LUẬN A TỲ ĐẠT MA TẬP DỊ MÔN TÚC
Tác giả: Tôn giả Xá Lợi Tử
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 6

Phẩm 4: BA PHÁP, phần 4

* Ba thứ trụ: 1. Thiên trụ. 2. Phạm trụ. 3. Thánh trụ.

1. Thế nào là Thiên trụ?

Đáp: Nghĩa là bốn tĩnh lự. Những gì là bốn? Đó là lìa pháp bất thiện dục ác, có tầm có tứ, đạt ly sinh hỷ lạc, nhập nơi tĩnh lự thứ nhất, an trụ đầy đủ, nói rộng cho đến nhập nơi tĩnh lự thứ tư, an trụ đầy đủ. Như Đức Thế Tôn đã nói với Bà-la-môn Phệ-na-bổ-lê: Phạm chí nên biết! Như khi Ta ở trong bốn tĩnh lự thế gian, tùy theo một thứ tĩnh lự nên hành. Bấy giờ, Ta là thiên trụ mà hành. Như khi Ta ở trong bốn tĩnh lự thế gian, tùy theo một thứ tĩnh lự nên trụ, hoặc ngồi, hoặc nằm. Bấy giờ, Ta là thiên trụ mà trụ, hoặc ngồi, hoặc nằm. Như vậy, trong bốn tĩnh lự thế gian, tùy theo một thứ tĩnh lự gần gũi hành tập thường xuyên, cẩn trọng, liên tục, siêng tu không dừng bỏ. Đó gọi là Thiên trụ.

2. Thế nào là Phạm trụ?

Đáp: Nghĩa là bốn vô lượng. Những gì là bốn? Đó là từ, bi, hỷ, xả. Như Đức Thế Tôn đã nói với Bà-la-môn Phệ-na-bổ-lê: Phạm chí nên biết! Như khi Ta ở trong bốn vô lượng, tùy theo một thứ vô lượng nên hành. Bấy giờ, Ta là phạm trụ mà hành. Như khi Ta ở trong bốn vô lượng, tùy theo một thứ vô lượng nên trụ, hoặc ngồi, hoặc nằm. Bấy giờ, Ta là phạm trụ mà trụ, hoặc ngồi, hoặc nằm. Như vậy, trong bốn vô lượng, tùy theo một thứ vô lượng gần gũi hành tập thường xuyên, cẩn trọng, liên tục, siêng tu không dừng bỏ. Đó gọi là Phạm trụ.

3. Thế nào là Thánh trụ?

Đáp: Nghĩa là bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám Thánh đạo chi. Như Đức Thế Tôn đã nói với Bà-la-môn Phệ-na-bổ-lê: Phạm chí nên biết! Như khi Ta ở trong pháp thiện được sinh ra từ nẻo xuất ly, xa lìa, tùy theo một pháp thiện ấy nên hành. Bấy giờ, Ta là Thánh trụ mà hành. Như khi Ta ở trong pháp thiện được sinh ra từ nẻo xuất ly, xa lìa, tùy theo một pháp thiện ấy nên trụ, hoặc ngồi, hoặc nằm. Bấy giờ, Ta là Thánh trụ mà trụ, hoặc ngồi, hoặc nằm. Như vậy, Ta ở trong pháp thiện được sinh ra từ nẻo xuất ly, xa lìa, tùy theo một pháp thiện ấy gần gũi hành tập thường xuyên, cẩn trọng, liên tục, siêng tu không dừng bỏ. Đó gọi là Thánh trụ.

*

* Ba thứ định: 1. Tam-ma-địa có tầm có tứ. 2. Tam-ma-địa không tầm chỉ có tứ. 3. Tam-ma-địa không tầm không tứ.

1. Thế nào là Tam-ma-địa có tầm có tứ?

Đáp: Nếu Tam-ma-địa có tầm có tứ cùng hợp, thì tầm cùng khởi, tứ cùng khởi, tầm tương ưng, tứ tương ưng. Nương vào tầm tứ chuyển, tâm trụ cùng trụ, nói rộng cho đến tâm tánh một cảnh. Đó gọi là Tam-ma-địa có tầm có tứ.

2. Thế nào là Tam-ma-địa không tầm chỉ có tứ?

Đáp: Nếu Tam-ma-địa không tầm chỉ có tứ cùng hợp, thì không tầm cùng khởi, chỉ có tứ cùng khởi, tầm không tương ưng, chỉ có tứ tương ưng. Nếu tầm đã dừng dứt chỉ nương vào tứ chuyển, tâm trụ cùng trụ, nói rộng cho đến tâm tánh một cảnh. Đó gọi là Tam-ma-địa không tầm chỉ có tứ.

3. Thế nào là Tam-ma-địa không tầm không tứ?

Đáp: Nếu Tam-ma-địa không tầm không tứ cùng hợp, thì không tầm hay tứ cùng khởi, tầm tứ cũng không tương ưng. Nếu tầm và tứ đều đã dừng dứt thì tâm trụ cùng trụ, nói rộng cho đến tâm tánh một cảnh. Đó gọi là Tam-ma-địa không tầm không tứ.

*

* Ba chỉ dẫn: 1. Do thần biến chỉ dẫn. 2. Do tâm ghi nhớ chỉ dẫn. 3. Do khuyên dạy chỉ dẫn.

1. Do thần biến chỉ dẫn: Thế nào là thần biến, thế nào là chỉ dẫn, để nói là do thần biến chỉ dẫn?

Đáp: Thần biến: Tức là các thần biến đang thần biến, đã thần biến, sẽ thần biến, nghĩa là các biến hóa hiện có như biến một làm nhiều, biến nhiều làm một, hoặc hiển bày, hoặc ẩn giấu, hoặc biết, hoặc thấy v.v… Như mọi thứ ngăn trở của tường vách, núi non, bờ đồi v.v…, thân đều đi qua được. Như thế, nói rộng cho đến thân Phạm thế tự tại chuyển. Đó gọi là thần biến.

Thế nào là chỉ dẫn? Nghĩa là như có Bí-sô tuy đối với nhiều thứ cảnh giới thần biến đều nhận lãnh riêng, hoặc không khiến người khác thấy biết, đó chỉ gọi là thần biến tự tại, không gọi là chỉ dẫn.

Nếu có Bí-sô đối với nhiều thứ cảnh giới thần biến đều nhận lãnh riêng, cũng có thể khiến cho người khác thấy biết, gọi là thần biến tự tại, cũng gọi là chỉ dẫn.

Thế nên khi nói thần biến chỉ dẫn, cần phải khiến người khác thấy cùng thấy, hiểu rõ cùng hiểu rõ, tùy thuận điều phục, mới gọi là thần biến, cũng gọi là chỉ dẫn. Do đấy, nên nói do thần biến chỉ dẫn.

2. Do tâm ghi nhớ chỉ dẫn: Thế nào là tâm ghi nhớ, thế nào là chỉ dẫn, để nói là do tâm ghi nhớ chỉ dẫn?

Đáp: Tâm ghi nhớ: Như Đức Thế Tôn đã nói: Bí-sô nên biết! Có một loại người, hoặc do xem tướng, hoặc do nói năng, theo đấy ghi nhớ tâm người khác, cho ý của kẻ ấy như vầy, như kia, đã chuyển biến. Hoặc theo đấy ghi nhớ các việc quá khứ, vị lai, hoặc đang xảy ra. Hoặc theo đấy ghi nhớ các việc đã làm từ lâu, các lời đã nói từ lâu. Hoặc theo đấy ghi nhớ ít, gọi là ghi nhớ về tâm. Hoặc theo đấy ghi nhớ nhiều, gọi là ghi nhớ về tâm sở pháp. Các thứ tùy thuận ghi nhớ ấy, tất cả đều như thật không phải là không như thật.

Hoặc có một loại người, không do xem tướng, không do nói năng, theo đấy ghi nhớ tâm người khác. Nhưng là do thiên thần, hoặc do phi nhân nghe tiếng nói kia, nên theo đấy ghi nhớ được tâm người khác, cho ý của kẻ ấy như vầy, như kia, đã chuyển biến v.v…, nói rộng như trước.

Hoặc có một loại người, không do thiên thần, không do phi nhân nghe tiếng nói kia, theo đấy ghi nhớ tâm người khác. Nhưng là do nội tâm nhận biết tâm của hữu tình khác có những tầm tứ, nên theo đấy ghi nhớ được tâm người khác, cho ý của kẻ ấy như vầy, như kia, đã chuyển biến v.v…, nói rộng như trước.

Lại có một loại người, không phải do nội tâm nhận biết tâm của hữu tình khác có những tầm tứ, theo đấy ghi nhớ tâm người khác. Nhưng là do hiện thấy hữu tình khác đang trụ nơi Tam-ma-địa không tầm không tứ. Thấy rồi thì suy nghĩ: Như thế là vị này ý hành vi diệu không tầm không tứ. Như vậy là vị ấy từ định này xuất nên khởi tầm tứ như thế như thế. Các thứ tùy thuận ghi nhớ ấy, tất cả đều như thật không phải là không như thật.

Như vậy là vị ấy từ định này xuất nên khởi tầm tứ như thế như thế. Các thứ tùy thuận ghi nhớ, tất cả đều là như thật không phải là không như thật. Đó gọi là tâm ghi nhớ

Thế nào là chỉ dẫn? Nghĩa là như có Bí-sô, tuy do xem tướng hoặc do nghe nói năng, theo đấy ghi nhớ tâm người khác, nói rộng cho đến: Như vậy là vị ấy từ định này xuất nên khởi tầm tứ như thế như thế. Các thứ tùy thuận ghi nhớ ấy, tất cả đều như thật không phải là không như thật. Nếu không khiến người khác thấy biết, đó gọi là tâm ghi nhớ tự tại, không gọi là chỉ dẫn.

Như có Bí-sô hoặc do xem tướng, hoặc do nghe nói năng, theo đấy ghi nhớ tâm người khác, nói rộng cho đến: Như vậy là vị ấy từ định này xuất nên khởi tầm tứ như thế như thế. Các thứ tùy thuận ghi nhớ ấy, tất cả đều như thật không phải là không như thật, cũng có thể khiến người khác thấy biết, đó gọi là tâm ghi nhớ tự tại, cũng gọi là chỉ dẫn.

Thế nên khi nói tâm ghi nhớ chỉ dẫn, cần phải khiến cho người khác thấy cùng thấy, hiểu rõ cùng hiểu rõ, tùy thuận điều phục, mới gọi là tâm ghi nhớ, cũng gọi là chỉ dẫn. Vì vậy nói là do tâm ghi nhớ chỉ dẫn.

3. Do khuyên dạy chỉ dẫn: Thế nào là khuyên dạy, thế nào là chỉ dẫn, để nói là do khuyên dạy chỉ dẫn?

Đáp: Khuyên dạy: Như Đức Thế Tôn đã nói: Bí-sô nên biết! Như có Bí-sô vì người khác giảng nói: Đây là khổ Thánh đế nên nhận biết khắp. Đây là khổ tập Thánh đế nên đoạn trừ vĩnh viễn. Đây là khổ diệt Thánh đế nên tác chứng. Đây là hướng tới khổ diệt đạo Thánh đế nên tu tập. Đó gọi là khuyên dạy.

Thế nào là chỉ dẫn? Nghĩa là như có Bí-sô tuy có thể vì người khác giảng nói: Đây là khổ Thánh đế nên nhận biết khắp v.v…, cho đến đây là hướng tới khổ diệt đạo Thánh đế nên tu tập. Nếu người khác nghe xong không khởi đế thuận nhẫn, không được trí thế tục hiện quán biên, nên chỉ gọi là khuyên dạy tự tại, không gọi là chỉ dẫn.

Nếu có Bí-sô có thể vì người khác giảng nói: Đây là khổ Thánh đế nên nhận biết khắp v.v…, cho đến đây là hướng tới khổ diệt đạo Thánh đế nên tu tập, cũng có thể khiến cho người khác nghe xong liền khởi đế thuận nhẫn, đạt được trí thế tục hiện quán biên, nên gọi là khuyên dạy tự tại, cũng gọi là chỉ dẫn.

Thế nên khi nói do khuyên dạy chỉ dẫn, cần phải khiến người khác thấy cùng thấy, hiểu rõ cùng hiểu rõ, tùy thuận điều phục, mới gọi là khuyên dạy, cũng gọi là chỉ dẫn. Vì vậy nói là do khuyên dạy chỉ dẫn.

*

* Ba thanh tịnh: 1. Thân thanh tịnh. 2. Ngữ thanh tịnh. 3. Ý thanh tịnh.

1. Thế nào là thân thanh tịnh?

Đáp: Tức là lìa bỏ hại sinh mạng, lìa bỏ không cho mà lấy, lìa bỏ dâm dục tà hạnh.

Lại nữa, là lìa đoạn sinh mạng, lìa không cho mà lấy, lìa phi phạm hạnh.

Lại nữa, các nghiệp thân của hàng hữu học hiện có, các nghiệp thân của bậc vô học hiện có, các nghiệp thân của hàng phi học phi vô học thiện, tất cả như thế gọi là thân thanh tịnh.

2. Thế nào là ngữ thanh tịnh?

Đáp: Tức là lìa các lời nói dối, lời nói ly gián, lời nói thô ác, lời nói uế tạp.

Lại nữa, các nghiệp ngữ của hàng hữu học hiện có, các nghiệp ngữ của bậc vô học hiện có, các nghiệp ngữ của hàng phi học phi vô học thiện, tất cả như thế gọi là ngữ thanh tịnh.

3. Thế nào là ý thanh tịnh?

Đáp: Tức là không tham, không sân và chánh kiến.

Lại nữa, các nghiệp ý của hàng hữu học hiện có, các nghiệp ý của bậc vô học hiện có, các nghiệp ý của hàng phi học phi vô học thiện, tất cả như thế gọi là ý thanh tịnh.

Như Đức Thế Tôn nói kệ:

Trong thân, ngữ, ý tịnh

Ta nói vô lậu tịnh

Gọi thanh tịnh viên mãn

Tịnh được hết các ác.

*

* Ba vắng lặng: 1. Thân vắng lặng. 2. Ngữ vắng lặng. 3. Ý vắng lặng.

1. Thế nào là thân vắng lặng?

Đáp: Nghĩa là luật nghi của thân thuộc bậc vô học (A-la-hán), gọi là thân vắng lặng.

2. Thế nào là ngữ vắng lặng?

Đáp: Nghĩa là luật nghi của ngữ thuộc bậc vô học, gọi là ngữ vắng lặng.

3. Thế nào là ý vắng lặng?

Đáp: Nghĩa là luật nghi của ý thuộc bậc vô học, gọi là ý vắng lặng.

Như Đức Thế Tôn nói kệ:

Trong thân, ngữ, ý lặng

Ta nói vô lậu lặng

Gọi vắng lặng viên mãn

Lặng hết thảy các ác.

*

* Ba tăng thượng: 1. Thế gian tăng thượng. 2. Tự tăng thượng. 3. Pháp tăng thượng.

1. Thế nào là thế gian tăng thượng?

Đáp: Như Đức Thế Tôn nói: Có các Bí-sô thường ở nơi A-lannhã, hoặc trụ bên gốc cây, hoặc ở chốn vắng vẻ, học pháp đã học, nên khởi suy nghĩ: Nay thế gian này có rất nhiều thứ tập hợp. Phàm những nơi chốn đông đảo đó tất có thiên thần, đều thành tựu thiên nhãn, có đủ tha tâm trí, hoặc gần hoặc xa đều có thể thấy rõ, tâm tốt xấu hơn kém cũng đều có thể nhận biết khắp. Ta nếu phát sinh các tầm tứ bất thiện, có thể bị các thứ tham chấp xấu ác làm chốn nương dựa, tức các thiên thần hiện thấy biết về ta như thế sẽ cùng bảo nhau: Nay nên cùng xem vị thiện nam kia đã có thể chán tục, chánh tín xuất gia, tại sao lại sinh các tầm tứ bất thiện để có thể bị các thứ tham chấp xấu ác làm chốn nương dựa?

Lại nơi thế gian có các xứ tập hợp đông đảo hoặc hiện có Phật và các đệ tử của Phật, đều thành tựu thiên nhãn, có đủ tha tâm trí, hoặc gần hoặc xa đều có thể thấy rõ, tâm tốt xấu hơn kém cũng đều có thể nhận biết khắp. Ta nếu phát sinh các tầm tứ bất thiện, có thể bị các thứ tham chấp xấu ác làm chốn nương dựa, tất nhiên chư Thánh chúng hiện thấy biết về ta như thế sẽ cùng bảo nhau: Nay nên cùng xem vị thiện nam kia đã có thể chán tục, chánh tín xuất gia, tại sao lại sinh các tầm tứ bất thiện để có thể bị các thứ tham chấp xấu ác làm chốn nương dựa?

Lại khởi suy niệm: Các người trong thế gian kia tuy thấy biết về ta, nhưng đâu bằng ta tự thẩm xét, hiểu biết. Vậy nay ta nên tự quan sát thẩm xét, chớ để sinh khởi các tầm tứ bất thiện như thế, có thể bị các thứ tham chấp xấu ác làm chốn nương dựa. Vị ấy nhân nơi tự thẩm xét thấy biết như vậy, nên phát khởi siêng năng tinh tấn, thân tâm khinh an, xa lìa hôn trầm, trụ nơi chánh niệm, tâm định một hướng, chế phục ngu si. Vị ấy nhân nơi sức tăng thượng của thế gian, nên có thể đoạn trừ các pháp bất thiện, tu tập các pháp thiện. Như thế là do uy lực tăng thượng của thế gian, nên có thể khởi các pháp hữu lậu thiện hoặc đạo vô lậu. Đó gọi là thế gian tăng thượng.

2. Thế nào là tự tăng thượng?

Đáp: Như Đức Thế Tôn đã nói: Có các Bí-sô thường ở nơi A-lan-nhã, hoặc trụ bên gốc cây, hoặc ở chốn vắng vẻ, học pháp đã học, nên khởi suy nghĩ: Ta nay đã chán tục, chánh tín xuất gia, không nên sinh khởi các tầm tứ bất thiện, có thể bị các thứ tham chấp xấu ác làm chốn nương dựa. Phải nên thường xuyên tự quan sát, thẩm xét, chớ để sinh khởi các tầm tứ bất thiện như thế, có thể bị các thứ tham chấp xấu ác làm chốn nương dựa. Vị ấy nhân nơi tự thẩm xét thấy biết như vậy, nên phát khởi siêng năng tinh tấn, thân tâm khinh an, xa lìa hôn trầm, trụ nơi chánh niệm, tâm định một hướng, chế ngự ngu si. Vị ấy nhân nơi sức tăng thượng của tự mình, nên có thể đoạn trừ các pháp bất thiện, tu tập các pháp thiện. Như thế là do uy lực tăng thượng của tự mình, nên khởi các pháp hữu lậu thiện hoặc đạo vô lậu. Đó gọi là tự tăng thượng.

3. Thế nào là pháp tăng thượng?

Đáp: Như Đức Thế Tôn đã nói: Có các Bí-sô thường ở nơi A-lan-nhã, hoặc trụ bên gốc cây, hay ở chốn vắng vẻ, học các pháp đã học, nên khởi suy nghĩ: Tất cả các pháp do chư Như Lai Ứng Đẳng Chánh Giác thuyết giảng là khéo nói những gì hiện thấy, lìa các thứ nhiệt não, tùy thuận hợp thời. Các bậc trí đến quan sát lãnh hội, nội tâm đều chứng nhập. Chánh pháp như thế ta đã nhận biết rõ, không nên sinh khởi các tầm tứ bất thiện, có thể bị các thứ tham chấp xấu ác làm chốn nương dựa. Phải nên thường xuyên tự quan sát, thẩm xét, chớ để sinh khởi các tầm tứ bất thiện như thế, có thể bị các thứ tham chấp xấu ác làm chốn nương dựa. Vị ấy nhân nơi tự thẩm xét thấy biết như vậy, nên phát khởi siêng năng tinh tấn, thân tâm khinh an, xa lìa hôn trầm, trụ nơi chánh niệm, tâm định một hướng, chế ngự ngu si. Vị ấy nhân nơi sức tăng thượng của chánh pháp, nên có thể đoạn trừ các pháp bất thiện, tu tập các pháp thiện. Như thế là do uy lực tăng thượng của chánh pháp, nên khởi các pháp hữu lậu thiện hoặc đạo vô lậu. Đó gọi là pháp tăng thượng.

Như Đức Thế Tôn nói kệ:

Đời không có bậc trí

Ưa tạo các nghiệp ác

Do hay tự thông đạt

Đế thật và hư vọng.

Bậc hiền thiện tác chứng

Không nên tự khinh miệt

Nên thường tự tỉnh ác

Có lỗi không che giấu.

Đời hiện có thiên thần

Phật và đệ tử Phật

Luôn thấy biết kẻ ngu

Tạo tác các hành ác.

Thế nên đời tăng thượng

Sức tăng thượng tự pháp

Hay trừ pháp bất thiện

Tu pháp tùy pháp hành.

Ta nói có dũng mãnh

Khéo hàng phục quân ma

Vượt sinh già bệnh chết

Chứng tịch diệt rốt ráo.

*

* Ba vô thượng: 1. Hành vô thượng. 2. Trí vô thượng. 3. Giải thoát vô thượng.

1. Thế nào là hành vô thượng?

Đáp: Nghĩa là tám chi Thánh đạo vô học. Đó gọi là hành vô thượng.

2. Thế nào là trí vô thượng?

Đáp: Nghĩa là tám thứ trí vô học. Đó gọi là trí vô thượng.

3. Thế nào là giải thoát vô thượng?

Đáp: Nghĩa là tận trí và vô sinh trí. Đó gọi là giải thoát vô thượng.

*

* Ba thứ minh: Đó là ba minh vô học: 1. Minh tác chứng trí túc trụ tùy niệm của bậc vô học. 2. Minh tác chứng trí sinh tử của bậc vô học. 3. Minh tác chứng trí lậu tận của bậc vô học.

1. Thế nào là minh tác chứng trí túc trụ tùy niệm của bậc vô học?

Đáp: Như nhớ biết đúng như thật các sự việc đời trước. Nghĩa là nhớ biết các sự việc nơi đời quá khứ đúng như thật. Hoặc một đời, hay mười đời, trăm đời, ngàn đời, trăm ngàn đời. Hoặc nhiều trăm đời, hoặc nhiều ngàn đời, hoặc nhiều trăm ngàn đời. Hoặc kiếp hoại, hoặc kiếp thành, hoặc kiếp hoại thành. Hoặc nhiều kiếp hoại, hoặc nhiều kiếp thành, hoặc nhiều kiếp hoại thành. Ta ở trong tụ hữu tình như thế, từng mang tên như thế, chủng loại như thế, tộc họ như thế. Từng ăn các thức ăn như thế. Từng thọ khổ như thế, vui như thế. Từng sống lâu như thế, trụ lâu như thế, nhận lấy cuộc sống có giới hạn như thế. Ta từng từ xứ kia chết đi, sinh nơi xứ này. Lại từ xứ này chết đi, sinh nơi xứ kia. Đối với các việc như vậy, hoặc về hình tướng, hoặc về nhân duyên, hoặc về ngôn thuyết, vô lượng thứ sự việc của đời trước đều có thể theo niệm nhớ biết đúng như thật. Đó gọi là Minh tác chứng trí túc trụ tùy niệm của bậc vô học. Ở đây, thế nào là minh? Tức là trí nhận biết về sự nối tiếp của đời trước. Đó gọi là minh.

2. Thế nào là minh tác chứng trí sinh tử của bậc vô học?

Đáp: Do thiên nhãn thanh tịnh hơn hẳn nơi người, nên thấy các hữu tình lúc sinh, lúc chết, hoặc hình sắc đẹp xấu, hoặc hơn kém, hoặc sinh vào nẻo thiện, hoặc bị đọa vào nẻo ác. Các hữu tình như thế, thân ngữ ý hành ác, phát khởi tà kiến, hủy báng Hiền Thánh, hành nghiệp tà kiến nơi pháp thọ nhân. Do nhân duyên ấy, nên khi thân hoại mạng chung bị đọa vào các nẻo ác, sinh trong địa ngục. Lại có hữu tình như vậy, thân ngữ ý đã thành tựu các hành diệu, phát khởi chánh kiến, tán thán Hiền Thánh, thành tựu nghiệp chánh kiến nơi pháp thọ nhân. Do nhân duyên ấy, nên khi thân hoại mạng chung được sinh lên các nẻo thiện như các cõi trời. Đối với các loại quả nghiệp sai biệt của tất cả loại hữu tình như thế đều biết đúng như thật. Đó gọi là Minh tác chứng trí sinh tử của bậc vô học. Ở đây, thế nào là minh? Tức là trí nhận biết các nghiệp của chính mình. Đó gọi là minh.

3. Thế nào là minh tác chứng trí lậu tận của bậc vô học?

Đáp: Tức nhận biết đúng như thật: Đây là khổ Thánh đế, đây là khổ tập Thánh đế, đây là khổ diệt Thánh đế, đây là hướng đến khổ diệt đạo Thánh đế. Vị ấy nhận biết như thế, thấy rõ như thế, về tâm giải thoát: Tâm giải thoát dục lậu. Tâm giải thoát hữu lậu. Tâm giải thoát vô minh lậu. Đã thấy biết đúng như thật: Nẻo sinh tử của ta đã hết, phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, không còn thọ thân sau. Đó gọi là Minh tác chứng trí lậu tận của bậc vô học. Ở đây, thế nào là minh? Tức là trí nhận biết các lậu đã dứt hết. Đó gọi là minh.

Như Đức Thế Tôn nói kệ:

Mâu-ni biết đời trước

Thấy nẻo thiện ác riêng

Rõ sinh tử đã hết

Được thông tuệ rốt ráo.

Biết tâm đã giải thoát

Khỏi các lậu như tham v.v…

Thành tựu ba thứ minh

Gọi là đủ ba minh.

***

Phẩm 5: BỐN PHÁP, phần 1

Bấy giờ, Tôn giả Xá-lợi-tử lại nói với đại chúng: Các Cụ thọ nên biết! Đức Phật đối với bốn pháp đã tự khéo thông đạt, hiện Đẳng giác rồi, vì các đệ tử tuyên thuyết khai thị. Nay chúng ta nên hòa hợp kết tập, để sau khi Đức Phật diệt độ chớ nên có tranh cãi, chống đối. Nên khiến cho pháp luật thuận theo phạm hạnh được trụ lâu, đem lại lợi lạc cho vô lượng hữu tình. Lại thương xót các chúng trời, người nơi thế gian, khiến họ đạt được nghĩa lợi an lạc thù thắng.

Những gì là bốn pháp? Ở đây có 5 tụng tổng quát:

**

1. Tụng nêu tổng quát thứ nhất:

Một: Bốn pháp có mười

Niệm, đoạn, thần, lự, đế

Tưởng, vô lượng, vô sắc

Thánh chủng, quả đều bốn.

Gồm có: Bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, bốn tĩnh lự, bốn Thánh đế, bốn thứ tưởng, bốn vô lượng, bốn vô sắc, bốn Thánh chủng, bốn quả Sa-môn.

*

* Bốn niệm trụ: 1. Thân niệm trụ. 2. Thọ niệm trụ. 3. Tâm niệm trụ. 4. Pháp niệm trụ.

1. Thế nào là thân niệm trụ?

Đáp: Là mười xứ có sắc cùng sắc thuộc về pháp xứ. Đó gọi là thân niệm trụ.

2. Thế nào là thọ niệm trụ?

Đáp: Là sáu thọ thân. Nghĩa là thọ do nhãn xúc sinh ra, cho đến thọ do ý xúc sinh ra. Đó gọi là thọ niệm trụ.

3. Thế nào là tâm niệm trụ?

Đáp: Là sáu thức thân. Nghĩa là nhãn thức cho đến ý thức. Đó gọi là tâm niệm trụ.

4. Thế nào là pháp niệm trụ?

Đáp: Là thọ uẩn không gồm thâu pháp xứ vô sắc. Đó gọi là pháp niệm trụ.

Lại nữa, thân tăng thượng sinh ra các pháp thiện hữu lậu cùng đạo vô lậu, đó gọi là Thân niệm trụ. Thọ tăng thượng sinh ra các pháp thiện hữu lậu cùng đạo vô lậu, đó gọi là Thọ niệm trụ. Tâm tăng thượng sinh ra các pháp thiện hữu lậu cùng đạo vô lậu, đó gọi là Tâm niệm trụ. Pháp tăng thượng sinh ra các pháp thiện hữu lậu cùng đạo vô lậu, đó gọi là Pháp niệm trụ.

Lại nữa, tuệ duyên nơi thân gọi là Thân niệm trụ. Tuệ duyên nơi thọ gọi là Thọ niệm trụ. Tuệ duyên nơi tâm gọi là Tâm niệm trụ. Tuệ duyên nơi pháp gọi là Pháp niệm trụ.

*

* Bốn chánh đoạn: Đó là: 1. Vì khiến các pháp ác bất thiện đã sinh được đoạn trừ, nên phát khởi siêng năng tinh tấn, thúc đẩy và giữ vững tâm. 2. Vì khiến các pháp ác bất thiện chưa sinh sẽ không sinh, nên phát khởi siêng năng tinh tấn, thúc đẩy và giữ vững tâm. 3. Vì khiến các pháp thiện chưa sinh sẽ sinh, nên phát khởi siêng năng tinh tấn, thúc đẩy và giữ vững tâm. 4. Vì khiến các pháp thiện đã sinh được trụ vững, không quên, tức tu tập viên mãn, trí tác chứng rộng lớn bội tăng, nên phát khởi siêng năng tinh tấn, thúc đẩy và giữ vững tâm.

Vì khiến các pháp ác bất thiện đã sinh được đoạn trừ, nên phát khởi siêng năng tinh tấn, thúc đẩy và giữ vững tâm. Vậy thế nào là chánh đoạn? Nghĩa là đoạn trừ các pháp ác bất thiện đã sinh, tăng thượng để sinh khởi các pháp thiện hữu lậu và đạo vô lậu. Như thế gọi là chánh đoạn thứ nhất.

Vì khiến các pháp ác bất thiện chưa sinh sẽ không sinh, nên phát khởi siêng năng tinh tấn, thúc đẩy và giữ vững tâm. Vậy thế nào là chánh đoạn? Nghĩa là phải ngăn chận các pháp ác bất thiện chưa sinh, tăng thượng để sinh khởi các pháp thiện hữu lậu và đạo vô lậu. Như thế gọi là chánh đoạn thứ hai.

Vì khiến các pháp thiện chưa sinh sẽ sinh, nên phát khởi siêng năng tinh tấn, thúc đẩy và giữ vững tâm. Vậy thế nào là chánh đoạn? Nghĩa là dấy khởi các pháp thiện chưa sinh, tăng thượng để phát sinh các pháp thiện hữu lậu và đạo vô lậu. Như thế gọi là chánh đoạn thứ ba.

Vì khiến các pháp thiện đã sinh được trụ vững, không quên, tức tu tập viên mãn, trí tác chứng rộng lớn bội tăng, nên phát khởi siêng năng tinh tấn, thúc đẩy và giữ vững tâm. Vậy thế nào là chánh đoạn? Nghĩa là làm tăng trưởng các pháp thiện đã sinh, tăng thượng để sinh khởi các pháp thiện hữu lậu và đạo vô lậu. Như thế gọi là chánh đoạn thứ tư.

*

* Bốn thần túc: 1. Thần túc thành tựu hành đoạn Tam-ma-địa dục. 2. Thần túc thành tựu hành đoạn Tam-ma-địa cần. 3. Thần túc thành tựu hành đoạn Tam-ma-địa tâm. 4. Thần túc thành tựu hành đoạn Tam-ma-địa quán.

1. Thế nào là thần túc thành tựu hành đoạn Tam-ma-địa dục?

Đáp: Do dục tăng thượng nên sinh các pháp thiện hữu lậu và đạo vô lậu. Đó gọi là Thần túc thành tựu hành đoạn Tam-ma-địa dục.

2. Thế nào là thần túc thành tựu hành đoạn Tam-ma-địa cần?

Đáp: Do cần tăng thượng nên sinh các pháp thiện hữu lậu và đạo vô lậu. Đó gọi là Thần túc thành tựu hành đoạn Tam-ma-địa cần.

3. Thế nào là thần túc thành tựu hành đoạn Tam-ma-địa tâm?

Đáp: Do tâm tăng thượng nên sinh các pháp thiện hữu lậu và đạo vô lậu. Đó gọi là Thần túc thành tựu hành đoạn Tam-ma-địa tâm. 4. Thế nào là thần túc thành tựu hành đoạn Tam-ma-địa quán?

Đáp: Do quán tăng thượng nên sinh các pháp thiện hữu lậu và đạo vô lậu. Đó gọi là Thần túc thành tựu hành đoạn Tam-ma-địa quán.

*

* Bốn tĩnh lự: 1. Tĩnh lự thứ nhất. 2. Tĩnh lự thứ hai. 3. Tĩnh lự thứ ba. 4. Tĩnh lự thứ tư.

1. Thế nào là tĩnh lự thứ nhất?

Đáp: Tĩnh lự thứ nhất thâu giữ năm uẩn thiện.

2. Thế nào là tĩnh lự thứ hai?

Đáp: Tĩnh lự thứ hai thâu giữ năm uẩn thiện.

3. Thế nào là tĩnh lự thứ ba?

Đáp: Tĩnh lự thứ ba thâu giữ năm uẩn thiện.

4. Thế nào là tĩnh lự thứ tư?

Đáp: Tĩnh lự thứ tư thâu giữ năm uẩn thiện.

*

* Bốn Thánh đế: 1. Khổ Thánh đế. 2. Khổ tập Thánh đế. 3. Khổ diệt Thánh đế. 4. Hướng đến khổ diệt đạo Thánh đế.

1. Thế nào là khổ Thánh đế?

Đáp: Là năm thủ uẩn, tức sắc thủ uẩn, thọ thủ uẩn, tưởng thủ uẩn, hành thủ uẩn, thức thủ uẩn. Đó gọi là khổ Thánh đế.

2. Thế nào là khổ tập Thánh đế?

Đáp: Là các nhân hữu lậu. Đó gọi là khổ tập Thánh đế.

3. Thế nào là khổ diệt Thánh đế?

Đáp: Là trạch diệt vô vi. Đó gọi là khổ diệt Thánh đế.

4. Thế nào là hướng đến khổ diệt đạo Thánh đế?

Đáp: Là các pháp hữu học và các pháp vô học. Đó gọi là hướng đến khổ diệt đạo Thánh đế.

*

* Bốn thứ tưởng: 1. Tưởng nhỏ. 2. Tưởng lớn. 3. Tưởng vô lượng. 4. Tưởng vô sở hữu.

1. Thế nào là tưởng nhỏ?

Đáp: Tức tác ý tư duy về các sắc nhỏ hẹp. Nghĩa là hoặc tư duy về máu tụ bầm đen. Hoặc tư duy về mủ vỡ tràn. Hoặc tư duy về sự tan hoại. Hoặc tư duy về thân sình trướng. Hoặc tư duy về hài cốt. Hoặc tư duy về các khúc xương. Hoặc tư duy về đất nước lửa gió. Hoặc tư duy về màu xanh, vàng, đỏ, trắng. Hoặc tư duy về lỗi lầm tai họa. Hoặc tư duy về công đức của xuất ly v.v… Cùng với các thứ ấy dấy khởi các tưởng, cùng tưởng hiện tiền, đã tưởng, sẽ tưởng. Đó gọi là tưởng nhỏ.

2. Thế nào là tưởng lớn?

Đáp: Tức tác ý tư duy về các sắc rộng lớn, nhưng không phải là vô biên. Nghĩa là hoặc tư duy về máu tụ bầm đen v.v…, nói rộng như trước. Đó gọi là tưởng lớn.

3. Thế nào là tưởng vô lượng?

Đáp: Tức tác ý tư duy về các sắc rộng lớn, lượng của chúng là vô biên. Nghĩa là hoặc tư duy về máu tụ bầm đen v.v…, nói rộng như trước. Đó gọi là tưởng vô lượng.

4. Thế nào là tưởng vô sở hữu?

Đáp: Tức hiển bày tưởng về xứ không thực có.

*

* Bốn vô lượng: 1. Từ vô lượng. 2. Bi vô lượng. 3. Hỷ vô lượng. 4. Xả vô lượng.

1. Thế nào là từ vô lượng?

Đáp: Tức các từ và từ tương ưng với thọ, tưởng, hành, thức. Như vị ấy cùng khởi nghiệp thân và nghiệp ngữ. Hoặc vị ấy cùng khởi tâm bất tương ưng hành. Đó gọi là từ vô lượng.

2. Thế nào là bi vô lượng?

Đáp: Tức các bi và bi tương ưng với thọ, tưởng, hành, thức. Như vị ấy cùng khởi nghiệp thân và nghiệp ngữ. Hoặc vị ấy cùng khởi tâm bất tương ưng hành. Đó gọi là bi vô lượng.

3. Thế nào là hỷ vô lượng?

Đáp: Tức các hỷ và hỷ tương ưng với thọ, tưởng, hành, thức. Như vị ấy cùng khởi nghiệp thân và nghiệp ngữ. Hoặc vị ấy cùng khởi tâm bất tương ưng hành. Đó gọi là hỷ vô lượng.

4. Thế nào là xả vô lượng?

Đáp: Tức các xả và xả tương ưng với thọ, tưởng, hành, thức. Như vị ấy cùng khởi nghiệp thân và nghiệp ngữ. Hoặc vị ấy cùng khởi tâm bất tương ưng hành. Đó gọi là xả vô lượng.

*

* Bốn vô sắc: 1. Xứ không vô biên. 2. Xứ thức vô biên. 3. Xứ vô sở hữu. 4. Xứ phi tưởng phi phi tưởng.

1. Thế nào là xứ không vô biên?

Đáp: Xứ không vô biên lược nêu có hai thứ là định và sinh. Hoặc định hoặc sinh nơi thọ, tưởng, hành, thức hiện có. Đó gọi là xứ không vô biên.

2. Thế nào là xứ thức vô biên?

Đáp: Xứ thức vô biên lược nêu có hai thứ là định và sinh. Hoặc định hoặc sinh nơi thọ, tưởng, hành, thức hiện có. Đó gọi là xứ thức vô biên.

3. Thế nào là xứ vô sở hữu?

Đáp: Xứ vô sở hữu lược nêu có hai thứ là định và sinh. Hoặc định hoặc sinh nơi thọ, tưởng, hành, thức hiện có. Đó gọi là xứ vô sở hữu.

4. Thế nào là xứ phi tưởng phi phi tưởng?

Đáp: Xứ phi tưởng phi phi tưởng lược nêu có hai thứ là định và sinh. Hoặc định hoặc sinh nơi thọ, tưởng, hành, thức hiện có, cùng có một thứ định đồng khởi tâm bất tương ưng hành là định diệt tưởng thọ. Đó gọi là xứ phi tưởng phi phi tưởng.

*

* Bốn Thánh chủng: Đó là: 1. Như Bí-sô khi có được y phục liền sinh tâm biết đủ, khen ngợi hạnh biết đủ, không vì nhân duyên cầu tìm y phục, có thể khiến người đời bàn tán chê trách. Nếu cầu chẳng được thì trọn không buồn than hay trông mong, bực bội, mê muội. Nếu cầu tìm có được thì thọ dụng đúng pháp, không sinh nhiễm chấp, tham đắm, cất giữ, tích chứa. Trong khi thọ dụng, có thể thấy rõ các lỗi lầm, nên nhận biết đúng về nẻo xuất ly giải thoát. Do người này khi có được y phục đều sinh tâm biết đủ, nên trọn không tự đề cao, xem thường kẻ khác, lúc nào cũng siêng năng chánh tri giữ niệm. Đó gọi là an trụ nơi Thánh chủng cổ tích. 2. Như Bí-sô khi có được các thức ăn uống liền sinh tâm biết đủ, nói rộng như trước. 3. Như Bí-sô khi có được các thứ ngọa cụ liền sinh tâm biết đủ, nói rộng như trước. 4. Như Bí-sô đã đoạn trừ các thứ tham ái, ham thích, còn tinh tấn cầu học các pháp đoạn trừ tham ái, ham thích. Lại ưa tu, vui tu, nên tinh tấn theo học các pháp tu vui thích. Như thế, vị ấy do đoạn trừ tham ái, ham thích, do tu tập các pháp vui thích, nên trọn không tự đề cao, xem thường kẻ khác, nhưng có thể luôn siêng năng chánh tri, giữ niệm. Đó gọi là an trụ nơi Thánh chủng cổ tích.

Ở đây:

1. Thế nào là Thánh chủng tùy được y phục sinh tâm biết đủ?

Đáp: Tùy được y phục sinh tâm biết đủ tăng thượng sinh khởi các pháp thiện hữu lậu và đạo vô lậu. Đó gọi là Thánh chủng tùy được y phục sinh tâm biết đủ.

2. Thế nào là Thánh chủng tùy được thức ăn uống sinh tâm biết đủ?

Đáp: Tùy được các thứ ăn uống sinh tâm biết đủ tăng thượng sinh khởi các pháp thiện hữu lậu và đạo vô lậu. Đó gọi là Thánh chủng tùy được thức ăn uống sinh tâm biết đủ.

3. Thế nào là Thánh chủng tùy được ngọa cụ sinh tâm biết đủ?

Đáp: Tùy được ngọa cụ sinh tâm biết đủ tăng thượng sinh khởi các pháp thiện hữu lậu và đạo vô lậu. Đó gọi là Thánh chủng tùy được ngọa cụ sinh tâm biết đủ.

4. Thế nào là Thánh chủng tu đoạn ái lạc?

Đáp: Khi tu đoạn ái lạc tăng thượng, sinh khởi các pháp thiện hữu lậu và đạo vô lậu. Đó gọi là Thánh chủng tu đoạn ái lạc.

*

* Bốn quả Sa-môn: 1. Quả Dự lưu. 2. Quả Nhất lai. 3. Quả Bất hoàn. 4. Quả A-la-hán.

1. Thế nào là quả Dự lưu?

Đáp: Quả Dự lưu có hai thứ là hữu vi và vô vi.

Quả Dự lưu hữu vi: Nghĩa là khi chứng quả Dự lưu, các pháp học hiện có, hoặc đã được, hoặc đang được, hoặc sẽ được. Đó gọi là quả Dự lưu hữu vi.

Quả Dự lưu vô vi: Nghĩa là khi chứng quả Dự lưu, các pháp trạch diệt hiện có, hoặc đã được, hoặc đang được, hoặc sẽ được. Đó gọi là quả Dự lưu vô vi.

2. Thế nào là quả Nhất lai?

Đáp: Nên biết cũng như vậy.

3. Thế nào là quả Bất hoàn?Đáp: Nên biết cũng như thế.

4. Thế nào là quả A-la-hán?

Đáp: Quả A-la-hán có hai thứ là hữu vi và vô vi.

Quả Dự lưu hữu vi: Nghĩa là khi chứng quả A-la-hán, các pháp vô học hiện có, hoặc đã được, hoặc đang được, hoặc sẽ được. Đó gọi là quả A-la-hán hữu vi.

Quả Dự lưu vô vi: Nghĩa là khi chứng quả A-la-hán, các pháp trạch diệt hiện có, hoặc đã được, hoặc đang được, hoặc sẽ được. Đó gọi là quả A-la-hán vô vi.

**

2. Tụng nêu tổng quát thứ hai:

Hai: Bốn pháp có chín

Là chi, tịnh, trí, lực

Xứ, uẩn, y, tích, pháp

Bốn trí đều có hai.

Gồm có: Bốn chi Dự lưu, bốn chứng tịnh, bốn trí, bốn lực, bốn xứ, bốn uẩn, bốn y (nương dựa), bốn pháp tích, bốn pháp nên chứng. Trí có hai môn, tám thứ kia đều có một.

*

* Bốn chi Dự lưu: 1. Gần gũi bậc Thiện sĩ (Thiện tri thức). 2. Lắng nghe chánh pháp. 3. Tác ý như lý. 4. Pháp tùy pháp hành.

1. Thế nào là gần gũi bậc Thiện sĩ?

Đáp: Bậc Thiện sĩ: Nghĩa là Phật và các đệ tử Phật. Lại nữa, các Bổ-đặc-già-la đủ giới đủ đức, đã lìa các lỗi lầm, cấu uế, luôn thuận theo các pháp thiện, đủ khả năng nối tiếp quả vị của Thầy, thành tựu các đức thù thắng. Biết hổ thẹn, hối lỗi, khéo gìn giữ, ham học, thấy biết khắp, ưa xét chọn, thích nêu xưng quán xét, tánh thông sáng, tuệ giác đầy đủ, dứt mọi tìm cầu về loại tuệ hữu. Lìa tham vì nẻo hướng đến tham đã diệt. Lìa sân, lìa si, vì các nẻo hướng đến sân si đã diệt. Điều thuận, hướng tới điều thuận. Tịch tĩnh, hướng tới tịch tĩnh. Giải thoát, hướng theo giải thoát. Đầy đủ các công đức thù thắng như thế, đó gọi là bậc Thiện sĩ. Nếu có thể đối với bậc Thiện sĩ đã nêu như vậy gần gũi, phụng sự cung kính cúng dường v.v… gọi là gần gũi bậc Thiện sĩ.

2. Thế nào là lắng nghe chánh pháp?

Đáp: Chánh pháp: Nghĩa là như trước nói về bậc Thiện sĩ, nơi chốn nào, điều nào chưa được hiển bày, chưa được khai ngộ thì đều theo đấy mà hiển bày, khai ngộ đúng đắn. Dùng tuệ thông đạt cầu nghĩa thâm diệu. Tạo phương tiện vì kẻ khác tuyên thuyết, nêu đặt an lập, mở bày chỉ rõ. Dùng vô lượng môn, chính thức vì họ khai thị: Khổ đích thực là khổ. Tập đích thực là tập. Diệt đích thực là diệt. Đạo đích thực là đạo. Các thứ như thế gọi là chánh pháp. Nếu có thể đối với chánh pháp đã được giảng nói ấy, luôn vui thích lắng nghe, thọ trì, lãnh hội nẻo cứu cánh, hiểu rõ, quán xét, tư duy, suy cứu, thông đạt, xúc chứng, tác chứng. Vì nghe pháp nên không ngại gian khó. Vì nhằm thọ trì nên luôn tận dụng nhĩ căn. Đối với pháp âm được nêu giảng luôn phát huy nhĩ thức thù diệu. Như vậy gọi là lắng nghe chánh pháp.

3. Thế nào là tác ý như lý?

Đáp: Đối với nghĩa của pháp thuận hợp, nhĩ căn lắng nghe, nhĩ thức hiểu rõ, do nhĩ thức dẫn khởi khiến tâm chuyên chú, theo đấy thâu giữ cùng thâu giữ, tác ý phát ý, thẩm xét chánh tư duy, tâm nơi tánh tỉnh giác. Đó gọi là tác ý như lý.

4. Thế nào là pháp tùy pháp hành?

Đáp: Tác ý như lý dẫn đến nẻo xuất ly, xa lìa đã sinh khởi các pháp thiện thắng diệu, tu tập trụ vững, siêng năng không gián đoạn. Đó gọi là pháp tùy pháp hành.

*

* Bốn chứng tịnh: Như Khế kinh nói: Thành tựu bốn pháp gọi là Dự lưu. Đó là: 1. Phật chứng tịnh. 2. Pháp chứng tịnh. 3. Tăng chứng tịnh. 4. Giới được bậc Thánh yêu thích.

1. Thế nào là Phật chứng tịnh?

Đáp: Như Đức Thế Tôn đã nói: Bí-sô nên biết! Thánh đệ tử này dùng tướng như thế theo đấy niệm (nhớ nghĩ) về chư Phật. Đức Thế Tôn đây là Như Lai, A-la-ha, Chánh đẳng giác, Minh hạnh viên mãn, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng trượng phu, Điều ngự sĩ, Thiên nhân sư, Phật – Bạc-già-phạm. Vị ấy dùng tướng như thế tùy niệm về chư Phật, thấy rõ đó là trí chứng đắc căn bản tương ưng với các tín, tánh tín, tánh tín hiện tiền, tùy thuận ấn chứng, yêu mến, tánh yêu mến, tâm lặng, tâm tịnh. Đó gọi là Phật chứng tịnh.

2. Thế nào là Pháp chứng tịnh?

Đáp: Như Đức Thế Tôn đã nói: Bí-sô nên biết! Đệ tử Phật dùng tướng như thế theo đấy niệm (nhớ nghĩ) về Chánh pháp. Nghĩa là chánh pháp của Phật là thiện thuyết, hiện thấy, không nhiệt não, đúng thời, dẫn dắt người trí tiếp cận, quán xét, nội chứng. Vị ấy dùng tướng như thế tùy niệm về chánh pháp, thấy rõ đó là trí chứng đắc căn bản tương ưng với các tín, tánh tín, tánh tín hiện tiền, tùy thuận ấn chứng, yêu mến, tánh yêu mến, tâm lặng, tâm tịnh. Đó gọi là Pháp chứng tịnh.

3. Thế nào là Tăng chứng tịnh?

Đáp: Như Đức Thế Tôn đã nói: Bí-sô nên biết! Đệ tử Phật dùng tướng như thế theo đấy niệm nơi Tăng. Nghĩa là đệ tử của Phật đầy đủ hành diệu, hành chất trực, hành như lý, hành pháp tùy pháp, hành hòa kính, hành thuận pháp. Ở trong Tăng ấy có hướng Dự lưu và quả Dự lưu, có hướng Nhất lai và quả Nhất lai, có hướng Bất hoàn và quả Bất hoàn, có hướng A-la-hán và quả A-la-hán. Như thế là gồm có bốn Hướng, bốn Quả Bổ-đặc-già-la, là chúng đệ tử của Phật, giới đầy đủ, định đầy đủ, tuệ đầy đủ, giải thoát đầy đủ, giải thoát trí kiến đầy đủ, nên thỉnh, nên phục, nên cung kính, là phước điền vô thượng, là bậc Ứng cúng của thế gian. Vị ấy dùng tướng như thế tùy niệm nơi Tăng, thấy rõ đó là trí chứng đắc căn bản tương ưng với các tín, tánh tín, tánh tín hiện tiền, tùy thuận ấn chứng, yêu mến, tánh yêu mến, tâm lặng, tâm tịnh. Đó gọi là Tăng chứng tịnh.

4. Thế nào là giới được bậc Thánh yêu thích?

Đáp: Thân luật nghi, ngữ luật nghi vô lậu, thọ mạng thanh tịnh. Đó gọi là giới được bậc Thánh yêu thích.

Vì sao gọi là giới được bậc Thánh yêu thích? Thánh tức là chư Phật và hàng đệ tử của Phật. Chư vị ấy đối với giới này luôn mến mộ, hoan hỷ nhận thuận không hề trái. Vì thế gọi là giới được bậc Thánh yêu thích. Các vị Dự lưu thành tựu bốn việc như thế.

HẾT – QUYỂN 6