LUẬN A TỲ ĐẠT MA THUẬN CHÁNH LÝ
Tác giả: Tôn giả Chúng Hiền
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 2

Phẩm thứ 1: BIỆN VỀ BẢN SỰ, phần 2

Trong phần Sắc uẩn đã nói về căn cảnh, chỉ còn lại là vô biểu, ở đây nay sẽ nói.

Tụng nêu:

Tâm loạn cùng vô tâm

Tùy lưu, tịnh, bất tịnh

Tánh tạo do đại chủng

Do đấy gọi Vô biểu.

Luận nói: Tâm loạn, vô tâm v.v…: Thì chữ vân vân là chỉ chung cho hai xứ, tức tâm không loạn và phần vị có tâm. Bất thiện, vô ký, gọi là tâm loạn. Tâm còn lại gọi là không loạn. Định vô tưởng diệt gọi là vô tâm, vì định này có thể diệt tâm. Tuy lại có quả vị vô tâm khác, nhưng vô biểu sắc không phải đối tượng tùy lưu, nên nói vô tâm không gồm thâu vô biểu kia. Đối với ba tánh, vị tâm và vô tâm tương tợ nối tiếp, nên gọi là tùy lưu. Tịnh, bất tịnh, nghĩa là thiện, bất thiện. Tâm thiện cùng khởi gọi là vô biểu tịnh. Tương tợ nối tiếp gọi là luật nghi, hoặc phi luật nghi. Tâm bất thiện cùng khởi gọi là vô biểu bất tịnh. Tương tợ nối tiếp gọi là bất luật nghi, hoặc phi bất luật nghi.

Nếu tâm vô ký, cũng là hai thứ: sát-na, Cùng khởi. Do đấy, tức nói hai tâm cùng khởi. Nhưng hai vô biểu sắc tịnh, bất tịnh thì tâm tùy chuyển kia hoặc không tương tợ. Như vô biểu tịnh, hoặc hoàn toàn là vô tâm. Nhân nơi tâm cùng khởi cả hai đều tương tợ.

Đã nói về tâm loạn, vô tâm cùng tùy lưu (Thuận dòng sinh tử) tịnh, bất tịnh.

Lại, nói về đại chủng đã tạo: Hữu dư là tùy lưu tịnh, bất tịnh đạt được, vì phân biệt về phần kia, nên nói là sắc được tạo, trong đó tạo tức nghĩa nhân của biểu.

Hỏi: Làm sao nhận biết như thế?

Đáp: Như Khế kinh nói: Sắc tạo nên ngã kiến. Tức là nghĩa nhân nơi sắc dấy khởi ngã kiến. Lại nêu: Do đấy nói vô biểu: Là do tâm sở thiện, bất thiện cùng khởi nên các phần vị sắc tịnh, bất tịnh tùy lưu. Tuy như biểu nghiệp, nhưng không phải là biểu thị khiến người khác nhận biết rõ, nên gọi là vô biểu. Vì hiển bày như thế nên gọi là nhân duyên. Do đấy nói: Do thuyết này hiển bày điều ấy, là ý của sư khác. Kinh chủ không thừa nhận chủng loại vô biểu sắc như thế.

Tóm lại, dựa vào biểu nghiệp của thân, ngữ có sai biệt cùng những sai biệt của tâm thiện, bất thiện đã sinh ra sắc thiện, bất thiện vô ngại, đó gọi là vô biểu. Nay cho là Kinh chủ, ở trong tụng này, không thể nói đủ về tướng của vô biểu sắc, do nói tùy lưu gọi là vô biểu. Thuyết kia tự giải thích cho: Nối tiếp, tương tợ gọi là tùy lưu, không phải là sát-na đầu tiên có thể gọi là nối tiếp. Chớ nên có lỗi thái quá.

Vì thế quyết định niệm đầu tiên là vô biểu, không vào trong chỗ nói về tướng. Lại, nối tiếp là giả, không phải thật. Vô biểu không phải là thật, làm mất tông chỉ của Đối pháp.

Lại, xác định chỗ phát ra phần vị vô tâm, tâm loạn, không tùy lưu, nên không phải là vô biểu. Nếu nói trong phần vị có tâm, không loạn, ở đây là tùy lưu nên không có lỗi ấy, tức biểu nghiệp tịnh, bất tịnh nên có tướng vô biểu. Lại cho nói vân vân là chung nơi vô tâm, thì lời ấy không có tác dụng, vì trước đã gồm thâu, nên nói tâm loạn v.v… là đã thâu tóm tất cả phần vị có tâm còn lại.

Hỏi: Lời nói vân vân thứ hai lại thuộc về pháp nào?

Đáp: Kinh chủ nên xét, hoặc cho vân vân sau là gồm thâu tâm không loạn, còn trước thì không có tác dụng. Điều này không hợp lý, vì không có dung nạp gồm thâu.

Hỏi: Phần vân vân sau dung nạp gì để gồm thâu tâm không loạn?

Đáp: Đây là lời nói ngăn chận về lý ở nơi xứ tương tợ khởi. Nhân không có khởi v.v… về lý, không bắt kịp xứ khác, nên không phải là gồm thâu hoàn toàn. Hoặc có thể nói tâm loạn thành không có tác dụng. Lại, nên nói phân biệt là chỉ cho vô biểu tịnh, đối với phần vị vô tâm tùy lưu không phải là pháp khác. Ở trong phần tự giải thích, cũng không phân biệt, nên đối với lý này, Kinh chủ nên xét.

Hỏi: Thế nào là lìa lỗi, gọi là tướng của vô biểu?

Tụng nêu:

Tạo tác cùng tâm khác

Cùng vô tâm, hữu ký

Tánh không đối đã tạo

Đó gọi vô biểu sắc.

Đã nói về vô biểu. Trong đây là nói về chỗ tạo của đại chủng.

Thế nào là đại chủng?

Tụng nêu:

Đại chủng tức bốn giới

Là đất, nước, lửa, gió

Có thể thành nghiệp: Trì v.v…

Tánh cứng, ướt. ấm, động.

Luận nói: Các đại chủng này duyên nơi gì gọi là giới? Vì là xứ xuất sinh tất cả sắc pháp, nên cũng từ đại chủng, xuất sinh đại chủng. Các xứ xuất sinh ở thế gian gọi là giới, như quặng vàng v.v… gọi tên là giới vàng v.v… Hoặc là xứ xuất sinh các thứ khổ, nên gọi là giới, dụ như trước đã nói. Có thuyết cho: Vì có công năng gìn giữ tự tướng của đại chủng và sắc được tạo nên gọi là giới. Như thế các giới cũng gọi là đại chủng.

Hỏi: Vì sao nói là chủng? Thế nào gọi là đại?

Đáp: Vô số thứ sắc được tạo lúc sinh có sai biệt. Nơi phẩm loại có sai biệt của vô số sắc được tạo kia có thể khởi, thế nên gọi là chủng.

Có thuyết nói: Vì nghiệp của hữu tình tăng thượng, nên sinh tử từ vô thủy chưa từng không có, do đó gọi là chủng. Hoặc pháp xuất hiện tức gọi là có, sinh trưởng tánh có, thế nên gọi là chủng. Tức là nghĩa của tánh có nơi pháp sinh trưởng. Hoặc là nghĩa của thân hữu tình sinh trưởng. Hoặc có thể hiển bày mười thứ sắc được tạo, thế nên gọi là chủng. Do uy lực này, nên hiển bày rõ sắc được tạo kia.

Nếu như vậy tức lỗi thái quá, vì tất cả nhân duyên đối với phần vị của quả sinh đều có công dụng. Không có lỗi thái quá, vì có đại dụng. Nói đại dụng, tức trong sự việc căn bản của các hữu tình, nơi bốn chủng như thế, đều có tác dụng hơn hẳn. Dựa vào tác dụng này, kiến lập thức cùng với không mới được gọi là căn bản của hữu tình. Vì phân biệt với chỗ khác, nên lại gọi là đại.

Lại, ở trong sự việc của hàng ngu tối, lừa dối, mê lầm, bốn thứ ấy là hơn hết nên gọi là đại. Như trong sự việc cải hóa đám giặc, là hành nghiệp thù thắng, là khác với các sự việc, nên gọi là đại, là cải hóa các thứ giặc lớn. Như thế, trong bốn nhân duyên ấy là hơn hết nên gọi là đại, là khác với loại còn lại, không có lỗi thái quá.

Có thuyết nêu: Bốn chủng này đã rộng làm đối tượng nương dựa cho tất cả sắc khác, nên gọi là đại.

Thuyết khác cho: Trong tụ của tất cả sắc v.v…, có đủ chất cứng v.v… nên gọi là đại. Trong tụ gió tăng thì thiếu sắc v.v… Nơi tụ lửa tăng thì thiếu vị v.v… Các tụ của cõi sắc đều không có hương, vị. Trong tụ màu xanh v.v… thì thiếu màu vàng v.v… Nơi tụ trơn láng v.v… thì thiếu chất nhám v.v… Âm thanh v.v… thì không nhất định, thế nên chỉ bốn chủng này, gọi là đại.

Hỏi: Vì sao hư không không gọi là đại chủng?

Đáp: Vì tướng của đại chủng kia không thành lập. Do có thể làm tổn giảm, tăng thêm, nên lập tên đại chủng. Còn hư không thì không như thế, nên không phải là đại chủng.

Hỏi: Há chẳng phải hư không, vì có dung nạp thọ nhận, nên có thể làm tổn giảm, tăng thêm chăng?

Đáp: Hư không thật sự không có công dụng dung nạp thọ nhận, không thể tụ tập sắc, tùy theo chỗ trụ ở phương hướng, khiến hư không mở, đóng.

Hỏi: Thế nào là dung nạp?

Đáp: Là tự nhiên không đối hợp, nên không tạo chướng ngại ở nơi kia, do là hư không không có tác dụng làm tổn giảm, tăng thêm.

Hỏi: Nếu như vậy thì vì ý gì tạo ra thuyết như thế?

Đáp: Vì có thể dung nạp thọ nhận, nên gọi là hư không. Ý của thuyết này nói: Vì có hư không, nên khiến sắc có đối lần lượt chấp nhận nhau, do giới hư không cùng với tướng hư không có phần ít tương tợ, nên có xứ này giả gọi là hư không. Không giới tức là các lỗ trống như yết hầu v.v… có công năng khiến chúng sinh ăn uống nuốt vào. Cùng có các sự việc chuyển biến tiện lợi v.v… Do không có công năng dung nạp thọ nhận, làm tổn giảm, tăng trưởng, thế nên hư không nhất định không phải là đại chủng.

Lại, các đại chủng không phải là một, không phải là thường, tự tướng có rất nhiều quả với vô lượng riêng khác. Còn tự tánh của hư không là một, là thường, tướng không có sai biệt, hoàn toàn không có quả, không phải là không có nhân riêng sinh, có quả riêng. Thế nên hư không không gọi đại chủng. Nếu cho do nhân khác có sai biệt, nên có thể hỗ trợ hư không sinh ra quả riêng, tức nhân riêng này có thể sinh quả riêng, đâu cần nắm giữ hư không này làm nhân.

Có thuyết nói: Vì tánh của hư không là thường, nên tướng nơi phần vị sinh diệt của pháp không có sai biệt. Địa v.v… thì không thế, nên pháp không đồng. Hiện thấy đại chủng trong phần vị như chủng v.v…, tướng của chúng chuyển biến, phần vị như mầm v.v… khởi. Hư không vô vi thì không như thế. Vì tánh tướng thường, nên tác dụng đều không có. Đã không thể sinh, nên không phải là đại chủng. Lại, ở trong đây, do hai thứ đại và chủng là nói đủ, nên chỉ có bốn nghĩa thành, hư không có nghĩa đại, nhưng không có nghĩa chủng, vì chủng cùng với công năng sinh, gọi là sai biệt.

Có thuyết nêu: Hư không cũng không có nghĩa đại, vì thể không phải là sắc, nên sắc được tạo cùng hữu vi khác, tánh không phải là sắc có thể sinh, nên là chủng, không phải là đại. Như trước đã nói, vì hai nghĩa đại chủng hỗ tương không thành, nên tùy thiếu một thứ thì không thể sinh thành sắc được tạo, nên đại chủng chỉ có bốn, không tăng, không giảm. Phái Tỳ-bà-sa nói như thế này: Giảm thì không có thể, còn tăng tức là vô dụng, nên chỉ có bốn, như chân giường, tòa.

Có thuyết cho: Đại chủng do pháp như thế nên chỉ có bốn.

Có thuyết nói: Đại chủng đối với sắc được tạo, chỉ cần gìn giữ, thâu tóm, thành thục, nuôi lớn bốn nghiệp, nếu giảm, hoặc tăng, thì không có khả năng, không có công dụng.

Làm sao nhận biết được? Vì bốn đại chủng này luôn không lìa nhau, như Kinh Nhập Thai và Kinh Đại Tạo nói: “Nên nhận biết rõ”.

Lại theo lý nên như vậy.

Những gì là ly? Nghĩa là trong đá v.v… hiện có công năng thâu giữ sinh lửa, tăng rơi vào ba nghiệp có thể tạo được, nên biết được ở đây có nước, lửa, gió, luôn không lìa nhau. Ở trong các thứ nước, hiện có ba nghiệp thâu giữ tánh ấm, lưu động có thể đạt được. Nên biết được ở đây có đất, lửa, gió luôn không lìa nhau. Nơi ngọn lửa cháy sáng, hiện có ba nghiệp nhận giữ, thâu tóm, tích tụ, kích động, có thể đạt được, nên biết ở đây có đất, nước, gió luôn không lìa nhau. Ở trong tụ gió, hiện có công năng gìn giữ, khởi ba nghiệp xúc lạnh, ấm có thể đạt được, nên biết ở đây có đất, nước, lửa luôn không lìa nhau.

Hỏi: Lại, làm sao nhận biết bốn giới như thế, do nhân duyên này nên luôn cùng theo đuổi? Do nhân duyên này, nên có thể thành các nghiệp như gìn giữ v.v…?

Đáp: Nghĩa là các giới như đất v.v… như thứ lớp có thể tạo thành các nghiệp như thâu giữ, thành thục, nuôi lớn bốn chủng v.v… Do nhân duyên này, nên đối với các tụ sắc, nếu có bốn nghiệp như duy trì v.v… có thể đạt được, tức biết trong đây có các giới như đất v.v… cùng không lìa nhau, luôn cùng theo đuổi.

Hỏi: Vì có thể tạo nên bốn nghiệp như duy trì v.v… tức là tự tướng của giới chăng? Không như vậy thì thế nào?

Đáp: Bốn giới như thế, tùy theo thứ lớp của chúng, cứng chắc, ẩm ướt, ấm áp, lưu động, dùng làm tự tướng. Nên biết trong đây nói tánh là làm rõ về thể, là biện minh thể tánh không lìa nhau.

Hỏi: Làm sao nhận biết được bốn chủng như đất v.v… có tướng khác như cứng v.v… có nghiệp như duy trì v.v…? Lại, làm sao nhận biết được bốn chủng như đất nghiệp tướng không khác nhưng nêu xét thì có khác?

Đáp: Do không thấy nghiệp tướng có sai biệt, nên chúng ta không thấy các tướng như cứng v.v…, các nghiệp như duy trì v.v… có khác. Nên trái với sự nêu xét của ông, nghĩa là ta nói lìa các tướng như cứng v.v…, thì rõ ràng có riêng các nghiệp như duy trì v.v… chăng? Nhưng các nghiệp như duy trì v.v… cùng với các tướng như cứng v.v… không phải lìa, không phải tức, vì cứng v.v… tức là tự tướng đất v.v…

Do không có đối tượng quán nên nghiệp dụng duy trì v.v… có riêng đối tượng quán được thiết lập, không phải là tự tướng của duy trì, mà nói đấy là nghiệp như duy trì. Chớ nên cho tất cả pháp đều có nghiệp như duy trì đều gọi là đất, sẽ thành lỗi thái quá.

Do vậy nên biết, giới đất, tướng cứng, không có đối tượng quán riêng, quán riêng về đối tượng được duy trì, nói là nghiệp có thể duy trì. Giới nước, tướng ẩm ướt, không có đối tượng quán riêng, thuộc về quán riêng, nói là nghiệp có thể gồm thâu. Giới lửa, tướng ấm áp, không có đối tượng quán riêng, quán riêng về đối tượng được thành thục, nói là nghiệp có thể thành thục. Giới gió, tướng lay động, không có đối tượng quán riêng, quán riêng về sự tăng trưởng nơi vị Lạt-lalam v.v…, hoặc lại nói mầm v.v…, nói là nghiệp có thể tăng trưởng.

Trưởng, nghĩa là tăng thịnh, hoặc lại lưu dẫn. Động, nghĩa là có thể dẫn phát đại chủng tạo sắc, khiến chúng nối tiếp sinh khởi đến phương khác. Thế nên các nghiệp như duy trì v.v… không phải tức là tướng như cứng v.v…

Có thuyết nói: Vì ba thời khác với một thời, nên biết được tướng cùng với nghiệp, nghĩa của chúng là không đồng.

Có thuyết nêu: Đất v.v… có các nghiệp như duy trì v.v… Nếu giới đất v.v… có tướng như cứng v.v…, thì thuyết này không hợp lý, vì gió cùng với giới gió không có sai biệt, tăng trưởng, lay động tức nên là một.

Hỏi: Nếu giới gió lấy lay động làm tánh thì vì sao Khế kinh và Luận Phẩm Loại Túc đều nói giới gió, nghĩa là tánh lay động, nhẹ v.v… Lại, nói tánh nhẹ là sắc được tạo?

Đáp: Nói lay động là gió, nhẹ là sắc được tạo, là hiển thị về tự tướng. Nhẹ là gió, tức nêu để làm rõ nhân, là quả của gió.

Hỏi: Há không phải giới lửa cũng là nhân của nhẹ?

Đáp: Nói lửa, gió tăng, vì sinh ra nhẹ. Tuy có thuyết này, nhưng lửa thì không nhất định. Nếu có tánh nhẹ, thì lửa tăng làm nhân, xứ này tất có giới gió tăng thịnh. Hoặc có tánh nhẹ, gió tăng làm nhân, nhưng trong đó không có giới lửa tăng thịnh, như cỏ lau v.v…, hoa bay theo gió nhẹ, là nêu rõ về tánh nhẹ. Trong đây, nếu giới lửa tăng thịnh, thì ở đó tức nên có sự chạm xúc nóng có thể đạt được. Do giới gió này làm nhân nhẹ khắp chốn, nên nêu riêng về nhẹ khắp, là làm rõ nơi giới gió. Nhưng tướng của đất v.v… có thể dễ nhận biết rõ, nên không cần nói về quả như nặng v.v… Nêu rõ đối với ba tướng như cứng v.v…, thì lay động, là khó hiểu rõ.

Hỏi: Có phải các giới như đất v.v… tức như đất v.v… chăng? Nếu không như vậy thì thế nào?

Tụng nêu:

Đất là sắc hiển hình

Theo tưởng đời đặt tên

Nước, lửa cũng như thế

Gió tức giới, cũng vậy.

Luận nói: Nói đất chỉ là biểu thị xứ sắc hiển hình.

Hỏi: Há không phải là nêu chung bốn xứ đất hợp thành? Vì sao chỉ nói hiển hình là đất?

Đáp: Trong đây tuy có xứ hương, vị, xúc, nhưng tùy theo tưởng thế gian nên nói lời này: Do các tướng của thế gian chỉ rõ về đất, nghĩa là dùng sắc hiển hình để cùng chỉ rõ.

Nếu như vậy tướng thế gian chỉ rõ về y phục v.v…, cũng dùng hiển hình để cùng biểu thị, như nói áo v.v… trắng v.v…, dài v.v…, mà thừa nhận bốn xứ là tánh của áo v.v… Đất cũng nên như vậy, vì sao chỉ là sắc?

Lại, các thế gian cũng đối với hương v.v…, thiết lập tên đất, nghĩa là nói lời này: Tôi nay ngửi, nếm, chạm xúc đất. Tuy có sự việc ấy, nhưng sắc hiển hình đối với đất, nước, lửa, có thể biểu thị chung. Vì sao? Vì nơi thế gian không nói nhiều: “Tôi ngửi nước”, cũng không nói nhiều: “Ngửi, nếm lửa”. Tuy nói chạm xúc đất v.v… mà tức là giới như đất v.v…, thế nên trong đất tuy có hương v.v… nhưng vì sắc hiển hình là hơn nên nói riêng. Lại, sắc hiển hình biểu thị hai giới như đất v.v… không khác, vì vậy nên nói riêng.

Nếu như thế thì hiển hình biểu thị về áo v.v…, vì vượt hơn hương v.v…, tức cũng nên nói riêng. Thế gian khởi danh tưởng không có quyết định, nên Đối pháp tùy thuận danh tưởng thế gian, thị hiện đất v.v…, y phục v.v… có sai biệt. Lại, vật có thật, không phải thế gian thành lập chung, vì thế gian đã cùng thành lập, đều là giả có, tức đối với pháp giả, nên tùy thuận thế gian đã khởi danh tưởng có sai biệt mà nói. Do hương v.v… này giả nêu là đất, cũng không có lỗi. Lại, căn cứ nơi hiển hình để biểu thị về đất, nói như thế này: Do danh tưởng của các thế gian không nhất định, nên không thể dùng một để so sánh các danh tưởng khác đều đồng.

Đã nói bốn xứ như áo v.v… làm tánh, các pháp chung khác, như chỗ ứng hợp nên biết. Trong vật như áo v.v… cũng có sinh v.v…, vật kia nên dùng năm xứ làm tánh, tuy không phải là không có, nhưng các thế gian không ở nơi xứ kia khởi danh tưởng như áo v.v…

Nếu vậy, thanh xứ tức nên gọi là áo v.v…, do thế gian nói là nghe âm thanh của áo v.v… Tuy cũng có âm thanh nhưng không cùng nối tiếp. Vì sắc v.v… luôn có, nên chỉ nói bốn, như đất chỉ dùng hiển hình làm thể, nước, lửa cũng thế. Tùy theo tưởng thế gian, nên thế gian hiện thấy nước xanh, dài v.v…, nên nói hiển hình là tự tánh của nước. Thế gian thấy tiếp xúc tướng của dòng nước xong, bèn nói: Trong đây là dòng nước chảy, nhưng thể của dòng chảy ấy, về lý không phải là nước thật, do cảnh của năm căn như mắt v.v… đều riêng khác, nên cũng không phải là hiển sắc, thân có thể chạm xúc. Lại, không phải là hình sắc, vì tám thứ không thâu gồm, nên không phải lìa ngoài hiển hình, có sắc xứ riêng khác.

Hỏi: Thế nào là xúc thấy tướng dòng nước chảy?

Đáp: Do nhiều nước tụ tập theo lực đẩy của gió, sinh ra dòng nước chảy kia, tức mới lần lượt nối tiếp. Thế gian đối với sự việc này khởi sinh danh tưởng dòng nước chảy. Như thế, khi các thứ nước sinh nơi phương khác, trong đó, hiển hình là mắt đã thấy, khoảng giữa, tánh ẩm ướt là thân đã tiếp xúc. Thế nên, hiển hình cùng với tánh ẩm ướt, do sức của gió kích động, lần lượt xô đẩy nhau sinh nơi phương khác, nói là tánh của dòng chảy, không phải lìa ngoài tánh này mà có riêng thể của dòng chảy, nên nước chảy v.v… là giả, không phải là chân. Thế gian hiện thấy lửa cháy đỏ, nối dài v.v…, nên nói hiển hình là tự tánh của lửa. Lại, khi tức sắc tiếp xúc chuyển biến sinh, gọi là ngọn lửa than, là giả, không phải thật, vì không có mo vật thật nào do thân mắt đạt được.

Đã nói đất v.v… cùng với giới có sai biệt. Vì thế gian đối với lay động, đặt tên gió, mà gió cùng với giới gió không có sai biệt. Do đạo lý này nên nói gió tức là giới.

Hỏi: Há không phải là thế gian đối với sắc hiển hình cũng sinh khởi tưởng gió chăng?

Đáp: Thế gian hiện dùng gió đen, gió xoáy, lại cùng chỉ rõ. Vì có thông hợp vấn nạn này, nên nói: Cũng là nghĩa riêng khác như đất v.v… cùng với giới. Các sư thời xưa đều tạo ra thuyết này: Vì đất xen tạp ở giữa, nên thấy như thế. Vì chỉ rõ gió kia tức là giới gió, nên lại nói như thế. Như thế là nghĩa xác định.

Trong hai thuyết này, thuyết trước là hơn. Biến xứ bất tịnh không có sai biệt, nên bất tịnh chỉ duyên nơi cảnh của sắc xứ.

Tụng nêu:

Trong ấy căn cùng cảnh

Tức nói mười xứ, giới.

Luận nói: Đã nói căn cảnh của vật thật, vô biểu làm tánh của sắc uẩn. Căn, cảnh trong đây cũng tức nói là mười xứ, mười giới. Ở trong môn xứ lập làm mười xứ, nghĩa là nhãn xứ v.v… Ở trong môn giới thì lập làm mười giới, nghĩa là nhãn giới v.v…

Đã lập sắc uẩn và lập xứ, giới.

Hỏi: Trong đây, sắc uẩn duyên nơi gì gọi là sắc?

Đáp: Thánh giáo của bậc Thiện Thệ lại nói biến hoại, nên gọi là sắc. Ở đây ý nói: Vì nhân của khổ thọ, vì có xúc đối, vì có thể chuyển đổi, nên gọi là biến hoại. Do biến hoại nên nói là sắc. Nhân của khổ thọ là sắc có biến hoại, có thể sinh khổ thọ, như phẩm Nghĩa nói:

Người hướng cầu các dục

Thường khởi lên hy vọng

Các dục nếu không đạt

Não hoại như trúng tên.

Có xúc đối: Tức như tay v.v… đã xúc chạm sắc liền biến hoại, là nghĩa có đối ngại, có thể biến hoại. Có thể chuyển đổi: Như thân của bò, dê v.v… có thể chuyển đổi, là nghĩa có thể chuyển biến cùng trao đổi. Do có thể chuyển đổi, nên gọi là biến hoại.

Hỏi: Thế nào là sắc pháp có thể chuyển đổi?

Đáp: Nghĩa là tướng khác sinh, nên gọi chuyển đổi. Hoặc có thể biểu thị nghiệp đã hành tập đời trước, nên gọi là sắc. Như Khế kinh nói: “Ma-nạp-bà này do nghiệp đời trước đã hành tập nên có thể chiêu cảm hình sắc xấu, nghĩa là nhiều giận dữ, hoặc có thể biểu thị nội tâm hiện có nên gọi là sắc”. Như Khế kinh nói: “Cụ thọ! Ông nay các căn kết tụ, an vui nơi định, chứng cam lộ”. Há không phải ở đây chỉ căn cứ theo chỗ có thấy sắc của số hữu tình, lời chỉ dẫn, giải thích về sắc, chỉ lời này có thể biểu thị nghiệp đã hành tập đời trước và nội tâm.

Hỏi: Nếu như vậy thì không thấy sắc của số phi tình, tức nên đều không phải là sắc, không có lỗi lầm này?

Đáp: Chỉ trong tụ sắc mới có nghĩa ấy, nên không nói các sắc đều có thể biểu thị. Lại, ở trong tất cả tụ phi sắc, đều không thể biểu thị, nên lời giải thích này, về lý được thành lập. Như Khế kinh nói: Nghiệp là nhân của sinh. Ở đây nói các sinh đều nhân nơi nghiệp, không nói các nghiệp đều là nhân của sinh. Nay, không nên vấn nạn. Nghiệp không phải là nhân của sinh nên là phi nghiệp.

Nếu không như vậy, huấn từ của bậc Thiện Thệ cũng có thể là vấn nạn. Vì không phải tất cả sắc đều là biến hoại. Đức Thế Tôn lại căn cứ ở sắc có đối ngại nên nói như thế này: Vì có biến hoại nên gọi là sắc. Lại nói: Cái gì có thể biến hoại? Nghĩa là tay chạm xúc, nên tức liền biến hoại, cho đến nói rộng.

Lại nói lời này: Các người hành tập dục, không có nghiệp ác nào mà không phải là đối tượng hành tác. Không phải các Thánh giả hoàn toàn không hành tập dục, nhưng cuối cùng không chiêu cảm nghiệp nẻo ác, nên biết thuyết kia chỉ căn cứ theo phàm phu. Ở đây cũng nên như thế, không thể tạo vấn nạn. Hoặc tất cả sắc đều có thể biểu thị nghiệp đã hành tập nơi đời trước, không phải sắc hữu tình, cũng cùng thừa nhận là quả của nghiệp đời trước.

Hỏi: Các sắc không thấy làm sao biểu thị?

Đáp: Vì cùng với sắc có thấy không lìa nhau, nên không phải lìa không thấy mà có có thấy, vì có thấy, không thấy là quá của một nghiệp, do đó không thấy là nghĩa có thể biểu thị được thành, nhưng không thọ v.v… cũng thành lỗi của sắc. Tuy từ nghiệp sinh, nhưng không phải luôn có. Nếu như luôn có là vi tế khó nhận biết, nên sắc của dị thục sinh không phải do suy xét sinh, tùy chuyển vô gián. Vì vậy chỉ các sắc mới có thể biểu thị nghiệp đã hành tập đời trước.

Hỏi: Nếu như vậy thì âm thanh không phải do dị thục sinh, nên không thành sắc?

Đáp: Tuy không phải do nghiệp sinh, nhưng có thể biểu thị nghiệp đã hành tập đời trước, như Diêm Hiền v.v… là đã dẫn chứng. Lại, âm thanh sinh nhân xứ, định không tâm cũng thường hiện có, nên đối với nghĩa của sắc đã giải thích là không trái.

Có thuyết nói: Vì biến ngại nên gọi là sắc.

Hỏi: Nếu như vậy thì cực vi làm sao biến ngại?

Đáp: Không có một cực vi nào nơi hiện tại riêng dừng trụ. Do tích tập dừng trụ nên nghĩa biến ngại được thành.

Có thuyết cho: Cũng có cực vi dừng trụ riêng, nhưng có biến ngại, mà không phát sinh thức. Vì năm thức dựa vào duyên, chủ yếu là tích tập. Như lập cực vi, tuy không có phương phần, cũng không có xúc đối, nhưng thừa nhận cực vi có tác dụng ngăn ngại, có đối, có chướng, nên biết nghĩa biến ngại cũng như thế. Đã diệt chưa sinh là giống với cực vi kia, như củi đã đốt cháy, như bỉ đồng phần mắt. Lại, như thế gian nói: Vì ăn gấp, đi vội, nên gọi là ngựa, nhưng không phải tất cả. Tuy không có đức kia, nhưng là giống với đức kia, nên nghĩa chủng loại được thành, chỉ tùy theo phần ít để kiến lập danh, tưởng. Ở đây cũng như thế.

Do đấy, tức giải thích: Pháp nhất định không sinh, vì trụ nơi tướng sắc, nên cũng được mang tên sắc. Lại như thế gian, đối với công dụng chưa có, nói ngược là sẽ có, như nói sẽ có lửa. Nay nếu đột nhiên khởi việc bao vây thiêu đốt rụi một làng, không người nào được sống sót. Cũng như thế gian, đối với công dụng đã diệt, theo đấy nói là từng có. Như nói: Lửa xưa, nay nếu đột nhiên khởi việc bao vây thiêu đốt rụi một làng, thì không người nào được sống sót. Không phải chưa có công dụng và công dụng đã diệt có thể thật sự thiêu đốt, nhưng cùng loại đồng nói nên cũng hợp lý. Pháp nhất định không sinh, về lý cũng nên như thế. Pháp kia nếu như sẽ sinh, cũng tức nên biến ngại. Vì vậy dùng nghĩa biến ngại để giải thích về sắc là được thành.

Hỏi: Quá khứ, vị lai tuy như vậy, nhưng vô biểu thì thế nào?

Đáp: Có giải thích: Vì biểu sắc có biến ngại, nên vô biểu tùy theo biểu kia, cũng thọ nhận tên sắc. Điều này không hợp lý, vì sắc tùy tâm chuyển, không từ biểu sinh, nên không phải là sắc. Kinh chủ ở đây lập lầm tông trước, nói: Như cây lay động thì bóng cũng lay động theo, tức nên lỗi nơi lời nói. Như khi cây diệt, thì bóng của cây tất diệt theo. Khi biểu sắc diệt, vô biểu tức nên diệt. Nhưng không phải thí dụ kia, vì chỗ lập khác. Nghĩa là lập đối tượng nương dựa có biến ngại, đây cũng gọi sắc. Nêu bày là nói dụ. Đối tượng nương dựa của vô biểu, tức bốn đại chủng, không phải khi bốn đại chủng kia không thành tựu là vô biểu tùy chuyển, nên ở đây không có lỗi như thế.

Lại, cùng trái với đây tức có lỗi bất định, nghĩa là không quyết định thứ này từ thứ kia sinh. Nếu khi đại chủng kia diệt, thì vô biểu đây cũng diệt theo. Như khi chủng loại của thợ khéo tay là cha cùng diệt, không phải là mầm v.v… nơi đền nhà của con diệt theo. Lại như chỗ dựa là định kim cang dụ đã diệt, không thành tựu, thì tận trí đã sinh đến, uẩn nối tiếp cũng không tùy chuyển diệt. Lại như chỗ dựa của vô lậu câu sinh, khi sinh lên cõi trên, thì chỗ dựa tuy diệt, nhưng vô biểu thì tùy chuyển. Nếu dùng đối tượng nương dựa là đại chủng biến ngại, thì vô biểu của chủ thể nương dựa cũng gọi là sắc, tức là năm thức như nhãn v.v… có đối tượng nương dựa là năm căn có biến ngại, nên cũng gọi sắc.

Có giải thích: Lời nói ở đây không có lỗi lầm ấy. Vô biểu lúc nương dựa nơi đại chủng chuyển, như bóng nương dựa nơi cây, ánh sáng nương vào ngọc báu. Năm thức như nhãn v.v… khi nương dựa vào mắt v.v…, thì không như thế. Mắt chỉ có công năng làm duyên tạo sự hỗ trợ để sinh, nên Kinh chủ cho là ở đây nói như bóng dựa vào cây, ánh sáng nương dựa nơi ngọc báu, nói, không phải là phù hợp thuận với nghĩa của Tỳ-bà-sa, do đã thừa nhận bóng v.v… là cực vi của hiển sắc đều tự nương dựa nơi bốn đại chủng. Đây không phải là Bản luận nơi Tỳ-bà-sa nói. Cũng không phải là không thuận với nghĩa của Tỳ-bà-sa. Lời nói này ý nêu: Đại chủng như bóng v.v…, đại chủng như cây v.v…, đều là đối tượng nương dựa. Vì sao? Vì đại chủng như bóng v.v… khi sinh, trụ, biến đổi, đều tùy thuộc nơi cây kia. Ý nói của ánh sáng bóng cây này, là biểu thị về tụ chung, không phải chỉ là hiển sắc, như nói cây, ngọc báu. Thế nên cực vi của hiển sắc nơi bóng v.v… nương dựa nơi đại chủng như bóng v.v… mà chuyển. Đại chủng như bóng v.v… lại dựa vào đại chủng như cây v.v… mà sinh, nên ở đây không có lỗi không thuận hợp. Kinh chủ lại nói: Giả như thừa nhận bóng, ánh sáng nương dựa nơi cây, ngọc báu, nhưng vô biểu sắc thì không đồng với chỗ nương dựa kia. Do thừa nhận đại chủng của đối tượng nương dựa tuy diệt nhưng vô biểu sắc không diệt theo. Vấn nạn này không quan hệ nơi nghĩa của Tỳ-bà-sa. Vì thừa nhận cả hai: Chủ thể nương dựa, đối tượng nương dựa cùng diệt, đại chủng của đối tượng nương dựa thuộc vô biểu, nếu diệt thì vô biểu của chủ thể nương dựa chưa từng không diệt. Vô biểu của niệm ban đầu có thể cùng với đại chủng của đối tượng nương dựa cùng diệt.

Hỏi: Vô biểu của niệm thứ hai v.v… thì thế nào?

Đáp: Đại chủng của niệm thứ hai v.v… nếu không có thì vô biểu sắc kia há được hiện hữu? Tuy trong phần vị này không phải không có đại chủng, nhưng đại chủng của niệm kia, không phải là đối tượng nương dựa của phần vị này, không phải là nhân của sinh.

Lạ thay! Như thế là khéo lãnh hội Đối pháp. Há không là không phải chỉ đại chủng của nhân sinh, đối với sắc được tạo, có thể làm đối tượng nương dựa. Nhưng lại có đại chủng của bốn nhân khác, đối chiếu với sắc được tạo, thừa nhận là chủ thể nương dựa. Nếu đại chủng của đối tượng nương dựa kia diệt rồi, vô biểu của chủ thể nương dựa cũng không diệt, Thánh sinh nơi vô sắc là vô biểu vô lậu. Đã thừa nhận là thành tựu, nên được hiện tiền. Sinh dựa vào hai nhân nơi đại chủng diệt xong, thì vô biểu vô lậu tuy thành, nhưng không hiện hành, nên biết hành vô biểu của cõi dục là nhất định, do đại chủng của đối tượng nương dựa không diệt. Ở đây nếu không như thế thì sự việc kia làm sao như thế? Do đấy các Sư đều tạo ra thuyết này: Các sắc được tạo có hai thứ nương dựa: (1) Sinh khởi nương dựa. (2) Lực chuyển nương dựa.

Thánh sinh nơi vô sắc, do lực chuyển nương dựa, là đại chủng không có, nên vô biểu vô lậu, tuy lại thành tựu, nhưng không hiện hành. Do các Sư chưa vâng phụng lối giải thích Đối pháp không có điên đảo, nên gây ra sự mê loạn này. Nhưng năm thức như nhãn v.v… dựa nơi năm căn tuy có biến ngại, nhưng không thành sắc, do chủng loại của sắc kia có dị biệt, có chủng loại của thức không dựa nơi sắc, chỉ năm thức thân dựa nơi sắc mà khởi, còn sáu thức đều dùng ý làm đối tượng nương dựa. Trong cõi vô sắc ý cũng có thể đạt được.

Lại, đối với định, giấc ngủ, mộng v.v… của địa dưới, tác dụng của ý có thể đạt được, không có tác dụng của năm căn. Lại, về lý thì không hợp với tự tánh của sáu thức, chủng loại của một pháp cũng là sắc, phi sắc, không có vô biểu nào không nương dựa nơi sắc sinh, nên ứng hợp với đối tượng nương dựa, có biến ngại vô biểu của chủ thể nương dựa cũng được gọi là sắc. Lại, nói sắc: Như bò, khổng tước, dựa vào phần loại ít để lập danh, tưởng, chẳng phải không có sai biệt, không nên tạo vấn nạn.

Đã nói về sắc uẩn, sẽ nói về thọ v.v…

Tụng nêu:

Thọ lãnh nạp theo xúc

Tưởng lấy tượng làm thể

Ngoài bốn, gọi hành uẩn

Thọ như thế là ba

Cùng vô biểu, vô vi

Gọi pháp xứ, pháp giới.

Luận nói: Tùy theo xúc mà sinh lãnh nạp đáng yêu thích và không đáng yêu thích, đều cùng trái với xúc, gọi là thọ uẩn. Lãnh nạp, tức là nghĩa có thể thọ dụng. Thọ dụng này lại có ba thứ, nghĩa là lạc và khổ, không khổ không lạc. Có thể tạo lợi ích cho thân tâm, nên gọi là lạc. Có thể làm tổn hại thân tâm, nên gọi là khổ. Có chỗ lãnh nạp nhưng không khổ lạc, nên gọi là không khổ không lạc, như chẳng phải đen, chẳng phải trắng.

Lại, làm sao nhận biết ba thứ này có riêng thể?

Có thuyết nói: Do có thể tăng ích, tổn giảm đại chủng của các căn và đều cùng trái nhau, vì ba công dụng riêng, nên biết có ba Thể.

Hoặc có thuyết nêu: Vì tăng tùy miên tham, sân, si riêng khác, nên biết có ba Thể. Tuy đối với các thọ tất cả đều tùy tăng, nhưng do đối tượng duyên và tương ưng, nên căn cứ theo tướng riêng mà nói. Lại, tuy si cùng với ba thọ tương ưng, nhưng tham, sân đều là hai mà theo phần nhiều tương ưng với hiện hành, nên nói như thế.

Lại có thuyết cho: Vì cùng với hành tướng của tham, sân, si tương tợ, nên tạo ra thuyết ấy.

Có Sư khác nói: Trong Đối pháp nêu rõ: Ở trong lạc thọ thì tham tùy tăng. Không nói lạc thọ chỉ có thể khởi tham, chỉ nói tham kia tùy nơi lạc thọ khởi. Hai thọ sân, si, nên biết cũng như vậy.

Nay, chánh thuyết là do giáo và lý, nên biết thọ thứ ba quyết định không phải là không có. Giáo như nói: Do lạc đoạn cùng khổ đoạn, nên ở đây chỉ có không khổ không lạc. Lý là lìa thọ, tâm tất không sinh, còn lìa khổ lạc, tâm hiện có thể đạt được.

Do đâu nhận biết lìa thọ tâm tất không sinh ? Do các Khế kinh đồng nêu rõ. Như Khế kinh nói: Mắt và sắc làm duyên sinh ra nhãn thức, ba thứ hòa hợp sinh xúc cùng khởi thọ, tưởng, tư. Như thế, cho đến ý và pháp làm duyên sinh ra ý thức, ba thứ hòa hợp sinh xúc cùng khởi thọ, tưởng, tư. Không có tâm thứ bảy lìa thọ mà khởi, nên biết quyết định có thọ thứ ba.

Lại nói các thọ lược có hai thứ: (1) Thọ chấp thủ. (2) Thọ tự tánh.

Thọ chấp thủ: Nghĩa là có thể nhận lãnh cảnh nơi đối tượng duyên của chính nó. Thọ tự tánh: Nghĩa là có thể nhận lãnh đối tượng tùy xúc. Nên Đức Thế Tôn nói: Xúc thuận với lạc thọ, xúc thuận với khổ thọ, và xúc thuận với bất khổ bất lạc thọ. Là nghĩa xúc đã nhận lãnh lạc thọ v.v… nhận lãnh thọ của đối tượng duyên cùng với pháp của một cảnh vì tướng sai biệt, khó có thể biết rõ. Như Khế kinh nói: Thọ lãnh nhận đầy đủ. Nói thọ lãnh nhận này, giống như dựa nơi tuệ để nêu bày, nên Khế kinh kia tiếp theo sau lại nói: Không thọ nhận hữu sau, như thật nhận biết rõ. Tuy thọ cũng có thể nhận lãnh cảnh giới, nhưng tự tánh của sự nhận lãnh này khó biết, nên nhận lãnh xúc là thọ tự tánh. Thọ tự tánh này là không chung với thứ khác, nên dễ hiểu rõ có sai biệt.

Các thọ như thế, cùng với pháp như tâm v.v… đồng đối tượng duyên, vì nhận lãnh khác, nên sự của đối tượng duyên là riêng, sự của đối tượng nhận lãnh là riêng, do xúc này ở nơi thọ. Nếu lúc vì đối tượng nhận lãnh là thời gian không phải là đối tượng duyên. Nếu thời gian là đối tượng duyên, là thời gian không phải là đối tượng nhận lãnh, nên duyên, sự nhận lãnh là riêng khác. Do thọ này khéo thông hợp nơi câu văn như thế. Khi nhận lãnh lạc thọ, thì nhận biết rõ như thật là thọ nhận nơi lạc thọ. Cho đến nói rộng. Ý trong đây nói: Có thể dùng tuệ giác không điên đảo để xét kỹ nhận biết về ba thọ có sai biệt. Không phải lạc nghĩa là khổ. Không phải khổ nghĩa là lạc. Không phải ở nơi khổ, lạc, nghĩa là đều cùng trái nhau. Phần còn lại cũng như thế. Trong đây, không phải là tự tánh của thọ lãnh nhận, tức là tánh của thọ, chỉ lãnh nhận thọ của đối tượng duyên và pháp khác, tất cả đều là đối tượng thọ nhận của tâm và tâm sở.

Có A-cấp-ma có thể làm rõ lý ấy, như Khế kinh nói: Duyên nơi vô số thứ giới, có vô số thứ xúc. Duyên nơi vô số thứ xúc có vô số thứ thọ. Duyên nơi vô số thứ thọ có vô số thứ ái. Vô số thứ giới: Nghĩa là căn, cảnh, thức với vô số thứ tánh, tướng có sai biệt.

Hỏi: Vì sao không nói duyên nơi vô số thứ giới có vô số thứ thọ? Lại, vì sao không nói duyên nơi vô số thứ giới có vô số thứ ái?

Đáp: Ở đây cũng đồng nghi, thế nên cùng giải thích. Theo thứ lớp pháp như thế, an lập không có lỗi. Hiện thấy nơi thế gian khi từ chủng tử trước sinh quả sau, do hoa, sữa v.v… có sai biệt nên quả có sai biệt. Như theo thứ lớp sinh, lập nhân quả nhất định. Nhân quả cùng sinh cũng nên an lập nhất định. Vì thế các thọ tuy cũng nhân nơi giới, nhưng chủ yếu là dùng xúc để làm nhân gần. Lại, như hai thanh gỗ cùng cọ xát vào nhau sinh ra lửa, gió là duyên gần. Ba pháp như thế, hòa hợp sinh thọ, xúc làm duyên gần, nên căn cứ theo xúc lãnh nhận, làm tự tánh của thọ, không phải nhận lãnh đối tượng duyên, về lý nhất định được thành lập. Thọ này căn cứ theo thế gian nói chung là ba. Căn cứ theo đối tượng nương dựa của xúc thì phân biệt làm sáu.

Đã nói về thọ uẩn. Tưởng uẩn là thứ ba. Nhận lấy hình tượng làm thể. Nghĩa là đối với tất cả đều tùy nơi gốc để an lập. Sắc như màu xanh, dài v.v… Thanh như đàn cầm, vỏ ốc v.v… Hương như sen tươi v.v… Vị như đắng, cay. Xúc như trơn, nhám v.v… Pháp như sinh, diệt v.v… trong các cảnh của đối tượng duyên, như tướng mà nhận lấy, nên gọi là tưởng. Thế nên tưởng này theo đức để lập danh, do có thể nhận lấy hình tượng, nên gọi là tưởng. Chung, riêng là ba, sáu, như thọ nên biết.

Đã nói về tưởng uẩn. Hành uẩn là thứ tư. Các hành ngoài bốn, nghĩa là trừ ba: uẩn sắc, thọ, tưởng nói ở trước. Cùng trừ thức sẽ nói, là thứ tư, pháp hữu vi còn lại, gọi là hành uẩn. Hành uẩn này có tương ưng và không tương ưng là tư v.v…, đắc v.v…, như thứ lớp của chúng. Khế kinh chỉ nói sáu tư thân, do là hơn hết. Vì sao? Vì tư là tánh của nghiệp làm nhân chiêu cảm quả. Vì sức của nhân ấy là rất mạnh. Nên Đức Thế Tôn nói: Nếu có thể tạo tác hữu vi hữu lậu, gọi là hành thủ uẩn. Nếu cho chỉ ở đây gọi là hành uẩn, thì về lý tất không đúng. Hành khác sắc v.v… đã không thâu tóm, nên không thuộc về uẩn.

Hỏi: Nếu nói như vậy thì có lỗi gì?

Đáp: Có lỗi do không phải khổ, tập, nhận biết, đoạn trừ, tức nên không có.

Hỏi: Nếu như thế thì có lỗi chăng?

Đáp: Là trái với Thánh giáo. Như Đức Thế Tôn nói: Nếu đối với một pháp chưa thông đạt, chưa nhận biết, Ta nói không thể tạo được biên vực tận cùng của khổ. Chưa đoạn, chưa diệt, nói cũng như thế.

Nếu cho hành khác cũng như hư không và phi trạch diệt, tức không có lỗi này, thì về lý cũng không đúng, vì hành đó là sự việc tăng trưởng ngã chấp, vì ngã chấp có thể làm chướng ngại pháp khổ tận.

Thượng tọa kia nêu: Hành uẩn chỉ là tư. Tác ý v.v… khác là tư có sai biệt. Lại nói lời này: Hành như tác ý v.v… không thể lìa tư mà nhận biết có riêng thể. Hoặc lìa hành khác, có riêng phần ít thể của tư có thể đạt được. Do hành uẩn này, tuy không phải là một vật, nhưng thuộc về một tư. Thế nên Khế kinh tuy nêu lên một tư, nhưng không trái với lý.

Hỏi: Lại, làm sao nhận biết hành như tác ý v.v…, tất cả đều dùng tư làm tự thể?

Đáp: Do Đức Bạc-già-phạm, trong Khế kinh đã nói sáu tư thân là hành uẩn. Nói tham, sân v.v… gọi là ý nghiệp, không phải đen, không phải trắng, nghiệp là không có dị thục, có thể diệt tận các nghiệp. Ở đây do tên gọi tư nói là Thánh đạo. Nói các tĩnh lự vô lượng, vô sắc cho là trắng, vì nghiệp của dị thục trắng, không ứng hợp với tên khác nói là pháp khác, không phải một nói là một, là lời nói sai lầm. Các Đức Bạc-già-phạm hoàn toàn không nói lời sai lầm.

Tôn chỉ của Thượng tọa kia đã nói như thế, về lý là không hợp, vì lập luận trước sau mâu thuẫn, nghĩa là vị kia trước nói hành uẩn chỉ là tư, sau thì nói hành uẩn không phải chỉ một vật.

Vì sao nhận một tư tức không phải là một vật, vì chỉ nói sáu tư là hành uẩn, nên biết tác ý v.v… lấy tư làm thể, lý ấy không hợp, vì nói pháp khác.

Hiện thấy trong kinh, Đức Thế Tôn nói pháp, có vô số thứ khác. Hoặc nêu phần đầu để gồm thâu phần sau. Hoặc nêu phần sau để gồm thâu phần đầu. Hoặc nêu cả phần đầu, sau để gồm thâu phần giữa. Hoặc nêu phần giữa để gồm thâu trước, sau.

Hỏi: Những gì là trong kinh nêu lên phần đầu gồm thâu phần sau?

Đáp: Nghĩa là kinh nói về tĩnh lự, thức ăn, Cù-ba-lạc-ca, pháp không thối chuyển, tập đế v.v…

Nói tĩnh lự tức là tu bốn đẳng trì. Trong Khế kinh nói: Nếu tu tĩnh lự thứ nhất thì được hiện pháp lạc trụ, không phải tu thứ khác thì không được hiện pháp lạc trụ. Vì nêu phần đầu để gồm thâu phần sau, nên nói như thế. Do đấy Đức Như Lai đã nói là không có giảm.

Thức ăn là bốn cách ăn. Trong Khế kinh nói: Thứ nhất là đoạn thực: Có thô, có tế. Không phải ba cách ăn còn lại không có thô tế. Do nêu phần đầu để gồm thâu phần sau, nên nói như vậy.

Cù-ba-lạc-ca, nghĩa là kinh kia nói: Không nhận biết rõ sắc, không phải là bốn uẩn còn lại. Đã được nhận biết rõ, là nêu phần đầu để gồm thâu phần sau, nên nói như thế.

Pháp không thoái chuyển, nghĩa là kinh kia nói: Người đắc quả Dự lưu thì không đọa nẻo ác, không phải Thánh giả khác thì bị đọa nơi các nẻo ác. Vì là nêu phần đầu để gồm thâu sau, nên nói như vậy.

Tập đế, nghĩa là trong Khế kinh kia nói ái là tập đế. Không phải các pháp nhiễm khác, tập đế không thâu tóm, nhưng là nêu phần đầu để gồm thâu phần sau, nên đã nói như vậy.

Trong phần xét chọn về đế sẽ phân biệt, hiển thị. Vô lượng các Khế kinh như thế v.v…, đều nêu lên phần để gồm thâu phần sau. Do đấy Đức Như Lai đã nói là không giảm.

Hỏi: Những gì là trong kinh đã nêu phần sau để gồm thâu phần đầu?

Đáp: Nghĩa là kinh nói về đắc tự thể, thức trụ, tụng tán thán phước điền v.v…

Đắc tự thể, nghĩa là tự thể của bốn đắc. Trong Khế kinh nói: Sinh ở trời Phi tưởng phi phi tưởng, không phải có thể tự hại, không phải có thể người khác hại, không phải không là tất cả trời sắc, vô sắc, không phải có thể tự hại, không phải có thể người khác hại, là nêu phần sau để gồm thâu phần đầu, nên nói như thế.

Thức trụ, nghĩa là bảy thức trụ kia. Kinh nói như vầy: Hữu tình có sắc thân một, tưởng khác, như trời Cực quang tịnh, là thức trụ thứ ba. Không phải không là trời Thiểu quang, Vô lượng quang, cũng gọi là hữu tình có sắc, thân một, tưởng khác. Nhưng là nêu lên phần sau để gồm thâu phần đầu, nên nói như thế.

Tụng tán thán phước điền, nghĩa là kinh kia nói:

Nếu đối A-la-hán

Luôn tu phước thí diệu

Thường được các thiên thần

Khuyên, khen tỏ điềm lành.

Không phải ở nơi ba quả trước, tu phước thí diệu, không được chư thiên v.v… khuyên khen, bày tỏ điều lành, nhưng là nêu lên phần sau để gồm thâu phần đầu, nên nói như thế. Nếu cho ba quả trước, vì đáng nên cúng dường, tức cũng được gọi A-la-hán, tức kinh này liền thành thuyết giảng không liễu nghĩa, vì A-la-hán gọi là bậc vô học chủ.

Hỏi: Những gì là trong kinh chỉ nêu lên phần đầu, phần sau để thâu tóm phần giữa ?

Đáp: Nghĩa là kinh khen ngợi xuất gia, chứng tịnh v.v…

Khen ngợi người xuất gia: Nghĩa là kinh kia nói:

Có các người xuất gia

Hay chứng quả Dự lưu

Cùng quả A-la-hán

Gọi là hành tác nhiều.

Không phải người xuất gia chứng quả Nhất lai và quả Bất hoàn, không có nhiều việc đã làm, nhưng là nêu lên phần đầu, phần sau để gồm thâu phần giữa, nên nói như thế. Khen ngợi người chứng tịnh, nghĩa là kinh kia nói:

Các chúng nơi Như Lai

Trụ tín diệu, không động

Cùng tịnh thiện Thi la

Luôn được gặp tốt đẹp.

Không phải đối với Pháp, Tăng, trụ nơi tín không động, không được gặp điều tốt đẹp, nhưng chỉ nêu lên phần đầu, phần sau, để gồm thâu phần giữa, nên nói như vậy.

Hỏi: Những gì là trong kinh chỉ nêu lên phần trung gian để gồm thâu phần trước, sau?

Đáp: Nghĩa là Khế kinh nói: Nếu có người tu tập tĩnh lự thứ tư thì gọi là được lậu tận. Không phải không cho là bảy nơi chốn nương dựa đều có thể dứt hết các lậu. Nhưng đây là nêu lên phần trung gian để gồm thâu phần đầu, phần sau, nên nói như vậy. Vô lượng các Khế kinh như thế v.v…, đều nêu lên phần trung gian để gồm thâu phần đầu, phần sau. Do đấy, Đức Như Lai đã giảng nói không có giảm. Các kinh đã như vậy thì ở đây cũng nên như thế. Tuy hành uẩn do nhiều pháp hợp thành, nhưng chỉ nêu lên phần đầu nói là tư nên không có lỗi.

Hỏi: Vì sao trước tiên không nêu lên tác ý v.v…?

Đáp: Do trong tạo tác hữu vi, thì tư là hơn hết. Như tâm có thể dẫn dắt ba xứ hiện tiền, tu hai pháp v.v… Tâm có thể dẫn dắt: Như Khế kinh nói: Tâm dẫn dắt thế gian. Trong đây, không phải là không có các pháp như thọ, tưởng v.v… Vì tâm là vượt hơn, nên nói như thế. Ba xứ hiện tiền: Nghĩa là Khế kinh nói: Tín ở nơi ba xứ hiện tiền, có thể sinh nhiều phước. Ở đây, không phải cho là không có các pháp như vô tham, vô sân, chánh kiến v.v… Do tín là vượt hơn, nên thuyết nêu như thế.

Tu hai pháp: Nghĩa là như Khế kinh nói: Nên tu hai pháp, nghĩa là Xa-ma-tha (Chỉ), Tỳ-bát-xá-na (Quán). Pháp hữu vi thiện thì tất cả nên tu. Vì chỉ quán là vượt hơn, nên nói như vậy. Các kinh như thế v.v… đều nêu lên pháp vượt hơn, dùng làm hàng đầu, ở đây cũng nên như thế.

Lại, Đức Phật Thế Tôn có rất nhiều nơi thuyết giảng chưa trọn vẹn. Như kinh nói về tháp, các nẻo thiện sĩ, tâm giải thoát, đoạn trừ kiết v.v… Tháp, như Khế kinh nói: Ba người nên vì họ tạo dựng tháp. Lý này không thích hợp, vì người phàm phu tạo tháp, không phải là người kiến đế. Nên biết kinh này là thuyết chưa trọn vẹn.

Nẻo thiện sĩ: Như Khế kinh nói: Bảy nẻo thiện sĩ, nghĩa là nẻo Niết-bàn, quả A-la-hán. Không phải cho là Thánh khác sinh, không phải là nẻo thiện sĩ. Nên biết kinh này là thuyết chưa trọn vẹn.

Tâm giải thoát: Như Khế kinh nói: Chứng đắc A-la-hán, tâm ấy giải thoát dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu. Nhưng thật sự là giải thoát tất cả phiền não cùng tùy phiền não. Nên biết kinh này là thuyết chưa trọn vẹn.

Đoạn trừ kiết: Nghĩa là trong Khế kinh nói: Đoạn trừ vĩnh viễn ba kiết, chứng quả Dự lưu. Không phải cho là không vĩnh viễn đoạn, tất cả phiền não, đối tượng đoạn của kiến đế. Nên biết kinh này là thuyết chưa trọn vẹn.

Các kinh như thế v.v… đều căn cứ ở chỗ vượt hơn để nêu bày. Ở đây cũng như thế. Tạo tác hữu vi, tự có công năng vượt hơn.

Hỏi: Vì sao nói công năng này là tạo tác hữu vi?

Đáp: Nghĩa là có công năng vượt hơn, dẫn sinh quả. Quả tuy vốn có, nhưng phần ít sinh, do công năng này dẫn theo, nên lập làm tạo.

Thượng tọa kia nói: Người tạo hữu vi, nghĩa là tư có thể tạo ra từ gốc không có hữu vi. Như người thợ dệt nói: Tôi đem sợi tơ này dệt thành y phục. Ở đây cũng nên như thế. Chỗ nói như thế về lý tất không hợp, vì pháp có nương dựa không nương dựa là không đồng. Ý kia cho là tư, như người có thể dệt. Gốc không có hữu vi, nghĩa là như y phục. Sợi tơ, đối tượng nương dựa của y phục, không có thí dụ. Nếu thừa nhận thể của hữu vi vị lai là có, nhưng không có dụng của phần ít, thì nghĩa tạo được thành. Dụ về sợi tơ của Thượng tọa kia làm rõ là có vị lai. Hoặc chỗ lập dụ chỉ có lời nói, không có nghĩa.

Các sư Đối pháp nêu: Pháp giả có, vì xưa không, nay có, có thể làm dụ này. Nếu cho là thật thể, thì cũng là vốn không. Thượng tọa kia nhất định không nên lập dụ như thế. Lại, vị kia nên nói tướng khác của giả, thật. Nếu có khác, thì không có thí dụ. Nếu không khác, thì giống hoa đốm hư không. Nói tham, sân v.v… là ý nghiệp, nên biết tác ý v.v… thì tư làm thể. Về lý cũng không hợp. Thể của tham, sân, tà kiến tuy không phải là nghiệp, nhưng là tư lương của nghiệp, nên cũng nói là nghiệp. Như tư lương khác, cũng gọi tư lương của nghiệp kia. Như Giới Kinh nói: Thấy chúng Thánh vui thích nơi sông có tầng bậc an lạc. Lạc kia là tư lương nên cũng gọi là lạc.

Lại như kinh nói: Nếu có nhãn căn không điều phục, không bảo vệ, thì pháp này có thể chiêu cảm dị thục phi ái. Nhãn căn tuy là pháp không có dị thục, nhưng là tư lương của pháp dị thục phi ái, nên cũng nói là có thể chiêu cảm dị thục phi ái.

Lại như kinh nói: Năm thứ vật dụng khiến thoái thất như ưa thích đàm luận v.v… Thật sự thì vật dụng khiến thoái thất, nghĩa là các phiền não dẫn sinh quả thoái thất. Ưa thích đàm luận v.v… là tư lương của quả kia, cũng gọi là vật dụng khiến thoái thất.

Lại như kinh nói:

Người ngu vướng dục, khởi tranh cãi

Chư Tiên không tranh do lìa dục

Vì thế nên trừ tất cả dục

Cũng như Lân giác du hành riêng.

Tham đắm nơi cảnh giới, dấy khởi các thứ tranh chấp. Cảnh thật sự không phải là dục, là tư lương của dục, nên cũng gọi dục, vì thế kinh nói:

Các cảnh diệu đời, chẳng dục thực

Dục thực là người phân biệt tham.

Lại như kinh nói: Tùy miên sắc tăng. Sắc không phải là tùy miên, vì là tư lương của tùy miên kia, nên nói đồng với tùy miên ấy.

Lại như kinh nói:

Nữ làm cấu phạm hạnh

Nữ não hại chúng sinh.

Người nữ thật sự không phải là cấu uế. Cấu uế nghĩa là tham v.v…, vì là tư lương của cấu uế, nên cũng gọi là cấu uế. Lại trong Khế kinh, Phật đã tuyên nói bảy lậu. Thật sự lậu chỉ có hai, số còn lại đều không phải lậu, vì là tư lương của lậu, nên cũng gọi là lậu. Do các kinh này đã làm rõ. Tham, sân v.v… là tư lương của ý nghiệp nên gọi là ý nghiệp, nhưng không phải là thể của nghiệp, đạo lý này thành tựu. Không phải đen, không phải trắng, nghiệp không có dị thục, có thể diệt hết các nghiệp. Ở đây dùng tên gọi tư để nói là Thánh đạo, nên biết tác ý v.v… thì tư là thể, lý này cũng không hợp.

Như các tên gọi như tưởng v.v…, thì điều này không có lỗi. Như Khế kinh nói: Tu tưởng vô thường, có thể diệt trừ dục ái, sắc ái, vô sắc ái. Kinh kia dùng tên gọi tưởng để nói các Thánh đạo. Đã thừa nhận Thánh đạo không phải là tưởng có sai biệt, tưởng này cũng nên như thế, nên không có lỗi.

Lại nói ý thọ có thể đoạn trừ phiền não, nên Khế kinh nói: Tu giác chi hỷ, dựa vào việc lìa ý tham, có thể phá tan sào huyệt phiền não. Thánh đạo đã không phải là ý thọ có sai biệt, ở đây cũng nên như thế, nên không có lỗi.

Có người nghe kinh nói: Nghiệp trói buộc chúng sinh, rồi cho: Tất cả nghiệp đều có thể trói buộc. Vì để loại bỏ lối chấp sai hẹp như thế, nên nói tư nghiệp này có thể dứt trừ hết các nghiệp. Lại làm rõ về nghiệp thù thắng, nên nói như vậy. Nói các tĩnh lự vô lượng vô sắc, cho là trắng, vì nghiệp của dị thục trắng, nên biết tác ý v.v… thì tư làm thể. Tư này không phải là thẩm xét. Các tĩnh lự v.v… dùng năm uẩn, bốn uẩn làm tự tánh. Như thế kinh nói: Trong đây hiện có hoặc sắc, hoặc thọ, nói rộng cho đến gọi là tĩnh lự v.v… Không phải là Sư của Phái Thí Dụ nói nghiệp có tánh sắc. Vì nhằm hiển bày các nghiệp đối với sức chiêu cảm dị thục là rất mạnh. Ở đây, tất cả pháp của năm uẩn thiện đều nói là nghiệp.

Lại, như thọ, tưởng và thức trong đây, tuy nói là nghiệp, nhưng thể không phải là tư. Như thế, các pháp như tác ý v.v… ở đây, cũng nên nói là nghiệp nhưng thể không phải là tư. Nếu nói thọ v.v… vì thuộc về uẩn riêng, nên không có lỗi này, tức là thành lập đắc, dùng tên khác để nói về pháp khác. Tư nghiệp này đã thành lập, như trên đã nói. Nói tham, sân v.v… gọi là ý nghiệp, tức là lý của tư không thành lập. Hiện thấy thọ v.v… của tánh khác cực thành, dùng tên nghiệp để nói, pháp khác cũng nên như thế. Do đấy, tức phá bỏ nhân đã nói ở sau, không nên dùng tên gọi khác để nói về pháp khác.

Lại, thấy danh khác cũng nói về pháp khác. Như nói: Có thể hành thí đủ các hương v.v…, thể của thí là tư, không phải tức hương v.v… Nhưng do các giác như hương v.v… phát khởi tư, nên có tên gọi khác, nói về pháp khác. Không phải một nói một, là lời nói sai lầm. Các Đức Bạc-già-phạm hoàn toàn không có lời nói sai lầm.

Biết tác ý v.v… thì tư là thể, về lý cũng không hợp. Vì căn cứ nơi chỗ hơn để nói, nên danh nghĩa cùng hệ thuộc không quyết định. Vì hữu tình được hóa độ có ý lạc riêng khác, nên kinh không liễu nghĩa hiện có thể nêu được. Không phải Đức Bạc-già-phạm thuyết giảng lầm lời nói này: Nếu lập hành uẩn, thể chỉ là tư. Thuyết kia nêu rõ lời nói của Đức Thế Tôn có sai lầm, do đã thừa nhận Đức Thế Tôn nói thể của một pháp tức là không phải một.

Lại nói không phải một, thể tức là một. Nếu nói hành uẩn không phải do một vật thành, điều ấy hiển bày lời Đức Thế Tôn nói không có sai lầm. Thế nên, thuyết kia nhân có lời nói nhưng không có lý.

Lại, chỗ lập của thuyết kia là trái với tỷ lượng, nghĩa là thể của hành uẩn không phải chỉ là tư. Vì lập tưởng chung nên như pháp xứ giới. Nếu khác với đây, tức nên chỉ gọi là tư, là một pháp thành, như thọ uẩn, tưởng uẩn. Ý trong đây nêu rõ, như ngoài tiếng pháp xứ giới thứ sáu là lập tưởng chung, nên gồm thâu chung mười một, mười bảy xứ, giới, không gồm thâu nhiều pháp. Như thế, tiếng hành là lập tưởng chung, nên gồm thâu chung bốn uẩn, không gồm thâu nhiều hành, nên biết thể của hành uẩn không chỉ là tư. Nếu vậy, như tưởng kia nên nêu bày sau cùng? Trong thứ lớp tư tự sẽ hiển thị. Đây không phải là phương tiện của văn, nên lại dừng.

Lại, dùng cây chuối để dụ cho hành uẩn, nên biết thể của hành uẩn không phải chỉ là tư. Như nói hành uẩn dụ như cây chuối. Dụ này làm rõ nhiều vật thành thể của hành uẩn. Lại, do kinh nêu bày lời nói tương ưng, nên biết thể của hành uẩn không phải chỉ là tư. Như Khế kinh nói: Kiến là căn tương ưng với tín trí chứng. Nếu tín cùng với trí đều là tư, tức là thể của tư cùng với tư tương ưng. Tự thể tương ưng, về lý là không nên thừa nhận.

Lại, tác ý v.v… không nên tức là tư có sai biệt, do trong Khế kinh nói lìa tác ý v.v… là nói riêng về tư. Như Khế kinh nói: Người kia kiến như thế tức tư như thế. Nếu tà kiến kia tức là tư, thì nghĩa này nên nói: Người kia tư như thế, tức tư như thế, hoặc kiến như thế, tức kiến như thế. Nếu nói như vậy thì nghĩa kia đâu có khác.

Lại, như kinh nói: Người kia có tín, dục, cần, an, niệm, trí, tư, xả như thế gọi là thắng hành. Nếu hành như tín v.v…. tức là tư, thì nói tín v.v… xong, đâu cần lại nói tư?

Lại, các pháp này tợ như dụng đồng thời, làm sao một tư có nhiều thể cùng khởi? Trong đây, Thượng tọa tạo giải thích như thế này: Vì gồm thâu vào thời này, đã khởi hành khác, nên lại nêu dẫn tư. Trước nói tín v.v… là làm rõ vào lúc này, đã khởi hành thù thắng. Như pháp năm trược và bốn hành tu, nghĩa là trong năm trược, kiến tuy là phiền não, nhưng do là hơn hết, nên lại nói riêng. Bốn hành tu, như Khế kinh nói: Tu chánh kiến là hành diệu của thân, ngữ, ý. Đoạn trừ tà kiến là hành ác của thân, ngữ, ý. Không phải chánh kiến, tà kiến, ý không gồm thâu hành diệu, ác. Do là hơn nên nói riêng. Ở đây cũng nên như thế. Về lý là không hợp. Tín v.v… cũng nên thuộc về tư, tức không nên nói riêng. Há không phải đã nói: Vì làm rõ vào thời này đã khởi hành thù thắng, nên nói tín v.v… Tuy biết là đã nói, nhưng không hợp lý, vì một pháp, một thời có nhiều thể cùng khởi, như thọ, tưởng v.v… là không hợp lý, nên không phải thể của một pháp như thọ, tưởng v.v… giống với lạc nhỏ v.v… là riêng có cùng lúc khởi. Thế nên, thuyết kia không phải là tông chỉ của Phật pháp.

Lại, nơi xứ xứ kia, nếu không nêu dẫn tư, thì nơi các Khế kinh kia đã nói tức nên là thiếu. Như Đức Thế Tôn nói: Giới, định, tuệ, giải thoát của bậc học, vô học. Trong Khế kinh này đã không nêu dẫn tư, tức nên thiếu các pháp còn lại như tác ý v.v… Nếu cho là người nghe đối với thuyết kia đã nhận biết, tức nêu dẫn tuệ v.v… cũng nên là vô dụng. Vì thế thuyết kia giải thích về nhân, nhất định là không đúng. Dụ cũng phi lý, vì các kiến đã nắm giữ, khó giải thoát. Vì chỉ rõ nghĩa trói buộc chắc mạnh của các kiến, nên cùng với phiền não hiển bày lỗi chung, riêng. Trong hành ác của ý tà kiến là rất nặng. Vì nêu rõ tà kiến vượt hơn tham, sân kia, về lý cần nêu chung, riêng về đối trị đoạn. Tư đối với tín v.v… chưa thấy có tác dụng vượt hơn, thì vì sao nơi tư này lại nói chung, riêng? Thế nên dụ kia cùng với pháp là không cân bằng.

Như vấn nạn trước, nếu thuyết kia cho tín v… dùng tư làm tự tánh, thì tư cùng với tín v.v… đều nói chung, riêng, lý ấy không thành. Thuyết kia lập dụ về kiến, hết sức là không giống nhau, không phải các phiền não, các hành ác của ý tất cả đều dùng kiến làm tự thể, sao được dùng kiến để nói về chung, riêng. So sánh với tư đồng với kiến kia, tức nên nói chung riêng.

Lại, nếu như cho các pháp như tác ý v.v… kia đều lấy tư làm tánh, nhưng chỗ lập tư không đồng với tà kiến. Sắc giới, sắc xứ, nếu là tăng thượng duyên, nếu là nhân năng tác, hoặc là tuệ phân biệt thì tu Tam-ma-địa, hành uẩn của pháp giới, pháp xứ được an lập, trừ tác ý v.v… vì không có nhiều tưởng.

Hỏi: Lại, trong kinh này nói riêng về công dụng nào?

Đáp: Nghĩa là Khế kinh nói: Nếu có đối tượng thọ tức có đối tượng tư. Nếu có đối tượng tư tức có đối tượng tưởng. Nếu có đối tượng tưởng tức có đối tượng tầm. Tông kia đã thừa nhận tầm tức là tư, nêu dẫn tầm là nhân theo đấy. Thượng tọa kia nói: Kinh này không phải là thừa. Nếu không nêu dẫn tầm, nghi tư, tức là tác ý, dục v.v… tư này không nên nghi, vì tướng có khác, nhưng thể của tầm kia tức là tư, thì tướng vì sao khác? Nếu vậy thì nêu dẫn tầm, tức nên là vô dụng. Lối chấp tầm, tư kia cho tướng của chúng là một.

Lại, tác ý v.v… đã thừa nhận tức là tư, nghi tư tức tầm kia, lại có lỗi gì? Thế nên, thuyết kia nói đều không có nghĩa. Lại, thuyết kia đã nói: Hành như tác ý v.v… không thể lìa tư. Biết riêng có: Nghĩa là đối với riêng, có trí, nên chánh cần cầu, há do không nhận biết, khiến tác ý v.v… đều lìa thể của tư, thì không có riêng tánh.

Lại, như các ông thường nói: Khi tưởng, thức dựa nơi hành duyên chuyển biến tương tợ, nên tuy không thể chỉ rõ về hai tướng có sai biệt, nhưng tông của các ông đã thừa nhận thể của hai thứ kia khác với tư, tác ý v.v… nên cũng như thế. Giả sử ông không nhận biết thể, thì sao có trở ngại khác? Nếu thể của tác ý v.v… cùng với tư là khác, thì vì sao không có kinh nào nói là hành uẩn?

Cũng nói hành nên về nghĩa là đã nói uẩn. Nghĩa là nói tầm, tứ, gọi là nói về hành. Nói tín dục v.v… gọi là hành vượt hơn. Nói các mạng căn, gọi là hành thọ mạng. Không phải thể của các pháp này, không phải thuộc về uẩn, vì là hữu vi, như sắc, thọ v.v… Không có kinh nào nói là thuộc về uẩn khác kia. Nhưng có trong kinh nói uẩn kia là hành, há có lợi căn nói không phải là hành uẩn.

Lại, như lìa ái, là nhân của hữu sau khác, tuy nói là tập, nhưng không gọi là tập đế. Mà ông không nên thừa nhận không phải thuộc về đế. Các pháp nhân quả đều thuộc về đế, nên các hành như tác ý v.v… cũng nên như thế. Tuy nói là hành, nhưng không gọi là hành uẩn. Nhưng ông không nên thừa nhận, không phải thuộc về uẩn. Vì tất cả hữu vi là thuộc về uẩn. Đức Thế Tôn căn cứ nơi pháp vượt hơn, lại chỉ nói tư, không phải cho tác ý v.v… hành uẩn không thâu tóm. Lại, thuyết kia không nói như thế này: Đức Thế Tôn không duyên nói về mật ngữ, vì lìa tư, thì pháp còn lại là thuộc về hành uẩn, như trước đã biện luận. Về lý hoàn toàn được thành lập. Há không phải là Đức Phật đã nói về duyên của mật ngữ. Lại, hành uẩn gồm thâu pháp khác ngoài tư, về lý, thật sự là có nhưng chỉ nói tư.

Hỏi: Đây là mật ý gì?

Đáp: Nếu không có mật ý tức thành hủy báng Đức Thế Tôn, nói không tùy thuận trí. Nếu có mật ý, tức tự thành lập duyên mật ngữ của Đức Phật. Nên nói ngoài bốn hành gọi là hành uẩn, nghĩa lý giáo tương ưng đã khéo thành lập. Hành uẩn như thế, không phải đều có chỗ nương dựa, nên chỉ căn cứ theo thế giannói chung về ba thứ. Như trước đã phân biệt về thể của sắc uẩn xong, tức nên căn cứ nơi hai môn xứ, giới để kiến lập.

Như thế, trong đây, đã biện về thể của ba uẩn thọ, tưởng, hành xong, cũng nên kiến lập làm xứ và giới. Nghĩa là ba uẩn này cùng với vô biểu sắc, ba thứ vô vi, bảy pháp như thế, ở trong môn xứ lập làm pháp xứ, ở trong môn giới lập làm pháp giới.

HẾT – QUYỂN 2