LUẬN A TỲ ĐẠT MA THUẬN CHÁNH LÝ
Tác giả: Tôn giả Chúng Hiền
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 1

Phẩm thứ 1: BIỆN VỀ BẢN SỰ, phần 1

Các Nhất thiết chủng, các “Minh” diệt

Vớt chúng sinh khỏi bùn sinh tử

Kính lạy Thầy như lý, như thế

Luận Đối Pháp Tạng, con sẽ nói.

Luận nói: Nhưng người muốn tạo luận, tất phải vâng theo Tông chỉ, ở chỗ phụng sự bậc tôn quý, về lý trước là quy kính. Do Kinh chủ quán xét các thế gian, đa số bị những tà sư, dị luận mê hoặc. Thầy mình đã vĩnh viễn lìa bỏ các thứ “Minh” (tối tăm) lập giáo không giả dối, ở nơi vị Đại sư, thành tựu công đức tôn thắng, không chung, vì duyên dẫn phát tâm tín tịnh ân trọng. Vì muốn lưu thông đúng đắn giáo pháp đã lập kia, nên trước hết là tán thán kính lễ Phật, Bạc-giàphạm, đấng công đức, lợi mình lợi người đều viên mãn, dùng nêu rõ về điềm lành tốt đẹp, thuận hợp phát khởi đầu mối của luận. Trong đây, vì hai đức Trí, Đoạn của Đức Thế Tôn đều đầy đủ nên tự lợi viên mãn, ân đức hoàn bị nên lợi tha viên mãn. Vì sao? Vì tất cả các thứ tối tăm đều vĩnh viễn diệt trừ, nên Trí đức viên mãn. Vì nơi các cảnh giới những tối tăm cũng vĩnh viễn trừ diệt, nên Đoạn đức viên mãn. Truyền trao chánh giáo, đưa tay cứu vớt chúng sinh ra khỏi vũng bùn sinh tử, nên Ân đức viên mãn. Hàng Thanh văn, Độc giác tuy đã phá trừ các thứ tối tăm, nhưng cũng chưa thể diệt hết tất cả chủng tối tăm, nên không thành tựu Nhất thiết chủng trí. Vì chưa đắc phần vô trí sai biệt hiện có nên trí không hành, trí nhận biết về ý lạc tùy miên còn thiếu nên không thể như lý cứu vớt hữu tình, đức tự lợi, lợi tha chưa viên mãn, nên tuy có Thánh đức, nhưng không gọi là bậc thầy như lý. Chỉ Đức Phật, Thế Tôn, hai đức viên mãn, thuận hợp, cứu vớt tất cả hữu tình, thành tựu việc hy hữu, kỳ diệu, danh xưng rộng lớn, là bậc tôn quý tột cùng riêng gọi là Đại sư. Vì thế trước là tán thán lễ bái công đức của Đại sư, để mở đầu cho việc giảng nói Luận Đối Pháp Tạng. Đối pháp là gì?

Tụng nêu:

Tuệ tịnh tùy hành, gọi Đối pháp

Cùng có thể đạt các tuệ luận.

Luận nói: Tuệ là nghĩa trạch pháp, tịnh là nghĩa vô lậu. Các lậu gọi là cấu, trạch pháp là lìa cấu nên gọi là tuệ tịnh.

Hỏi: Do đâu biết được tuệ vô lậu này gọi là Đối pháp?

Đáp: Do Đức Phật, Thế Tôn đã cho Thiên Đế v.v… tự ý thưa hỏi. Như Khế kinh nói: Như Lai có A-tỳ-đạt-ma và Tỳ-nại-da thâm diệu, tùy ý ông thưa hỏi.

Đây là nói về Thánh đạo và quả của Thánh đạo. Tùy ý Thiên Đế Thích thưa hỏi. Theo ý thưa hỏi giống như Phiệt Sa cũng thế.

Hỏi: Lại do duyên gì chỉ tuệ vô lậu được gọi là Đối pháp?

Đáp: Do hiện quán về các pháp tướng ấy xong, không còn mê lầm trở lại. Há không là hiện quán thì chẳng phải chỉ là khả năng của tuệ. Thế nên Đối pháp chẳng phải chỉ là tuệ? Thật sự thì chẳng phải chỉ là tuệ, nghĩa là cùng với tùy hành.

Hỏi: Thế nào là tùy hành?

Đáp: Nghĩa là tuệ tùy chuyển nơi các pháp tâm sở như sắc, thọ, tưởng v.v… mà được sinh khởi cùng tâm. Đây là nói chung về tùy hành của tuệ tịnh. Năm uẩn vô lậu gọi là Đối pháp.

Hỏi: Vì sao không nói tùy hành như thọ v.v… gọi là Đối pháp?

Đáp: Vì tuệ đối với nhận thức cùng ở trong ba hiện quán đều có khả năng nên sinh v.v… cùng sắc là có sự, không phải thứ khác. Thọ v.v… chỉ duyên chung nơi hiện quán về sự. Thọ v.v… đều có công dụng như lãnh nạp v.v… Như tuệ có khả năng nhận thức, nên gọi là Đối pháp. Thọ v.v… như người mù, há gọi là Đối pháp? Vì không thể phân biệt về bốn Thánh đế, do ở trong hiện giác về các tướng như khổ v.v… chỗ nhận thức nơi hiện quán kia rất là thù thắng, vì ở trong các đế đã phân biệt lựa chọn chuyển biến. Thọ v.v… tuy cùng với với tuệ tịnh cùng hành, nhưng vì sức của tuệ duy trì hướng đến các cảnh của đế kia, nên trong hiện quán, không phải là hơn hết. Do đó, thành tựu tuệ căn vô lậu, gọi là A-tỳ-đạt-ma thắng nghĩa.

Hỏi: Có phải vì có A-tỳ-đạt-ma thế tục quán về đế kia nên nói đây là Thắng nghĩa?

Đáp: Có. Nghĩa là có thể đạt được các Tuệ luận ấy. Đây là chỗ đắc tuệ căn vô lậu, có thể đạt được các tuệ, nghĩa là tu tuệ, tư tuệ, văn tuệ thù thắng của thế gian kia, cùng những tùy hành ấy. Không phải lìa tuệ như thế cùng những tùy hành mà tuệ căn vô lậu có thể chứng đắc. Vì tuệ kia là chủ thể đạt được phương tiện này, nên đồng với tuệ vô lậu, thọ nhận tên gọi Đối pháp. Như phương tiện của tâm từ cũng gọi là từ v.v… Có thể đạt được các luận, nghĩa là A-tỳ-đạt-ma căn bản kia, là tư lương thù thắng của tuệ vô lậu nên cũng gọi là Đối pháp.

Như dị thục của nghiệp, tư lương như lậu v.v… cũng gọi là nghiệp.

Các tuệ ở trước đã nói, cũng gọi là sinh đắc. Nếu lìa tuệ sinh đắc thì không thể trì tụng giáo pháp nơi Đối pháp. Chỉ có tuệ sinh đắc mới có thể trì tụng đúng pháp như Khế kinh v.v…, nên tuệ sinh đắc kia cũng được gọi là A-tỳ-đạt-ma, há luận này không phải là tư lương thù thắng của tuệ vô lậu sao?, nên cũng gọi là Đối pháp.

Vì sao gọi Đối pháp?

Tụng của Luận Câu Xá nêu:

Thâu tóm Thắng nghĩa kia dựa đấy

Đây lập Đối pháp tên Câu Xá.

Luận nói: Đây là dựa theo cách giải thích Y chủ và Hữu tài.

Tạng, nghĩa là chắc thật, cũng như tạng của cây. Các nghĩa chắc thật trong luận Đối pháp đều thâu tóm vào đấy, là Tạng kia, nên gọi là Tạng Đối pháp. Tức là nghĩa chắc thật của Đối pháp. Tạng hoặc là chỗ dựa, cũng như bao của đao, tức Đối pháp kia là chỗ nương dựa của luận này, vì dẫn phát ngôn nghĩa kia, tạo ra luận này. Luận này lấy Đối pháp kia làm Tạng gọi là Tạng Đối pháp, tức Đối pháp ấy là nghĩa nương dựa. Chỗ nương dựa của luận này là A-tỳ-đạt-ma.

Do nhân gì nên nói?

Ai lại là người nói trước?

Tuy không nên hỏi về người thuyết giảng Đối pháp, nhưng Đức Phật đã dạy: “Nương dựa nơi pháp, không dựa vào con người”, mà mong muốn tất phải dùng người làm lượng: Ở đây cùng câu hỏi trước, nay sẽ đáp chung.

Tụng nêu:

Nếu lìa trạch pháp, định không có

Phương tiện hơn, diệt trừ các Hoặc

Do Hoặc, thế gian trôi biển Hữu

Nhân đấy truyền, Phật nói Đối pháp.

Luận nói: Do lìa trạch pháp thì không có phương tiện thù thắng để có thể diệt trừ các Hoặc, dẫn sinh khổ nơi thế gian. Nên Đức Thế Tôn nói: Nếu đối với một pháp chưa thông tỏ, chưa nhận biết, Như Lai rốt cuộc không nói là có thể chính thức dứt hết khổ. Do thế gian chưa diệt các phiền não, nên vẫn mãi luân hồi, sinh tử nơi biển ba “Hữu”. Vì khiến cho thế gian tu tập trạch pháp để diệt trừ các phiền não, nên nói: Nhân đấy Phật thuyết giảng Đối pháp. Nếu Phật không giảng nói, thì các bậc Đại Thanh văn như Xá-lợi-tử v.v… cũng không có khả năng đối với các pháp tướng phân biệt, lựa chọn đúng như lý. Thế nên chỗ nương dựa căn bản của luận này, tức A-tỳ-đạt-ma, nhất định là do Phật giảng nói. Kinh chủ xưng tán, truyền tụng hiển bày xong, vẫn không tin A-tỳ-đạt-ma là do Phật giảng nói.

Hỏi: Do đâu khiến không tin?

Đáp: Vì nghe truyền là do Tôn giả Ca-đa-diễn-ni-tử v.v… tạo, nên không nói Đối pháp là đối tượng được nương dựa. Như Đức Thế Tôn bảo Tôn giả A-nan-đà: “Từ nay, các ông nên căn cứ nơi kinh làm chuẩn mực, vì tông nghĩa Đối pháp của các bộ đều khác nhau”. Điều này đều không hợp lý, vì các bậc Đại Thanh văn luôn thuận theo Thánh giáo của Phật để kết tập, nên A-tỳ-đạt-ma là pháp đã được Đức Phật thừa nhận, cũng gọi là Phật giảng nói, có thể thuận với trí nhận biết khắp về nhân quả tạp nhiễm, thanh tịnh, như các Khế kinh. Nếu Phật đã thừa nhận mà không gọi là Phật giảng nói, phải chăng là nên loại bỏ? Vô lượng Khế kinh, nếu không nêu giảng dựa vào không phải là lời Phật nói, thì Tạng Tỳ-nại-da mới không phải là Tạng do Phật giảng nói. Tức khi Đức Phật sắp bát Niết-bàn, đã không khuyên nên nương dựa vào đấy. Nếu nói là cũng khuyên Bí-sô nên dựa vào Kinh Biệt Giải Thoát, thì không có lỗi này, thế thì nên thừa nhận rộng về Tỳ-nạida không phải do Phật đã giảng nói, tức không phải là chuẩn mực nhất định.

Nếu Tỳ-nại-da, tức là giải thích rộng về gốc của Giới kinh, nên là do Phật nói, thì A-tỳ-đạt-ma là giải thích rộng về Khế kinh. Vì sao lại nghi riêng cho là không phải do Phật giảng nói? Lại, tức tuệ uẩn cùng với tùy hành và tư lương thù thắng, gọi là Đối pháp. Trong bốn sự nương dựa thì nói trí là đối tượng được nương dựa, không nói là dựa vào ngôn từ, có lỗi không thành. Lại, chỗ dựa kia chỉ nói về kinh, không phải là sự nương dựa cố định, nhưng rốt cuộc không nói là A-tỳ-đạt-ma và Tỳ-nại-da đã nương dựa có sai biệt. Lại, nhất định phải nên cho A-tỳ-đạt-ma là sự khác biệt của kinh, nên thành đối tượng được nương dựa, hoặc ứng tụng v.v… cũng không phải là đối tượng nương dựa.

Vì Đức Thế Tôn chỉ khuyên dựa nơi kinh làm chuẩn mực. Lại, nay nói nương dựa là muốn hiển bày về nghĩa gì? Nếu hiển bày về nghĩa chuẩn mực thì về mặt lý chưa hẳn là như thế. Vì sao Đức Thế Tôn trước nói về bốn lượng, mà nay chỉ nói kinh là lượng? Hoặc nên ở thời gian trước chỗ nương dựa chỉ nói là một. Do ba kinh đã gồm thâu như các pháp v.v… Hoặc tức ở nơi kinh kia đã ngăn chận việc dựa vào con người, cũng tức khuyên dựa vào sự khác biệt của kinh. Mà nay lại nói là có lỗi, là vô ích, nên nay nói là nương dựa, tức nên làm rõ về nghĩa riêng. Nghĩa là xưa nay, tâm ông lệ thuộc ở ngã, đó là nương dựa vào Bổ-đặc-già-la. Từ nay, do chỗ trải qua đã không có nơi nương dựa riêng, nên chỉ nương dựa ở kinh, chớ khiến quên mất. Lại, hiện nay nói kinh là nêu chung về tất cả Thánh giáo của Như Lai. Nếu không như vậy, thì các giáo pháp như Ứng tụng v.v… thật không phải là đối tượng nương dựa, nhưng Đức Phật lại khuyên nên dựa vào Biệt giải thoát là nhằm khiến người tu hành đối với giới phải khởi tâm tôn trọng. Do Giới kinh kia, không nên tìm cầu về nghĩa, chỉ phải cung kính, như lời Phật nói mà hành trì. Người hủy hoại trọng giới thì không thể tu tập đối trị, nên Phật lại khuyên nên nương dựa vào giới, khiến giới được kiên trì, do đó nói: Nương dựa, không phải chỉ là nghĩa lượng.

Lại, Đức Phật khuyên Tôn giả A-nan dựa vào kinh làm chuẩn mực, chính là khuyên dựa vào A-tỳ-đạt-ma, là chuẩn mực của kinh, nên gọi là kinh lượng, tức là nghĩa nhất định hiện có của các kinh. A-tỳ-đạt-ma có thể quyết đoán về các kinh, phán định kinh liễu nghĩa, không liễu nghĩa. Nên A-tỳ-đạt-ma gọi là chủ thể gồm thâu tổng quát, không trái với ngôn lý của tất cả Thánh giáo. Thuận với lý này gọi là kinh liễu nghĩa, trái với lý ấy là không liễu nghĩa. Không liễu nghĩa tức e trái với pháp tánh. Dựa vào giáo lý chính nên cầu diệu chỉ. Nếu khác với đây, thì như trước chỉ nói: “Dựa vào kinh liễu nghĩa”, nay cũng nên như vậy, chỉ khuyên dựa vào kinh, không nên nói về lượng. Về chỗ đã nói tông nghĩa của các bộ A-tỳ-đạt-ma có dị biệt, nên cho không phải là do Phật nói, tức kinh cũng nên như thế. Trong các bộ kinh hiện thấy văn nghĩa có sai biệt. Do kinh có khác biệt nên tông nghĩa không đồng. Nghĩa là có các bộ tụng kinh Thất hữu, trong Đối pháp kia kiến lập trung hữu.

Như thế kiến lập dần hiện quán v.v… ca ngợi việc học các kinh như dị môn căn bản, cho là trong Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ chẳng tụng về rất nhiều Khế kinh như Phủ Chưởng Dụ v.v…. Ở trong bộ khác là chỗ chưa từng tụng. Tuy có nhiều kinh các bộ đồng tụng, nhưng tên gọi, câu chữ của kinh ấy đều có sai biệt. Nghĩa là có kinh nói: A Thị Đa, ông vào đời vị lai, sẽ thành Đẳng Chánh Giác. Không phải đen, không phải trắng. Không phải đen, không phải trắng là dị thục nơi nghiệp v.v… Có vô lượng tên gọi, câu nghĩa nơi các bộ đều chẳng đồng. Vì thế không nên do tông nghĩa dị biệt mà cho A-tỳ-đạtma không phải là do Phật nói. A-tỳ-đạt-ma nhất định là do Phật giảng nói. Tức do Phật thâu nhận ba Tạng giáo pháp nên như Đức Thế Tôn nói: “Người già tám, chín mươi tuổi xuất gia, thọ trì ba Tạng của Ta rất là khó đạt được”.

Nếu cho lời nói này của Đức Thế Tôn là dựa vào Tạp tạng mà nói, thì về lý tất là không hợp, vì Tạng kia tức là sự sai biệt của kinh, nên từng không có xứ nào nói. Thọ trì riêng kinh kia, nên chỉ có xứ nói là trì tụng Tố-đát-lãm và Tỳ-nại-da, Ma-đát-lý-ca, nhưng không có xứ riêng khác nói là thọ trì Tạp tạng, cũng không thể nói Tạp tạng tức là Ma đát lý ca. Do giải thích riêng khác, nên như Đại Tôn giả Ca-diếp-ba nói: Ma-đát-lý-ca, gọi là nêu ra những gì?

Nghĩa là bốn niệm trụ, nói rộng cho đến tám chi Thánh đạo, bốn chánh hành, bốn pháp tích, bốn vô ngại giải. Các hiện quán biên về không – không, vô nguyện – vô nguyện, vô tướng – vô tướng. Các trí thế tục tạp tu tĩnh lự, nguyện trí vô tránh, trí định biên vực, các pháp như chỉ quán v.v… cùng các Luận Tập Dị Môn, Pháp Uẩn, Thi Thiết. Các loại như thế v.v… tất cả được gọi chung là Ma-đát-lý-ca, không phải là trong Tạp tạng. Vì các pháp này v.v… là đầy đủ, có thể đạt được, nên nói là Tạp tạng, tức là phần thứ ba, không phải là khéo giảng nói. Lại, Khế kinh nói: “Đối với A-tỳ-đạt-ma, A-tỳ Tỳ-nại-da, phải nên siêng năng tu học, nên biết là Phật giảng nói A-tỳ-đạt-ma”.

Hỏi: Nếu như vậy thì Tạng A-tỳ Tỳ-nại-da nên là phần thứ tư?

Đáp: Không phải thế. Do thừa nhận Tạng Tỳ-nại-da, tức là A-tỳ Tỳ-nại-da, là luận đạo hiện có tương ưng với Thi la tăng thượng tối thắng, do đó thể hiện đối nơi Tỳ-nại-da, nên gọi là A-tỳ Tỳ-nại-da. Luận đạo hiện có tương ưng với tánh tướng của các pháp hết mực sâu xa, do có thể hiện bày tánh tướng của Đối pháp, nên gọi là A-tỳđạt-ma. Hoặc các Khế kinh gọi là Đạt ma, luận có thể quyết định lựa chọn nghĩa hiện tiền của Khế kinh kia nên gọi là A-tỳ-đạt-ma. Biệt giải thoát vốn gọi là Tỳ-nại-da luật, chỉ biện minh rộng về duyên khởi hiện tiền, gọi là A-tỳ Tỳ-nại-da. Thế nên chỗ đã nói không thành nghi hoặc, vấn nạn. Lại Thánh giáo của Phật đã gồm thâu ba uẩn, cũng như Khế kinh, tạng Tỳ-nại-da, A-tỳ-đạt-ma nhất định nên thuộc về lượng. Kinh Chánh Pháp Diệt cũng nói như vầy:

A-tỳ-đạt-ma Tỳ-nại-da

Văn nghĩa chính trong A-cấp-ma

Sẽ có các đệ tử chẳng truyền

Sợ nghe bằng mình có xem nhẹ.

Lại, nói pháp này, Tỳ-nại-da này, là giáo pháp của Đại sư ấy, tức là Đối pháp. Trong Kinh Hiện Kiến, có sự của câu trước, hoặc có khi sự kia lìa câu trước nói. Như Chánh đẳng giác, hoặc chỉ nói là giác. Thi la tăng thượng, chỉ nói là Thi la. Như các dục tham v.v… chỉ nói là tham v.v… Nên biết pháp này tức là Đối pháp. Đức Thế Tôn có xứ cũng dùng phương tiện của pháp thanh nói là có A-tỳ-đạt-ma. Nghĩa là nếu có sự thuyết giảng tùy thuận nơi Khế kinh, hiển bày Tỳnại-da, không trái với pháp tánh, nên tùy thuận lý giáo bình đẳng này tin biết A-tỳ-đạt-ma đích thực là Phật nói. Tội hủy báng chánh pháp là hết sức đáng sợ. Chớ nên tự ái, người quen nói hành ác, chê bai Đối pháp, cho là không phải do Phật nói. Luận thêm đã xong.

Như trên đã nói: “Vì khiến thế gian tu tập trạch pháp, nhân đấy Đức Phật giảng nói A-tỳ-đạt-ma”.

Những gì gọi là đối tượng trạch pháp kia?

Tụng nêu:

Pháp hữu lậu, vô lậu

Trừ đạo, hữu vi khác

Ở kia lậu tùy tăng

Nên gọi là hữu lậu.

Vô lậu là đạo đế

Cùng ba thứ vô vi

Tức hư không, hai diệt

Trong đó, không, vô ngại.

Trạch diệt là ly hệ

Tùy buộc, sự đều riêng

Rốt cùng ngại sẽ sinh

Riêng được phi trạch diệt.

Luận nói: Nói tất cả pháp, lược có hai thứ: (1) Hữu lậu. (2) Vô lậu. Đây là nói chung. Tiếp theo sẽ giải thích riêng. Trừ đạo Thánh đế, các pháp hữu vi còn lại gọi là hữu lậu.

Hỏi: Đây lại là thế nào?

Đáp: Nghĩa là năm thủ uẩn: Sắc cho đến thức. Như nói: Vì sao gọi là sắc thủ uẩn? Nghĩa là sắc hữu lậu tùy thuận các thủ. Nói rộng cho đến thức cũng như thế.

Hỏi: Do đâu thủ uẩn gọi là hữu lậu?

Đáp: Do ở trong các uẩn kia, lậu đã tùy tăng, trong các phiền não như hữu thân kiến v.v… lập lậu gọi là tưởng, vì khiến tâm nhiễm ô, thường rỉ chảy, cùng với lậu tương ưng và cảnh giới của lậu, lậu theo đấy tăng trưởng nên gọi là lậu tùy tăng. Về nghĩa miên tùy tăng, phần sau sẽ biện minh rộng.

Do ở đấy đã ngăn chận, không đồng với giới địa cùng duyên vô lậu. Cảnh giới phiền não, tùy miên hữu lậu, vì kia đây lần lượt không tùy tăng, nên không phải là cùng đối để lập hai tên gọi như thế.

Hỏi: Hữu lậu, vô lậu lại có tướng gì?

Đáp: Như Đức Thế Tôn nói: “Pháp hữu lậu là sắc hiện có tùy thuận các thủ, là nghĩa có thể làm tăng trưởng các hữu thủ, nói rộng cho đến thức cũng như thế. cùng với pháp hữu lậu này trái nhau là pháp vô lậu”.

Tướng của hữu lậu, vô lậu lược nêu là như thế. Nhằm phân biệt rộng, lại nói: Nghĩa là các sắc hiện có nơi quá khứ, vị lai, hiện tại, sinh trưởng hiện bày ra tham, hoặc sân, hoặc si, hoặc tùy nơi mỗi mỗi tùy phiền não khác, là các tâm sở pháp, cho đến nói rộng.

Hỏi: Lại, vì nghĩa gì mà nói như thế?

Đáp: Vì phân biệt riêng, thuận với nghĩa của các thủ.

Nếu như vậy chỉ nên nói chủ thể sinh trưởng các phiền não như tham v.v… hoặc tùy theo mỗi mỗi tùy phiền não khác, không phải là nói về tướng chung để có thể phân biệt, nhận biết rõ. Vì khiến cho tất cả nghĩa được nhận biết riêng, do không phải là tất cả, vì hết thảy phiền não đều có thể hiện hành, nên chỉ nói chung, hoặc tùy nơi mỗi mỗi tùy phiền não khác.

Lại, hành tướng của các tùy miên thì vi tế. Phần vị hiện hành của phiền não kia có chỗ không thể nhận biết. Còn hành tướng như phẫn v.v… vì là thô, hiển lộ rõ dễ nhận biết, nên chỉ nói chung. Các tùy phiền não còn lại, hoặc tùy theo thế gian, gọi là hữu lậu thuộc về thế gian. Gọi là đọa nơi thế gian, là nghĩa ở nơi thế gian, không thể ra khỏi. Căn cứ ở thể của khổ đế, lập tên là thế gian. Nên Khế kinh nói: “Ta sẽ vì ông tuyên thuyết về thế gian cùng nguyên nhân của thế gian”. Lại nói: “Quán về nguyên nhân của thế gian, ở nơi thế gian là không, là vì chẳng phải có, cho đến nói rộng”.

Hỏi: Lại làm thế nào để nhận biết?

Đáp: Các pháp tùy thuộc thế gian đều gọi là hữu lậu. Như Khế kinh nói: “Ta sẽ vì ông nói về pháp hữu lậu và pháp vô lậu”.

Pháp hữu lậu, nghĩa là các thứ mắt hiện có, các thứ sắc hiện có, các nhãn thức hiện có, các nhãn xúc hiện có. Các nhãn xúc hiện có do xúc làm nội duyên sinh ra hoặc lạc thọ, hoặc khổ thọ, hoặc bất khổ bất lạc thọ. Như thế cho đến ý tùy thuộc nơi thế gian, pháp tùy thuộc nơi thế gian, ý thức tùy thuộc nơi thế gian, ý xúc tùy thuộc nơi thế gian. Nói rộng cho đến gọi là pháp hữu lậu.

Pháp vô lậu, nghĩa là ý xuất thế gian, pháp xuất thế gian, ý thức xuất thế gian, nói rộng cho đến gọi là pháp vô lậu. Dựa nơi Thánh ngôn ấy và do chánh lý, tướng của pháp hữu lậu, vô lậu được thành lập. Không có pháp nào tự tạo ra. Luận sư của Phái Thí Dụ trái với lý, trái với kinh, vọng tạo ra thuyết nay: Chẳng phải là số hữu tình lìa lỗi lầm nơi sắc v.v… hiện có trong thân được gọi là pháp vô lậu. Điều này tất không đúng, vì trái với Khế kinh. Như Khế kinh nói: “Nghĩa là đối với sắc hiện có, nơi quá khứ, vị lai, hiện tại, sinh trưởng hiện ra tham, hoặc sân, hoặc si, cho đến nói rộng”. Chẳng phải là số hữu tình lìa lỗi lầm nơi sắc v.v… hiện có trong thân đã có thể sinh trưởng tham v.v… của hữu tình, làm sao gọi là vô lậu?

Vì sao? Vì không có sự so sánh về Chỉ man (Ương-quật-ma-la) Ô-lô-tần-loa-ca-diếp-ba v.v… Vì duyên nơi thân Đức Thế Tôn nên sinh trưởng các lậu như tham, sân, si v.v… Người kia chấp ở lời nói, không phải phần thứ bảy của cảnh, mà là dựa vào phần thứ bảy, như dầu nơi cây mè, là chỗ dựa của lậu, nên gọi là hữu lậu. Thí dụ này không hợp lý, vì ở nơi quá khứ, vị lai, nói dấy khởi hiện tại. Do chưa từng dựa vào quá khứ, vị lai để dấy khởi tham v.v… nơi hiện tại. Thế nên lối chấp quyết định của người kia không phải là thiện.

Lại, kinh trên nói: Hoặc tùy nơi mỗi mỗi tùy phiền não khác là các pháp tâm sở không phải là tùy phiền não. Có phần không phải là tâm sở, vì phân biệt chúng, nên lại nói là tâm sở. Nên biết, lại nói về pháp tâm sở, tức làm rõ nơi lời nói là phần thứ bảy của cảnh. Lại, chính diệt đạo là chỗ nương dựa của vô trí. Như nói: Vô minh lấy vô trí đối với khổ v.v… làm tánh.

Trong đây, vì tiếng thứ bảy ở lời nói, nếu tiếng này đối với lời nói không thuận theo chỗ nương dựa, thì nhân vào đâu để cố chấp?

Người kia nhất định cho là nương dựa, nên đối với sắc v.v…

sinh tưởng si v.v… không phải nhất định lậu nương dựa mới gọi là hữu lậu.

Lại, tất cả tiếng đều nên là vô lậu, do âm thanh nhất định không phải là chỗ nương dựa của lậu. Nhưng không nên chấp âm thanh nhất định là vô lậu. Kinh nói: “Thể của âm thanh là tạp nhiễm”, không phải nói vô lậu là tạp nhiễm, là lời nói hợp lý.

Lại, thức thiện trong thân của các phàm phu tức nên thành vô lậu, vì không phải là chỗ nương dựa của lậu. Nếu nói phần lậu vì theo đuổi, thì các thức của bậc hữu học đều nên là hữu lậu. Lại, các hiển sắc như rượu, phân nhơ, không phải là chỗ nương dựa của lậu, tức nên đều là vô lậu. Lại, thân của A-la-hán là vô lậu, không hợp với chánh lý, nên Khế kinh nói: “Các khổ hiện có đều là thủ làm duyên, nhưng thân A-la-hán nhất định là khổ”. Nên Khế kinh nói:

Mạng A-la-hán hết

Dốc sinh hoan hỷ lớn

Cũng như bỏ vật độc

Giống như trừ các bệnh.

Phái Thí Dụ nói: Nghiệp trước đã dẫn sáu xứ, gọi là thọ mạng. Sáu xứ này nếu là vô lậu, thì Thánh không nên quán như vật chứa độc v.v… Như Khế kinh nói: Các A-la-hán thường tự cảm thấy xấu hổ, nhàm chán, chê trách thân mình. Thánh giả thì không nên xấu hổ, nhàm chán, chê trách về các pháp vô lậu, nên thân A-la-hán nhất định là hữu lậu. Do Khế kinh nói: Bị vô minh che lấp, tham ái trói buộc, kẻ ngu, người trí đồng cảm nhận có thân. Nếu cho vô minh đã chiêu cảm nơi thân diệt, thì chỗ dẫn của minh khác nơi thân lại tiếp tục sinh. Người trí nên không có chỗ chiêu cảm của vô minh, tham ái mà có thân. Ấy là trái với kinh nói: Lại do các phần giác, nên thành có quả. Nếu thân A-la-hán không phải là có, thì như bệnh, như chất độc đáng chán, nên hủy hoại thân. Nhưng nói không phải thuộc về ba hữu kia, trừ Sư Thí Dụ, ai là người chấp điều này? Lại các pháp như nhãn v.v… là có lỗi lìa lỗi, vì thể tướng đồng, tức không nên chấp riêng.

Lại, theo Bộ Thí Dụ: Nhãn v.v… trong thân của phàm phu cũng không phải là chỗ nương dựa của các lậu. Phái kia cho năm thức không có nhiễm ô. Nếu A-la-hán không có các thủ uẩn thì há không trái với kinh chăng? Như nói: Người kia quán năm thủ uẩn của mình, như ung nhọt bệnh v.v… Lại, phái kia truyền chấp cho pháp ngoài của phi hữu tình số là khổ mà không phải là khổ đế, nên cho là hữu tham, không phải là tùy miên tham. Nhãn không phải là nhãn giới, thọ không phải là thọ uẩn. Như Khế kinh nói: Xúc cùng sinh ra thọ, gọi là thọ uẩn, thế nên các khổ đều là khổ đế. Do Khế kinh nói: Nếu ở nơi các khổ, hoặc đối với nguyên nhân của khổ, mê hoặc, do dự, là đối với khổ đế, tập đế sinh nghi.

Như thế là đã biện rõ, Luận Thí Dụ về tông chỉ thiếu phần lý tột cùng. Vì có chí giáo để chứng cho kiến giải kia chăng? Phái kia cho là cũng có. Nên Khế kinh nói: Lìa tham, sân, si tức lìa các lậu. Lại nói có sự đặt, che của sáu tâm, đó gọi là hữu lậu, tức có chấp giữ các sắc tâm nơi sự đặt để, che phủ. Âm thanh v.v… cũng thế. Phái kia cho, trong ấy, tâm có sự đặt để che phủ. Đã nói về hữu lậu, có chấp giữ các sắc, nên biết có riêng các sắc vô lậu, nói rộng cho đến xúc cũng thế. Phái kia đã dựa vào nghĩa, để căn cứ theo vọng làm chấp này. Nhưng trong Thánh giáo, không nên dựa vào nghĩa ấy, căn cứ theo môn lý để khởi các hý luận. Như Khế kinh nói: “Các xúc hiện có của ngã đã sinh ra thọ, tất cả đều diệt”. Cũng nên theo nghĩa chuẩn y có riêng các thọ, không phải do xúc đã sinh, mà không nên thừa nhận.

Lại, Khế kinh nói: “Đại Ca-diếp-ba, ở nơi nhà thí chủ, tâm không bị trói buộc, vướng mắc, tức cũng thích ứng với nghĩa chuẩn y. A-la-hán khác, ở nơi nhà thí chủ, tâm có trói buộc vướng mắc”. Lại, trong kinh kia, không phải là dung nạp nghĩa chuẩn, không như âm thanh. Do kinh kia không nói, nghĩa là nếu hữu lậu, có chấp giữ các sắc, tâm có sự đặt để che phủ thì chỉ nói là hữu lậu có chấp giữ các sắc tâm nơi sự đặt để, che phủ. Đây là nêu rõ lỗi lầm của sắc, không phải là phân biệt về sắc. Thế nên tông kia cũng không có chí giáo. Tuy Thượng tọa kia đã lầm dẫn kinh cho: “Nếu các Bí-sô hữu lậu, có chấp giữ, thì hộ ở nơi hiện pháp không bát Niết-bàn”.

Lại dẫn kinh nói:

Chân Phạm, lìa các lậu

Không nhiễm nơi thế gian

Là Độc giác, Thế Tôn

Tự tại lìa các lậu.

Nghĩa này với nghĩa kia đều không tương ưng. Ta cũng không thừa nhận A-la-hán v.v… là hữu lậu chấp giữ. Mắt v.v… tuy gọi là hữu lậu thuận với chấp giữ, nhưng không phải là chấp giữ lậu. Kinh cũng không nói A-la-hán v.v… không có pháp thuận với chấp giữ, lìa các hữu lậu.

Nói “Cũng không nhiễm” nghĩa là đối với tất cả cảnh giới của thế gian, phiền não đã được đoạn trừ, nên do Khế kinh nói các tên gọi như tham v.v… Nhiễm là thọ nhận các sự việc thuộc về thế gian và nơi tất cả nẻo. Vĩnh viễn lìa tham v.v… nên gọi là không nhiễm. Do nghĩa này tức giải thích, Khế kinh khác nói: Phật bảo Bí-sô! A-la-hán v.v… nơi các thế gian đã được lìa trói buộc, tuy hành theo thế gian, nhưng có khả năng chế ngự điều phục, không bị nhiễm ô theo thế gian. Tức đối với các sự hữu lậu của thế gian đều không bị tất cả phiền não trói buộc. Thế nên nói A-la-hán v.v… đối với các thế gian đã được lìa trói buộc, tuy hành hóa nơi thế gian, nhưng có thể chế ngự điều phục.

Không bị nhiễm ô theo thế gian: Ý của kinh này nói: A-la-hán v.v… tuy ở tại thế gian, nhưng cũng lại thành tựu, vì ở thế gian đã được đối trị, nên đã chế ngự, dứt trừ các phiền não nhiễm ô của thế gian. Thế nên, tông phái kia đều không có chí giáo. Lại, thuyết kia khởi chấp, dựa vào ngôn từ giáo huấn, nghĩa là cùng với lậu đều gọi là hữu lậu. Giải thích này là phi lý, vì lập tướng khác. Như Khế kinh nói: Nghĩa là các sắc v.v… có nơi quá khứ, hiện tại, vị lai, sinh trưởng hiện bày ái hoặc sân, hoặc mạn, cho đến nói rộng.

Vì sao cho là quá khứ, vị lai cùng với hiện tại đều cùng khởi?

Lại như Phái Thí Dụ chỉ nêu bày lung tung về hư không. Mười lăm giới trước trong mười tám giới hoàn toàn là hữu lậu như kinh đã nói. Tức như Khế kinh nói: Pháp hữu lậu là các mắt hiện có, các sắc hiện có, các nhãn thức hiện có, như thế cho đến nói các thân xúc, thân thức hiện có, làm rõ không có nghĩa khác. Phái kia nói: Chúng ta không tụng kinh này. Không phải không tụng kinh này mà có thể thành an lạc, vì nếu muốn thành an lạc thì phải siêng năng tụng kinh. Lại, phái kia không cho tất cả Khế kinh đều là định lượng, há gọi là kinh bộ. Tức là thấy Khế kinh, cùng với nghĩa của Tông mình đã chấp là trái nhau, lập tức bài bác. Hoặc theo lối chấp của mình, sửa đổi thành văn khác, rồi nói là văn của Bản kinh có sai lầm là do ở người truyền tụng. Hoặc lại nói tất cả đều không tín nhận. Như các kinh Thuận Biệt xứ, đều nói không phải thuộc về Thánh giáo. Về đối pháp này, thật sự yêu thích tông chỉ của mình được chế tạo, đặt để trong A-cấp-ma. Phái Thí Dụ kia, do đấy nên trái với vô lượng kinh, trái vượt lời Thánh, đa số dấy khởi chấp dị biệt. Trong luận này, tôi sẽ dần dần chỉ rõ.

Đã biện về hữu lậu và nhân của hữu lậu.

Hỏi: Thế nào là vô lậu?

Đáp: Nghĩa là đạo Thánh đế và ba vô vi.

Có giải thích khác nói: Vì cùng với loại như lậu v.v… nên gọi là hữu lậu, như có chủng tộc.

Lại có giải thích nêu: Vì bị lậu làm nhiễm ô, nên gọi là hữu lậu, như thức ăn có chất độc.

Hoặc có giải thích cho: Vì cùng với lậu đều cùng đoạn, nên gọi là hữu lậu. Như Thiên Đế Thích có Đát-sách-ca, cùng gắn liền với Sách-ca đó.

Các loại như thế là đã được chỉ dẫn, giải thích rất nhiều. Cùng với đây trái nhau, gọi là pháp vô lậu.

Đạo Thánh đế: Nghĩa là không phải năm uẩn như sắc hữu lậu v.v… Ba vô vi: Là hư không và hai diệt là trạch diệt và phi trạch diệt. Ba thứ vô vi như hư không v.v… ấy, cùng với đạo Thánh đế, do nhân duyên này nên gọi là vô lậu.

Tiếp theo phần trước đã nói về đạo Thánh đế, sau sẽ biện rộng.

Ở phần giản lược, đã nói trong ba vô vi thì hư không vô vi chỉ dùng không ngăn ngại làm tánh, ở đó, các pháp được hiện bày rất rõ, nên gọi là hư không. Đấy là không ngăn ngại, dùng làm tướng của hư không kia. Đại chủng hiện có và tụ của sắc được tạo, tất cả không thể ngăn che khắp, hoặc không phải là đối tượng bị chướng ngại, cũng không phải là chủ thể gây chướng ngại. Thế nên nói: Không có chướng ngại làm tướng.

Đã nói về hư không. Trạch diệt, tức lấy sự lìa trói buộc làm tánh. Ở nơi bốn Thánh đế đều có sự phân biệt chọn lựa riêng, nên gọi là trạch. Tức là tuệ thiện có sai biệt làm tánh, Niết-bàn lìa trói buộc là quả này nên gọi là trạch diệt.

Có thuyết nói: Các pháp của đối tượng đoạn trừ đều đồng một trạch diệt. Theo Đối pháp mà nói, tùy sự trói buộc riêng khác, nếu các đối tượng đoạn đồng một trạch diệt, chứng đắc khổ pháp trí nhẫn là lúc đã đoạn dứt phiền não, phiền não còn lại được diệt là chứng đắc chăng? Nếu chứng đắc thì việc tu đối trị khác, tức là vô dụng. Nếu không chứng đắc, thế thì một vật chứng là ít, không phải là thứ khác, tức cùng với lý là trái nhau, vì có phần lỗi. Do quyết định này, nên cho là sự lìa trói buộc, tùy thuộc lượng của sự trói buộc, không trái với chánh lý.

Đã nói về trạch diệt. Ngăn ngại vĩnh viễn sẽ sinh được gọi là phi trạch diệt. Trạch, nghĩa là như lý, dốc sức để thành tuệ, không do tuệ ấy có pháp vĩnh viễn ngăn chận pháp vị lai sinh, gọi là phi trạch diệt. Như khi mắt cùng với ý chuyên chú nơi một sắc, thì đối với các sắc khác và tất cả thanh, hương, vị, xúc v.v… trong niệm niệm diệt, đối với phần ít của sắc kia thì ý xứ, pháp xứ có được phi trạch diệt, vì năm thức thân cùng với một phần ý thức thân nơi cảnh đã diệt, trọn không thể sinh. Duyên đều cùng với cảnh nên do duyên đó sinh công dụng hệ thuộc đồng thời, vì duyên được nương dựa. Nếu pháp có thể tạo ngăn ngại, thì pháp kia sinh tác dụng, pháp này lìa tuệ, nhất định ngăn ngại pháp kia, khiến ở vị lai vĩnh viễn không sinh, nên được phi trạch diệt. Pháp này thật có, về sau sẽ thành lập, vì thuận theo thứ lớp nơi lý của bản văn. Trước đã nói là trừ đạo, các pháp hữu vi còn lại, gọi là hữu lậu.

Thế nào là hữu vi? Phải nên biện rõ.

Tụng nêu:

Lại, các pháp hữu vi

Là năm uẩn như sắc v.v…

Cũng Thế lộ, Ngôn y

Cùng có lìa, có sự.

Luận nói: Vì tai họa đột ngột của lão, bệnh, tử có sai biệt, ẩn chứa sự tổn hại ngầm, nên gọi là uẩn. Vì là giới riêng v.v… nên nói là sắc v.v… Giới cùng năm uẩn v.v… không thể gồm thâu đủ tất cả hữu vi. Năm uẩn như sắc v.v… thì gồm thâu đủ hữu vi, nên ở đây nêu bày riêng. Nói hữu vi, tức là nhiều duyên tụ tập cùng được sinh.

Hỏi: Vị lai chưa khởi vì sao gọi là hữu vi?

Đáp: Vì là cùng loại, nên cũng gọi là hữu vi. Như củi đã đốt cháy, ở phần chưa đốt, là cùng loại với củi kia, nên cũng gọi là củi. Hoặc căn cứ nơi sự hội đủ để đặt tên, nên không lỗi. Như đàn cầm, sắt v.v…, gọi là có âm thanh. Cũng như vú sữa, ao hoa sen v.v… Các pháp không sinh, không vượt quá loại kia, nên gọi là hữu vi. Pháp hữu vi này, ở trong mỗi mỗi kinh, Đức Thế Tôn tùy theo nghĩa, gọi là Thế lộ v.v…

Hỏi: Pháp kia lại như thế nào?

Đáp: Nghĩa là các pháp hữu vi cũng gọi là Thế lộ. Năm uẩn như sắc v.v… là pháp sinh diệt, lưu chuyển trong đường vị lai, hiện tại, quá khứ, nên các pháp không sinh, vì các duyên bị thiếu. Tuy lại không sinh, nhưng vì cùng loại với pháp kia, nên đặt tên, không lỗi.

Có thuyết nói: Vì bị vô thường thâu tóm tiêu diệt nên gọi là Thế lộ. Hoặc gọi là Ngôn y. Ngôn nghĩa là ngôn âm, hoặc gọi là chủ thể thuyết. Đây là tiếng nói tương tục có sai biệt. Y là danh cùng nghĩa, tức thâu tóm đủ năm uẩn. Như Khế kinh nói: Ngôn y có ba, không có bốn, không có năm. Do đấy, khéo thông hợp nơi Luận Phẩm Loại Túc đã nói: Ngôn y là chỗ thâu tóm của năm uẩn, há cũng không dựa vào vô vi dấy khởi để nói?

Hỏi: Vì sao nghĩa kia không lập là ngôn y?

Đáp: Vì nghĩa kia cùng với danh không cùng hợp với lý. Như nói: Ngôn y, tức danh cùng với nghĩa. Nếu nghĩa cùng với danh có thể cùng nêu bày, tức lập làm ngôn y. Do nghĩa vô vi cùng với danh hữu vi, không thể đều cùng thuyết vì không cùng nghĩa, nên không lập là ngôn y, vì rơi vào thế gian, và lìa khỏi thế gian, không cùng hợp với lý. Hoặc vì diệt này, nên kiến lập là vô vi. Khế kinh nói: Uẩn diệt, gọi là diệt. Diệt không phải là ngôn y. Ngôn y là uẩn.

Lại có chỗ giải thích: Nếu ở nơi xứ ấy, ba phần có thể đạt được, thì lập làm ngôn y. Nghĩa là dựa nơi ngữ nghĩa, vô vi chỉ là nghĩa, nên không phải là ngôn y.

Có thuyết cho: Cũng y nhưng thiếu về ngữ. Hoặc gọi là hữu ly. Tức nơi các nẻo luân hồi chìm đắm theo sinh tử. Niết-bàn vĩnh viễn lìa bỏ, nên gọi là ly. Là nghĩa dứt hẳn sự việc hằng lưu chuyển nơi các nẻo. Nếu đã đến được nhất định, không còn trở lại. Vì ở đây có lìa, nên nói là hữu ly. Như người có của cải, gọi là có tiền của, tức là hữu vi có nghĩa xuất ly. Tất cả hữu vi đều giống như thuyền bè, vì thế Thánh đạo cũng nên lìa bỏ. Như Khế kinh nói: ”Pháp hãy còn nên đoạn, huống chi là phi pháp”. Hoặc gọi là hữu sự. Sự, nghĩa là chỗ nương dựa, hoặc là chỗ trụ, tức là nghĩa của nhân. Quả dựa vào nhân, vì từ nơi nhân sinh, như con nương dựa nơi mẹ. Hoặc quả trụ nơi nhân, có thể che phủ nhân. Như người ở trên giừơng là nghĩa nhân đã được quả che chắn vì nhân quả trước sau cùng tánh thô tế nên ở đây có sự việc gọi là hữu sự, dụ như trước đã nói. Pháp này chỉ là hữu vi. Các loại như vậy v.v… là nói về các tên gọi của pháp hữu vi có sai biệt. Ở đây là nói về trong pháp hữu vi.

Tụng nêu:

Hữu lậu gọi thủ uẩn

Cũng gọi là hữu tránh

Và khổ, tập thế gian

Xứ kiến cùng ba hữu.

Luận nói: Há chẳng như trước đã nói trừ đạo Thánh đế, pháp hữu vi còn lại gọi là hữu lậu.

Hỏi: Vì sao ở đây lại nói lần nữa?

Đáp: Tuy trước đã nói, nhưng vì muốn làm rõ về danh tưởng có sai biệt, hoặc vì hiển bày về nghĩa nhất định của danh tưởng kia, nên lại nói lần nữa. Trước nêu tất cả hữu vi gọi là uẩn. Nay nói hữu lậu gọi là thủ uẩn. Về nghĩa, căn cứ ở vô lậu chỉ gọi là uẩn, tức trong các lậu lập danh tưởng của thủ. Do có thể chấp giữ nơi ba hữu sinh, hoặc có thể chấp giữ, dẫn sinh nghiệp của hữu sau, nên gọi là thủ. Uẩn từ thủ sinh, hoặc có thể sinh ra thủ, nên gọi là thủ uẩn. Như lửa, cỏ, trấu, như cây có hoa quả. Tức pháp hữu lậu cũng gọi là hữu tránh. Nghĩa là trong phiền não đã lập danh tưởng là tránh (Tranh chấp). Vì xúc gây động nơi phẩm thiện, tổn hại nơi mình người, nên uẩn cùng với tranh cãi thuận hợp. Hoặc uẩn và tranh cãi cùng kết hợp mà được sinh khởi, nên gọi là hữu tránh. Ở đây, ý chỉ rõ uẩn cùng với tranh cãi, không phải tùy theo chỗ thiếu một, pháp khác có thể được sinh. Và để làm rõ về danh, tưởng của hữu lậu khác. Nghĩa là hoặc gọi là khổ, tức năm thủ uẩn, là nơi chốn nương dựa của các thứ bức bách, vì tự tánh thô trọng, không an ổn. Hoặc gọi là tập, tức chủng loại kia có khả năng làm nhân, vì có thể tập thành. Hoặc gọi là thế gian, vì có thể hủy hoại. Như Đức Thế Tôn nói: Tánh có thể hủy hoại nên gọi là thế gian.

Nếu vậy đạo đế nên là thế gian? Không như thế thì sự hủy hoại thứ hai không có. Vì tánh hủy hoại của đạo đế là không nhất định, còn tánh hủy hoại của thế gian thì quyết định. Hoặc gọi là kiến xứ, vì trong năm kiến trụ như Tát-ca-da-kiến tùy miên tùy tăng, há không phải tất cả phiền não hữu lậu đều là tùy tăng sao? Há không phải các kiến lậu thuộc về thủ uẩn, hữu tránh như trước đã nói?

Tuy có lý này, nhưng các kiến kia, đối với tất cả chủng loại của pháp hữu lậu, thời gian hình tướng không có sai biệt. Vì nắm giữ chắc, không động, tùy miên theo đấy tăng, nên thể dụng càng tăng. Vì làm rõ hữu lậu là chủ thể sinh trưởng, đối với các kiến xứ này, nên cần phải nói lại. Tham cùng si, nghi thì không như thế, do tham v.v… kia có tất cả chủng, không có tất cả thời gian, si thì có tất cả thời gian không phải là không có sai biệt. Nghi thì không có sai biệt nhưng không nắm giữ bền chắc. Thế nên hữu lậu không nói là xứ kia. Hoặc gọi là ba hữu, có nhân, có nương dựa, do ba hữu gồm thâu nên cùng nói là thâu tóm, gọi là có nhiễm v.v… Các loại như vậy v.v… là pháp hữu lậu, tùy nơi nghĩa mà có tên riêng. Như trên đã nói, năm uẩn như sắc v.v… gọi là pháp hữu vi. Sắc uẩn là gì?

Tụng nêu:

Sắc là chỉ năm căn

Năm cảnh cùng vô biểu.

Luận nói: Sắc, nghĩa là sắc uẩn. Nói năm căn: Đó là các căn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân. Nói năm cảnh: Là các cảnh sắc, thanh, hương, vị, và đối tượng xúc. Nghĩa là đối tượng hiện hành thuộc về mắt v.v… Cùng vô biểu: Nghĩa là sắc của pháp xứ. Chữ chỉ là chỉ chỗ hiển bày ấy, phần ít nơi một xứ của mười xứ, gọi là sắc uẩn.

Hỏi: Các sắc như thế, tướng của chúng là thế nào?

Tụng nêu:

Thức kia dựa sắc tịnh

Gọi năm căn như mắt…

Luận nói: Căn kia nghĩa là trước đã nói về năm căn như mắt v.v… Thức, tức các thức nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân. Dựa vào nghĩa là chỗ dựa của năm thức như nhãn v.v…

Như thế chỗ dựa là sắc tịnh làm thể, tức sắc tịnh ấy gọi là căn như mắt v.v… Nên Đức Bạc-già-phạm, trong Khế kinh nói: Sắc tịnh của căn như nhãn v.v… làm tướng. Bản luận cũng nói: Thế nào là nhãn căn? Là chỗ dựa của nhãn thức lấy sắc tịnh làm tánh, nói rộng như thế. Trong các Thánh giáo, do căn khác với thức, nên không lấy cảnh giới. Do đó nhận biết lời nói ấy là nêu rõ căn, không phải cảnh.

Có thuyết cho: Lời nói ấy là cảnh không phải là căn, nhưng vì không có ý thức duyên nơi sắc v.v… nên gọi là sắc cùng thức. Đối tượng nương dựa của thức kia gọi là lỗi của mắt v.v…, do nói sắc tịnh đã được phân biệt.

Hỏi: Nếu vậy nói sắc nên thành vô dụng chăng?

Đáp: Thức kia dựa vào chỗ tịnh, gọi là căn, như mắt v.v… tức nghĩa đã thành nên tịnh không là đối tượng nương dựa của thức mà không phải là sắc, vì phân biệt sắc tịnh kia, nên dùng sắc để nói.

Hỏi: Nếu cho nói về sắc là Khế kinh nói, thì Khế kinh có thể như thế, không nói thức dựa vào chỗ sai biệt mà nói. Nếu cho lời ấy là của Bản luận nói, thì người kia cũng đồng nghi, nên cùng xét chọn?

Đáp: Giải thích như thế là đã loại trừ nghi, vấn nạn, nên cần giữ lấy lời nói về sắc. Nếu thức dựa vào lời nói tức căn cứ theo Hữu tài thích. Tức nên chỗ tin tịnh, gọi là căn như mắt v.v…, thế nên giữ lấy lời nói về sắc. Vì phân biệt về cách giải thích ấy, không có một pháp nào cho thức vì nương nơi sắc mà là tịnh để có thể là cách giải thích ấy. Do đấy nói sắc là rất có công dụng. Như vậy tức giải thích chỗ nói của bản luận.

Lại, ở trong đây lời nói trước là phân biệt về bốn căn như tai v.v… Căn kia tuy đều dùng sắc tịnh làm tánh, nhưng căn ấy không phải là chỗ dựa của nhãn thức, nên bốn căn kia, không phải thuộc về nhãn căn. Lời nói sau là phân biệt về chỗ dựa của vô gián diệt. Căn kia tuy cũng là đối tượng nương dựa của nhãn thức, nhưng không phải dùng sắc tịnh kia làm tánh, nên ý căn nọ không phải thuộc về nhãn căn. Hoặc lại như trước đã nói, là hiển bày mắt của đồng phần. Sau nói là làm rõ mắt của bỉ đồng phần. Các căn còn lại cũng thế.

Nếu vậy, tướng của sắc tịnh không có riêng khác, nên không thành năm. Không như vậy thì công năng có khác biệt.

Hỏi: Làm sao biết được công năng riêng khác?

Đáp: Vì định là chỗ dựa của thức, cảnh không chung. Lại, vì nhân riêng khác, nên hiện thấy nhân quả riêng có sai biệt. Cũng như âm thanh của đàn cầm, đàn sắt, ống tiêu, sáo v.v… nhưng mắt, tai v.v… đã nhân nơi bốn đại đều có sai biệt. Vì nhân sai biệt, nên thể của sắc tịnh như mắt v.v… có khác biệt.

Thể tuy có nhân riêng, nhưng không khác, nên sắc tịnh của quả kia tức nên không có riêng.

Vấn nạn này không hợp lý, vì tuy đồng một tướng, nhưng vì hiện thấy khác, cũng như đại chủng trong ngoài có sai biệt. Nếu ngôn ngữ như âm thanh, thì nhân tuy có riêng khác, mà tướng là một, nên thuộc về cùng một xứ.

Năm căn như mắt v.v… cũng nên như vậy, tức không có lỗi như thế. Âm thanh tuy có nhân riêng, nhưng cùng với một thức làm cảnh giới, nên thuộc về một xứ. Năm căn như mắt v.v…, vì tánh là chỗ nương dựa của thức, cảnh theo loại riêng khác. Lại, là sự nương dựa riêng nơi chỗ hiển bày của dụng, tức không thích ứng với các căn thuộc cùng một xứ. Lại như thức, thọ tuy cùng phân biệt, lãnh nạp một tướng, do nhân riêng khác, nên có sáu thức, ba thọ sai biệt. Các căn này cũng như thế. Như thức, thọ, tuy sáu, ba khác nhau, nhưng tướng đồng, nên là thuộc về một xứ.

Mắt v.v… cũng nên thuộc về một xứ. Thọ cùng với vô vi, nhân gì có đồng xứ, nên không phải thuộc về một xứ, tức nêu rõ về tự tướng đồng có. Tự tướng tuy khác, nhưng thuộc về đồng xứ. Đã biện về các tướng như mắt v.v… Sắc v.v… nay sẽ nói.

Tụng nêu:

Sắc hai hoặc hai mươi

Tiếng chỉ có tám thứ

Vị sáu, hương bốn thứ

Xúc mười một, là tánh.

Luận nói: Nói sắc hai: Là nghĩa của hai thứ, tức hiển cùng với hình. Trong ấy, hiển sắc có mười hai thứ, hình sắc có tám, nên nói “Hoặc hai mươi”.

Hiển mười hai: Tức xanh, vàng, đỏ, trắng, mây, khói, bụi, sương mù, ảnh, ánh sáng, sáng, tối. Trong mười hai thứ, bốn thứ như xanh v.v… gọi là chánh hiển sắc, tám thứ như mây v.v… là sắc ấy có sai biệt.

Nghĩa của sắc kia còn ẩn, nay sẽ lược giải thích: Hơi của đất nước xông lên, gọi là sương mù. Ngăn che chỗ dấy khởi của ánh sáng, trong đó, sắc khác có thể trông thấy, gọi là ảnh. Trái với đây gọi là tối.

Ánh sáng của mặt trời, gọi là ánh sáng (quang). Ánh sáng của các thứ trăng, sao, lửa, thuốc, ngọc báu, điện v.v… gọi là sáng (minh).

Hình sắc tám: Nghĩa là dài, ngắn, vuông, tròn, cao, thấp, ngay, không ngay. Trong đây, ngay là hình bình đẳng. Hình không bình đẳng, gọi là không ngay. Sắc còn lại vì dễ hiểu nên nay không giải thích.

Có thuyết nói: Sắc có hai mươi mốt thứ. Thêm một không là hiển sắc thứ hai mươi mốt. Đây tức là sự sai biệt của sắc và không giới. Ở trong hiển sắc thì xanh, vàng, đỏ, trắng, ảnh, ánh sáng, sáng, tối, chính là hiển rõ, có thể nhận biết. Trong hình sắc thì tánh của thân biểu nghiệp chỉ hiện hình có thể hiểu rõ. Hình, hiển của sắc còn lại đều cùng có thể nhận biết.

Hỏi: Vì sao một sự có hai Thể?

Đáp: Vì không phải chỗ được thừa nhận của Tông nên không có lỗi này. Trong Phẩm Biện Về Nghiệp sẽ lại xét chọn.

Đã nói về sắc xứ, sẽ nói về thanh xứ.

Vì có thể có kêu, gọi, nên gọi là âm thanh. Hoặc chỉ là tiếng vang, gọi đó là âm thanh. Thánh giáo của bậc Thiện Thệ đều nói thế này: Thanh là cảnh giới được nhận lấy của nhĩ căn, là tánh của sắc được tạo do bốn đại chủng. Thanh này có tám thứ: Nghĩa là có chấp thọ, hoặc không có chấp thọ đại chủng làm nhân, cùng số hữu tình, số phi hữu tình có sai biệt là bốn. Thanh này lại có sự sai biệt giữa vừa ý, không vừa ý, thành tám.

Chấp thọ đại chủng, nghĩa là thuộc về số hữu tình của đời hiện tại, nuôi lớn các địa đẳng lưu, dị thục v.v… Cùng với đây trái nhau, gọi là không chấp thọ.

Trong đây, thanh có chấp thọ đại chủng làm nhân có hai thứ: Nghĩa là loại hữu tình do gia hạnh sinh và loại hữu tình khác, không đợi gia hạnh mà khởi.

Loại hữu tình do gia hạnh sinh ra, lại có hai thứ: Một là: Do gia hạnh như tay tác động v.v… sinh ra. Hai là: Dùng nghiệp ngữ biểu làm tự tánh.

Nghiệp ngữ biểu này có hai thứ. Nghĩa là dựa nơi danh khởi và không nhờ vào danh.

Dựa nơi danh khởi lại có hai thứ: Một là: Hữu ký. Hai là: Vô ký. Không nhờ vào danh có hai thứ cũng như vậy. Đó là tướng của thanh có chấp thọ đại chủng làm nhân có sai biệt như vậy.

Về thanh không có chấp thọ đại chủng làm nhân cũng có hai thứ: Một là: Do hữu tình gia hạnh nên được khởi. Hai là: Do sự quấy động của các giới nên sinh ra.

Trước là các âm thanh của tù và, chuông, trống v.v… Sau là các âm thanh của gió, rừng, sông v.v… phát ra.

Số hữu tình, nghĩa là âm thanh như lời nói, tay chân v.v… Âm thanh còn lại tức là số phi hữu tình.

Như thế, nghe các âm thanh sinh vui thích, gọi là âm thanh vừa

ý. Trái với âm thanh này, gọi là không vừa ý.

Trong tám thứ âm thanh, chỉ có hai thứ đầu là hợp lý. Do số hữu tình và số phi hữu tình, tức có chấp thọ và không chấp thọ đại chủng làm nhân, là chỗ gồm thâu của âm thanh. Ở trong sắc v.v… cũng nên có thể nói về sự dị biệt như vừa ý v.v…. Đâu riêng gì ở âm thanh. Sắc v.v… cũng nên nói là có chấp thọ và không chấp thọ đại chủng làm nhân. Lý thật là nên nói như vậy. Nhưng do tự tánh của thanh xứ khó nhận biết, nên chỉ căn cứ nơi nhân để nói có hai thứ. Còn sắc v.v… thì không như vậy, thế nên không nói. Vì tướng của thanh thuộc về Bản luận không khác, nên không cần lập tám thứ thanh ấy. Há không có thanh dùng có chấp thọ đại chủng và không chấp thọ đại chủng làm nhân mà được sinh khởi? Như tay, trống

v.v… hợp lại sinh ra âm thanh. Không có âm thanh như thế. Cả hai thứ tiếng có đủ bốn đại, đều có quả riêng, nên không phải bốn đại của hai thứ đồng được một quả, làm nhân câu hữu, vì thành lỗi lầm. Tuy có hai thứ chấp thọ cùng không chấp thọ nơi tướng chung của bốn đại chủng, khua, đánh mà cùng làm nhân, đều phát riêng âm thanh. Âm thanh kia vì đều căn cứ nơi nương dựa của chính mình, nên không thành ba thể. Tuy có chấp thọ cùng không chấp thọ nơi đại chủng của tay, trống cùng đánh làm nhân phát sinh hai thứ thanh, mà cùng lấn át xâm đoạt, theo đấy nhận lấy một thứ, cùng với hình tướng có sai biệt của chúng không dễ gì có thể nhận biết. Thế nên, thanh xứ chỉ có hai thứ.

Đã nói về thanh xứ, sẽ nói về vị xứ.

Vượt thứ lớp để nói: Vì làm rõ về căn cảnh, thức kia phát sinh là không nhất định. Vị nghĩa là chỗ được ăn, là nghĩa có thể nếm, thưởng thức. Vị này có sáu thứ: Là ngọt, chua, mặn, cay, đắng, lạt riêng khác nhau.

Đã nói về vị xứ, sẽ nói về hương xứ.

Hương là đối tượng được ngửi. Hương này có bốn thứ: Tức hương tốt, hương xấu, hương bằng nhau, hương không bằng nhau có sai biệt. Bằng và không bằng nhau nghĩa là tăng ích, tổn giảm, vì nương dựa nơi thân có riêng khác.

Có thuyết cho: Vì sự khác biệt của yếu ớt, tăng mạnh. Trong Bản luận nói: Hương có ba thứ: Hương tốt, hương xấu và hương bình đẳng. Nếu có thể nuôi lớn đại chủng nơi các căn, gọi là hương tốt. Trái với hương tốt này là hương xấu. Không có hai công dụng như trước, gọi là hương bình đẳng. Hoặc do các nghiệp phước tăng thượng phát sinh, gọi là hương tốt. Nếu do các nghiệp tội tăng thượng sinh ra gọi là hương xấu. Chỉ do uy lực của bốn đại chủng sinh khởi gọi là hương bình đẳng. Hương này tuy là quả tăng thượng, nhưng cũng có sai biệt, nên chỉ từ uy lực của đại chủng sinh ra, cũng thuộc về quả tăng thượng của hữu tình.

Đã nói về hương xứ, sẽ nói về xúc xứ.

Xúc nghĩa là đối tượng được tiếp xúc, dùng mười một thứ làm tánh, tức mười một thật, dùng làm nghĩa của thể, là bốn đại chủng và bảy xúc được tạo ra: Tánh trơn, tánh nhám, tánh nặng, tánh nhẹ cùng lạnh, đói, khát.

Nếu như vậy thì thân căn nên thành đối tượng được tiếp xúc, tức xúc này đã có thể tiếp xúc thân căn kia, thân căn kia nhất định tiếp xúc, do đấy có thuyết nói: Thân căn chỉ là chủ thể xúc không phải là đối tượng được xúc. Ví như nhãn căn là chủ thể thấy, không phải là đối tượng được thấy.

Lại có thuyết cho: Không có một ít pháp nào có khả năng xúc chạm với một ít pháp. Khi chỗ nương dựa, đối tượng duyên sinh khởi không gián đoạn thì lập danh tưởng của xúc. Nếu dựa vào thức này, có thể đạt được cảnh kia, thì thức này đối với cảnh kia, giả nói là chủ thể xúc, vì cảnh không phải là chỗ dựa của thức nên không phải là chủ thể xúc. Tức do nhân ấy chỉ nói về địa v.v… gọi là đối tượng được xúc. Dựa vào sắc v.v… kia để xác định không phải là đối tượng được xúc, trong đây, ý nêu rõ dựa vào thân căn, thức, không duyên nơi cảnh kia mà sinh khởi.

Nếu sắc v.v… kia không phải là đối tượng được xúc, thì vì sao hoa v.v… lúc do thân chạm xúc thì sắc v.v… sẽ bị biến hoại?

Do chỗ nương dựa kia bị tổn hoại. Vì hiện thấy đối tượng được nương dựa có tổn, tăng, nên chủ thể nương dựa cũng tổn, tăng, không phải ở đấy có mâu thuẫn. Như nơi chốn của đất, mầu mỡ, thấm nhuần, bón, tưới, lúa má, gặt hái, rừng rậm tươi tốt sum suê, bị bức bách do ánh nắng gay gắt. Cùng với hiện tượng này trái nhau, nên biết đối tượng được nương dựa là đại chủng bị tổn giảm. Sắc v.v… của chủ thể nương dựa biến đổi, hủy hoại, không phải là thứ khác. Ngôn nghĩa như thế phần sau sẽ biện rộng. Trong đây, đại chủng đến phần tiếp theo sẽ nói. Nay, nên giải thích tóm lược về các tướng trơn, nhám v.v…

Trơn, tức là tánh, nên nói tánh trơn. Như riêng tức là tánh nên nói là tánh riêng. Lời giải thích theo cách giáo huấn: Có thể cùng bức bách xúc chạm, nên gọi là trơn tức là mềm, ấm theo nghĩa gắng giữ lấy. Ở đây vì có tác dụng của nhám, nên gọi là có nhám. Như người có lông nói là có lông. Nhám tức là tánh, nên nói là tánh nhám, là tên gọi khác của sức thô nặng, cứng chắc. Vì có thể tạo sự trấn áp, nên gọi là nặng, là nghĩa có thể hoàn thành, chế ngự người khác. Nặng, tức là tánh nên nói là tánh nặng.

Tỳ-bà-sa nói: Vì khiến xứng hợp nơi cân bổng lên, nên gọi là nặng. Vì dễ có thể dời chuyển nên gọi là nhẹ. Hiện thấy hình vật nơi thế gian tuy lớn mà vì nhẹ, nên dễ khiến dời động. Nhẹ tức là tánh, nên nói là tánh nhẹ.

Tỳ-bà-sa cho: Vì không khiến xứng hợp với phần đầu chúc xuống, nên gọi là nhẹ. Do chỗ bức bách, ít ấm sắp sinh nơi vật kia nên gọi là lạnh. Lại khiến ngưng kết và dễ biết rõ, nên gọi là lạnh. Là nghĩa tổn, tăng nhanh chóng của hình vật kia có thể nhận biết. Muốn ăn gọi là đói, muốn uống gọi là khát, há không phải muốn là tâm sở pháp, nên trái với tướng của xúc chăng?

Do ở trong nhân lập tên quả, nên không có lỗi mâu thuẫn, Như nói: Sông vui, tầng cấp cũng vui. Ăn là mạng của người, cỏ là mạng của đất, phần còn lại chưa nói. Do sức buồn bực, yếu kém v.v… được thâu tóm trong ấy, nên không nói riêng. Buồn bực không lìa trơn láng. Sức tức nhám, nặng, yếu kém ở chỗ mềm, ấm, thuộc trong tánh nhẹ. Như thế, chủng loại của đối tượng được xúc còn lại tùy thuộc chỗ thích hợp, thâu tóm trong mười một thứ.

Hỏi: Duyên gì khiến trơn láng v.v… lần lượt có sai biệt?

Đáp: Vì đại chủng là đối tượng được nương dựa tăng, kém riêng khác. Vì các giới nước, lửa tăng nên sinh tánh trơn láng. Do giới đất, gió tăng nên sinh tánh nhám ráp. Vì giới đất, nước tăng nên sinh tánh nặng. Do giới lửa, gió tăng nên sinh tánh nhẹ. Vì vậy tánh nặng trong thân chết tăng riêng. Vì giới nước gió tăng nên sinh ra lạnh. Do đấy cũng nói lạnh ấy đã sinh ra buồn bực.

Hỏi: Nếu như vậy vì sao nói không lìa tánh trơn, tùy nơi mỗi mỗi tăng?

Đáp: Điều này không có lỗi. Hoặc lại buồn bực: Là sự sai biệt của trơn láng, không phải chỉ là tánh trơn. Nên biết nhân này cũng có khác biệt. Thế nên, tánh trơn, hoặc nhân nơi giới nước, lửa tăng nên khởi, hoặc nhân nơi giới nước lửa tăng nên sinh. Do đó hai lời này không có lỗi mâu thuẫn. Giới gió tăng nên sinh đói, giới lửa tăng nên sinh khát. Giới còn lại, tùy chỗ thích ứng, đều nên phối hợp giải thích.

Như thế các thứ được tạo lìa ngoài đại chủng, có thể tánh riêng, phần sau sẽ biện rộng.

HẾT – QUYỂN 1