LUẬN A TỲ ĐẠT MA TẬP DỊ MÔN TÚC
Tác giả: Tôn giả Xá Lợi Tử
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 5

Phẩm 4: BA PHÁP, phần 3

* Ba thọ: 1. Thọ vui. 2. Thọ khổ. 3. Thọ không khổ không vui.

1. Thế nào là thọ vui?

Đáp: Nghĩa là tiếp xúc thọ nhận các điều vui thuận hợp khiến thân tâm đều vui, bình đẳng thọ nhận, thuộc về thọ. Đó gọi là thọ vui. Lại nữa, khi tu tập tĩnh lự thứ nhất, thứ hai, thứ ba tiếp xúc thọ nhận các điều vui thuận hợp khiến thân tâm an vui, bình đẳng thọ nhận, thuộc về thọ. Đó gọi là thọ vui.

2. Thế nào là thọ khổ?

Đáp: Nghĩa là tiếp xúc thọ nhận các điều khổ thuận hợp khiến thân tâm đều khổ, bình đẳng thọ nhận, thuộc về khổ. Đó gọi là thọ khổ.

3. Thế nào là thọ không khổ không vui?

Đáp: Nghĩa là tiếp xúc thọ nhận các điều không khổ không vui thuận hợp khiến thân tâm xả bỏ, không bình đẳng thọ nhận, không phải không bình đẳng thọ nhận, đều thuộc về thọ. Đó gọi là thọ không khổ không vui.

Như Đức Thế Tôn nói kệ:

Đủ niệm, định, chánh tri

Đệ tử thật chư Phật

Nên biết đúng các thọ

Khiến các tham không sinh.

Đối các thọ cùng đạo

Đều khiến lần lượt diệt

Bí-sô hết các thọ

Bát Niết-bàn không ảnh.

*

* Ba tánh khổ: 1. Tánh khổ khổ. 2. Tánh hoại khổ. 3. Tánh hành khổ.

1. Thế nào là tánh khổ khổ?

Đáp: Các hành ở cõi Dục do khổ khổ nên khổ.

2. Thế nào là tánh hoại khổ?

Đáp: Các hành ở cõi Sắc do hoại khổ nên khổ.

3. Thế nào là tánh hành khổ?

Đáp: Các hành ở cõi Vô sắc do hành khổ nên khổ.

Lại nữa, các hành không vừa ý do khổ khổ nên khổ. Các hành vừa ý do hoại khổ nên khổ. Các hành thuận với xả do hành khổ nên khổ.

Lại nữa, nếu các thọ khổ, hoặc pháp đó tương ưng, hoặc pháp đó cùng có, hoặc từ pháp đó sinh, hoặc chủng loại đó cho quả dị thục không đáng yêu thích, do khổ khổ nên khổ. Nếu các thọ vui, hoặc pháp đó tương ưng, hoặc pháp đó cùng có, hoặc từ pháp đó sinh, hoặc chủng loại đó cho quả dị thục đáng yêu thích, do hoại khổ nên khổ. Nếu các thọ không khổ không vui, hoặc pháp đó tương ưng, hoặc pháp đó cùng có, hoặc từ pháp đó sinh, hoặc chủng loại đó cho quả dị thục không đáng yêu thích, không phải là không đáng yêu thích, do hành khổ nên khổ.

Lại nữa:

1. Thế nào là tánh khổ khổ?

Đáp: Các thân này hiện có do khổ khổ nên khổ. Vì sao? Vì dựa nơi thân này nên có vô số các thứ khổ như sinh, già, bệnh, chết.

2. Thế nào là tánh hoại khổ?

Đáp: Như Đức Thế Tôn đã nói: Bạn bè hợp ý, quyến thuộc hợp ý, các cảnh giới như thế, nếu vào lúc biến hoại, hoặc gặp phải sự hủy báng, khinh miệt, tức sinh khởi bao thứ sầu khổ buồn thương, bấy giờ do hoại khổ nên khổ.

3. Thế nào là tánh hành khổ?

Đáp: Ngoại trừ tánh khổ khổ và tánh hoại khổ, các hành hữu lậu khác do hành khổ nên khổ.

*

* Ba loại mạn: 1. Kiêu mạn vì ta hơn. 2. Kiêu mạn vì ta bằng. 3. Kiêu mạn vì ta kém.

1. Thế nào là kiêu mạn vì ta hơn?

Đáp: Như có người khởi suy nghĩ: Xét về tộc họ, hình sắc, nghề nghiệp, tài năng, tiền của, địa vị, tuổi thọ, sức lực v.v… của ta, hoặc nhìn chung hay riêng đều hơn hẳn người kia. Do đó khởi kiêu mạn, đã kiêu mạn, sẽ kiêu mạn, tâm cao ngạo ỷ thị khinh miệt. Đó gọi là kiêu mạn vì ta hơn.

2. Thế nào là kiêu mạn vì ta bằng?

Đáp: Như có người khởi suy nghĩ: Xét về tộc họ, hình sắc, nghề nghiệp, tài năng, tiền của, địa vị, tuổi thọ, sức lực v.v… của ta, hoặc nhìn chung hay riêng đều ngang bằng người kia. Do nhân duyên riêng nên khởi kiêu mạn, đã kiêu mạn, sẽ kiêu mạn, tâm cao ngạo ỷ thị khinh miệt. Đó gọi là kiêu mạn vì ta bằng.

3. Thế nào là kiêu mạn vì ta kém?

Đáp: Như có người khởi suy nghĩ: Xét về tộc họ, hình sắc, nghề nghiệp, tài năng, tiền của, địa vị, tuổi thọ, sức lực v.v… của ta, hoặc nhìn chung hay riêng đều kém so với người kia. Do nhân duyên riêng nên khởi kiêu mạn, đã kiêu mạn, sẽ kiêu mạn, tâm cao ngạo ỷ thị khinh miệt. Đó gọi là kiêu mạn vì ta kém.

**

4. Tụng nêu tổng quát thứ tư:

Bốn: Ba pháp có mười

Là lửa, phước, dục, lạc

Và tuệ, căn, nhãn, nương Sáu một, lửa, tuệ hai.

Gồm có: Ba thứ lửa, ba sự phước nghiệp, ba dục sinh, ba lạc sinh, ba thứ tuệ, ba thứ căn, ba thứ nhãn, ba nương dựa. Lửa, tuệ mỗi thứ có hai, sáu thứ còn lại mỗi thứ có một.

*

* Ba thứ lửa: 1. Lửa tham. 2. Lửa sân. 3. Lửa si.

1. Thế nào là lửa tham?

Đáp: Nghĩa là đối với cảnh dục có các thứ tham cùng tham, sinh ra cất giấu, giữ gìn, chấp chặt, yêu thích, mê muội đắm vướng, tự trói buộc nội tâm, cầu dục, ham muốn, là nơi tích tập các khổ, là loại tham, sinh ra tham, gọi chung là tham. Do tham ái này che lấp nên phát sinh các thứ nóng bức nơi thân, nóng bức nơi tâm, hoặc cả thân tâm, thiêu đốt thân, thiêu đốt tâm, hoặc cả thân tâm, não hại thân, não hại tâm, hoặc cả thân tâm. Lại do tham ái trói buộc làm duyên nên suốt trong đêm dài sinh tử phải nhận lấy các quả dị thục không thể yêu thích, không thể vui mừng, không thể vừa ý. Đó gọi là lửa tham.

2. Thế nào là lửa sân?

Đáp: Nghĩa là đối với các hữu tình muốn gây tổn hại, tâm luôn ôm giữ sự tàn hại muốn gây não loạn cho mọi người. Đã sân, đang sân, sẽ sân, ưa gieo họa hay các thứ tai họa trầm trọng cho người khác, ý luôn phẫn hận, hành tác trái ngược, tàn bạo đối với các hữu tình. Đã gây tai họa, hiện gây tai họa, sẽ gây tai họa, gọi chung là sân. Do sân hận này che lấp nên phát sinh các thứ nóng bức nơi thân, nóng bức nơi tâm, hoặc cả thân tâm, thiêu đốt thân, thiêu đốt tâm, hoặc cả thân tâm, não hại thân, não hại tâm, hoặc cả thân tâm. Lại do sân giận trói buộc làm duyên nên suốt trong đêm dài sinh tử phải nhận lấy các quả dị thục không thể yêu thích, không thể vui mừng, không thể vừa ý. Đó gọi là lửa sân.

3. Thế nào là lửa si?

Đáp: Nghĩa là đối với biên vực trước không nhận biết, biên vực sau không nhận biết, cả biên vực trước sau đều không nhận biết v.v…, nói rộng cho đến là thuộc loại si, sinh ra si chuyển đổi sinh khởi, gọi chung là si. Do ngu si này che lấp nên phát sinh các thứ nóng bức nơi thân, nóng bức nơi tâm, hoặc cả thân tâm, thiêu đốt thân, thiêu đốt tâm, hoặc cả thân tâm, não hại thân, não hại tâm, hoặc cả thân tâm. Lại do ngu si trói buộc làm duyên nên suốt trong đêm dài sinh tử phải nhận lấy các quả dị thục không thể yêu thích, không thể vui mừng, không thể vừa ý. Đó gọi là lửa si.

Như Đức Thế Tôn nói kệ:

Các hữu tình ngu si

Lửa tham sân si đốt

Đắm chấp các cảnh dục

Hại đời, ghét pháp Thánh.

Lửa ba độc thiêu đốt

Nếu không biết như thật

Nên tham vướng có thân

Không thể đến tịch diệt.

Do đi theo đường tà

Đọa trong ba nẻo ác

Luân hồi chịu khổ não

Không thoát khỏi lưới ma.

Đệ tử bậc Chánh giác

Đêm ngày luôn siêng năng

Dùng tưởng uế, từ, tuệ

Thứ lớp diệt ba lửa.

Từ đấy vào Thánh đạo

Hàng phục các quân ma

Chứng đắc hai Niết-bàn

Mát mẻ không còn lậu.

*

* Lại có ba thứ lửa: 1. Lửa nên phụng sự. 2. Lửa nên cấp thí. 3. Lửa nên cúng dường.

1. Thế nào là lửa nên phụng sự?

Đáp: Cha mẹ là chỗ nên phụng sự của người con. Như Đức Thế Tôn đã nói với Bà-la-môn có thân hình cao thẳng:

Thế nào gọi là lửa nên phụng sự? Nghĩa là ở đời, cha mẹ cần được thọ nhận vô số các thứ vật dụng đem lại an lạc do con mình đem lại, tùy lúc tùy nơi phụng sự thuận hợp.

Vì sao người con dùng các thứ vật dụng đem lại an lạc, tùy lúc tùy nơi phụng sự thuận hợp, là lửa nên phụng sự? Nghĩa là vị thiện nam kia do sức tinh tấn, cùng sức của tay chân, hoặc sức của mồ hôi nước mắt, đúng như pháp tạo ra những của cải vật dụng, các thứ đem lại an lạc, tùy lúc tùy nơi thuận hợp phụng dưỡng cha mẹ.

Vì sao cha mẹ gọi là lửa nên phụng sự? Tức do cha mẹ sinh ra, nuôi lớn vị thiện nam ấy, nay được thành đạt. Thế nên chư Phật nói cha mẹ là lửa nên phụng sự.

2. Thế nào là lửa nên cấp thí?

Đáp: Đó là vợ con, nô tỳ, người giúp việc, cùng các bạn thân phải được gia chủ cấp thí. Như Đức Thế Tôn đã nói với Bà-la-môn có thân hình cao thẳng:

Thế nào gọi là lửa nên cấp thí? Nghĩa là ở đời, vợ con, nô tỳ, người giúp việc, cùng các bạn thân phải được thọ nhận từ gia chủ vô số các thứ vật dụng đem lại an lạc, tùy lúc tùy nơi cấp thí thuận hợp.

Vì sao gia chủ dùng các thứ vật dụng đem lại an lạc, tùy lúc tùy nơi cấp thí thuận hợp, là lửa nên cấp thí? Nghĩa là vị thiện nam kia do sức tinh tấn, cùng sức của tay chân, hoặc sức của mồ hôi nước mắt, đúng như pháp tạo ra những của cải vật dụng, các thứ đem lại an lạc, tùy lúc tùy nơi cấp thí thuận hợp cho vợ con, nô tỳ, người giúp việc, cùng các bạn thân.

Vì sao gọi là lửa nên cấp thí? Tức vị thiện nam kia, khi ở nhà, đúng như pháp nên hành sự thuận hợp đối với vợ con v.v… Như chỉ dạy cách làm việc, các việc nên làm, khiến không thiếu sót, nhanh chóng hoàn thành. Thế nên chư Phật nói vợ con, nô tỳ, người giúp việc, cùng các bạn thân là lửa nên cấp thí.

3. Thế nào là lửa nên cúng dường?

Đáp: Các bậc Sa-môn, Bà-la-môn chân chánh là chỗ nên cúng dường của các thí chủ. Như Đức Thế Tôn đã nói với Bà-la-môn có thân hình cao thẳng:

Thế nào gọi là lửa nên cúng dường? Nghĩa là các bậc Sa-môn, Bà-la-môn, hoặc đã lìa tham, hoặc lại tu hành điều phục hành tham.

Hoặc đã lìa sân, hoặc lại tu hành điều phục hành sân. Hoặc đã lìa si, hoặc lại tu hành điều phục hành si. Các vị Sa-môn, Bà-la-môn như thế nên được thọ nhận vô số các thứ vật dụng đem lại an lạc của thí chủ, tùy lúc tùy nơi cúng dường thuận hợp.

Vì sao thí chủ dùng các thứ vật dụng đem lại an lạc, tùy lúc tùy nơi cúng dường thuận hợp, là lửa nên cúng dường? Nghĩa là vị thiện nam kia do sức tinh tấn, cùng sức của tay chân, hoặc sức của mồ hôi nước mắt, đúng như pháp tạo ra những của cải vật dụng, các thứ đem lại an lạc, tùy lúc tùy nơi cúng dường thuận hợp cho các Sa-môn, Bàla-môn, như trước đã nói.

Vì sao gọi là lửa nên cúng dường? Tức vị thiện nam kia đã cúng dường các vị A-la-hán và những bậc hữu học, do họ là phước điền chân chánh ở thế gian có thể khiến các thí chủ ở đó gieo trồng cây phước, chiêu cảm được quả dị thục giàu vui ở đời này và đời khác cùng quả giải thoát tối thượng. Thế nên chư Phật nói các bậc Sa-môn, Bà-la-môn chân chánh là lửa nên cúng dường.

Các loại lửa khác ở thế gian, không phải là nên phụng sự, cấp thí, cúng dường, vì chúng không thể khiến các loài hữu tình đạt được các quả thù thắng.

Như Đức Thế Tôn nói kệ:

Bậc trí hay như pháp

Tế thờ ba lửa trước

Sinh an lạc thế gian

Chứng giải thoát hết khổ.

*

* Ba sự phước nghiệp: 1. Sự phước nghiệp loại thí. 2. Sự phước nghiệp loại giới. 3. Sự phước nghiệp loại tu.

1. Sự phước nghiệp loại thí: Thế nào là loại thí, là phước, là nghiệp, là sự, để gọi là Sự phước nghiệp loại thí?

Đáp: Loại thí: Nghĩa là thí chủ bố thí cho các bậc Sa-môn, Bàla-môn, những người nghèo khổ, tu khổ hạnh và kẻ ăn xin, các thứ như: thức ăn uống, thuốc men, y phục, hoa cài đầu, các thứ hương bột, hương xoa, hoặc các thứ nhà cửa, phòng ốc, giường nằm, tọa cụ, đèn đuốc. Đó gọi là loại thí. Lại nữa, hoặc do thân bố thí: Nghĩa là hoặc bố thí thân, hoặc bố thí thân nghiệp, hoặc bố thí vật mình đã xả bỏ. Hoặc do ngữ bố thí: Nghĩa là hoặc bố thí lời nói, hoặc bố thí ngữ nghiệp, hoặc bố thí vật mình đã xả bỏ. Hoặc do ý bố thí: Nghĩa là hoặc bố thí ý, hoặc bố thí ý nghiệp, hoặc bố thí tâm xả. Đó gọi là loại thí.

Phước: Nghĩa là bố thí cùng hành thân luật nghi, ngữ luật nghi và đời sống thanh tịnh. Đó gọi là phước.

Nghiệp: Nghĩa là bố thí cùng hành các tư duy, cùng tư duy, hiện cùng tư duy, đã tư duy, các loại tư duy tạo nên tâm ý nghiệp. Đó gọi là nghiệp.

Sự: Nghĩa là người bố thí, kẻ nhận và vật bố thí. Đó gọi là sự.

Ở đây: Loại thí gọi là loại thí, cũng gọi là phước, cũng gọi là nghiệp, cũng gọi là sự. Phước gọi là phước, cũng gọi là nghiệp, cũng gọi là sự, cũng gọi là loại thí. Nghiệp gọi là nghiệp, cũng gọi là sự, cũng gọi là loại thí, cũng gọi là phước. Còn sự chỉ gọi là sự.

2. Sự phước nghiệp loại giới: Thế nào là loại giới, là phước, là nghiệp, là sự, để gọi là Sự phước nghiệp loại giới?

Đáp: Loại giới: Nghĩa là lìa hại sinh mạng, lìa không cho mà lấy, lìa dâm dục tà hạnh, lìa nói dối, lìa bỏ uống chất Tốt-la-mê-lệ-damạt-đà, lìa bỏ phóng dật nơi rượu chè v.v… Đó gọi là loại giới.

Phước: Nghĩa là giới cùng hành thân luật nghi, ngữ luật nghi và đời sống thanh tịnh. Đó gọi là phước.

Nghiệp: Nghĩa là giới cùng hành các tư duy, cùng tư duy, hiện cùng tư duy, đã tư duy, các loại tư duy tạo nên tâm ý nghiệp. Đó gọi là nghiệp.

Sự: Nghĩa là hoặc phòng hộ, hoặc dừng dứt, hoặc ngăn chận, nếu lìa bỏ sự hại sinh mạng, là sự lìa hại sinh mạng. Hoặc phòng hộ, hoặc dừng dứt, hoặc ngăn chận, nếu lìa bỏ sự không cho mà lấy, là sự lìa không cho mà lấy. Hoặc phòng hộ, hoặc dừng dứt, hoặc ngăn chận, nếu lìa bỏ sự dâm dục tà hạnh, là sự lìa dâm dục tà hạnh. Hoặc phòng hộ, hoặc dừng dứt, hoặc ngăn chận, nếu lìa bỏ sự nói dối, là sự lìa nói dối. Đó gọi là sự.

Ở đây: Loại giới gọi là loại giới, cũng gọi là phước, cũng gọi là nghiệp, cũng gọi là sự. Phước gọi là phước, cũng gọi là nghiệp, cũng gọi là sự, cũng gọi là loại giới. Nghiệp gọi là nghiệp, cũng gọi là sự, cũng gọi là loại giới, cũng gọi là phước. Sự gọi là sự, cũng gọi là loại giới, cũng gọi là phước, cũng gọi là nghiệp.

3. Sự phước nghiệp loại tu: Thế nào là loại tu, là phước, là nghiệp, là sự, để gọi là Sự phước nghiệp loại tu?

Đáp: Loại tu: Nghĩa là bốn thứ tâm vô lượng Từ, Bi, Hỷ, Xả. Đó gọi là loại tu.

Phước: Nghĩa là bốn vô lượng cùng hành thân luật nghi, ngữ luật nghi và đời sống thanh tịnh. Đó gọi là phước.

Nghiệp: Nghĩa là vô lượng cùng hành các tư duy, cùng tư duy, hiện cùng tư duy, đã tư duy, các loại tư duy tạo nên tâm ý nghiệp. Đó gọi là nghiệp.

Sự: Nghĩa là sự của đối tượng duyên duyên nơi pháp kia để khởi bốn vô lượng. Đó gọi là sự.

Ở đây: Loại tu gọi là loại tu, cũng gọi là phước, cũng gọi là nghiệp, cũng gọi là sự. Phước gọi là phước, cũng gọi là nghiệp, cũng gọi là sự, cũng gọi là loại tu. Nghiệp gọi là nghiệp, cũng gọi là sự, cũng gọi là loại tu, cũng gọi là phước. Riêng sự chỉ gọi là sự.

Như Đức Thế Tôn nói kệ:

Bậc trí hay nương pháp

Siêng học thí, giới, tu

Sinh thế gian không khổ

Nhận ba thứ quả vui.

*

* Ba dục sinh: Những gì là ba? 1. Có các hữu tình ưa thích thọ nhận các cảnh dục diệu hiện tiền. Những kẻ ấy đối với các cảnh dục diệu hiện tiền có được giàu sang tự tại chuyển. Nghĩa là hoàn toàn nẻo người và một phần cõi trời, là dục sinh thứ nhất. 2. Có các hữu tình ưa thích thọ nhận các cảnh dục diệu do tự mình hóa ra. Những kẻ ấy đối với các cảnh dục diệu tự hóa tác có được giàu sang tự tại chuyển. Nghĩa là cõi trời Lạc-biến-hóa, là dục sinh thứ hai. 3. Có các hữu tình ưa thích thọ nhận các cảnh dục diệu do người khác biến hóa. Những kẻ ấy đối với các cảnh dục diệu do người khác biến hóa có được giàu sang tự tại chuyển. Nghĩa là cõi trời Tha-hóa-tự-tại, là dục sinh thứ ba.

Ở đây:

1. Có các hữu tình: Là các hữu tình theo nghĩa đế, nghĩa thắng, không thể thủ đắc, không thể gần được, không phải có, không phải hiện có, chỉ ở nơi các uẩn, giới, xứ, do tưởng cùng tưởng giả nêu nói là chuyển. Nghĩa là hữu tình, Na-la, ý sinh, nho đồng, thọ mạng, sự sinh, nuôi dưỡng, sĩ phu, Bổ-đặc-già-la v.v… Do đấy nên nói là có các hữu tình.

Ưa thích thọ nhận các cảnh dục diệu hiện tiền: Nghĩa là các hữu tình kia luôn ưa thích thọ dụng những thứ đã được cất chứa, giữ gìn, tích tập, gởi gắm, đặt để, theo gốc sinh ra các cảnh dục hiện tiền.

Những kẻ ấy đối với các cảnh dục diệu hiện tiền có được giàu sang tự tại chuyển: Nghĩa là các hữu tình kia đối với các thứ được thọ dụng, được cất chứa, giữ gìn, tích tập, gởi gắm, đặt để, theo gốc sinh ra các cảnh dục hiện tiền, có uy lực được tự tại tùy ý thọ dụng.

Nghĩa là hoàn toàn nẻo người: Nghĩa là nêu rõ tất cả con người.

Một phần cõi trời: Nghĩa là hiển bày về bốn cõi trời dưới của Dục giới.

Là thứ nhất: Tức là tùy theo sự tính đếm, dần dần thuận theo thứ lớp, nối tiếp theo thứ tự, đây là ở vào thứ nhất.

Dục sinh: Nghĩa là pháp ấy ở nơi cõi Dục sinh ra.

2. Lại nữa: Có các hữu tình: Là các hữu tình theo nghĩa đế, nghĩa thắng, không thể thủ đắc v.v…, nói rộng như trước.

Ưa thích thọ nhận các cảnh dục diệu do tự mình hóa ra: Nghĩa là cõi trời Lạc-biến-hóa tạo tác tăng trưởng loại nghiệp như thế. Những kẻ kia do nghiệp này, tùy chỗ yêu thích hóa tác vô số sự việc như các nam nữ để tự vui chơi. Nghĩa là, nếu là các thiên nữ thì hóa làm thiên nam để tự vui đùa, nếu là các thiên nam thì hóa làm thiên nữ để tự vui chơi.

Những kẻ ấy đối với các cảnh dục diệu do tự mình hóa ra có được giàu sang tự tại chuyển: Nghĩa là cõi trời Lạc-biến-hóa tạo tác tăng trưởng loại nghiệp như thế. Những kẻ kia do nghiệp này, tùy chỗ yêu thích hóa tác vô số sự việc như các nam nữ, có uy lực được tự tại tùy ý thọ dụng.

Nghĩa là cõi trời Lạc-biến-hóa: Nghĩa là hiển bày về tất cả trời Lạc-biến-hóa.

Là thứ hai: Tức là tùy theo sự tính đếm, dần dần thuận theo thứ lớp, nối tiếp theo thứ tự, đây là ở vào thứ hai.

Dục sinh: Nghĩa là pháp ấy ở nơi cõi Dục sinh ra.

3. Lại nữa: Có các hữu tình: Là các hữu tình theo nghĩa đế, nghĩa thắng, không thể thủ đắc v.v…, nói rộng như trước.

Ưa thích thọ nhận các cảnh dục diệu do người khác biến hóa: Nghĩa là cõi trời Tha-hóa-tự-tại tạo tác tăng trưởng loại nghiệp như thế. Những kẻ kia do nghiệp này cùng với chư Thiên trời Tha-hóa-tự-tại, tuy đồng một loại, thân đồng một nẻo, đồng một đời sống, đồng một hướng tiến tới, nhưng có cao thấp hơn kém sai biệt. Các Thiên tử thấp kém hóa tác vô số thứ sắc, thanh, hương, vị, xúc nơi các cảnh dục diệu khiến các Thiên tử cao hơn ở đấy thọ dụng.

Những kẻ ấy đối với các cảnh dục diệu do người khác biến hóa có được giàu sang tự tại chuyển: Nghĩa là cõi trời Tha-hóa-tự-tại tạo tác tăng trưởng loại nghiệp như thế. Những kẻ kia do nghiệp này, tùy theo chỗ yêu thích khiến các Thiên tử thấp kém khác hóa tác vô số thứ sắc, thanh, hương, vị, xúc nơi các cảnh dục diệu để cho các Thiên tử cao hơn kia ở nơi cảnh dục diệu ấy có uy lực được tự tại tùy ý thọ dụng. Ví như Phạm thiên tuy là đồng loại, đồng một nẻo, đồng một đời sống, đồng một hướng tiến tới, nhưng lại có cao thấp hơn kém sai biệt. Nghĩa là trời Phạm chúng thấp kém, trời Phạm phụ cao hơn. Trời Phạm phụ thấp kém, trời Đại phạm cao hơn. Trời Tha-hóa-tự-tại cũng lại như vậy, tạo tác, tăng trưởng loại nghiệp như thế, nên họ do nghiệp ấy v.v… nói rộng như trước.

Nghĩa là cõi trời Tha-hóa-tự-tại: Nghĩa là hiển bày về tất cả trời Tha-hóa-tự-tại.

Là thứ ba: Tức là tùy theo sự tính đếm, dần dần thuận theo thứ lớp, nối tiếp theo thứ tự, đây là ở vào thứ ba.

Dục sinh: Nghĩa là pháp ấy ở nơi cõi Dục sinh ra.

*

* Ba lạc sinh: Những gì là ba? 1. Có các hữu tình, tức thân như thế, đạt ly sinh hỷ lạc, nên đều được thấm nhuần, thấm nhuần khắp; đều được vui thích, vui thích khắp; đều được sung mãn, sung mãn khắp. Khi được thấm nhuần cho đến sung mãn khắp xong thì trụ vào an lạc. Nghĩa là trời Phạm chúng, là lạc sinh thứ nhất. 2. Có các hữu tình, tức thân như thế, đạt định sinh hỷ lạc, nên đều được thấm nhuần, thấm nhuần khắp; đều được vui thích, vui thích khắp; đều được sung mãn, sung mãn khắp. Khi được thấm nhuần cho đến sung mãn khắp xong thì trụ vào an lạc. Nghĩa là trời Cực quang tịnh, là lạc sinh thứ hai. 3. Có các hữu tình tức thân như thế, đạt lạc của lìa hỷ, nên đều được thấm nhuần, thấm nhuần khắp, đều được vui thích, vui thích khắp, đều được sung mãn, sung mãn khắp. Khi được thấm nhuần cho đến sung mãn khắp xong thì trụ vào an lạc. Nghĩa là trời Biến tịnh, là lạc sinh thứ ba.

Ở đây:

1. Có các hữu tình: Là các hữu tình theo nghĩa đế, nghĩa thắng, không thể thủ đắc, không thể được gần, không phải có, không phải hiện có, chỉ ở nơi các uẩn, giới, xứ, do tưởng cùng tưởng giả nêu nói là chuyển. Nghĩa là hữu tình, Na-la, ý sinh, nho đồng, thọ mạng, sự sinh, nuôi dưỡng, sĩ phu, Bổ-đặc-già-la v.v… Do đấy nên nói là có các hữu tình.

Tức thân như thế: Nghĩa là thân gọi là thân, thân nghiệp cũng gọi là thân, thân căn cũng gọi là thân, năm căn có sắc cũng gọi là thân, bốn đại chủng tụ hợp cũng gọi là thân. Nay trong nghĩa này ý nói bốn đại chủng tụ hợp là thân, nên nói là tức thân như thế.

Ly sinh hỷ lạc: Nghĩa là trong tĩnh lự thứ nhất đã đạt được an lạc, bình đẳng thọ nhận, thuộc về thọ. Đó gọi là ly sinh hỷ lạc.

Đều được thấm nhuần, thấm nhuần khắp; đều được vui thích, vui thích khắp; đều được sung mãn, sung mãn khắp: Nghĩa là trời Phạm chúng. Ở đây, ly sinh hỷ lạc tùy ý muốn mà được, không chút khó khăn. Tức ly sinh hỷ lạc ấy dấy khởi cùng dấy khởi, phát sinh cùng phát sinh, tụ tập xuất hiện, nên có thể khiến cho thân do bốn đại chủng hợp thành như thế đều được thấm nhuần, thấm nhuần khắp; đều được vui thích, vui thích khắp; đều được sung mãn, sung mãn khắp.

Được thấm nhuần cho đến sung mãn khắp xong thì trụ vào an lạc: Nghĩa là vị ấy bấy giờ do ly sinh hỷ lạc nên thân tâm không khổ não, tức trụ vào an lạc.

Như trong Kinh Phân Biệt Sinh Ký, Đức Thế Tôn đã nói: “Bísô nên biết! Như người tu định, từ cõi này qua đời sinh lên trời Phạm chúng, thường thường hiện thọ ly sinh hỷ lạc”. Vị ấy trước đây khi trụ nhập nơi tĩnh lự thứ nhất cũng nhiều lần hiện thọ ly sinh hỷ lạc. Ly sinh hỷ lạc đã được thọ nhận trước sau không khác, không sai biệt.

Nếu nương vào định v.v…, nghĩa là thời gian trước đây ở trong tĩnh lự thứ nhất, hoặc tập hoặc tu, hoặc hành tác nhiều, về sau mới sinh lên trời Phạm chúng. Cả hai thứ ly sinh hỷ lạc được thọ nhận ấy, phẩm loại giống nhau.

Nghĩa là trời Phạm chúng: Là hiển bày về các trời như Phạm chúng v.v… thuộc tĩnh lự thứ nhất.

Là thứ nhất: Tức là tùy theo sự tính đếm, dần dần thuận theo thứ lớp, nối tiếp theo thứ tự, đây là ở vào thứ nhất.

Lạc sinh: Nghĩa là xứ sinh này, trong thời gian dài luôn thọ nhận an lạc yên ổn, lìa khổ thích vui, chỉ thọ nhận an vui, nên gọi là Lạc sinh.

2. Lại nữa: Có các hữu tình: Là các hữu tình theo nghĩa đế, nghĩa thắng, không thể thủ đắc v.v…, nói rộng như trước.

Tức thân như thế: Nghĩa là thân gọi là thân v.v…, cho đến nói rộng.

Định sinh hỷ lạc: Nghĩa là trong tĩnh lự thứ hai đã đạt được an lạc, bình đẳng thọ nhận, thuộc về thọ. Đó gọi là định sinh hỷ lạc.

Đều được thấm nhuần, thấm nhuần khắp; đều được vui thích, vui thích khắp; đều được sung mãn, sung mãn khắp: Nghĩa là trời Cực quang tịnh. Ở đây, định sinh hỷ lạc tùy ý muốn mà được, không chút khó khăn. Tức định sinh hỷ lạc ấy dấy khởi cùng dấy khởi, phát sinh cùng phát sinh, tụ tập xuất hiện, nên có thể khiến cho thân do bốn đại chủng hợp thành như thế đều được thấm nhuần, thấm nhuần khắp; đều được vui thích, vui thích khắp; đều được sung mãn, sung mãn khắp.

Được thấm nhuần cho đến sung mãn khắp xong thì trụ vào an lạc: Nghĩa là vị ấy bấy giờ do định sinh hỷ lạc nên thân tâm không khổ não, tức trụ vào an lạc.

Như trong Kinh Phân Biệt Sinh Ký, Đức Thế Tôn đã nói: “Bísô nên biết! Như người tu định, từ cõi này qua đời sinh lên trời Cực quang tịnh, thường thường hiện thọ định sinh hỷ lạc”. Vị ấy trước đây khi trụ nhập nơi tĩnh lự thứ hai cũng nhiều lần hiện thọ định sinh hỷ lạc. Định sinh hỷ lạc đã được thọ nhận trước sau không khác, không sai biệt.

Nếu nương vào định v.v…, nghĩa là thời gian trước đây ở trong tĩnh lự thứ hai, hoặc tập hoặc tu, hoặc hành tác nhiều, về sau mới sinh lên trời Cực quang tịnh. Cả hai thứ định sinh hỷ lạc được thọ nhận ấy, phẩm loại giống nhau.

Nghĩa là trời Cực quang tịnh: Là hiển bày về các trời như Cực quang tịnh v.v… thuộc tĩnh lự thứ hai.

Là thứ hai: Tức là tùy theo sự tính đếm, dần dần thuận theo thứ lớp, nối tiếp theo thứ tự, đây là ở vào thứ hai.

Lạc sinh: Nghĩa là xứ sinh này, trong thời gian dài luôn thọ nhận an lạc yên ổn, lìa khổ thích vui, chỉ thọ nhận an vui, nên gọi là Lạc sinh.

3. Lại nữa: Có các hữu tình: Là các hữu tình theo nghĩa đế, nghĩa thắng, không thể thủ đắc v.v…, nói rộng như trước.

Tức thân như thế: Nghĩa là thân gọi là thân v.v…, cho đến nói rộng.

Lạc của lìa hỷ: Nghĩa là trong tĩnh lự thứ ba đã đạt được an lạc, bình đẳng thọ nhận, thuộc về thọ. Đó gọi là lạc của lìa hỷ.

Đều được thấm nhuần, thấm nhuần khắp, đều được vui thích, vui thích khắp, đều được sung mãn, sung mãn khắp: Nghĩa là trời Biến tịnh. Ở đây, lạc của lìa hỷ tùy ý muốn mà được, không chút khó khăn. Tức lạc của lìa hỷ ấy dấy khởi cùng dấy khởi, phát sinh cùng phát sinh, tụ tập xuất hiện, nên có thể khiến cho thân do bốn đại chủng hợp thành như thế đều được thấm nhuần, thấm nhuần khắp; đều được vui thích, vui thích khắp; đều được sung mãn, sung mãn khắp.

Được thấm nhuần cho đến sung mãn khắp xong thì trụ vào an lạc: Nghĩa là vị ấy bấy giờ do lạc của lìa hỷ nên thân tâm không còn khổ não, tức trụ vào an lạc.

Như trong Kinh Phân Biệt Sinh Ký, Đức Thế Tôn đã nói: “Bísô nên biết! Như người tu định, từ cõi này qua đời sinh lên trời Biến tịnh, thường thường hiện thọ lạc của lìa hỷ”. Vị ấy trước đây khi trụ nhập nơi tĩnh lự thứ ba cũng nhiều lần hiện thọ lạc của lìa hỷ. Lạc của lìa hỷ đã được thọ nhận trước sau không khác, không sai biệt.

Nếu nương vào định v.v…, nghĩa là thời gian trước đây ở trong tĩnh lự thứ ba, hoặc tập hoặc tu, hoặc hành tác nhiều, về sau mới sinh lên cõi trời Biến tịnh. Cả hai thứ lạc của lìa hỷ được thọ nhận ấy, phẩm loại giống nhau.

Nghĩa là trời Biến tịnh: Là hiển bày về các trời như Biến tịnh v.v… thuộc tĩnh lự thứ ba.

Là thứ ba: Tức là tùy theo sự tính đếm, dần dần thuận theo thứ lớp, nối tiếp theo thứ tự, đây là ở vào thứ ba.

Lạc sinh: Nghĩa là xứ sinh này, trong thời gian dài luôn thọ nhận an lạc yên ổn, lìa khổ thích vui, chỉ thọ nhận an lạc, nên gọi là Lạc sinh.

*

* Ba thứ tuệ: 1. Tuệ do nghe tạo thành. 2. Tuệ do suy tư tạo thành. 3. Tuệ do tu tạo thành.

1. Thế nào là tuệ do nghe tạo thành?

Đáp: Nhân nơi nghe, nương vào nghe, do nơi nghe mà kiến lập, nên đối với xứ xứ kia có uy lực, được tự tại, thông đạt đúng khắp. Việc đó như thế nào? Nghĩa là như có Bí-sô, hoặc thọ trì các pháp như Tố-đát-lãm, Tỳ-nại-da hay A-tỳ-đạt-ma, hoặc nghe bậc Thân giáo sư dạy bảo, hoặc nghe bậc Quỹ phạm sư nêu bày, hoặc nghe theo các Tạng lần lượt được truyền trao nói, hoặc nghe theo lý nhất như nói. Đó gọi là nghe. Nhân nơi nghe ấy, dựa vào nghe ấy, do nơi nghe ấy mà kiến lập, nên ở nơi xứ xứ kia có uy lực, được tự tại, thông đạt đúng khắp. Đó gọi là tuệ do nghe tạo thành.

2. Thế nào là tuệ do suy tư tạo thành?

Đáp: Nhân nơi suy nghĩ, nương vào suy nghĩ, do nơi suy nghĩ mà kiến lập, nên đối với xứ xứ kia có uy lực, được tự tại, thông đạt đúng khắp. Việc đó như thế nào? Nghĩa là như có người đúng như lý mà suy tư về thư số, tính toán, in ấn, hoặc suy tư về mỗi mỗi sự nghiệp đã hành tác. Đó gọi là suy tư. Nhân nơi suy tư ấy, dựa vào suy tư ấy, do nơi suy tư ấy mà kiến lập, nên ở nơi xứ xứ kia có uy lực, được tự tại, thông đạt đúng khắp. Đó gọi là tuệ do suy tư tạo thành.

3. Thế nào là tuệ do tu tạo thành?

Đáp: Nhân nơi tu, nương vào tu, do nơi tu mà kiến lập, nên đối với xứ xứ kia có uy lực, được tự tại, thông đạt đúng khắp. Việc đó như thế nào? Nghĩa là như có người theo phương tiện thiện xảo siêng năng tu tập các đạo lìa nhiễm, do đã tu đạo lìa nhiễm ấy, nên lìa bỏ dục và các pháp ác bất thiện, có tầm có tứ, ly sinh hỷ lạc, nhập nơi tĩnh lự thứ nhất, an trụ đầy đủ, nói rộng cho đến nhập nơi tĩnh lự thứ tư, an trụ đầy đủ. Đó gọi là tu. Nhân nơi tu ấy, dựa vào tu ấy, do nơi tu ấy mà kiến lập, nên ở nơi xứ xứ kia có uy lực, được tự tại, thông đạt đúng khắp. Đó gọi là tuệ do tu tạo thành.

Có người nói: Đây cũng gọi là tuệ do tư duy tạo thành. Vì sao? Vì chỉ dựa vào pháp bất cộng của Phật để tu hành mới có thể gọi là tuệ do tu tạo thành. Nay trong nghĩa này là dựa vào các thứ đẳng dẫn (Định) để khởi tuệ tịch tĩnh, đều gọi là tuệ do tu tạo thành.

*

* Lại có ba thứ tuệ: 1. Tuệ của hàng hữu học. 2. Tuệ của bậc vô học. 3. Tuệ của hàng phi học phi vô học.

1. Thế nào là tuệ của hàng hữu học?

Đáp: Là hàng hữu học tác ý tương ưng, đối với các pháp cần lựa chọn nên lựa chọn kỹ lưỡng, vô cùng kỹ lưỡng, nhân đấy đã hiểu rõ, cùng hiểu rõ, hiểu gần, hiểu khắp, trí sáng nơi cơ duyên thông đạt thẩm xét thấu suốt, tuệ giác soi rõ hành Tỳ-bát-xá-na. Đó gọi là tuệ của hàng hữu học.

2. Thế nào là tuệ của bậc vô học?

Đáp: Là hàng vô học tác ý tương ưng, đối với các pháp cần lựa chọn nên lựa chọn kỹ lưỡng v.v… nói rộng cho đến hành Tỳ-bát-xána. Đó gọi là tuệ của bậc vô học.

3. Thế nào là tuệ của hàng phi học phi vô học?

Đáp: Là hàng hữu lậu tác ý tương ưng, đối với các pháp cần lựa chọn nên lựa chọn kỹ lưỡng v.v… nói rộng cho đến hành Tỳ-bát-xána. Đó gọi là tuệ của hàng phi học phi vô học.

*

* Ba thứ căn: 1. Căn chưa biết sẽ biết. 3. Căn đã biết. 3. Căn biết đầy đủ. Như nơi Luận Pháp Uẩn đã nói rộng về tướng của chúng.

Như Đức Thế Tôn nói kệ:

Học là các căn học

Luôn theo đạo chánh trực

Thường siêng năng tinh tấn

Giữ gìn nơi tự tâm.

Tuệ căn đầu không dứt

Sinh tuệ căn thứ hai

Như tuệ căn thứ ba

Vị giải thoát mới có.

Bậc giải thoát chẳng động

Các hữu kiết diệt hết

Căn vô lậu viên mãn

Ưa ngăn dứt các căn.

Nên nhập toàn tịch diệt

Nhận giữ thân sau cùng

Hàng phục các quân ma

Chứng thường lạc rốt ráo.

*

* Ba thứ nhãn: 1. Nhục nhãn (Mắt thường). 2. Thiên nhãn. 3. Thánh tuệ nhãn.

1. Thế nào là Nhục nhãn?

Đáp: Nghĩa là do các thứ xương thịt máu xen tạp nơi bốn đại chủng tịnh tạo nên, gồm có nhãn giới, nhãn xứ và nhãn căn. Đó gọi là Nhục nhãn.

2. Thế nào là Thiên nhãn?

Đáp: Nghĩa là do các thứ xương thịt máu không xen tạp nơi bốn đại chủng cực tịnh tạo nên, gồm có nhãn giới, nhãn xứ và nhãn căn. Đó gọi là Thiên nhãn.

3. Thế nào là Thánh tuệ nhãn?

Đáp: Nghĩa là các thứ tuệ hữu học, tuệ vô học, cùng tất cả các thứ tuệ phi học phi vô học thiện. Đó gọi là Thánh tuệ nhãn.

Như Đức Thế Tôn nói kệ:

Nhục nhãn là kém nhất

Thiên nhãn gọi tiếp trên

Thánh tuệ nhãn tối thắng

Có ba thứ sai biệt.

Tuệ thiện các thế gian

Có thể thuận quyết trạch

Học, vô học, biết đúng

Hết sinh, già, bệnh chết.

Đại giác trong trời người

Danh xưng rất cao xa

Cũng do tuệ mau chứng

Diệu giác, trang nghiêm thân.

*

* Ba nương dựa: 1. Nương dựa nơi nghe. 2. Nương dựa nơi lìa. 3. Nương dựa nơi tuệ.

1. Thế nào là nương dựa nơi nghe?

Đáp: Tức nghe nhiều, nghe giữ lấy, nghe chứa nhóm các pháp đã lãnh hội. Các pháp được giảng nói, phần trước giữa sau đều thiện, văn nghĩa xảo diệu, thuần nhất, viên mãn, phạm hạnh trong trắng. Đối với các pháp như thế nên nghe nhiều, đầy đủ, ghi nhớ giữ lấy các lời giảng dạy, chuyên ý thuần thục quán xét các giáo pháp đã nghe, nơi nghĩa các pháp đã thấy khéo thông đạt. Đó gọi là nghe. Nhân nơi nghe ấy, nương nơi nghe ấy, do nơi nghe ấy để kiến lập, nên có thể đoạn trừ các pháp bất thiện, có thể tu các pháp thiện. Đó gọi là nghe, cũng gọi là nương dựa, cũng gọi là nương dựa nơi nghe, nên gọi là nương dựa nơi nghe.

2. Thế nào là nương dựa nơi lìa?

Đáp: Tức lìa các pháp bất thiện dục ác, có tầm có tứ, đạt ly sinh hỷ lạc, nhập nơi tĩnh lự thứ nhất, an trụ đầy đủ, nói rộng cho đến nhập nơi tĩnh lự thứ tư, an trụ đầy đủ. Đó gọi là lìa. Nhân nơi lìa ấy, nương nơi lìa ấy, do nơi lìa ấy để kiến lập, nên có thể đoạn trừ các pháp bất thiện, có thể tu các pháp thiện. Đó gọi là lìa, cũng gọi là nương dựa, cũng gọi là nương dựa nơi lìa, nên gọi là nương dựa nơi lìa.

3. Thế nào là nương dựa nơi tuệ?

Đáp: Tức hiểu biết như thật đây là khổ Thánh đế, đây là khổ tập Thánh đế, đây là khổ diệt Thánh đế, đây là hướng đến khổ diệt đạo Thánh đế. Đó gọi là tuệ. Nhân nơi tuệ ấy, nương nơi tuệ ấy, do nơi tuệ ấy để kiến lập, nên có thể đoạn trừ các pháp bất thiện, có thể tu các pháp thiện. Đó gọi là tuệ, cũng gọi là nương dựa, cũng gọi là nương dựa nơi tuệ, nên gọi là nương dựa nơi tuệ.

Như Đức Thế Tôn nói kệ:

Nương nghe là kém nhất

Nương lìa gọi tiếp trên

Nương tuệ là tối thắng

Lực tinh tấn đầy đủ.

Đủ niệm, ưa định tĩnh

Biết thế gian sinh diệt

Giải thoát nơi tất cả

Tất sang đến bờ kia. **

5. Tụng nêu tổng quát thứ năm:

Năm: Ba pháp có mười

Là học, tu, trụ, định Đạo, tịnh, lặng, tăng thượng Vô thượng, minh đều ba.

Gồm có: Ba thứ học, ba thứ tu, ba thứ trụ, ba thứ định, ba chỉ dẫn, ba thanh tịnh, ba vắng lặng, ba tăng thượng, ba vô thượng, ba thứ minh.

*

* Ba thứ học: 1. Giới học tăng thượng. 2. Tâm học tăng thượng. 3. Tuệ học tăng thượng.

1. Thế nào là giới học tăng thượng?

Đáp: Tức an trụ nơi giới đầy đủ, giữ gìn các luật nghi biệt giải thoát. Các phép tắc được hành trì, thảy đều đầy đủ. Đối với một tội rất nhỏ, đều thấy có sợ hãi lớn. Thọ học các Học xứ (giới). Đó gọi là giới học tăng thượng.

2. Thế nào là tâm học tăng thượng?

Đáp: Tức lìa các pháp bất thiện dục ác, có tầm có tứ, đạt ly sinh hỷ lạc, nhập nơi tĩnh lự thứ nhất, an trụ đầy đủ, nói rộng cho đến nhập nơi tĩnh lự thứ tư, an trụ đầy đủ. Đó gọi là tâm học tăng thượng.

3. Thế nào là tuệ học tăng thượng?

Đáp: Tức hiểu biết đúng như thật đây là khổ Thánh đế, đây là khổ tập Thánh đế, đây là khổ diệt Thánh đế, đây là hướng đến khổ diệt đạo Thánh đế. Đó gọi là tuệ học tăng thượng.

Như Đức Thế Tôn nói kệ:

Bí-sô đủ ba học

Ưa tu hành như lý

Giới, tâm, tuệ tăng thượng

Luôn nối tiếp hiện hành.

Đủ uy lực tinh tấn

Cùng tĩnh lự sáng thịnh

Luôn gìn giữ các căn

Siêng hành không phóng dật.

Như ngày, đêm cũng vậy

Như đêm, ngày cũng thế

Như trước, sau cũng vậy

Như sau, trước cũng thế.

Như dưới, trên cũng vậy

Như trên, dưới cũng thế

Nương dựa nơi thù thắng

Do định không phóng dật.

Nói đây là học tích

Không phóng dật mà trụ

Do có thể hiểu xả

Nên được tâm giải thoát.

Đời gọi là Đẳng giác

Dũng mãnh đến hành biên

Minh hạnh đều viên mãn

Hằng trụ không quên mất.

Mạng căn không nối tiếp

Ái dứt nên giải thoát

Như đèn lửa Niết-bàn

Tâm giải thoát rốt ráo.

*

* Ba thứ tu: 1. Tu giới. 2. Tu định. 3. Tu tuệ.

1. Thế nào là tu giới?

Đáp: Tức đối với các giới thiện nên gần gũi, thường hành tập, cẩn trọng siêng tu không gián đoạn, không bỏ. Đó gọi là tu giới.

2. Thế nào là tu định?

Đáp: Tức đối với các định thiện nên gần gũi, thường hành tập, cẩn trọng siêng tu không gián đoạn, không bỏ. Đó gọi là tu định.

3. Thế nào là tu tuệ?

Đáp: Tức đối với các tuệ thiện nên gần gũi, thường hành tập, cẩn trọng siêng tu không gián đoạn, không bỏ. Đó gọi là tu tuệ.

Như Đức Thế Tôn nói kệ:

Khéo tu giới, định, tuệ

Đến rốt ráo tột cùng

Đã dứt hẳn các hữu

Không cấu uế chẳng lo.

Giải thoát các chấp trước

Đủ tuệ bén định sâu

Vượt khỏi cảnh giới ma

Như mặt trời chiếu khắp.

HẾT – QUYỂN 5