LUẬN A TỲ ĐẠT MA THUẬN CHÁNH LÝ
Tác giả: Tôn giả Chúng Hiền
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 5

Phẩm thứ 1: BIỆN VỀ BẢN SỰ, phần 5

Lại như Thượng tọa nói: Hỏa giới hoặc ít, hoặc không tăng mạnh, tức gọi là lạnh. Vì sao? Vì ở nơi kia không có mặt trời, hoặc cách xa mặt trời, nên có lạnh. Lại, như vào mùa viêm nhiệt cực đại sinh, không có riêng phần ít xúc được tạo khởi, đồng cho là chỉ có hỏa đại tăng nhiều. Khi nhiệt giảm thiểu, cũng nên như thế, không có riêng phần ít xúc được tạo khởi, nên thừa nhận chỉ là hỏa đại giảm thiểu. Nếu có riêng lạnh, cũng nên thừa nhận có xúc được tạo riêng, không phải ấm, không phải lạnh. Thế nên nhất định không có xúc được tạo là lạnh, không phải hỏa giới ít, hoặc không tăng mạnh, tức gọi là lạnh. Hiện thấy xúc lạnh đã tổn hại: Nghĩa là khi hỏa giới tăng, có thể gồm thâu lợi ích. Nhân tổn hại chuyển tăng, tức nên tổn hại. Ai là người có trí, tạo ra chấp như thế. Bị một ít lửa hại, lại đổ thừa là lửa lớn. Nếu cho người kia do thiếu hẳn lửa, nên có tổn hại, về lý tất không đúng, vì nhất định có nhân khác mới có thể tổn hại, nghĩa là lửa ít. Có lạnh khác tăng nên có thể làm tổn hại, không phải tức do lửa.

Nhân đấy, căn cứ nói là lạnh đã gồm thâu lợi ích, nghĩa là vì thiếu nhân đã gồm thâu lợi ích, tức nhân này nếu tăng chuyển, nên gồm thâu lợi ích. Vì thế luận kia nói không phải là hợp lý. Lại, luận ấy đã nêu bày: Lúc nhiệt tăng giảm, không có sắc được tạo sinh, chỉ tức là lửa, thì cũng không hợp lý. Hiện thấy hai pháp lại đều cùng trái nhau: Khi một pháp tăng thì pháp còn lại giảm, như đạo là chủ thể đoạn cùng với Hoặc là đối tượng đoạn, không phải khi đạo tăng thì không có Hoặc riêng khởi. So sánh phần vị thoái của đạo, thì không có Hoặc riêng sinh.

Lại, khi lạnh sinh, vì hòa hợp khác. Nghĩa là trong tụ giới nước, gió tăng thịnh, có nhân của sinh lạnh, không phải do giới lửa. Vì thế không nên căn cứ ở lửa tăng mạnh để nêu ra vấn nạn.

Lại, chấp giới lửa ít vì lạnh, nghĩa là trong tụ tuyết kia cực vi lửa rất ít, không thích ứng với cực vi lạnh rất nhiều này. Người trí không nên nói như như giới lửa dần dần ít thiếu như thế, như thế giới lửa chuyển nhiều, là Phái Luận Ứng Lý nói. Luận ấy chấp lạnh và lửa không có Thể riêng. Không thể cho vàng ít, tức là không phải vàng. Vì thế nên có vật riêng khác với các đại chủng. Do giới lửa giảm, thể của vật kia tăng, xúc được tạo này gọi là lạnh.

Có người chấp theo tông này, cho là có đại chủng gia tăng sinh xúc lạnh, xúc lạnh tức là đại chủng ấy, về lý cũng không đúng, vì lạnh cùng với tướng của nước gió đều dị biệt. Lại, hai vật thành, Thể nên là giả, tức nên không là đối tượng duyên của thân thức, vì không phải lạnh, ấm không có tánh riêng, đối chiếu cho là không có lạnh riêng, về lý cũng không như thế. Đại chủng kia tức lạnh v.v… và phẩm loại như hạ v.v… vì phần vị riêng khác.

Có Sư khác nói: Lạnh v.v… chỉ dùng không ấm làm thể. Thuyết này cũng không hợp lý, vì phẩm loại ấm lạnh khác nhau. Cũng như ấm v.v…. Không thừa nhận không có pháp nào có phẩm loại khác. Hoặc tức nên đất v.v… dùng không làm tánh. Nghĩa là cũng có thể nói chỉ nước v.v… là không có gọi là giới như đất v.v… Nên thuyết kia đã nói, không phải phá bỏ xúc lạnh là nhân của sắc được tạo. Lại, lạnh có thể làm duyên khiến giác sinh, nên như giới lửa v.v… không phải tức là ấm không có, tức nên có tụ sắc hoàn toàn không có lửa. Có hay không phải có đều không hợp lý. Trong các tụ sắc, tất đã có lửa, thế thì xúc lạnh tức nên rốt ráo không có, nên biết lìa lửa thì có riêng xúc lạnh. Lại, các xúc lạnh, thể của chúng là thật có, tướng trạng phân minh, vì hiện có thể nhận biết. Cũng như ấm v.v…

Lại, trong Khế kinh, như nói về ấm lạnh, thể tất nên có, nên Khế kinh nói: Ta đối với lạnh ấm đều có thể chịu đựng. Nếu vào bấy giờ, lạnh ấm điều hòa thuận hợp, tức có thể thành thục, thủ chứng thành tựu. Không phải vào lúc ấy là rất lạnh, rất ấm. Vì nếu lạnh, ấm quá, thì không thể tu tập. Thế nên sắc được tạo của lạnh là thật có, nghĩa ấy được thành.

Lại như Thượng tọa nói: Hai thứ đói, khát không phải là sắc được tạo, vì tánh là mong cầu, về lý cũng không hợp. Hai thứ này là ở nơi nhân nói tên quả. Do xúc có sai biệt, gây bức bách nơi thân, sinh mong muốn ăn uống, là nhân của đói khát, nên gọi là đói khát. Như nói khinh an, nghĩa là tánh nhẹ nhàng của thân, là quả của khinh an, nên gọi là khinh an. Nếu như vậy thì nhân này tức nên lấy ấm làm tánh, do ấm của giới lửa có công năng nấu chín, tiêu hóa, nên có thể phát sinh mong muốn ăn uống. Lời nói này phi lý. Hai thứ mong muốn ăn, uống nên là sắc được tạo, lửa làm nhân.

Lại, không phải giới lửa là nhân của hai thứ mong muốn, ứng với tất cả thời sinh hai thứ mong muốn. Hiện thấy hai thứ ấy không phải luôn lúc nào cũng có. Há không phải là mong muốn của tông mình nhân nơi xúc được tạo đã nương dựa vào đại chủng. Tuy thường không phải là không có, nhưng thể của xúc được tạo không phải là thường có.

So sánh này là không hợp lý. Vì mong muốn nhân nơi xúc được tạo, đối đãi với giới gió, lửa tăng mạnh sinh. Nếu cho hai thứ mong muốn cũng nên thế, về lý cũng không đúng. Như trước đã nói: Hai thứ mong muốn nên là tánh của sắc được tạo. Nếu cho như nhân nơi đối tượng xúc, đại chủng phát sinh thân thức, nhưng không phải thân thức là tánh của sắc được tạo. Mong muốn kia nên như thế. Sắc được tạo này không tương tợ, vì thức không cần phải nhân nơi đại chủng tăng thịnh mới được sinh khởi. Mong muốn tức không như vậy. Vì nhân tăng sinh, nên do thân thức kia không nhân nơi đại chủng. Hoặc bằng nhau, hoặc gia tăng có sai biệt sinh khởi, chỉ tùy thuộc đối tượng nương dựa, không do thân xúc sai biệt làm duyên mà được sinh khởi. Hai mong muốn thì không như thế.

Như sắc được tạo cần phải nhân nơi đại chủng tăng thịnh mà sinh. Đã tùy theo đại chủng có sai biệt mà sinh, vì sao bị ngăn chận khiến không phải là sắc được tạo? Gió lửa nếu thịnh, thì hai thứ mong muốn liền tăng. Gió lửa nếu yếu, hai thứ ấy liền giảm. Đã tùy thuộc đại chủng tăng giảm không đồng, hai thứ mong muốn do đâu không phải là tánh của sắc được tạo? Nếu nói hai thứ ấy tuy nhân nơi đại chủng, nhưng vì không dựa vào đại chủng đó, nên không phải là sắc được tạo. Nghĩa là hai thứ mong muốn dựa vào tâm, không dựa vào đại chủng, tức không nên nêu vấn nạn khiến thành sắc được tạo.

Nếu như vậy hai thứ mong muốn này tức nên không cần phải nhân nơi đại chủng tăng thịnh mới được sinh khởi. Không thấy, không dựa vào đại chủng, thân thức tùy theo sự sai biệt của đại chủng mà sinh. Chỉ thấy thân thức được đại chủng làm duyên, hoặc bằng nhau, hoặc tăng, chỉ xúc liền khởi. Hai thứ mong muốn nếu vậy tức nên tất cả thời, không đợi tăng thịnh, có nhân liền khởi, như trước đã nói. Nên vấn nạn tất cả thời sinh hai thứ mong muốn trở thành chấp chặt, khó trừ bỏ.

Lại, giới gió lửa, có lúc tuy tăng, nhưng không hiện khởi hai thứ mong muốn ăn uống, nên biết được nhân của hai thứ ấy hiện không sinh. Nhân ấy bấy giờ do đâu không khởi? Do thân của đối tượng nương dựa có tai hại lỗi lầm, hoặc bị duyên khác làm chướng ngại. Há không phải tức do chướng ngại này, nên hai thứ mong muốn không sinh? Đâu cần lại chấp riêng có mong muốn nhân nơi xúc được tạo. Ở đây không nên như thế, vì mong muốn cùng với thân thức đều cùng thời khởi, nên tuy có chướng ngại, nhưng thức thì được sinh, mong muốn không được sinh.

Hỏi: Sự việc này có lý gì?

Đáp: Tâm sở pháp sinh, tất định hệ thuộc vào chỗ dựa duyên nơi thức hợp. Ba thứ đó có đủ. Lại, mong cầu kia thuộc về đại pháp địa, nên cùng với phẩm tất cả tâm đều cùng sinh, sinh nhân vượt hơn của mong muốn. Bấy giờ, có đủ nhưng không sinh, tất là bị thiếu duyên sinh khác. Duyên khác, nghĩa là xúc được tạo, nên lìa đại chủng thật có sự đói khát, sắc được tạo làm tánh. Lại, không nên nói xúc được tạo sinh chướng, tức chướng ngại tâm tâm sở. Chớ cho tâm v.v… sinh chướng, tức chướng ngại xúc được tạo, vì không có nhân khác. Lại nên dừng sự việc tranh luận rộng. Tất nên tin có hai thể đói khát, do xúc được tạo làm tánh. Nay nên xét chọn.

Hỏi: Nếu các đại chủng trong tụ sắc tăng, vì Thể làm dụng thì vì sao lại khuyên nên xét chọn như thế?

Đáp: Vì muốn dứt trừ lỗi không thật, nên Kinh chủ tự luận có xứ, thuyết nói: Đây là lỗi lầm hiện có của Tông kia, Tông kia cho, Sư Tỳ-bà-sa ấy nói: Thể của tất cả của đại chủng trong các tụ tuy cùng có, nhưng hoặc có tụ tác dụng tăng riêng, như tâm tâm sở.

Lại như chỗ nhận biết được vị mặn của muối trong nắm muối. Chưa thẩm xét ý nghĩa sâu xa của Kinh chủ trong đây, định rõ vị nào là Sư Tỳ-bà-sa? Nếu cho là các Đại Luận sư đã khéo giải thích A-tỳđạt-ma, thì Luận kia không có thuyết này. Thuyết kia nói: Đại chủng do Thể nên tăng. Trong tụ các sắc: Đá, nước, ngọn lửa, gió, thể tướng của các thứ cứng, ẩm ướt, ấm, lay động tăng riêng, vì trong mỗi mỗi tụ đều biết rõ một. Nếu thể của đại chủng trong các tụ đều quân bình, thì trong tụ này không nên, đều chỉ biết rõ một.

Lại, tùy thuận tưởng thế gian, lập tên gọi như đất v.v… tức nên hoàn toàn không có nhân, không có ngôn thuyết. Do các tụ sắc hình đều đồng. Nếu chấp thể như cứng v.v… là như nhau không khác, thì nhân nơi gì để được sinh tưởng riêng như đất v.v…?

Nếu cho là dụng của nhân thì lý tất không hợp, vì dụng cùng với tự thể không có sai biệt. Nếu dụng là thật, tức thể tăng thành, thật tức là thể. Nếu dụng không phải thật, thể cũng tăng thành vì không khác với thể, không có không phải dụng thật mà thể khác có tăng. Do đấy, tức giải thích tâm tâm sở kia, dụ như muối trong nắm muối. Nghĩa là thọ nhận vị mặn bằng nhau, vì dụng tức thể, nên tức thể dụng tăng.

Nói chung là như thế, nhưng có sai biệt. Nghĩa là các đại chủng, vì có đối ngại, vì có thể tích tập, nên phương xứ sai biệt phân minh có thể hiểu rõ. Thọ v.v… không có đối, không thể tích tập, chỉ do dụng riêng khác nên hiểu rõ tăng vì cực vi khác. Thế nên thể của đại chủng có thể tích tập, căn cứ nơi Thể nói là tăng. Tâm tâm sở pháp căn cứ nơi dụng có sai biệt, nói tăng do cực vi khác. Há không phải sắc pháp, cũng thấy dụng tăng, như giấm chua hòa với nước, thuốc hay trộn với thuốc độc, muối hòa tan trong nước v.v… Tuy hai số lượng đồng mà người dùng có khác.

Hỏi: Vì sao nói sắc căn cứ theo thể nói tăng?

Đáp: Thuyết này không trái nhau, do giấm chua cùng với nước xúc chạm rất ít tuy như nhau, nhưng vị không đồng, vì vị của giấm thì cực vi nhiều, vị của nước thì cực vi ít, tức vị của giấm là hơn, trở lại là do thể tăng. Ở trong các tụ có vật như vị v.v…, vì thể tăng mạnh, nghĩa là dụng này tăng như thuốc hay thuốc độc v.v… Môn lý của duyên khởi có sai biệt, nên thể loại là như thế. Do thể loại này tuy ít, nhưng có thể chế ngự nhiều, không phải thể loại khác có dụng riêng sinh, nên chấp tác dụng tăng, đấy là chấp tà. Hoặc như loại riêng, phẩm riêng cũng như thế, nên chỉ tâm v.v… là căn cứ theo dụng nói tăng, căn cứ theo thể nói tăng. Nghĩa là các sắc pháp, ví như dựa vào nhiều, dựa vào một mà thành.

Lại, các đại chủng căn cứ theo thể nói tăng, vì hiện có thể đạt được, vì giáo, vì lý. Nghĩa là đại chủng tăng, tức thể có thể đạt được, không phải dụng, không phải nghiệp, vì có tích tập ngăn ngại. Giáo, nghĩa là như Kinh Chủng Dụ nói: “Nếu có giới đất, không có giới nước, tức nên không tụ tập, vì không thể gồm thâu ”. Như thế, mỗi mỗi giới nói rộng như kinh.

Ý kinh này nói: Không phải có tụ sắc hoàn toàn không có giới nước. Nếu hoàn toàn không có, tức nên không hòa hợp. Tuy nhiên, có khi không thể gồm thâu tụ sắc khác khiến hòa hợp, do sắc ít kia. Các giới còn lại của chính nó, căn cứ theo chỗ giải thích nên biết. Về lý, nghĩa là nếu đại chủng chỉ có dụng tăng, không phải thể đã tích tụ mà nói tăng, nên có đại chủng. Hoặc trên một cực vi của sắc được tạo cũng có dụng tăng. Như ở trên thể của một pháp như thọ v.v… có lúc dụng tăng, riêng có thể làm cảnh, đâu có duyên nơi mỗi mỗi cực vi để trụ riêng, không thể làm cảnh sinh năm thức thân.

Lại, dụng của các cực vi tăng mạnh, nghĩa là tướng cực vi kia thô, hiện rõ, tức nên không phải là cực vi, vì thế các sắc pháp, do thể có thể tích tụ, có đối ngại, nên căn cứ theo thể nói tăng. Các pháp vô sắc không thể tích tụ, vì thể không có đối ngại, nên căn cứ theo dụng để nói tăng. Nghĩa này đã thành, không thể khuynh động. Nhưng Kinh chủ cho: Sư Tỳ-bà-sa nói: Thể của tất cả đại chủng trong các tụ tuy cùng có, nhưng hoặc có dụng của tụ tăng riêng. Đây là chưa nhận thức rõ về tông, nên nói như vậy.

Lại, nay nên nêu bày về chất cứng v.v… nhân nào là đối tượng nương dựa của sắc, không phải sắc khác v.v…, do đấy hiện có khắp tất cả xứ. Nghĩa là bốn tướng như đất v.v… trong các tụ đều có đủ khắp, sắc v.v… thì không như thế. Do đấy ba nghĩa như đất v.v… được thành lập: (1) Nghĩa đối tượng nương dựa. (2) Nghĩa chủ thể sinh. (3) Nghĩa rộng lớn.

Lại, là chỗ theo đuổi của sắc, nên hiện thấy nơi thế gian các vật như bình, chậu v.v… do lửa nung chín, nên có màu sắc v.v… chuyển biến có thể đạt được. Do gõ, đập, vỗ búng có sai biệt, nên âm thanh chuyển biến sinh. Trong sắc v.v… khác, không có sự việc như vậy. Thế nên chất cứng v.v…, sắc v.v… đã tùy theo là đối tượng nương dựa của sắc, không phải sắc v.v… khác. Lại có thể tổn hoại vật sắc khác. Sắc v.v… nương dựa nơi đất, không thể hủy hoại tác dụng.

Nếu như vậy, quan sát, ngắm xem lâu sắc thịnh như tuyết v.v… nhãn căn không nên hoại. Nếu không như vậy, thì đối tượng nương dựa của sắc kia có thể hủy hoại chỗ dựa của căn. Do ở trong bóng tối biết rõ sinh khổ kia, nên biết chỉ hủy hoại đại chủng, không phải là căn, nếu làm hư hoại căn thì không thể biết rõ đại chủng kia phát sinh thân thức.

Lại, sắc không thể tổn hoại đại chủng, vì không phải là đối tượng xúc. Thế nên đại chủng một mình có thể tổn hoại vật sắc khác, là đối tượng nương dựa của sắc này, không phải là sắc v.v… khác.

Có thuyết nói: Tánh của xúc được tạo như cứng v.v… có thể làm đối tượng nương dựa.

Thuyết này phi lý. Nếu như vậy thì lạnh v.v… tức nên thành tánh của đại chủng. Nhưng các xúc như lạnh v.v… không phải là đầy khắp, nên không thành đại chủng. Há không phải trong ấm không có xúc lạnh. Ở trong xúc lạnh cũng không có ấm. Ấm tức nên như lạnh, cũng không phải là đại chủng? Vấn nạn này không hợp lý. Vì lạnh có ấm, do bị lạnh che lấp mà không thể nhận biết.

Nếu như vậy xúc lạnh tức nên đồng với ấm hiện khắp. Không như vậy thì tác dụng của lạnh trong ấm không có. Do ở trong lạnh tác dụng của ấm có thể đạt được, không phải ở trong ấm tác dụng của lạnh có thể đạt được, nên lạnh đồng với ấm hiện khắp?

Vấn nạn này nên dừng. Tác dụng ấm là gì? Nghĩa là có thể thành thục. Há không phải đã thấy lạnh cũng có thể thành thục? Như có ấm, nên vật không bị rửa nát, hủy hoại. Nhân của sự việc ấy gọi là có thể thành thục. Lạnh cũng như thế, nên cùng với ấm là đồng?

Giải thích này cũng không đúng. Vì giới nước gió tăng thịnh, tạm thời ngưng kết, trong đây thành thục, tức là tác dụng của ấm. Do vậy, không nên nói: Tánh của xúc được tạo như cứng v.v… có thể làm đối tượng nương dựa, lạnh v.v… tức nên thành tánh của đại chủng. Tuy nhiên, xúc lạnh lia là do giới nước, gió tăng, vì quả của bốn đại là sắc được tạo. Lại, xúc lạnh kia thâu giữ lấy, thành thục, tăng trưởng, vì bốn tác dụng quyết định không thể đạt được, nên thể không phải là đại chủng. Há không phải do tuyết lạnh v.v… ngưng kết, có tác dụng hơn hẳn chăng?

Lời nói này phi lý, vì giới nước gió tăng thịnh, như tạo xúc lạnh, sinh quả của đại chủng kia, cũng do ấm, nên nước mía ngọt v.v… ngưng kết có thể đạt được. Nếu nói lạnh là quả của đại chủng, thì lạnh, ấm là cùng trái nhau, không nên hòa hợp. Vậy làm sao từ ấm sinh ra lạnh?

Vì như cứng cùng với ẩm ướt đồng một sự việc, nên đều cùng không trái nhau. Nước lửa cũng như vậy. Đã đồng một sự việc, về lý không có tương phản. Như dùng nước lạnh tưới lên đá vôi, từ lạnh sinh ra nhiệt. Ở đây cũng nên như thế, do các đại chủng đồng là một sự việc. Tuy tánh cùng trái nhau mà luôn hòa hợp. Lạnh là quả đã sinh gần của nước, gió. Giới đất cùng với nước, gió kia đều không trái nhau. Tánh lửa tuy trái, nhưng không làm tổn hại, vì đồng một quả thì đâu có ngăn ngại hòa hợp.

Lại, nếu nhận thấy các giới kia tăng, nên ở trong các tụ lập đại chủng khác. Tức các giới kia là chủ thể sinh trưởng nhân của các sắc được tạo, gọi là đại chủng, không phải là lạnh gia tăng. Ở trong các tụ lập đại chủng khác, nên không phải là đại chủng. Nhưng vì ấm tăng, nên tưởng của đại khác ở trong các tụ diệt, tưởng của đại khác sinh. Lạnh tức không như thế. Vì vậy lạnh ấm là chủ thể nương dựa, đối tượng nương dựa, hai tánh có sai biệt.

Hỏi: Há không phải hiện thấy do lạnh tăng, nên giới nước ngưng kết. Sự việc này, thế gian cũng lập nhiều thứ tên: Băng, tuyết, mưa đá?

Đáp: Vấn nạn này như trước nơi phần nói về giới nước gió thịnh, như tạo xúc lạnh, sinh ra quả của đại chủng kia đã giải thích. Hoặc băng, tuyết, mưa đá, tức là tên khác của nước, không phải tên khác của cỏ, cây v.v… gọi là lửa, nên vấn nạn kia, về lý, nhất định là không gồm đủ. Thế nên xúc lạnh chỉ là tánh được tạo. Do xúc giới ở đây có hai nghĩa được thành, chín sắc giới còn lại chỉ là được tạo. Nghĩa là năm sắc căn, sắc, thanh, hương, vị, một phần của pháp giới, cũng chỉ là được tạo.

Hỏi: Điều này lại là thế nào?

Đáp: Nghĩa là nghiệp vô biểu, dựa vào đại chủng sinh nên gọi là được tạo. Nhưng âm thanh vì hiển bày nhất định không có một giới nào tánh chỉ là đại chủng. Bảy tâm giới còn lại, một phần của pháp giới, trừ vô biểu sắc, đều không phải là hai thứ, nghĩa căn cứ theo đây đã thành. Luận sư của Phái Thí Dụ nói như thế này: “Các sắc được tạo, không phải là khác với đại chủng”. Vì sao? Vì Khế kinh đã nói, như nói: “Thế nào là nội địa giới? Nghĩa là ở trong nhục đoàn của mắt, nếu bên trong đều là chấp thọ gần gũi của loại cứng, của tánh cứng riêng khác, cho đến nói rộng”. Nếu khác với đại chủng mà có riêng các căn, thì không nên ở nơi căn nói về tánh của đại chủng.

Lại, kinh khác nói: Bí-sô nên biết! Sĩ phu các hữu đều tức là sáu giới. Đã nhất định nói sáu, vì là hữu tình giả đã dựa nơi sự việc thật, nên biết các sắc như mắt v.v… là sắc được tạo không phải là đại chủng khác.

Hỏi: Nếu sắc được tạo khác với các đại chủng, thì có ý nghĩa sâu xa gì?

Đáp: Kinh này không nói, còn lời nói kia là phi lý, vì không hiểu rõ ý nghĩa thâm diệu của Khế kinh. Kinh đã nêu dẫn ở trước là thuận theo danh tưởng của thế gian, nên thuyết giảng như vậy. Nghĩa là nơi các thế gian, trong nhục đoàn của mắt, khởi danh tưởng mắt. Danh tưởng mắt này, dựa vào đại chủng v.v…, là đối tượng nương dựa của mắt mà khởi. Nhục đoàn của mắt là nói chung về tất cả, không lìa nhãn căn do đại chủng đã tạo. Nếu không như vậy, thì kinh này chỉ nên nói: Đối với mắt thịt, đều là riêng khác v.v… Nói tánh cứng v.v… là đã ngăn chận mắt tuệ, tức nên không cần nói câu: Trong nhục đoàn.

Lại, đối với mắt, nói là nhân thứ bảy. Nói trong nhục đoàn là nương dựa vào thứ bảy. Do ở đây biểu hiện, nhận biết gồm thâu chung tất cả nhân nơi mắt dấy khởi, không lìa đại chủng của nhãn căn được tạo, là nhân nơi mắt, khởi lên nhục đoàn, trong ấy những thứ bên trong hiện có đều riêng khác v.v… gọi là nội địa giới. Đây là hiển thị nhân sinh của mắt v.v… dựa vào địa như nhân v.v… Do đấy đã nêu lại hai lời nói thứ bảy là gồm thâu chung tất cả mắt và nhục đoàn đã nương dựa nơi đại chủng. Kinh đã dẫn sau chỉ nói về sáu giới, không nói thứ khác, là có ý sâu xa riêng. Nghĩa là khi nối tiếp sinh, thì mắt v.v… không có, tuy ở nơi phần vị này cũng có thân căn, nhưng cũng chưa có thể nhận biết xúc như lạnh v.v… Nếu pháp có Thể, chưa khởi tác dụng, không nên lập ở trong phẩm có dụng. Lại, chỉ sáu giới là bản sự có tác dụng của các hữu tình.

Từ tâm nối tiếp sinh, đến tâm mạng chung, thường xuyên có tác dụng, thế thì người trụ nơi định diệt, thức có tác dụng gì? Thức quá khứ của người kia có thể tạo ra đẳng vô gián duyên vị lai. Do đấy, quả vị lai quyết định hiện khởi, là tác dụng của thức quá khứ kia.

Hỏi: Nếu như vậy thân căn cũng nên có tác dụng, vì dụng của nhân đồng loại chưa từng không có?

Đáp: Vấn nạn này không hợp lý. Vì không phải nhất định thành tựu, cùng với nhất định thành tựu là có sai biệt. Nghĩa là có thân căn, tuy không thành tựu nhưng có cho quả. Tác dụng của nhân đồng loại, nhất định không có thức quá khứ kia, thể không thành tựu có thể tạo ra đẳng vô gián duyên của quả vị lai, nên thức cùng với thân, nghĩa không phải là đều bằng nhau.

Lại, tác dụng của thân căn, không phải là nhân đồng loại, mà làm chỗ dựa của thức sinh, là dụng của thân căn. Người nhập định diệt, quyết định nên xuất là thức sau, sinh chỗ dựa, là dụng của thức trước, nên chỉ sáu giới, là bản sự có tác dụng của các hữu tình. Về lý là hoàn toàn được thành lập. Hoặc nêu dẫn không giới, biểu thị các sắc được tạo, nên dẫn kinh này không phải là để ngăn chận chỗ được tạo, vì không giới thật có là sắc được tạo, do trước đã thành lập.

Lại, chấp sắc được tạo không khác với đại chủng, tức nên sắc v.v… đều đồng một tướng, nghĩa là tướng như cứng v.v… Nếu vậy đối tượng hành của năm căn như nhãn v.v… tức nên không có sai biệt, là trái với kinh đã nói. Đối tượng hành của nhãn v.v… đều khác, vậy sao có chấp cảnh giới như sắc v.v… đều đồng một tướng, nghĩa là tướng như cứng v.v…, nhưng không phải là đối tượng hành của tất cả căn, tất cả cảnh. Điều này không thể khiến cho tâm của người trí vui mừng. Nếu nói như nói năm cảnh như sắc v.v… tuy đồng một tướng, nghĩa là tướng của sắc được tạo mà không có lỗi này.

Như thế, đại chủng cùng với sắc được tạo tuy đồng một tướng, nghĩa là tướng như cứng v.v…, nhưng không có lỗi, thì điều ấy cũng không hợp lý, vì không thừa nhận tánh của sắc được tạo có Thể của pháp riêng. Lại, các căn như nhãn v.v… đối với cảnh như sắc v.v…, nhận lấy nhất định tướng riêng, không phải nhất định tướng chung. Vì sao? Vì tông này không thừa nhận tánh của sắc được tạo, như tướng cứng v.v… có Thể của pháp riêng, nên không thể cho như nói về sắc v.v…, tuy đồng với tự tánh của một pháp được tạo, nhưng nghĩa riêng của cảnh như nhãn căn v.v… được thành.

Như thế, sắc v.v… tuy đồng với tự tướng của một pháp như cứng v.v… mà nghĩa riêng của cảnh nơi các căn như nhãn v.v… được lập. Lại các căn như mắt v.v… đối với các cảnh như sắc v.v… nhận lấy tướng riêng nhất định, không phải là tướng chung nhất định, chớ cho các căn như mắt v.v… cùng với cảnh như sắc v.v… có tướng chung là đồng, nên cũng là đối tượng nhận lấy của năm căn như mắt v.v…, là thành lỗi lầm lớn.

Lại, pháp như thọ v.v… cùng với cảnh như sắc v.v… cũng đồng một tướng, gọi là hành tướng. Thọ v.v… cũng nên là đối tượng nhận lấy của mắt v.v… Thế nên quyết định phải thừa nhận sắc v.v… có chủng loại sai biệt của tướng không chung. Do mắt v.v… này tuy mỗi mỗi căn có thể nhận lấy nhiều tướng, nhưng không có lỗi cảnh của năm căn tạp loạn, vì chủng loại riêng khác. Nếu cho như năm căn như mắt v.v… kia tuy đồng một tướng, nghĩa là tướng lắng sạch, nhưng có thể mỗi mỗi căn đều nhận lấy riêng cảnh giới.

Sắc như thế tuy đồng một tướng, nghĩa là tướng như cứng v.v… nhưng mắt v.v… ấy đều có đối tượng hành riêng. Điều này cũng không hợp lý, vì pháp khác cũng có tướng lắng sạch. Nếu tướng lắng sạch là tướng sai biệt của căn như mắt v.v…, tức là không nên thừa nhận pháp còn lại cũng có tướng này. Tuy nhiên, tướng lắng sạch cũng chấp nhận tin có, thế nên lắng sạch là đối với căn như mắt v.v… không phải là tướng sai biệt, nhưng các thứ cứng, ẩm ướt v.v… là tướng sai biệt. Nếu chấp sắc cùng tướng này đều đồng, mà nói nhãn căn chỉ nhận lấy sắc xứ, không phải xúc xứ, thì không có chứng của nhân riêng. Hoặc lại mắt v.v… tuy tướng tịnh là đồng, nhưng vì công năng khác, nên nhận lấy riêng cảnh. Công năng khác nghĩa là do nhân riêng khác, nên mắt v.v… tuy đồng với quả của bốn đại chủng, nhưng các đại chủng tăng, giảm không đồng, nhân đã không đồng thì công năng của quả phải khác. Do đấy, nghĩa nhận lấy cảnh có sai biệt được thành. Lại, không nên nói sắc v.v… có sai biệt cũng do đại chủng tăng giảm bất đồng.

Nếu như vậy thì cực vi có lỗi không thành, nên ông ở đây đã biện hộ giúp. Về lý nhất định là không đúng. Lại, Cụ thọ (Tôn giả) kia vì sao an lập cảnh, có cảnh khác, nghĩa là nếu có người tự tiếp xúc phần thân mình, đã chấp thân xúc đều đồng một tướng, trong một sát-na cùng không có sai biệt, thì lập cái gì làm cảnh, cái gì làm cảnh của hữu? Nếu có nghĩa riêng của tánh sai biệt được thành, nghĩa là đối tượng xúc của tướng cứng v.v… gọi là cảnh, thân cùng với cảnh này trái nhau, gọi là cảnh của hữu, vì đã thừa nhận tánh của thân xúc có sai biệt. Nếu không sai biệt, tức không an lập cảnh, và cảnh của hữu là khác, liền trái với lý, giáo. Nếu nói, như ý tuy đồng một tướng, nhưng nơi một sát-na, lập cảnh với cảnh của hữu không trái nhau, về lý cũng không đúng, vì ý tuy làm cảnh, nhưng nơi tất cả thời đều lập làm cảnh của hữu, nên không có lỗi này. Tuy nhiên, thân căn, cảnh, đại chủng như cứng v.v…, vì chưa từng có thời nào lập làm cảnh của hữu, nên thuyết kia nêu ra để biện hộ, về lý là hoàn toàn không ổn. Do đã thừa nhận đại chủng như cứng v.v… của cảnh thuộc thân căn, cũng là cảnh của hữu.

Hỏi: Lại còn có lỗi nào?

Đáp: Như ý chỉ nên lập làm một xứ tức là nên không quyết định an lập, đây là thân xứ, đây là xúc xứ, tức nên nói trong đây có lý cố định nào? Theo phán quyết, ở đây chỉ là cảnh, ở đây chỉ là cảnh của hữu, nên tông đã lập của thuyết kia đã biện về vấn nạn tạp loạn. Lại, nếu sắc v.v… tức là các đại chủng, thì thuyết kia nói mỗi mỗi cực vi của sắc xanh, tức là bốn đại chủng, hoặc chỉ là một. Cả hai đều cùng có lỗi. Nhưng sắc xứ v.v… tuy về danh là đồng nhau, nhưng có sự sai biệt của tánh tướng như màu xanh, mạnh mẽ, hương thơm ngon ngọt, mát lạnh v.v…

Do năm cảnh này lần lượt không đồng, nên năm căn như mắt v.v… không có lỗi của cảnh chung. Nếu tánh, tướng của các đại chủng đều riêng khác, thì cùng với Thể của cực vi xanh không khác, không phải là một, nên bốn tánh không thành. Nếu cực vi xanh chỉ là một đại chủng, tức bốn đại chủng nên là đều cùng lìa nhau, một tụ chỉ có một đại chủng, tức là trái với các kinh như Kinh Chủng Dụ v.v… Không ứng hợp với tánh tướng dị biệt, thì đại chủng thành không sai biệt. Một tụ sắc xanh, nếu nói tùy theo một tăng nên như thế, tức phải nói đã theo giới nào tăng, nên là xanh. Nếu cho là theo giới đất, thì những vũng nước, sông, biển, tức nên không có sắc xanh. Nếu cho là theo giới nước thì ngọc, đá xanh v.v… nên không xanh lắm. Nếu cho là theo giới lửa, thì lửa mạnh nơi thế gian không nên đỏ lắm. Nếu cho là theo giới gió thì trong gió, không ứng hợp với sắc không thể đạt được. Nếu nói sắc xanh khác với các đại chủng, thật có một thể, tùy theo một giới tăng, nhiều bốn đại chủng, mỗi mỗi đều sinh ra sắc xanh hợp thành một tụ, thì đối với lý là không trái, nên khác với đại chủng có sắc được tạo. Lại có chí giáo phân minh chứng thành tựu này. Như Khế kinh nói: Các sắc hiện có đều là bốn đại chủng và thuộc về bốn đại chủng đã tạo. Lại có lý gì đã nhận biết nói sắc được tạo khác với các đại chủng là có riêng chỗ nhận thấy.

Nhưng Khế kinh nói: “Có các người ngu do sáu xúc xứ cùng các xúc đối, biết vui, biết khổ. Hoặc có khi tùy theo một”, do chỗ tạo của nhận biết vui khổ kia, không thể do lời nói được tạo ấy mà có riêng xúc xứ thứ bảy có thể đạt được. Đây không phải là chứng cớ nhất định. Có khi ở nơi Thể khác, cũng nói câu có sắc được tạo như thế. Như Đức Phật bảo Tôn giả A-nan-đà: Chỗ tạo Ta thấy rõ là tạo cái gì? Nghĩa là sắc được tạo, cho đến nói rộng. Nếu thấy xứ khác có câu nói sắc được tạo không có chỗ nhận thấy riêng, nghĩa là ở đây cũng như thế, nên cho hữu thân kiến dùng sắc làm thể, liền có lỗi là trái hẳn với tông chỉ của mình.

Lại, không nên dùng lời nói sắc được tạo khác theo chỗ nhận thấy làm thể của pháp. Hoặc khác, không khác, liền nghi kinh này nói câu đại chủng được tạo. Vì có Khế kinh khác quyết định chứng minh là khác. Như Khế kinh nói: Bí-sô nên biết! Mắt là xứ bên trong, là sắc tịnh được tạo do bốn đại chủng, có sắc không thấy, có đối, cho đến thân xứ, nói rộng cũng thế. Bí-sô nên biết! Sắc là xứ bên ngoài được tạo do bốn đại chủng, có sắc có thấy, có đối. Thanh là xứ bên ngoài được tạo do bốn đại chủng, có sắc, không thấy, có đối. Hai xứ hương, vị, nói rộng cũng như thế. Xúc, nghĩa là xứ bên ngoài, là bốn đại chủng cùng được tạo do bốn đại chủng, có sắc, không thấy, có đối.

Trong đây, hiển thị phân minh các đại chủng chỉ là thuộc về một phần của xúc xứ, còn xứ có sắc đều không phải là đại chủng, nên nhất định biết xứ này cùng lời nói sắc được tạo, như chỗ tạo của kinh ta thấy, có riêng chỗ nhận thấy như ta thấy, quyết định không phải như kinh lục xúc xứ, tùy theo một chỗ tạo, không có riêng chỗ nhận thấy. Thế nên chính sắc, cùng sắc nơi một phần pháp giới khác với bốn đại chủng đã tạo, nghĩa ấy được thành.

Như thế là đã nói về tánh v.v… của đại chủng. Trong mười tám giới, năm căn, năm cảnh là thuộc về mười giới có sắc, tức có thể tích tập, do thể của cực vi này có thể tích tụ. Về nghĩa căn cứ theo tám giới khác, không phải có thể tích tụ, vì thể không phải là cực vi, nên không thể tích tụ.

Như vậy là đã nói về phần có thể tích tụ v.v… Trong mười tám giới, có bao nhiêu thứ là chủ thể chặt phát? Bao nhiêu thứ là đối tượng chặt phát? Bao nhiêu thứ là chủ thể thiêu đốt? Bao nhiêu thứ là đối tượng bị thiêu đốt? Bao nhiêu thứ là chủ thể được cân lường? Bao nhiêu thứ là đối tượng được cân lường? Sáu câu hỏi như thế nay nên đáp chung.

Tụng nêu:

Là chỉ bốn giới ngoài

Chủ thể, đối tượng chặt Cũng sở thiêu, năng xứng

Năng thiêu, sở xứng tranh.

Luận nói: Sắc, hương, vị, xúc thành búa chặt phát củi v.v… Đây tức gọi là chủ thể chặt phát, đối tượng bị chặt phát. Chỉ, là nghĩa định, ý làm rõ quyết định về sự việc chặt phát v.v… là bốn giới ngoài, không phải giới khác. Và nói: Vì hiển bày về chủ thể chặt phát, đối tượng bị chặt phát đều chung nơi bốn giới. Há không phải tánh của sát-na hữu vi nên đều không có nghĩa của chủ thể chặt phát, đối tượng bị chặt phát? Về lý tuy là như thế, nhưng các tụ sắc cùng bức bách nối tiếp sinh, duyên khác phân cách, khiến đều nối tiếp khởi. Thế nên không phải là không có chủ thể chặt phát, đối tượng bị chặt phát. Về nghĩa của đối tượng bị chặt phát này nơi thân căn v.v… là không có. Không phải các sắc căn do duyên khác phân cách, có thể khiến thành hai, đều nối tiếp nhau khởi. Chi phần lìa thân thì không có căn.

Lại, thân căn v.v… cũng không phải là chủ thể chặt phát, vì tướng tịnh diệu, như ánh sáng của ngọc báu. Lời nói của những nghĩa này chỉ là lời nói đã hiển bày, như thể của chủ thể chặt phát, đối tượng bị chặt phát chỉ là bốn giới ngoài. Đối tượng bị thiêu đốt, chủ thể cân lường, thể của chúng cũng như vậy, nghĩa là chỉ bốn giới ngoài gọi là đối tượng bị thiêu đốt, chủ thể cân lường. Sắc căn như thân v.v… vì tướng tịnh diệu, nên cũng không phải là hai sự, như ánh sáng của ngọc báu. Thanh không phải là sắc v.v… nối tiếp cùng chuyển, vì có gián đoạn, nên sáu nghĩa đều không có. Chủ thể thiêu đốt, đối tượng cân lường, có khác với Luận tránh. Nghĩa là hoặc có thuyết nói: Chủ thể thiêu đốt, đối tượng cân lường, Thể của chúng cũng như trước đã nói: Chỉ là bốn giới ngoài.

Hoặc lại có thuyết cho: Chỉ có giới lửa, có thể gọi là chủ thể thiêu đốt. Đối tượng cân lường chỉ là nặng.

Như thế là đã nói về chủ thể chặt phát, đối tượng bị chặt phát v.v…. Trong mười tám giới, có bao nhiêu thứ là dị thục sinh? Bao nhiêu thứ là được nuôi lớn? Bao nhiêu thứ là tánh đẳng lưu? Bao nhiêu thứ là sự có thật? Bao nhiêu thứ là một sát-na? Với năm câu hỏi như thế, nay nên đáp chung.

Tụng nêu:

Năm trong có thục, dưỡng

Thanh không dị thục sinh

Tám vô ngại đẳng lưu

Cũng tánh dị thục sinh

Ba khác thật chỉ pháp

Sát-na chỉ ba sau.

Luận nói: Năm trong, nghĩa là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân. Có dị thục sinh và được nuôi lớn, ngăn chận tánh đẳng lưu, thế nên không nói.

Há không phải năm giới như nhãn của đời trước v.v… nên nói cùng với nhãn của đời sau và các căn như nhãn chưa sinh v.v… làm nhân quyết định.

Như thế, nhãn v.v… nên có nhân đẳng lưu, đồng loại sinh, quả đẳng lưu.

Vì sao lại nói ngăn chận tánh đẳng lưu, không nói mắt v.v… hoàn toàn không có đẳng lưu?

Chỉ là tánh được nuôi lớn dị thục sinh, không có đẳng lưu riêng, nên phải ngăn chận, như khác với được nuôi lớn, có dị thục sinh. Khác với dị thục sinh có được nuôi lớn. Không phải khác với hai thứ này có đẳng lưu riêng. Vì biện về môn dị biệt, bỏ luận chung, lìa riêng nhân mà thành thục, nên gọi là dị thục. Thể của dị thục sinh khởi, gọi dị thục sinh. Hoặc là nhân dị thục đã sinh, nên gọi là dị thục sinh.

Vì lược bỏ lời nói giữa nên nói như thế. Ví như nói xe bò. Hoặc nghiệp đã tạo, đến khi được quả, vì biến đổi mà có thể thành thục, nên gọi là dị thục. Quả từ nhân dị thục kia sinh, gọi là dị thục sinh. Hoặc ở trên nhân, giả lập tên quả, như ở trên quả, giả lập tên nhân. Như Khế kinh nói: Nay, sáu xúc xứ, nên biết tức là nghiệp đã tạo từ xưa. Do các thứ ăn uống hỗ trợ, ngủ nghỉ cùng giữ lấy, là duyên thù thắng đã tăng ích, gọi là được nuôi lớn. Các duyên như ăn uống đối với thể của dị thục, chỉ có công năng thâu giữ, không thể tăng ích. Có riêng tăng ích, gọi là được nuôi lớn. Nên biết ở đây, được nuôi lớn đã nối tiếp, thường có thể hộ trì. Dị thục nối tiếp, cũng như thành quách bên ngoài, phòng giữ cùng tiếp viện thành trong. Không có dị thục sinh nào lìa được nuôi lớn, nhưng có được nuôi lớn lìa dị thục sinh như thiên nhãn, thiên nhĩ do tu tập đạt được.

Đã nói về thanh giới không có dị thục sinh. Nghĩa căn cứ theo đây, không phải không có đẳng lưu, được nuôi lớn.

Vì sao thanh giới không có dị thục sinh?

Vì thường xuyên bị gián đoạn, lại sinh trở lại. Sắc của dị thục sinh không có sự việc như thế. Không phải tùy theo ưa muốn mà quả dị thục sinh. Thanh tùy theo ưa muốn sinh, nên không phải dị thục.

Há không phải như Luận Thi Thiết nói: Khéo tu xa lìa lời nói thô ác, nên chiêu cảm được thanh tướng Phạm âm của Đại sĩ. Tuy do nghiệp chiêu cảm, nhưng không phải là dị thục. Do âm thanh khởi truyền đi ở giai đoạn thứ ba. Nghĩa là từ nghiệp kia sinh các đại chủng, từ các đại chủng duyên chậm, đập phát ra tiếng.

Nếu như vậy, thân thọ nhận nhân nơi nghiệp đã sinh cùng đại chủng phát ra, nên không phải là dị thục chăng?

Vấn nạn này không đúng, vì không phải các thứ thân thọ đều nhân nơi đại chủng và nhân nơi nghiệp sinh. Đại chủng đã phát ra cũng không phải tất cả đều là dị thục. Nhưng các thứ thân thọ cũng nhân nơi phi nghiệp đã sinh đại chủng cùng phi đại chủng mà được sinh. Nghĩa là thân thọ khởi chủ yếu là nhờ vào thân xúc cùng các duyên như thân thức v.v… Do đấy, cũng duyên nơi đại chủng ngoài khởi, không phải chủ yếu đợi đại chủng do nghiệp chiêu cảm mới sinh. Về lý thì không trái, nên chung với dị thục. Nếu chấp thanh giới là dị thục sinh, thì thanh giới như thế chỉ nhân nơi đại chủng, chỉ nhân nơi đại chủng của dị thục mà sinh, không lìa lỗi lầm như trước đã nói. Nếu nói thanh giới không phải là dị thục sinh, thì thanh giới như thế chỉ nhân nơi đại chủng, nhân chung nơi đại chủng của dị thục và không phải dị thục mà khởi. Về lý là không trái, cũng không có lỗi lầm như trước đã nói. Tức nên phân biệt về thanh giới như thế. Không phải các thứ thân thọ chỉ nhân nơi đại chủng là dị thục. Không phải chỉ là đại chủng của dị thục làm nhân. Lại, không đồng với thanh giới kia là có lỗi trái với lý. Thế nên về chỗ so sánh lý rất không ngang bằng.

Có Sư khác nói: Thanh không phải là dị thục, làm sao đại chủng của dị thục đã sinh? Nên phải thừa nhận thanh thuộc về truyền thứ tư, hoặc truyền thứ năm, nên không phải là dị thục. Nghĩa là từ nghiệp sinh đại chủng của dị thục. Từ đại chủng này truyền sinh đại chủng của được nuôi lớn. Đại chủng này lại truyền sinh đại chủng của đẳng lưu. Đại chủng của được nuôi lớn, phát ra âm thanh được nuôi lớn. Đại chủng của đẳng lưu phát ra âm thanh đẳng lưu. Thuyết này là phi lý.

Há không phải như từ đại chủng vô ký phát ra âm thanh thiện, ác, từ có chấp thọ phát ra không chấp thọ. Từ cảnh giới của thân phát ra cảnh giới của tai?

Như thế, nếu từ đại chủng của dị thục phát ra phi dị thục, thì có trái nhau gì? Thế nên thuyết kia nhất định là phi lý.

Tám giới vô ngại, nghĩa là bảy tâm giới và pháp giới. Ở đây có tánh đẳng lưu dị thục sinh. Nếu không phải là các nhân dị thục, đồng loại, biến hành đã sinh, gọi là tánh đẳng lưu. Nếu do nhân dị thục sinh khởi, gọi là dị thục sinh. Há không phải trong đây cũng có được nuôi lớn? Nghĩa là sức của nhân trước dẫn quả sau sinh, cũng khiến cho công năng chuyển biến sáng rõ, tăng thịnh.

Khế kinh cũng nói: Các pháp vô sắc tăng trưởng rộng lớn, nên có được nuôi lớn. Tuy có lời nói này, nhưng không phải là được nuôi lớn, tức nói đẳng lưu tăng trưởng rộng lớn. Nếu sức của nhân trước dẫn quả sau sinh, khiến công năng của nhân kia chuyển biến sáng rõ, tăng thịnh, thì công năng này cũng tức dựa vào tánh đẳng lưu để nói, vì được sinh từ nhân đồng loại, biến hành. Các pháp có ngăn ngại do cực vi tạo thành, cùng lúc tích tập, có thể gọi là được nuôi lớn. Các pháp vô ngại, vì không phải là cực vi, nên không có nghĩa tích tập, không gọi là được nuôi lớn.

Các Sư quỹ phạm đều nói như thế này: Khác, nghĩa là bốn giới sắc, hương, vị, xúc còn lại đều chung cho cả ba thứ, nghĩa là dị thục sinh, cũng là được nuôi lớn và tánh đẳng lưu. Thật chỉ có pháp: Thật, nghĩa vô vi, vì chắc thật, nên thuộc về pháp giới này. Vì thế nên chỉ xúc của pháp giới gọi là có thật. Ý, pháp, ý thức, gọi là ba sau. Ở trong sáu ba, vì nêu dẫn sau cùng, nên chỉ ba giới này có một sát-na. Nghĩa là phẩm khổ pháp nhẫn vô lậu đầu tiên, vì không phải là đẳng lưu, nên gọi là một sát-na. Đây nói là đang hiện hành cũng không phải là đẳng lưu. Pháp hữu vi khác đều là đẳng lưu, chỉ là sát-na của năm uẩn vô lậu đầu tiên, không có nhân đồng loại mà được sinh khởi. Pháp hữu vi khác, không có sự việc như thế, do uy lực mạnh của đẳng vô gián duyên, nên nhân trước tuy thiếu, nhưng ở đây được sinh. Thế mạnh của đẳng vô gián duyên, nghĩa là cùng với phẩm loại Thánh đạo ban đầu là đồng. Vì được nuôi lớn do vô lượng pháp thiện. Vì cùng với tánh tướng của Thánh đạo ban đầu là bình đẳng. Vì ở đấy đã tu rộng các gia hạnh. Tâm tương ưng của khổ pháp nhẫn được gọi là ý giới, ý thức giới. Pháp cùng khởi còn lại gọi là pháp giới.

Lại có Sư khác ở đây đã nêu bày khác. Nghĩa là tất cả pháp đều có sự thật, có tướng thật, trừ pháp vô vi, đều là một sát-na, vì nhanh chóng dứt diệt. Trừ tâm vô lậu đầu tiên và trợ bạn, pháp hữu vi còn lại đều là đẳng lưu. Phần ít của mười sắc là được nuôi lớn. Phần ít của mười bảy giới là dị thục sinh. Do đấy, năm sắc căn trong như nhãn v.v… đều có hai thứ, nghĩa là được nuôi lớn và dị thục sinh. Tuy có ba khác nhưng mà không có tánh riêng, vì nghĩa tạp loạn, do đấy không nói. Phần còn lại đều căn cứ theo đây.

Thanh giới có hai. Năm thức cũng như thế. Ý, ý thức, ba sắc v.v… cũng như vậy. Pháp giới có bốn, trừ được nuôi lớn. Trong đây, Thượng tọa dựa vào mười hai xứ, lập hết thảy chủng loài đều là dị thục sinh, không phải dị thục sinh là được nuôi lớn. Như đã vây bọc vòng quanh để giữ gìn.

Lại, trong một thân, mắt v.v… nên có hai chủng loại. Vì không thấy riêng có hai nơi chốn tạo tác, nên không có được nuôi lớn riêng.

Lại, thanh xứ kia nên là dị thục sinh, do đã thừa nhận nhân kia là dị thục.

Lại, dị thục, nghĩa là nhân nơi dẫn phát tức khắc, tự nhiên tùy chuyển, không cần thường xuyên khởi lại gia hạnh, mới được sinh khởi.

Lại, đối với mắt v.v… thì sự việc này nên đồng. Nếu nói thanh xứ, nếu là dị thục, ở nơi phần vị vô tâm, nên luôn hiện hành. Còn như ý v.v… thì thế nào?

Nếu nói ý v.v… có sự nối tiếp, điều này cũng không đúng, vì không phải dị thục sinh đã bị gián đoạn dứt hẳn.

Tông của Thượng tọa kia lược thuật như thế. Những điều Tông ấy đã nêu bày, lý đều không thích hợp. Lại, mười hai xứ không phải tất cả chủng loại đều là dị thục sinh thiện, nhiễm ô v.v…, vì tánh của dị thục sinh không thành lập. Nếu thiện, nhiễm ô là dị thục sinh, thì kẻ đã đoạn căn thiện cùng A-la-hán, như ý của dị thục nên được hiện hành, vì nhân duyên sai biệt không thể đạt được.

Lại, pháp vô lậu nếu là dị thục sinh, là không hợp lý. Lại, mười hai xứ gồm thâu tất cả pháp. Nếu lập tất cả pháp đều là dị thục sinh, tức nên loài phi tình cũng là dị thục. Nếu là dị thục, thì cùng với lý là trái nhau. Theo tông chỉ của Thượng tọa đã nêu thì không thể căn cứ, vì như dựa vào tảng đá lớn thì khó để cho nổi, mà là chìm sâu. Nếu lập dị thục sinh chung nơi tất cả chủng loại, thì không phải tất cả chủng loại chỉ là dị thục sinh, trừ dị thục sinh, nên nói về tướng riêng, tức so với nghĩa của Đối Pháp là có trái, khác. Các Sư Đối Pháp cũng không có lập nhất định một xứ, một giới, chỉ là dị thục sinh. Tùy theo chỗ ứng hợp của xứ, giới kia, không phải là dị thục, thì lập các môn như được nuôi lớn v.v… có sai biệt.

Lại, Thượng tọa kia đã cho: Không phải dị thục sinh là được nuôi lớn, đã vây bọc vòng quanh để giữ gìn. Điều này không phải đã được tông thừa nhận. Chỉ cho là trong thân có sắc của được nuôi lớn cùng dị thục sinh. Được nuôi lớn nối tiếp, thường có thể gìn giữ, dị thục nối tiếp thì khiến không gián đoạn.

Há không phải tất cả đều chỉ do uy lực của dị thục đã dẫn khởi, tùy theo lực kia có hơn, kém, nên có cùng nối tiếp, hoặc có gián đoạn? Luận giải này không phải là Phật giáo thuyết, cho tất cả quả đều do nhân của đời trước tạo nên, là đồng với ngoại đạo, không đồng với lỗi kia, vì cũng thừa nhận các duyên hiện tại, có công năng hỗ trợ dẫn sinh.

Nếu như vậy thì không nên như luận giải kia nói tất cả đều chỉ do lực của dị thục dẫn sinh. Lại, lực của dị thục là từ một nghiệp dẫn khởi, không thể hoặc lúc thì có hơn, lúc thì có kém. Không nên tính xét uy lực của một nghiệp, hoặc có lúc tăng hơn, hoặc có khi yếu kém. Uy lực của dị thục, tùy theo nghiệp đã dẫn dắt, không nên hoặc khi thì có hơn, có kém. Lại, đối với các thứ buồn vui, mạnh mẽ, khiếp nhược, có vô số thứ sắc tướng sai biệt xuất sinh. Ở đây không thể cho là tánh của dị thục sinh, do không phải là sự tương tợ đã cùng nối tiếp chuyển.

Ở đây, sắc cùng với tâm cùng khởi, cùng diệt, dựa nơi tâm chuyển, nên gọi là được nuôi lớn. Lại, hiện thấy thân tăng giảm có thể đạt được, dị thục không nên tùy theo duyên tăng giảm. Nếu gặp hiện duyên tăng ích, thì duyên này đã tăng ích, không phải nghiệp đã sinh, vì hiện duyên sinh, nên nhất định không phải là dị thục. Hoặc tuy có bị tùy thuộc do uy lực của nghiệp, vì thiếu duyên hỗ trợ mà tổn giảm, thì chỗ tổn giảm này không phải do nghiệp sinh, cũng không phải là dị thục. Do đạo lý này nên quyết định nhận biết, nếu có tăng giảm thì không phải là dị thục. Nếu là dị thục thì không có tăng giảm. Vì có hai thứ này, nên biết về được nuôi lớn.

Lìa thể của dị thục, riêng có nghĩa được thành. Cũng không nên nói sắc của dị thục sinh, lìa cực vi tăng mà có tăng ích, lìa cực vi giảm mà có tổn giảm. Tụ cực vi kia hệ thuộc nơi hiện duyên tạm thời. Thể sinh trở lại tức diệt, nên là dụng tăng, không phải là thể, vì cùng trái với lý. Dụng của cực vi tăng, thì có lỗi như trước đã nói. Nếu chấp tất cả chỉ là dị thục sinh, tức tất cả quả đều do nhân của đời trước gây tạo, là đồng với lỗi mà luận của ngoại đạo đã tạo từ trước. Lại nói: Mắt v.v… của một thân nên có hai chủng loại. Ở đây không ngăn ngại, chủng loại của tụ sự có hai sai biệt. Nghĩa là dị thục sinh cùng với được nuôi lớn có chủng loại sự riêng và nhân có khác. Do mắt v.v… này không có tánh đẳng lưu riêng v.v…, nên lìa hai nhân trước thì không có nhân riêng. Dựa nơi chủng loại nói về một thì không có lỗi, hai sự thành một, là chủng loại tụ. Lại nói không thấy hai đối tượng tạo tác, nên thấy là nương dựa phát sinh nhãn thức cùng pháp tương ưng, là hai đối tượng tạo tác, không nên chỉ nói nhãn của dị thục sinh làm chỗ nương dựa cho thức sinh, không phải là được nuôi lớn. Chớ cho thiên nhãn kia không thể làm chỗ nương dựa phát sinh nhãn thức, vì thành lỗi lầm. Nhãn của dị thục sinh, lìa được nuôi lớn, thì không thể làm chỗ nương dựa phát sinh nhãn thức, nên sinh một thức là do hai công năng. Lại, thuyết kia nên nói: Thừa nhận trong một thân có hai nhãn v.v… chung, riêng sinh thức.

Thức này đối với pháp tánh có tổn hại gì?

Chỉ nên, chớ như thuyết kia thừa nhận hai thức chung nơi một căn, vì thuyết ấy trái với Thánh ngôn, làm rõ sai lầm về pháp tánh, hãy còn không thẹn sợ, huống chi là thuận với lý này. Chính lúc làm rõ Thánh ngôn, ôm lòng xấu hổ, sợ hãi, tức quyết định nên thừa nhận trong một thân chung năm căn như nhãn v.v… đều có hai chủng loại chung riêng sinh thức, về lý là không trái. Lại nói thanh xứ nên là dị thục sinh, do đã thừa nhận nhân kia là dị thục, về lý là rất thô thiển. Tức thanh xứ đã nhân nơi đại chủng của dị thục, nên không phải là dị thục sinh, vì thành lỗi lầm. Do đấy, không nên cố chấp nơi nghĩa này.

Từ dị thục sinh: Đều gọi là dị thục sinh. Nếu nêu bày như thế, thì còn có lỗi gì?

Thanh xứ chỉ nên thuộc về xúc không nhiễm, do tánh của nhân đã tạo kia giống như thế. Lại, thanh không nên là sắc được tạo, vì thanh kia nhân nơi đại chủng nhưng không phải là được tạo. Lại, đối tượng nương dựa, đối tượng duyên nhân nơi nhiễm v.v… phát sinh ý thức, thì ý thức như thế, tức nên chỉ có nhiễm v.v… là thành lỗi lầm. Lại, một ý thức, nơi một thời, nên thành lỗi như thiện, nhiễm như nhau. Vì chỗ dựa, duyên của ý thức kia nơi một thời dung nạp có thiện, nhiễm như nhau. Do lỗi như nhau này, tức không nên chấp dị thục sinh của thanh thành dị thục sinh. Vì thế nên biết giải thích đầu là tốt.

Lại nói: Nhân dị thục dẫn phát tức khắc, tự nhiên tùy chuyển, không cần thường xuyên khởi lại gia hạnh mới được sinh. Ở đây không thể lập thanh là tánh của dị thục sinh. Do trái với đây tức có công năng lập thanh không phải là dị thục sinh. Nếu chấp thanh là tánh của dị thục sinh, thì một khi khởi đoạn xong, tức nên không sinh lại. Vì dị thục sinh một lần khởi đoạn rồi, thì không có nhân của gia hạnh để có thể khởi lại.

Chúng ta đều thừa nhận nghiệp chiêu cảm dị thục, không do khởi lại gia hạnh mới sinh. Các ông vì sao chỉ thuật lại ý chỉ này?

Cho thuyết kia đã nói không có gì để chứng minh dụng nơi dị thục sinh của âm thanh. Chỉ vì nhằm làm đầy số văn nơi luận của mình mới tạo nên lời phù phiếm này. Lại, thuyết kia đã chấp, có riêng giới tùy thuộc, tức là vô dụng, vì ở trong phần dị thục chuyển do nghiệp đã dẫn, giới tùy thuộc kia là vô dụng. Đã thừa nhận nhân của nghiệp dẫn sinh tức khắc dị thục, không cần thường xuyên khởi lại gia hạnh, đâu cần chấp riêng về giới tùy thuộc này. Hoặc nên thừa nhận dẫn nghiệp này là không có tác dụng. Lại, ý của tôi nói: Âm thanh thường gián đoạn, tùy thuộc mong muốn sinh lần nữa. Sắc của dị thục sinh không có sự việc như thế. Ông nay vì sao nói: Đối với sự việc này như mắt v.v… tức nên đồng? Há như sắc của dị thục đoạn xong thì khởi lại.

Lại, ý vấn nạn của tôi: Thanh đã là sắc, cùng với sắc của dị thục sinh khởi pháp là không đồng, nên không phải là dị thục. Theo ý v.v… dự định gì mà ông đột nhiên có ý v.v… vấn nạn. Vì sao? Ông tự cho âm thanh đã nhân nơi đại chủng là dị thục, nên thanh khác với dị thục sinh. Nếu thừa nhận ý v.v… cũng như thế, nghĩa là từ phi dị thục đã sinh ra ý v.v… tức nên hoàn toàn không phải là dị thục sinh. Nếu từ dị thục đã sinh ra ý v.v… thì cũng nên hoàn toàn là dị thục sinh.

Đã không thừa nhận như thế, vì sao lại nêu ra vấn nạn. Lại vì pháp sắc, phi sắc có khác, nên dị thục cùng nối tiếp, cũng nên không đồng. Không phải không là mắt dị thục sinh của người mù bẩm sinh khởi rồi đoạn hoại, sau cùng không sinh lại. Tức khiến cho pháp của dị thục sinh như ý v.v… cùng nối tiếp rồi gián đoạn, cũng không khởi lại. Lại, tâm dị thục vì không phải là dị thục gián đoạn. Lại, khi dị thục sinh, tức không phải dị thục có thể làm nhân sinh sự việc kia, lại có thể đoạn dứt loại sinh kia. Không phải là nhân sinh âm thanh, tức khiến thanh đoạn dứt. Thế nên sắc của dị thục cùng với sự nối tiếp như ý v.v… đều khác, không nên tạo sự so sánh.

Nói tóm lại, thuyết kia đối với ngôn nghĩa nơi tánh đẳng lưu, được nuôi lớn, dị thục của luận này, đều không hiểu rõ, dẫn đến tranh cãi phiền phức như thế. Vậy nên dừng lại. Người soi xét nên biết.

Như thế là đã nói về dị thục sinh v.v…, nay nên xét chọn.

Nếu có nhãn giới trước không thành tựu, nay được thành tựu, thì nhãn giới ấy cũng là nhãn thức chăng? Nếu nhãn thức giới trước không thành tựu, nay được thành tựu, thì nhãn thức giới ấy cũng là nhãn giới chăng?

Các câu hỏi như thế, nay nên lược đáp.

Tụng nêu:

Nhãn cùng nhãn thức giới

Riêng đều cùng được phi v.v…

Luận nói: Riêng được: Nghĩa là hoặc có nhãn giới trước không thành tựu, nay được thành tựu, thì không phải là nhãn thức. Tức như sinh nơi cõi dục, dần dần được nhãn căn. Và ở cõi vô sắc mất, khi sinh vào địa của tĩnh lự thứ hai, ba, bốn. Hoặc có nhãn thức, trước không thành tựu, nay được thành tựu, thì không phải là nhãn giới. Nghĩa là sinh lên địa của tĩnh lự hai, ba, bốn, nhãn thức hiện khởi và khi từ địa của tĩnh lự bốn kia mất, sinh xuống địa dưới.

Đều cùng được: Nghĩa là hoặc có hai giới, trước không thành tựu, nay được thành tựu. Nghĩa là ở nơi cõi vô sắc mất khi sinh vào cõi dục và trời Phạm thế.

Phi nghĩa là câu phi, tức trừ tướng nêu trước.

Vân vân: Là nghĩa gồm thâu cho còn lại, chưa nói.

Điều này lại là thế nào? Nghĩa là nếu thành tựu nhãn giới, thì cũng là nhãn thức giới.

Nên tạo ra bốn trường hợp:

Trường hợp thứ nhất: Nghĩa là sinh nơi địa của tĩnh lự hai, ba, bốn, nhãn thức không khởi.

Trường hợp thứ hai: Nghĩa là sinh nơi cõi dục, chưa được nhãn căn, hoặc được rồi mất.

Trường hợp thứ ba: Nghĩa là sinh nơi cõi dục, được nhãn căn không mất. Và sinh nơi trời Phạm thế. Hoặc sinh nơi địa của tĩnh lự hai, ba, bốn, nhãn thức hiện khởi.

Trường hợp thứ tư: Nghĩa là trừ các tướng nêu trước.

Như thế, nhãn giới cùng với sắc giới, nhãn thức cùng với sắc giới được và thành tựu, nên như lý tư duy.

Do đường lý này, so sánh nên xét chọn. Năm thứ sau, ba được cùng với thành tựu và hỗ tương đối nhau cùng xả không thành. Như văn của Tỳ-bà-sa đã chỉ rõ, e vì ngôn từ quá nhiều, nên nay không thuật.

HẾT – QUYỂN 5