các sự việc nhất định khác biệt. Trong các chủng tánh như Bà-la-môn v.v… chỉ có một khả năng làm việc, không phải là khả năng khác tạo tác. Có thể nhân đấy chấp có tánh như Bà-la-môn v.v… Tuy cũng thấy có phần ít sai biệt giữa vùng giữa nước và vùng biên giới v.v… nhưng không có tánh riêng. Do thừa nhận có riêng pháp của chúng đồng phần làm chỗ nương dựa có sai biệt, nên không có lỗi.

Há không phải như Thánh pháp, tức nói là tánh của Thánh. Thành tựu tánh này, nên gọi là Thánh giả chăng?

Như thế, pháp phàm phu nên tức là tánh phàm phu. Thành tựu tánh này nên gọi là phàm phu.

So sánh này là không đúng, do các Thánh pháp chỉ nơi Thánh giả có. Có thể tức nơi Thánh pháp nói là tánh của Thánh. Các pháp phàm phu, Thánh giả cũng có, vì sao có thể lập làm tánh phàm phu?

Nếu pháp phàm phu chỉ nơi phàm phu có, thành tựu khắp phàm phu, nên có thể là tánh phàm phu, thì nơi nẻo ác, trời Vô tưởng, châu Bắc-câu-lô v.v… vì phàm phu không khắp, nên không phải là tánh phàm phu. Mạng căn v.v… khác, tuy có khắp phàm phu, nhưng không phải chỉ phàm phu có, tức cũng không phải là tánh phàm phu. Lại, chỉ phàm phu có khắp sự việc cùng nối tiếp của phàm phu, nên trái với đắc của Thánh đạo là tánh phàm phu.

Lại, nếu có pháp cùng với các phàm phu tạo ra nhân sinh của thân là tánh phàm phu. Há không phải là nghiệp, phiền não cùng với các phàm phu tạo ra nhân sinh của thân. Đâu cần đến tánh phàm phu?

Vấn nạn này là phi lý. Hiện thấy có pháp chờ đợi nhân khác mới có thể tạo ra nhân của pháp khác. Không phải nghiệp phiền não đã sinh ra mắt v.v… Lìa bốn đại chủng, nhưng có thể được sinh, nên có pháp riêng, gọi là tánh phàm phu. Tức vì siêu vượt tánh này, nên gọi là vượt qua địa phàm phu. Chính là tạo ra giải thích này, mới hiển bày điều Đức Thế Tôn đã giảng nói nơi Khế kinh có nghĩa lý sâu lớn.

Luận thêm đã xong. Nay lại phải tư duy: Phi đắc như thế là vào thời gian nào nên xả bỏ. Phi đắc của pháp này, khi đắc pháp này, hoặc địa chuyển đổi, thì xả bỏ phi đắc này. Như phi đắc của Thánh pháp, được gọi là tánh phàm phu. Khi tùy được Thánh pháp, thì xả bỏ phi đắc của ba cõi. Như thế, người trụ nơi tâm vô lậu đầu tiên, đối với khổ pháp trí, lần lượt cho đến người trụ nơi Tam-ma-địa Kim cang dụ. Đối với phi đắc hiện có của A-la-hán, như chỗ ứng hợp ấy, tùy được pháp này, thì xả bỏ phi đắc này. Như thế, cho đến quả A-la-hán là thời giải thoát, đối với A-la-hán bất thời giải thoát, với phi đắc hiện có, khi đắc pháp này, thì xả bỏ phi đắc này. Phi đắc của pháp còn lại đối chiếu với pháp này nên suy xét.

Lại, phi đắc này vì sao gọi là xả?

Nếu phi đắc được đoạn dứt, phi đắc không được sinh. Như thế, gọi là xả bỏ phi đắc. Đắc cùng với phi đắc tuy đều có đắc và phi đắc khác, nhưng không phải là vô cùng.

Do uy lực của đắc thành tựu pháp gốc và cùng với đắc của đắc, đạt được uy lực của đắc, thành tựu pháp đắc, đâu có thể thành vô cùng? Phi đắc cũng nên xét chọn như lý. Phi đắc của phi đắc, tất không cùng sinh.

Lại khi từ nơi địa dưới sinh lên địa trên, tất cả phi đắc của địa dưới đều xả bỏ. Từ địa trên sinh xuống địa dưới, so sánh với đây nên nhận biết. Do sức của đối tượng nương dựa, nên phi đắc chuyển.

Như thế là đã biện về tướng của đắc, phi đắc. Đồng phần là gì?

Tụng nêu:

Đồng phần nơi hữu tình.

Luận nói: Có vật thật riêng, gọi là đồng phần. Nghĩa là các hữu tình lần lượt cùng so sánh v.v… Bản luận nói đây gọi là chúng đồng phần. Một nẻo cùng sinh, các loại hữu tình, thân hình hiện có, nghiệp dụng của các căn cùng ăn uống v.v… cùng là nhân tương tợ, chúng lần lượt cùng làm nhân ưa thích mong muốn, gọi là chúng đồng phần. Như sắc tươi tịnh, nghiệp, tâm, đại chủng đều là nhân của chúng đồng phần kia, nên thân hình như nhau, không phải chỉ có nhân nơi nghiệp. Hiện thấy thân hình, lại là quả tương tợ do nghiệp đã dẫn dắt, nghiệp dụng của các căn cùng ăn uống v.v… là có sai biệt.

Nếu cho mãn nghiệp có sai biệt, nên chúng đồng phần này có sai biệt, về lý là không hợp. Hoặc có thân hình, chỉ do dẫn nghiệp tương tợ đã khởi, do chúng đồng phần có sai biệt, nên nghiệp dụng đều riêng. Nếu thân hình v.v… chỉ quả của nghiệp, tùy vào sự việc của nghiệp dụng v.v… được hữu tình ưa thích, hoặc xả, hoặc hành, tức nên không được có. Ở đây: Ưa thích mong muốn nơi nghiệp dụng của thân hình, là lần lượt giống nhau, nên gọi là đồng. Phần là nghĩa nhân, có vật thật riêng, là nhân của đồng này, nên gọi đồng phần.

Đồng phần như thế, Đức Thế Tôn chỉ dựa nơi các hữu tình để nói, không phải là cỏ cây v.v… Nên Khế kinh nói: Đây là đồng phần của trời. Đây là đồng phần của người, cho đến nói rộng. Căn cứ theo cõi, nẻo, xứ sinh, thân v.v… riêng khác, tức có vô lượng thứ đồng phần của hữu tình. Lại có đồng phần của pháp. Nghĩa là tùy theo uẩn, xứ, giới. Đồng phần của phàm phu khi nhập ly sinh thì xả bỏ. Đồng phần của hữu tình lúc nhập Niết-bàn thì xả bỏ. Há không phải tánh phàm phu, tức là đồng phần của phàm phu sao?

Nhận định này là không hợp lý, vì đối tượng tạo tác là khác. Nghĩa là những ưa thích mong muốn nghiệp dụng, thân hình của hữu tình kia đều cùng là nhân tương tợ, gọi là đồng phần. Nếu cùng với sự thành tựu của Thánh đạo trái nhau, là nhân của phàm phu, gọi là tánh phàm phu. Khi nhập ly sinh, đối với chúng đồng phần là cũng xả bỏ, cũng đạt được, còn đối với tánh phàm phu thì chỉ xả bỏ mà không đạt được.

Đồng phần là phi sắc, làm sao nhận biết được? Vì có dụng có thể sinh loại sự không khác?

Do thấy quả kia, nên biết là có đồng phần ấy. Như thấy quả đã có được của nghiệp hiện tại, nên biết có nghiệp của đời trước đã từng tạo tác. Lại, người hành quán thì hiện chứng biết.

Vì sao không thừa nhận có đồng phần của loài vô tình?

Không nên nêu vấn nạn như thế, vì có lỗi lớn. Ông cũng thừa nhận có các nẻo người, trời v.v…, các loài sinh từ thai, trứng v.v…, vì sao cũng không thừa nhận có nẻo như Am la v.v… các loài sinh từ đậu xanh v.v…

Lại, Đức Phật Thế Tôn vì từng không thuyết giảng, tức chỉ nên tư duy, lựa chọn. Vì sao Đức Thế Tôn chỉ đối với hữu tình, nói có đồng phần, không phải đối với cỏ cây v.v…? Lại làm sao nhận biết đồng phần như thế là vật thật riêng có?

Lại, ở đây tôi nêu ra giải thích như thế này: Do cỏ v.v… kia không có nghiệp dụng, những ưa thích mong muốn lần lượt cùng có tương tợ, nên đối với cỏ v.v… kia không nói có riêng đồng phần. Lại, tất nhân nơi hữu tình thì cỏ v.v… mới sinh, nên chỉ ở nơi hữu tình, nói có đồng phần. Lại, nhân nơi nghiệp trước và sự siêng năng, dũng mãnh của hiện tại, nên pháp này được sinh. Đối với cỏ v.v… kia vì hai sự đều không có, nên không có đồng phần. Tức do sự việc này đã chứng tỏ là có vật thật. Lại, các thứ tượng như gỗ, tơ trắng, sơn, chạm, vẽ v.v… cùng với hình thật kia, tuy có sắc hình lần lượt giống nhau, mà chỉ nói một thật. Do đấy, không phải chỉ thấy sự tương tợ của nghiệp dụng kia, tức nói là thật. Chủ yếu là đối với loại vật tương tợ có sai biệt mới khởi nói là thật, nên biết thật có pháp sai biệt này. Lời nói thật ấy, do pháp này sinh. Lại như trước đã nói.

Trước đã nói như thế nào?

Nghĩa là thấy thân hình, thân hình này lại giống nhau. Nghiệp đã dẫn dắt quả, nghiệp dụng của các căn cùng sự ăn uống v.v… vì có sai biệt, nên là các đồng phần lần lượt có sai biệt.

Vì sao đối với pháp kia lại không có đồng phần nhưng khởi nhận biết không riêng khác để thiết lập?

Do các đồng phần là tánh của nhân như sự đồng loại. Tức làm nhân đồng loại, lần lượt tạo ra sự nhận biết tương tợ để thiết lập. Như mắt, tai v.v… do đại chủng tạo mới thành tánh của sắc. Đại chủng tuy không có đại chủng tạo khác, nhưng tánh của sắc thành. Tánh của sắc này nên hiển bày thành đối tượng chấp của Thắng luận gồm cú nghĩa đồng, cú nghĩa đồng, dị. Nếu Thắng luận chấp hai cú nghĩa này, thì Thể của chúng không phải là một. Sát-na vô thường, không có đối tượng nương dựa, nên lần lượt khác biệt. Nếu như khiến đồng với Thắng luận kia, cũng không có nhiều lỗi. Không phải phái Thắng luận chấp các căn như mắt v.v… có thể hành nơi sắc v.v… tức khiến Thích tử bỏ kiến giải như thế, tạo riêng sự hiểu biết khác. Nên chỗ nêu vấn nạn của Thắng luận kia, là ngôn thuyết của bè nhóm. Người cầu chánh lý không nên thâu chọn.

Đã biện về đồng phần. Vô tưởng là gì? Tụng nêu:

Vô tưởng trong vô tưởng

Tâm tâm sở pháp diệt

Dị thục ở Quảng quả.

Luận nói: Nếu sinh trong trời Vô tưởng hữu tình, thì có pháp có thể khiến cho tâm tâm sở diệt, gọi là vô tưởng. Là vật có thật, có thể ngăn chận tâm tâm sở pháp vị lai, khiến tạm thời không khởi, như đập đất ngăn sông. Pháp này hoàn toàn là dị thục của định vô tưởng đã chiêu cảm. Do trong trời Vô tưởng hữu tình kia vô tưởng cùng sắc chỉ là dị thục của định vô tưởng đã chiêu cảm, nên định này không có sức dẫn chúng đồng phần cùng với mạng căn. Do chúng đồng phần cùng với mạng căn chỉ là có tâm, là quả do tĩnh lự thứ tư đã chiêu cảm. Nên uẩn khác của xứ tĩnh lự kia là dị thục chung. Do sinh trong trời Vô tưởng hữu tình, nên nhập vô tưởng trước, xuất vô tưởng sau, vì trong nhiều thời gian là có tâm, nhưng phần vị không tâm là rất dài xa, nên gọi chung trời Vô tưởng. Trời Vô tưởng hữu tình cư trú ở xứ nào? Cư trú ở Quảng quả. Nghĩa là trong trời Quảng quả có xứ cao vượt hơn, như tĩnh lự trung gian, gọi là trời Vô tưởng.

Trời Vô tưởng kia do đẳng vô gián duyên của nghiệp đời trước, là nhận giữ phần việc ăn. Nghĩa là do nghiệp đời trước dẫn dắt chúng đồng phần cùng mạng căn v.v… do tâm nối tiếp sinh và vô gián nhập nơi tâm của quả vô tưởng, dẫn dắt trợ giúp nên trời vô tưởng kia cũng có xúc quá khứ v.v…, là nhận giữ phần việc ăn. Nên trong phần vị không tâm, chỉ có xúc quá khứ v.v… làm thức ăn, hiện tại đều không có. Trong phần vị có tâm thì hai thứ đều cùng có.

Các hữu tình của trời kia, do tưởng khởi, nên từ xứ vô tưởng kia mất, mất xong, quyết định sinh nơi cõi dục, không phải xứ sở khác. Trước tu hành định, đã chiêu cảm thọ lượng, vì uy lực hết, nên ở nơi cõi dục kia không thể lại tu định nữa. Như mũi tên bắn vào khoảng không, lực hết liền rơi. Nếu các hữu tình tức nên sinh nơi xứ kia, tất có nghiệp thuận hậu thọ của cõi dục. Như tức nên sinh nơi châu Bắccâu-lô kia, tất định phải có nghiệp sinh lên cõi trời.

Đã biện về vô tưởng. Hai định là gì? Nghĩa là định vô tưởng và định diệt tận. Trước là nói về định vô tưởng. Tướng của nó là thế nào?

Tụng nêu:

Định vô tưởng như thế

Tĩnh lự sau, cầu thoát

Thiện chỉ thuận sinh thọ

Phi Thánh được một đời.

Luận nói: Như trước đã nói: Có pháp có thể khiến cho tâm tâm sở diệt, gọi là vô tưởng. Như thế, lại có pháp riêng, có thể làm cho tâm tâm sở diệt, gọi là định vô tưởng. Nói tiếng như thế: Là chỉ hiển bày tâm tâm sở của định diệt này, cùng với vô tưởng là đồng. Do đang hoàn thành, hoặc là trọn hoàn thành, nên gọi là định.

Có Sư khác cho: Vì hành bình đẳng như lý, nên gọi là định. Vì khiến đại chủng của tâm hành bình đẳng.

Vô tưởng: Là định, hoặc là vô tưởng của định, gọi là định vô tưởng. Do nhàm chán hủy hoại tưởng, sinh khởi định này, nên không phải các phàm phu có thể nhàm chán hủy hoại thọ, nhưng là do tham đắm nơi thọ mà nhập định.

Định này ở tại địa nào? Nghĩa là ở nơi tĩnh lự sau, tức ở tĩnh lự thứ tư, không phải tĩnh lự khác. Ở đây không nên nói. Vì sao? Vì định này có thể chiêu cảm dị thục vô tưởng.

Đã nói vô tưởng trụ nơi trời Quảng quả, nên nói trời Quảng quả ở nơi tĩnh lự sau.

Há không phải ở nơi địa khác mà tu nhân vô tưởng kia?

Vấn nạn này là không hợp lý, vì từng chưa có xứ nào nói định vô tưởng là nhân của vô tưởng. Há không phải là nơi tụng trước nói vô tưởng là dị thục? Và trong giải thích ấy đã nói là quả của định vô tưởng. Điều này cũng không đúng, vì chưa từng có tụng nói rõ như thế. Nay nêu bày mới thành.

Vì sao định này gọi là định phàm phu?

Vì cầu giải thoát, nên tu định ấy. Thuyết kia đã chấp vô tưởng là chân giải thoát, đã chấp định vô tưởng là đạo xuất ly. Vì nhằm chứng đắc vô tưởng mà tu định ấy. Tất cả Thánh giả không hề chấp hữu lậu là chân giải thoát cùng chân xuất ly, nên nói định này gọi là định của phàm phu. Trước nói vô tưởng là dị thục, thì thuộc tánh vô ký, không nói tự thành. Nay định vô tưởng hoàn toàn là thiện.

Há không phải định này là nhân dị thục, nên thuộc về tánh thiện không nói cũng tự thành? Định này ở trong trời Hữu tình vô tưởng, là nhân có thể chiêu cảm dị thục của năm uẩn. Không như vậy, vì trong tụng cũng chưa nói. Lại, nhiễm, vô ký thì cái gì lại có thể ngăn chận?

Nếu như thế thì ở đây nên nói là thuần thiện. Không như vậy thì lìa lời nói là thấy nghĩa có. Điều ấy nên căn cứ theo tánh phàm phu ở trước để giải thích. Hoặc chỉ nói là thiện tức đã chứng tỏ không phải là pháp khác. Định này đã là tánh của nhân dị thục, là thuận nơi thọ nào?

Chỉ thuận nơi sinh thọ, không phải thuận với hiện hậu cùng bất định thọ. Một loại các sư đã tạo ra lối chấp nơi định này. Về lý là thuận nơi sinh thọ và bất định thọ. Vì sao? Vì người thành tựu định ấy cũng có thể được nhập chánh tánh ly sinh. Nhập xong tất không còn hiện khởi định ấy. Do căn cứ ở hiện hành để nói định vô tưởng, gọi là định của phàm phu, không phải căn cứ theo chỗ thành tựu.

Lại, thừa nhận thông của định này là pháp ngoài pháp này do phàm phu chứng đắc, không phải là Thánh, do các Thánh giả đối với định vô tưởng như trông thấy hầm sâu, không ưa thích vào.

Trong tụng đã nói từ: Cầu giải thoát, tức làm rõ định này chỉ thuộc về phàm phu. Lại nói không phải là Thánh, nên là không có công dụng.

Định này lúc đầu tiên đạt được là được bao nhiêu đời?

Định này ở trong các phần vị, như giới biệt giải thoát, là niệm niệm được riêng. Do chưa từng được, nên khi ở niệm thứ nhất thì không đắc quá khứ, vì không có tâm. Vì không tu vị lai, nên khi đầu tiên đạt được, chỉ được một đời, nghĩa là được nơi hiện tại. Niệm thứ hai v.v… cho đến chưa xuất cũng thành quá khứ. Xuất xong, cho đến chưa xả bỏ là đã là vị lai. Chỉ thành quá khứ, như thiên nhãn, thiên nhĩ, không có tu vị lai, chỉ là gia hạnh đắc, không phải là lìa nhiễm đắc.

Tiếp theo là diệt tận, tướng của định ấy là thế nào?

Tụng nêu:

Định diệt tận cũng thế

Là tĩnh trụ, Hữu đảnh

Thiện hai, thọ bất định

Thánh do gia hạnh đắc

Thành Phật đắc, không trước

Vì ba mươi bốn niệm.

Luận nói: Như định vô tưởng nêu trước, định diệt tận cũng như thế. Nghĩa là như người đã lìa tham của tĩnh lự thứ ba, có pháp có thể khiến tâm tâm sở diệt, gọi là định vô tưởng.

Như thế, người đã lìa tham của xứ vô sở hữu, có pháp có thể khiến tâm tâm sở diệt, gọi là định diệt tận.

Như vậy tướng sai biệt của hai định: Định vô tưởng ở trước, vì mong cầu giải thoát, nên chán hoại nơi tưởng, dùng tác ý xuất ly tưởng làm trước mà được chứng nhập. Nay, định diệt tận vì cầu tĩnh trụ, chán hoại nơi tán động, dùng tác ý dừng dứt tưởng làm trước mà được chứng nhập. Định vô tưởng trước ở địa biên của cõi sắc. Nay định diệt tận thì ở tại địa biên của cõi vô sắc. Do ở nơi xứ phi tưởng phi phi tưởng đã thọ nhận sinh thân, là nghiệp trên hết đã dẫn dắt, nên gọi là Hữu đảnh. Hoặc là biên vực tận cùng của hữu, nên gọi là Hữu đảnh. Như biên vực tận cùng của cây, gọi là đảnh cây (Ngọn cây).

Chỉ trong địa này có định diệt tận, vì sao nơi địa dưới không có định này?

Vì chán bỏ tất cả tâm cùng tâm của biên vực đoạn mới có thể đạt được thắng giải thoát ấy. Nghĩa là do hai duyên nên lập ra giải thoát này: (1) Vì chán bỏ tất cả tâm. (2) Vì tâm của biên vực tạm thời đoạn.

Nếu ở địa dưới có định này, tức không phải là chán bỏ tất cả thứ tâm, do chưa có thể chán lìa tâm của địa trên, nên cũng không gọi là tâm của biên vực đoạn. Do tâm của địa trên cũng chưa đoạn, nên gọi là chỉ chán bỏ phần ít các tâm, cũng lại nên gọi là tâm của phần giữa đoạn. Ở trong ba tánh, định diệt tận này đồng với trước tức chỉ là thiện, không phải nhiễm, vô ký. Không phải các Thánh giả chán sợ sự tán động để nhận lấy nhiễm, vô ký làm nơi an trụ tịch tĩnh. Định vô tưởng trước có thể thuận với sinh thọ và bất định thọ. Định diệt tận nay thuận chung với sinh thọ, hậu thọ và bất định thọ. Nghĩa là căn cứ theo dị thục, có thuận với sinh thọ, hoặc thuận với hậu thọ và bất định thọ. Hoặc hoàn toàn không thọ. Nghĩa là nếu nơi địa dưới khởi định này xong, không sinh nơi địa trên, liền bát Niết-bàn. Định diệt tận này có thể chiêu cảm dị thục bốn uẩn của xứ Hữu đảnh. Định vô tưởng trước chỉ là phàm phu đạt được. Định diệt tận này chỉ là Thánh giả chứng đắc, không phải là các phàm phu có thể khởi định diệt. Thánh giả kia có tự địa, khởi định diệt bị chướng ngại, vì cũng chưa đoạn, nên chưa vượt qua phần Hoặc của xứ Hữu đảnh do kiến đạo đoạn, nên đối với việc dấy khởi định diệt là hoàn toàn không thể. Không phải các phàm phu có thể vượt qua hoặc của xứ Hữu đảnh do kiến đạo đoạn nên chỉ Thánh giả là đạt được định diệt tận.

Có Sư khác cho: Do các phàm phu sợ hãi về đoạn diệt, nên Thánh giả ở nơi Niết-bàn của hiện pháp này đã thắng giải để chứng nhập, nên chỉ Thánh giả đắc, không phải là các phàm phu.

Thuyết kia là phi lý. Vì đối với định vô tưởng cùng với đây là đồng, nên nơi kia đây tâm đều đoạn. Còn thắng giải Niết-bàn thì không khác biệt.

Ở đây, có thuyết nói: Tâm tâm sở của tĩnh lự thứ tư là thô, cũng có đối tượng nương dựa, nên không sợ đoạn.

Kiến giải này cũng phi lý, vì tu định vô tưởng là diệt tâm, hay là cầu giải thoát, nên khởi tưởng xuất ly?

Tu định vô tưởng mà sợ hãi về diệt tâm, là không hợp với chánh lý. Đã có tưởng xuất ly, thì tu định vô tưởng, cũng nên theo Niết-bàn thắng giải mà nhập. Vì thế thuyết kia không phải là chánh nhân.

Tất cả Thánh giả khi được Hữu đảnh đều được như định diệt tận này không?

Nên nói là không được. Do định này không phải do lìa nhiễm đắc.

Do gì mà đắc?

Do gia hạnh đắc. Chủ yếu do gia hạnh mới chứng đắc. Như định vô tưởng, khi chứng đắc đầu tiên, chỉ đắc hiện tại, không đắc quá khứ, không tu vị lai. Chính là do sức của tâm mới có thể tu, nên nơi niệm thứ hai v.v…, cho đến chưa xả bỏ, cũng thành quá khứ.

Đức Thế Tôn cũng do gia hạnh đắc chăng? Không như thế thì thế nào?

Lúc thành Phật đắc, nghĩa là khi Đức Thế Tôn đắc tận trí.

Há không phải tận trí, ở nơi lúc thành Phật, cũng không gọi là đắc, huống chi là định diệt tận. Do các Bồ-tát khi trụ nơi Tam-ma-địa kim cang dụ, gọi là đắc tận trí. Lúc thể của đắc sinh, gọi là đắc, nên đến lúc thành Phật, tức nên nói tận trí, không do gia hạnh mà hiện tiền. Lúc vừa khởi mong muốn ưa thích hiện ở trước, thì tất cả đức viên mãn, vì tùy thuận ưa thích khởi, nên không phải trong thân Phật đã có các công đức lúc thành Phật thì đắc. Vì sao có thể nói tận trí của Phật khi đắc là định diệt tận?

Do khi còn là Bồ-tát đã vĩnh viễn lìa tất cả phiền não nhiễm, khiến công đức trong thân Phật được khởi, nên nói là công đức đã có của Đức Như Lai, đều là lìa nhiễm đắc. Tức thuyết kia đã nói, cũng có lỗi. Tùy chỗ thích nghi, vì họ mà giải thích chung. Nghĩa là đối với sự việc gần mà nói tiếng xa. Hoặc khi đạt Tam-ma-địa kim cang dụ, tất thành Phật, cũng gọi là thành Phật, vì trong sát-na vô gián nhất định là thành Phật.

Lại, việc này Đức Thế Tôn từng chưa khởi định diệt tận, vậy lúc đắc tận trí, vì sao được thành Câu phần giải thoát viên mãn tối thượng?

Vì đã vĩnh viễn lìa chướng ngại của định, vì đã xả bỏ không thành tựu, nên đối với sự việc khởi định diệt tận là được tự tại. Như người đã khởi thì thành Câu giải thoát.

Sư phương Tây cho: Vị học Bồ-tát, trước khởi định này, sau đắc Bồ-đề. Sư Tỳ-bà-sa của nước Ca-thấp-di-la nói: Không phải trước khởi định diệt, sau mới sinh tận trí.

Nhân đâu các Sư của nước này nhận biết là trước chưa khởi? Vì sao không nêu vấn nạn đối với Sư phương Tây đã khởi nhân?

Lại, Sư nước Ca-thấp-di-la của tôi đã nêu rõ về ba mươi bốn niệm đắc Bồ-đề. Nghĩa là các Bồ-tát quyết định trước ở nơi xứ vô sở hữu, đã được lìa tham, mới nhập kiến đế, không còn cần đoạn phiền não của địa dưới. Ba mươi bốn niệm đắc đại Bồ-đề. Trong hiện quán đế, có mười sáu niệm. Lìa tham của xứ Hữu đảnh có mười tám niệm. Nghĩa là đoạn trừ chín phẩm phiền não của xứ Hữu đảnh, có chín đạo vô gián, chín đạo giải thoát. Như thế là mười tám, cộng với mười sáu ở trước thành ba mươi bốn. Ở trung gian này, không thể được khởi tâm không đồng loại, nên nơi phần vị trước, quyết định không thâu nhận khởi định diệt tận. Nếu ở phần vị trước khởi định diệt tận, tức là vượt qua tâm kỳ hạn. Nhưng các Bồ-tát quyết định không vượt quá tâm mong cầu. Nên về thật lý, Bồ-tát không vượt quá tâm kỳ hạn, nhưng không phải là không vượt Thánh đạo vô lậu.

Nếu như vậy tâm kỳ hạn vì sao không vượt quá?

Nghĩa là ta chưa được vĩnh viễn dứt hết các lậu thì trọn không bỏ chỗ ngồi kiết già này, quyết định không vượt quá tâm kỳ hạn như thế. Chỉ vào lúc một ngồi ấy, các sự việc hoàn thành.

Há không phải do đấy mà đã thành trái vượt? Muốn khởi tâm mong cầu Thánh đạo vô lậu, vì sao Bồ-tát nhằm dứt hết các lậu, tu tập chưa từng được hai đạo kiến tu nhổ sạch gốc rễ các Hoặc nơi xứ Hữu đảnh do kiến đạo đoạn, cùng trừ bỏ các thứ oán đối của tu hoặc nơi xứ Hữu đảnh, đã lập thệ, mong câu, ngồi kiết già, sự việc chưa cứu cánh, nhưng ở trong ấy, lại xả bỏ đạo vô lậu đối trị đã mong cầu, quý trọng từ vô thủy. Có thể đã bị loại định của thế gian lừa dối, mê hoặc, cho là đạt được định diệt tận cùng có, dễ được, nên phải lưu lại.

Như thế là khéo thành tựu ba mươi bốn niệm đắc Bồ-đề, nên là không phải nhân trước. Như Khế kinh nói: Khi xuất định diệt tận, sẽ tiếp xúc với ba xúc. Nghĩa là xúc bất động, xúc vô sở hữu và xúc vô tướng.

Thế nào gọi là tiếp xúc với ba xúc này?

Có thuyết cho: Định diệt tận khởi tâm tương ưng, có ba xúc là không, vô nguyện, vô tướng. Như thứ lớp ấy, lúc xuất định diệt thì tiếp xúc nơi ba xúc.

Có Sư khác nói: Xúc tương ưng với tâm của không xứ, thức xứ, gọi là xúc bất động. Hai xúc này thuần tạo ra tưởng của không, thức. Xúc tương ưng với tâm của vô sở hữu xứ, gọi là xúc vô sở hữu, vì không có sở hữu trước. Xúc tương ưng với tâm của phi tưởng phi phi tưởng xứ gọi là xúc vô tướng.

Vì tướng của tưởng, vô tưởng không phân minh, tức do đấy nói bốn vô sắc, gọi là định hữu tưởng. Từ định diệt tận khởi tâm chung cả hữu lậu, vô lậu. Lúc định diệt tận khởi, hoặc ngược với thứ lớp, nhập các đẳng chí. Hoặc siêu vượt ngược nhập các đẳng chí, có thể có khởi tâm của định diệt tận hiện ở trước như thế.

Lại có Sư khác nêu: Chỉ căn cứ nơi vô lậu, tâm của vô sở hữu xứ duyên nơi Niết-bàn, lúc khởi định diệt tận, nói tiếp xúc với ba xúc, do vô lậu nên gọi là bất động. Vì thuộc về địa vô sở hữu xứ nên gọi là vô sở hữu. Vì duyên nơi Niết-bàn nên gọi là vô tướng. Tuy đã nói hai định có nhiều tướng đồng, dị, nhưng ở trong ấy lại có đồng, dị.

Tụng nêu:

Hai định dựa dục, sắc

Định diệt đầu trong người.

Luận nói: Nói hai định: Nghĩa là định vô tưởng và định diệt tận. Hai định này cùng nương dựa nơi cõi dục, cõi sắc mà được hiện khởi. Nhưng ở đây có thuyết nói: Chỉ ở nơi ba tĩnh lự dưới, nhập định vô tưởng, không phải là ở nơi tĩnh lự thứ tư. Chớ cho là nhân cùng với quả rất gần sát nhau.

Có thuyết nêu: Cũng ở tại tĩnh lự thứ tư, nhập định vô tưởng, trừ trời Vô tưởng, do sinh nơi cõi trời kia, thọ nhận quả của nơi chốn ấy.

Có Sư khác cho: Chỉ ở tại cõi dục, nhập định vô tưởng, không phải ở nơi cõi sắc. Thuyết kia trái với văn của luận. Nghĩa là Bản luận nói: Hoặc hữu là sắc hữu. Hữu này không phải là năm hành. Nghĩa là hữu tình của sắc triền, Hoặc sinh nơi trời hữu tưởng, trụ nơi tâm không đồng loại. Nếu nhập định vô tưởng, hoặc nhập định diệt tận, hoặc sinh nơi trời vô tưởng, đã được nhập vô tưởng. Đấy gọi là sắc hữu. Hữu này không phải là năm hành. Do đấy chứng biết: Hai định như thế là cùng dựa vào trời cõi dục, cõi sắc mà được hiện khởi. Đó gọi là đồng tướng. Nói dị tướng, nghĩa là định vô tưởng nơi hai cõi dục, sắc đều được khởi đầu tiên. Định diệt tận đầu tiên khởi chỉ ở trong nẻo người. Nghĩa là định diệt tận chỉ ở trong nẻo người, người mới tu khởi. Chỉ ở trong nẻo người là có người nói, người giải thích cùng có mạnh thịnh. Do sức của gia hạnh, nên có ở trong nẻo người.

Mới tu đắc xong, thoái chuyển là trước mới sinh nơi cõi sắc. Dựa vào thân của cõi sắc, sau lại tu khởi, không phải ở vô sắc có thể nhập định diệt tận, vì không có đối tượng nương dựa. Mạng căn tất dựa vào sắc tâm mà chuyển. Nếu người ở cõi vô sắc nhập định diệt tận, thì sắc tâm cùng không có mạng căn nên đoạn. Các uẩn lần lượt dựa vào nhau mà trụ. Nên không có hữu tình nào chỉ gồm đủ một uẩn. Lại, tâm tâm sở vì không lìa nhau, nên cũng không có hữu tình chỉ gồm đủ ba uẩn.

Nhân nơi đâu nên nhận biết định diệt tận có thoái thất?

Căn cứ nơi nghĩa của Khế kinh Ốt Đà Di. Kinh nói: Cụ thọ! Có các Bí-sô, trước ở nơi xứ này, đủ tịnh Thi la, đủ Tam-ma-địa, đủ Bát la nhã, có thể thường nhập xuất định diệt thọ tưởng. Đây là có điều ấy. Nên nhận biết như thật: Bí-sô kia ở nơi hiện pháp, hoặc ở phần vị sắp mạng chung, không thể siêng năng tu, khiến hiểu biết đầy đủ. Từ thân này hoại, vượt quá trời đoạn thực, tùy thọ một thọ, ý thành thân trời. Ở nơi cõi kia sinh xong, lại thường nhập xuất định diệt thọ tưởng, tức cũng có điều ấy. Nên nhận biết như thật: Ý này thành thân trời. Đức Phật nói định diệt thọ tưởng của cõi sắc này chỉ ở nơi Hữu đảnh. Nếu được định này, tất không có thoái thất, nên không có thể đi đến cõi sắc thọ sinh.

Như thế là đã giải thích rộng dị tướng của hai định, gồm có sáu môn, là Địa, Gia hạnh, Nối tiếp, Dị thục, Thuận với thọ, Khởi đầu tiên, có sai biệt.

HẾT – QUYỂN 12