LUẬN A TỲ ĐẠT MA TẠNG HIỂN TÔNG
Tác giả: Tôn giả Chúng Hiền
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 31

Phẩm thứ 7: BIỆN VỀ HIỀN THÁNH, phần 3

Đã biện về hai đạo kiến tu khởi sinh có khác. Sẽ dựa nơi phần vị sai biệt của đạo này để kiến lập Thánh chủng nơi Bổ-đặc-già-la. Lại, dựa nơi phần vị mười lăm tâm của kiến đạo để kiến lập chúng Thánh có sai biệt.

Tụng nêu:

Gọi tùy tín, pháp hành

Do căn độn, lợi khác

Tu đủ, Hoặc đoạn một

Đến năm hướng quả đầu

Đoạn tiếp ba, hướng hai

Lìa tám địa, hướng ba.

Luận nói: Thánh giả trong vị kiến đạo có hai: (1) Tùy tín hành. (2) Tùy pháp hành.

Do căn độn, lợi nên lập riêng hai danh xưng. Các vị độn gọi là tùy tín hành, do sức kính tin từ trước nên tu tập gia hạnh. Các vị lợi căn gọi là tùy pháp hành, vì trước ưa thích quán xét nên tu tập gia hạnh. Chủng tánh của các loài hữu tình có sai biệt, theo pháp như vậy từ trước đến nay đã an trụ như thế. Đối với các sự việc, có người không ưa thích quán, hoặc có người ưa thích quán thì có thể chuyển, không thể chuyển. Tức hai Thánh giả, do đối với Hoặc do tu đạo đoạn đã đoạn đủ có khác, lập thành ba hướng. Nghĩa là hai Thánh kia, nếu từ trước đến nay chưa dùng đạo thế tục để đoạn hoặc do tu đạo đoạn, thì gọi là trói buộc đủ. Hoặc trước đã đoạn một phẩm Hoặc, cho đến năm phẩm Hoặc của cõi dục. Đến trong vị này gọi là hướng của quả đầu, là hướng đến quả đầu tiên.

Nói quả đầu nghĩa là quả Dự lưu. Quả này ở trong tất cả quả Samôn tất đầu tiên đạt được. Nếu trước đã đoạn sáu phẩm Hoặc, hoặc bảy, tám phẩm Hoặc thuộc cõi dục, đến trong vị này thì gọi là hướng của quả thứ hai, vì hướng đến quả thứ hai.

Quả thứ hai nghĩa là quả Nhất lai, vì đây là thứ hai trong quả đắc khắp. Nếu trước đã lìa chín phẩm Hoặc nơi cõi dục, hoặc trước đã đoạn một phẩm Hoặc của định đầu tiên, cho đến lìa đủ Hoặc của xứ vô sở hữu, đến trong vị này gọi là hướng của quả thứ ba, vì hướng đến quả thứ ba.

Quả thứ ba nghĩa là quả Bất hoàn, về số thứ ba căn cứ theo trước đã giải thích.

Như thế, người tùy tín hành, tùy pháp hành, do trước là trói buộc đủ đã đoạn Hoặc có khác, nên số riêng đều thành bảy mươi ba thứ. Nghĩa là ở nơi cõi dục trói buộc đủ là đầu, đến đoạn trừ chín phẩm Hoặc dùng làm thứ mười.

Như vậy cho đến xứ vô sở hữu, mỗi mỗi địa đều chín là bảy mươi ba. Các người trói buộc đủ sau, tức lìa chín ở trước, nên bảy địa sau không có trói buộc đủ riêng.

Tiếp theo, khi dựa nơi đạo loại trí của tu đạo để kiến lập chúng Thánh có sai biệt.

Tụng nêu:

Đến tâm thứ mười sáu

Tùy ba hướng, trụ quả

Gọi tín giải, kiến chí

Cũng do độn, lợi khác.

Luận nói: Tức người tùy tín hành, tùy pháp hành ở trước đến tâm của đạo loại trí thứ mười sáu, gọi là trụ quả, không còn gọi là hướng. Tùy theo ba hướng trước, nay trụ ba quả. Nghĩa là hướng Dự lưu trước, nay trụ quả Dự lưu. Hướng Nhất lai trước, nay trụ quả Nhất lai. Hướng Bất hoàn trước, nay trụ quả Bất hoàn. Quả A-la-hán tất không có đầu tiên đắc. Vì phàm phu không cùng có, vì lìa Hoặc của Hữu đảnh, nên kiến đạo không dung nạp. Vì đoạn trừ Hoặc do tu đạo đoạn. Đến phần vị trụ quả, bỏ hai danh xưng được hai danh xưng. Nghĩa là không còn gọi là tùy tín hành, tùy pháp hành, chuyển được hai danh xưng là tín giải, kiến chí. Hai tên gọi này cũng do căn độn lợi nên có sai biệt.

Các người độn căn trước gọi là tùy tín hành, nay gọi là tín giải. Do sức tăng thượng của tín nên thắng giải hiển bày.

Các người lợi căn trước gọi là tùy pháp hành, nay gọi là kiến chí. Do sức tăng thượng của tuệ nên chánh kiến hiển bày.

Do đâu lúc trước đoạn trừ Hoặc của cõi dục do tu đạo đoạn từ một đến năm phẩm, hoặc bảy tám phẩm. Hoặc một phẩm của định đầu, nói rộng cho đến xứ vô sở hữu. Hoặc của phẩm thứ chín đến tâm của đạo loại trí thứ mười sáu, chỉ gọi là quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, không phải là hướng Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán?

Tụng nêu:

Trong vị các quả đắc

Chưa được đạo quả thắng

Nên chưa khởi thắng đạo

Gọi trụ quả không hướng.

Luận nói: Vì dựa nơi đắc Thánh đạo để kiến lập tám Thánh, nên nơi phần vị của quả đắc đầu tiên chưa đạt được đạo của quả thù thắng. Vì tâm đắc quả đối với Hoặc của đối tượng đối trị nơi đạo của quả thù thắng, không phải là đối trị, nên không phải khi đối trị kia hiện ở trước là được đạo đối trị ấy, lý đó quyết định. Lại, không phải khi đắc quả, tức có đạo của quả hơn hẳn đã đoạn phiền não, và ly hệ đắc sinh thì đạo loại nhẫn không thể đoạn dứt phần hệ thuộc kia mà được. Nếu sức của đạo có thể đoạn dứt phần hệ thuộc kia mà được, thì đạo này dẫn ly hệ đắc kia được sinh mới nói đạo này có thể chứng diệt kia. Do khi được quả trước thì chưa được đạo của quả thù thắng. Người trụ quả cho đến khi chưa khởi đạo của quả hơn hẳn, tuy trước đã đoạn Hoặc do tu đạo đoạn một phẩm v.v… nơi cõi dục, chỉ gọi là trụ quả, không gọi là hướng sau.

Về sau vào thời nào được ly hệ vô lậu đắc đã đoạn dứt Hoặc do tu đạo đoạn trước?

Vào thời đạo của quả hơn hẳn hiện tiền, được là các thứ đã đoạn trước, về sau do tu đạo đoạn Hoặc, nhập vị ly sinh.

Được quả trước rồi thì quả này sinh nhất định khởi đạo của quả hơn hẳn chăng?

Về lý tất nên như vậy. Vì Bản luận nói: Thánh sinh nơi tĩnh lự thứ tư, vì lạc căn vô lậu của địa trên nhất định thành tựu. Chướng kia đã đoạn tất vui thích, vì chướng đã đoạn thì đạo dễ hiện ở trước.

Như thế là đã dựa vào phần trước, lìa đủ gấp bội và người hoàn toàn lìa dục, nhập kiến đế, ở phần vị mười sáu tâm, lập chúng Thánh riêng. Sẽ căn cứ theo Hoặc do tu đạo đoạn để biện về sinh dần dần, phần vị của đạo có thể đối trị có sai biệt. Tụng nêu:

Địa địa mất đức chín

Hạ, trung, thượng đều ba.

Luận nói: Mất, nghĩa là lỗi lầm, tức chướng của đối tượng đối trị. Đức, nghĩa là công đức, tức đạo của chủ thể đối trị.

Như trước đã biện Hoặc của cõi dục do tu đạo đoạn có chín phẩm sai biệt. Bốn tĩnh lự và bốn vô sắc của hai cõi trên nên biết cũng như vậy. Vì sinh tử đều thuộc về chín địa, như chướng của đối tượng đối trị, trong mỗi mỗi địa đều có chín phẩm. Các đạo của chủ thể đối trị như vô gián, giải thoát có chín phẩm cũng như vậy.

Về lỗi lầm, công đức thì như thế nào?

Đều chia làm chín phẩm. Nghĩa là phẩm căn bản có hạ, trung, thượng. Ba phẩm này đều được phân làm hạ, trung, thượng riêng. Do đấy lỗi lầm công đức đều phân làm chín phẩm. Nghĩa là phẩm hạ hạ, hạ trung, hạ thượng. Trung hạ, trung trung, trung thượng. Thượng hạ, thượng trung, thượng thượng. Nên biết uy lực của đạo nơi phẩm hạ hạ trong đây có thể đoạn trừ chướng của phẩm thượng thượng.

Như thế cho đến uy lực của đạo nơi phẩm thượng thượng có thể đoạn trừ chướng của phẩm hạ hạ. Các đức của chủ thể đối trị như phẩm thượng thượng v.v…, vì đầu tiên chưa có, nên đức này có lúc nơi phẩm thượng thượng cùng mất rồi thành không có. Nên biết trí trong đây, tuy vượt hơn Hoặc, nhưng vì chưa tăng thịnh, nên đạo gọi là phẩm hạ. Hoặc trong phần cùng nối tiếp tuy rất khó đoạn, nhưng vì vi tế tùy hành, nên chướng gọi là phẩm hạ.

Dựa vào lý như thế, nên lập thí dụ. Như nơi phần vị giặt áo, trước là tẩy trừ phần cấu bẩn thô, về sau mới loại trừ dần phần cấu bẩn vi tế. Lại như nơi bóng tối thô, một phần ánh sáng nhỏ là có thể diệt trừ. Chủ yếu là phải dùng ánh sáng lớn mới diệt trừ bóng tối vi tế. Về lý của lỗi lầm, công đức đối nhau cũng nên như vậy.

Do đấy, có thể nói trắng hơn, đen kém. Tức trong khoảnh khắc sát-na, đạo của chủ thể đối trị sinh đã nhổ sạch hết các thứ gốc rễ của Hoặc từ vô thủy đến nay.

Đã biện về công đức, lỗi lầm nơi chín phẩm có sai biệt.

Tiếp theo sẽ dựa nơi công đức lỗi lầm kia để lập về các Thánh giả có sai biệt. Lại, các vị hữu học trong phần vị tu đạo, gồm chung cũng gọi là vị tín giải, kiến chí. Tùy theo phần vị lại có nhiều thứ sai biệt. Trước nên kiến lập về những người đều chưa đoạn. Tụng nêu:

Chưa đoạn, tu đoạn lỗi

Trụ quả tột bảy lượt.

Luận nói: Các người trụ quả, đối với lỗi của tất cả địa do tu đạo đoạn, khi hoàn toàn chưa đoạn, gọi là Dự lưu.

Sinh tột cùng là bảy lần. Nói bảy lần là nêu rõ về bảy lần sinh qua lại. Là nghĩa ở trong nẻo trời, người đều là bảy lần sinh. Nói tột cùng là hiển bày về lần thọ sinh tối đa, không phải các Dự lưu đều nhất định bảy lần trở lại. Nên Khế kinh nói: Tột cùng là bảy lần sinh. Là tối đa của các lượt thọ sinh kia, là nghĩa bảy lần sinh trở lại.

Kinh nói so với nghĩa này không có sai biệt. Các đạo vô lậu gọi chung là lưu. Do đạo này làm nhân hướng đến Niết-bàn.

Nói dự là làm rõ về lần đầu tiên đến được Dự lưu kia, gọi là Dự lưu.

Danh xưng Dự lưu này là nói về nghĩa gì?

Nếu đầu tiên được đạo, gọi là Dự lưu, tức tên gọi Dự lưu, nên nói về thứ tám.

Nếu đầu tiên được quả, gọi là Dự lưu, tức người lìa dục gấp bội, hoàn toàn lìa dục, đến khi được đạo loại trí, gọi là Dự lưu, thì tên gọi Dự lưu này là nói về đầu tiên đắc quả. Nhưng người lìa dục gấp bội, lìa dục hoàn toàn, đến khi được đạo loại trí, không gọi là Dự lưu. Vì căn cứ theo tu đạo đoạn trừ Hoặc để lập quả kia, nên Dự lưu tất là dựa nơi người đắc quả khắp, vì đầu tiên đắc quả, lấy đó đặt tên. Nhất lai, Bất hoàn, không phải nhất định đầu tiên được, chỉ có quả này, tất đầu tiên được.

Do đâu tên gọi của quả này không nói về thứ tám? Vì đạo vô lậu chưa được đủ hướng quả. Vì đạo vô lậu chưa được đủ kiến, tu, vì chưa đến khắp đắc hiện quán lưu. Tám nhẫn, tám trí, gọi là hiện quán lưu. Khi được đạo loại trí mới là đều đến đắc gồm đủ.

Thế nên thứ tám không gọi là Dự lưu. Do Dự lưu này chỉ là quả đầu tiên. Người Dự lưu kia từ đây về sau trong nẻo trời người thuộc cõi dục đều thọ bảy lần sinh, tức nên nói mười bốn. Vì sao nói người Dự lưu kia tối đa là thọ bảy lần sinh?

Vấn nạn này là không hợp lý. Vì số bảy v.v… như cây bảy lá và bảy xứ thiện. Vì sức của Thánh đạo, nên không quá bảy hữu. Trung gian tuy có Thánh đạo hiện tiền, nhưng vì sức của nghiệp khác đã giữ gìn nên không chứng viên tịch. Chỉ dựa nơi Phật xuất thế, tức có luật nghi biệt giải. Hữu thứ bảy kia nếu không gặp pháp Phật, liền ở nơi tại gia đắc quả A-la-hán. Đã được quả rồi tất không ở nơi nhà. Oai nghi của Bí-sô theo pháp như thế mà thành tựu. Tuy trước không được gặp Phật thuyết giảng, nhưng nơi thọ mạng khác sinh tâm rất nhàm chán, không trải qua thời gian lâu liên nhập viên tịch.

Nếu ở nơi nẻo người được quả Dự lưu, thì trong nẻo người đủ bảy lần sinh. Nơi nẻo trời căn cứ theo đó nên biết. Không phải Thánh cũng có nghĩa tối đa là bảy lần sinh trở lại cùng nối tiếp, thành thục được Niết-bàn. Nhưng vì không quyết định thế nên không nói.

Đã biện về những người các Hoặc do tu đạo đoạn đều chưa đoạn, gọi là quả Dự lưu, tối đa là bảy lần sinh trở lại. Nay, tiếp theo nên biện về chúng Thánh của phần vị đoạn. Lại nên kiến lập hướng, quả Nhất lai. Tụng nêu:

Đoạn ba, bốn phẩm dục

Ba, hai, sinh Gia gia

Đoạn đến năm hai hướng

Đoạn sáu, quả Nhất lai.

Luận nói: Tức người Dự lưu tiến đến đoạn trừ Hoặc do tu đạo đoạn. Nếu chuyển đủ ba duyên thì gọi là gia gia:

1. Do đoạn Hoặc. Tức đoạn ba, bốn phẩm Hoặc nơi cõi dục do tu đạo đoạn. Nghĩa là Hoặc ở phần vị phàm phu trước đã đoạn. Hoặc hiện nay ở quả vị Dự lưu tiến tu đoạn trừ.

2. Do thành tựu căn. Tức được căn vô lậu có thể đối trị Hoặc kia. Nghĩa là đã thành tựu ba phẩm, bốn phẩm các căn vô lậu của đạo có thể đối trị các Hoặc ấy.

3. Do thọ sinh. Lại thọ sinh nơi cõi dục có ba, hai lần sinh. Tức là đoạn ba phẩm, lại thọ ba lần sinh. Nếu đoạn bốn phẩm, lại hai lần sinh. Ba lần, hai lần sinh này do ở nơi phần vị phàm phu đã tạo tác và tăng trưởng, chiêu cảm nghiệp ba, hai lần sinh. Không phải các Thánh giả, ở trong quả vị Thánh, lại có thể tạo tác mới dẫn dắt nghiệp của hữu sau, do vì đã từ bỏ sinh tử, hướng đến Niết-bàn. Do đấy, Khế kinh nói: Các Thánh giả chỉ thọ nhận nghiệp cũ, lại không tạo tác nghiệp mới. Nếu trong ba duyên, theo đấy thiếu một thứ, thiếu hai, hoặc thiếu hoàn toàn, thì không gọi là gia gia.

Vì sao thành tựu căn trong tụng không nói? Vì sau quả Dự lưu là nói về việc tiến đến đoạn trừ Hoặc, thành tựu các căn vô lậu có thể đối trị Hoặc kia. Nghĩa căn cứ theo đấy đã thành, nên không nói đủ.

Nếu như vậy tức nên không nói câu: Ba, hai lần sinh, vì nói đoạn trừ ba bốn phẩm thì nghĩa đã thành. Nghĩa là đã tiến đến đoạn ba, bốn phẩm Hoặc, vì quyết định còn lại có ba lần sinh, hai lần sinh, nên nói tướng của gia gia không viên mãn. Tức nên ở nơi tụng lại nói tiếng vân vân mới có thể gồm thâu đủ ba tướng gia gia. Hoặc nên không nói câu ba, hai lần sinh. Nhưng trong tụng nói ba, hai lần sinh, do có tăng tiến đối với chỗ thọ sinh, hoặc ít, hoặc không có, hoặc vượt qua số này, nên biết gồm có hai thứ gia gia:

4. Gia gia của trời: Nghĩa là ở nơi nẻo trời thuộc cõi dục sinh nơi ba, hai nhà mà chứng viên tịch. Hoặc một xứ trời, hoặc hai, hoặc ba.

5. Gia gia của người: Nghĩa là ở nơi nẻo người, sinh nơi ba, hai nhà mà chứng viên tịch. Hoặc xứ của một châu, hoặc hai, hoặc ba. Nếu có bảy lần sinh, sinh không đủ bảy, thì không phải là phần vị gia gia. Niết-bàn trung gian thuộc về loại nào?

Thuộc về bảy lần sinh. Trong bảy tiếng tột cùng là hiển bày về rất nhiều. Do đấy đã làm rõ trước sinh chưa đủ đã được bát Niết-bàn, cũng là thuộc về bảy lần sinh kia.

Người căn rất độn thì trải qua đủ bảy lần sinh, không phải các người lợi căn sinh nhất định đủ bảy. Đâu thể không đoạn năm cũng gọi là gia gia. Vì khi đoạn năm tất đoạn thứ sáu, không phải Hoặc của một phẩm có thể chướng ngại việc đắc quả. Cũng như nhất gián chưa vượt qua cõi. Tức người Dự lưu tiến đến đoạn một phẩm Hoặc của cõi dục do tu đạo đoạn cho đến năm phẩm, nên biết chuyển gọi là hướng quả Nhất lai.

Nếu đoạn phẩm thứ sáu thì thành quả Nhất lai. Tức người kia đi đến trên trời hoặc nơi nhân gian mà bát Niết-bàn, gọi là quả Nhất lai. Vượt quá quả này rồi về sau lại không sinh, tức do nghĩa ấy chứng biết trong gia gia, nếu là gia gia của trời thì thọ ba lần sinh. Nhân gian thì thọ hai lần sinh. Trên trời thọ ba lần sinh, thọ hai lần sinh là người một, trời hai. Như thế nên so sánh để giải thích gia gia trong nẻo người.

Nếu cho không như vậy thì quả Nhất lai kia có gì khác với gia gia của hai lần sinh ấy?

Tham, sân, si kia vì chỉ là phẩm dưới còn lại, nên tức quả Nhất lai được gọi là đã làm mỏng tham, sân, si.

Đã biện về hướng quả Nhất lai có sai biệt. Tiếp theo nên kiến lập hướng quả Bất hoàn. Tụng nêu:

Đoạn bảy hoặc tám phẩm

Một sinh, gọi nhất gián

Đây tức hướng thứ ba

Đoạn chín: Quả Bất hoàn.

Luận nói: Tức người Nhất lai tiến tới đoạn trừ Hoặc còn lại. Nếu chuyển đủ ba duyên thì gọi là nhất gián:

1. Do đoạn trừ Hoặc: Đoạn dứt bảy phẩm hoặc tám phẩm Hoặc trong cõi dục do tu đạo đoạn.

2. Do thành tựu căn: Tức được căn vô lậu, vô gián giải thoát có thể đối trị Hoặc kia.

3. Do thọ sinh: Là lại thọ một lần sinh khác trong nẻo người hoặc nẻo trời thuộc cõi dục.

Nếu trong ba duyên này, theo đấy thiếu một thứ, thiếu hai, thiếu hoàn toàn thì không gọi là nhất gián. Thành tựu căn vô lậu, trong tụng không nói cùng nên lại nói về nhân của một sinh, căn cứ trong gia gia, như chỗ ứng hợp nên giải thích.

Nói gián: Là tên khác của lỗ hổng. Nghĩa là trong phần vị kia, do có một lổ hổng chấp nhận một lần sinh, nên chưa được Niết-bàn. Hoặc tên gián này là nói về nghĩa gián cách. Nghĩa là ở nơi phần vị kia lại còn có một lần sinh làm gián cách nên không chứng viên tịch.

Người có nhất gián gọi là nhất gián. Vì sao còn có một phẩm Hoặc do tu đạo đoạn mà có thể làm chướng ngại khiến phải thọ sinh nơi cõi dục gọi là nhất gián?

Vì chưa được quả Bất hoàn. Nếu đoạn dứt phẩm Hoặc này, tức là vượt khỏi địa của hai quả dị thục đẳng lưu nơi các nghiệp phiền não thuộc cõi dục. Nên phẩm Hoặc ấy là chướng ngại cuối cùng khiến phải chấp nhận thọ sinh lần nữa. Khi đoạn sáu phẩm là chưa vượt qua địa kia, nên không có đoạn năm, trung gian thọ sinh, hiện thân không thể chứng quả Nhất lai. Tức phải đoạn bảy, tám phẩm Hoặc do tu đạo đoạn, nên biết cũng gọi là hướng quả Bất hoàn. Người trước đã đoạn ba, bốn, bảy, tám phẩm Hoặc nhập kiến đế, khi đắc quả sau tức gọi là gia gia và nhất gián chăng?

Quả này chưa gọi là gia gia, nhất gián, vì chưa được căn vô lậu có thể đối trị Hoặc kia. Nên đạo quả của quả vị đắc đầu tiên đã hiện ở trước, bấy giờ chưa tu đạo quả thù thắng, nên chủ yếu đến phần vị sau, lúc khởi đạo quả thù thắng mới được gọi là gia gia nhất gián. Căn vô lậu đối trị Hoặc kia lúc này mới đạt được. Tức người trước đã thành tựu quả Nhất lai, khi đoạn hết chín phẩm Hoặc của cõi dục thì bỏ tên Nhất lai, được quả Bất hoàn, tất vì không còn trở lại thọ sinh nơi cõi dục. Hoặc này gọi là năm kiết phần dưới đã đoạn. Đây là căn cứ theo tập đoạn, mật ý nói như thế. Tất không có lý năm kiết đều cùng lúc đoạn. Hoặc hai, hoặc ba, vì trước đã đoạn. Dựa vào vị Bất hoàn, trong các Khế kinh đã dùng vô số thứ môn để kiến lập có sai biệt.

Nay tiếp theo nên biện về tướng sai biệt kia. Tụng nêu:

Đây: Trung sinh Hữu hành

Vô hành bát Niết-bàn

Thượng lưu nếu tu xen

Nên đến Sắc cứu cánh.

Vượt nửa, vượt khắp, mất

Khác đạt tới Hữu đảnh

Hành vô sắc có bốn

Trụ đây bát Niết-bàn.

Luận nói: Bất hoàn này nói chung có bảy. Lại, hành nơi cõi sắc có năm: (1) Trung bát Niết-bàn. (2) Sinh bát Niết-bàn. (3) Hữu hành bát Niết-bàn. (4) Vô hành bát Niết-bàn. (5) Thượng lưu.

Vì ở nơi trung gian này bát Niết-bàn, nên nói vị này gọi là Trung bát Niết-bàn. Như thế nên biết, Niết-bàn này đối với sinh rồi, Niết-bàn này do hữu hành, Niết-bàn này do vô hành tức bát Niết-bàn, nên gọi là Sinh bát v.v… Vì Niết-bàn này là thượng lưu, nên gọi là Thượng lưu.

Nói Trung bát: Nghĩa là có một loại Bổ-đặc-già-la đã ở nơi kiết sinh được phi trạch diệt. Khởi kiết thì không như vậy. Hữu tình kia ở nơi cõi dục, do gặp phải duyên bức não đã bức bách não hại, liền có thể tự cố gắng tu tập gia hạnh thù thắng đoạn trừ kiết còn lại. Gia hạnh chưa viên mãn, gặp duyên xả bỏ mạng, bèn dẫn đến mạng chung. Do sức của khởi kiết, nên thọ trung hữu của cõi sắc, vì nhàm chán nhiều khổ, nên nhân nơi trước đã khởi đạo, tiến tới đoạn trừ kiết khác, thành A-la-hán, được bát Niết-bàn.

Nói Sinh bát: Nghĩa là có một loại Bổ-đặc-già-la, do trước đã tạo đủ nghiệp thuận khởi sinh và tăng trưởng, nên ở nơi cõi dục mất rồi thọ sinh nơi cõi sắc. Do đủ siêng năng tu đạo tinh tấn nhanh chóng, nên sinh xong không lâu thành A-la-hán, đến hết thọ lượng kia mới bát Niết-bàn.

Căn cứ theo hữu dư y nói là sinh bát, không phải vừa sinh xong, liền nhập vô dư, vì không có tự tại trong việc xả bỏ thọ mạng.

Nói Hữu hành bát, Vô hành bát: Nghĩa là có một loại Bổ-đặcgià-la sinh xong, phải trải qua nhiều thời gian mới thành tựu bậc vô học, trong đó có một vị dũng mãnh tinh tấn, có một vị bẩm tánh chậm chạp, biếng trễ. Như thứ lớp gọi là hữu hành, vô hành. Nghĩa là nếu một loại trước ở trong cõi dục, dựa vào sức của Tam-ma-địa gia hạnh không dừng dứt, đoạn năm kiết phần dưới, thành quả Bất hoàn. Về sau sinh nơi cõi sắc, trải qua nhiều thời gian, trở lại có thể tiến tu đạo của chủng loại trước, thành A-la-hán, gọi Hữu hành bát. Vị Vô hành bát so với đây là trái nhau. Hoặc sinh nơi cõi sắc, trải qua nhiều thời gian rồi, nương dựa vào khổ hạnh, giải thoát kiết còn lại, gọi là Hữu hành bát. Do hành giả kia tu tập, dựa vào đạo công dụng mà bát Niếtbàn. Cùng với đây trái nhau gọi là Vô hành bát.

Há không phải là Trung bát, Sinh bát, hiện bát đã nương dựa vào hành, cũng có Niết-bàn này, nên lập tên Hữu hành bát, Vô hành bát? Không có lỗi như thế. Nghĩa này tuy là đồng, nhưng nơi phần vị kia đều có sai biệt. Nghĩa là Trung bát v.v… tuy cũng quyết định dựa vào khổ hạnh, lạc hạnh, giải thoát kiết còn lại, nhưng các hành đều có phần vị không đồng. Đối với những không đồng này, gọi là sai biệt không chung. Ở đây không có phần vị sai biệt như thế, nên căn cứ theo đạo không đồng để làm rõ về chỗ sai biệt kia.

Vì sao lấy đây để so sánh với kia khiến cho đồng, nên ở trong ấy đã biện là không có lỗi. Do đấy, có thuyết nói: Hai sai biệt là do duyên nơi Thánh đạo hữu vi, vô vi, như thứ lớp ấy được Niết-bàn, nên biết cũng không có pháp khác đồng với lỗi này. Nhưng có kinh nói: Vô hành ở trước. Cũng có trong kinh trước nói hữu hành, lúc này đã không có khác, nên theo đấy nói là không trái. Vì hữu hành đáng tôn trọng nên nói trước.

Nói Thượng lưu: Nghĩa là có một loại Bổ-đặc-già-la, thượng lưu có tăng, không phải ở nơi xứ mới sinh, liền chứng viên tịch. Tức là mất ở cõi dục, sinh đến cõi sắc, chưa tức ở trong cõi này có thể chứng viên tịch. Chủ yếu chuyển sinh nơi cõi trên mới bát Niết-bàn. Tức sai biệt của thượng lưu này có hai, là do nhân và quả có sai biệt. Nhân sai biệt: Nghĩa là thượng lưu này đối với tĩnh lự, do có tu xen tạp, không có tu xen tạp. Quả sai biệt: Tức trời Sắc cứu cánh và trời Hữu đảnh, là xứ tột cùng. Nghĩa là nếu ở nơi tĩnh lự có tu xen tạp, thì có thể đi đến trời Sắc cứu cánh mới bát Niết-bàn. Vì tu xen tạp có thể chiêu cảm quả của trời Tịnh cư. Quả này tức lại có ba thứ sai biệt: Siêu việt hoàn toàn, siêu việt phân nửa và tử khắp có dị biệt.

Nói Siêu việt hoàn toàn: Nghĩa là trong cõi sắc từ một xứ qua đời, đi đến trời Sắc cứu cánh. Do hành giả kia trước ở trong thân của cõi dục đã tu xen tạp đủ bốn thứ tĩnh lự, gặp duyên thoái mất ba tĩnh lự trên, dùng vị ái của tĩnh lự thứ nhất làm duyên, mạng chung, sinh lên xứ của trời Phạm Chúng, do uy lực của tập quán ở nơi đời trước, lại có thể tu xen tạp tĩnh lự thứ tư. Từ xứ kia qua đời, sinh đến trời Sắc cứu cánh. Vì ở nơi xứ đầu tiên của mười sáu xứ thuộc cõi sắc mất, sinh nơi xứ sau cùng, siêu việt tức khắc trung gian, là nghĩa của siêu việt hoàn toàn.

Nói Siêu việt phân nửa: Nghĩa là trong cõi sắc, từ nơi trời v.v… đầu tiên lần lượt mà qua đời, cho đến trung gian có thể siêu việt một xứ mới có thể đi đến trời Sắc cứu cánh. Siêu việt mà không hoàn toàn là nghĩa của siêu việt phân nửa.

Nói tử khắp: Nghĩa là vị ái ở nơi cõi sắc nhiều, tất cả xứ sinh. Do hành giả kia đã ở khắp mười sáu xứ sở của địa nơi bốn tĩnh lự, mỗi mỗi đều có vị ái của địa dưới v.v… làm duyên chiêu cảm sinh. Từ mỗi mỗi xứ sở của trời Phạm chúng, một lần sinh, chết xong, đến trời Sắc cứu cánh mới bát Niết-bàn, nên gọi là tử khắp. Do căn cứ nơi nghĩa này, chỗ ở của Đại Phạm trong tĩnh lự thứ nhất, không phải là xứ riêng, tức là thuộc về trời Phạm Phụ thứ hai. Nếu khác với đây thì nơi chốn cư trú của Đại Phạm là xứ tà kiến. Là một Đại sư, tất không có Thánh giả thọ sinh ở trong đó. Và tử khắp cùng siêu việt phân nửa, tức nên không có sai biệt. Nên biết ở đây tức là trong hai thượng lưu, do có nhân tu xen tạp tĩnh lự, nên đến trời Sắc cứu cánh bát Niết-bàn. Thượng lưu còn lại, ở nơi tĩnh lự không có tu xen tạp, thì có thể đi đến trời Hữu đảnh mới bát Niết-bàn. Nghĩa là hành giả kia trước không có tu xen tạp tĩnh lự, do ở nơi vị ái của các định làm duyên. Ở đây mất, sinh khắp các xứ của cõi sắc, chỉ không thể đi đến trời Ngũ Tịnh Cư thiên. Mạng chung ở cõi sắc, đối với ba xứ vô sắc theo thứ lớp sinh xong. Về sau sinh nơi xứ Hữu đảnh mới bát Niết-bàn.

Trong hai thượng lưu, thì thứ trước là hành quán, thứ sau là hành chỉ, vì ưa thích tuệ (quán), ưa thích định (chỉ) có sai biệt. Người hai thượng lưu ở trong địa dưới được bát Niết-bàn cũng không trái lý. Mà nói hai thượng lưu này đi đến trời Sắc cứu cánh và trời Hữu đảnh, là dựa nơi xứ tột cùng để nói.

Không có người Bất hoàn, ở nơi xứ đã sinh, thọ sinh lần thứ hai, do người Bất hoàn kia đối với sự sinh cùng cầu thắng tấn không phải là bằng, hoặc kém. Chỉ người ở nơi cõi dục chết đi đến sinh nơi cõi sắc, có trung hữu trung bát Niết-bàn. Không phải người ở nơi cõi sắc chết, sinh nơi cõi sắc, vì trong cõi sắc không có tai họa xâm hại. Nếu ở phần vị bản hữu có duyên của chướng khác, không được Niếtbàn, thì trung hữu cũng như vậy. Vì trung hữu mỏng, yếu kém, không phải như bản hữu. Lại, trung hữu trung bát Niết-bàn kia, nếu có tức nên thuộc về thượng lưu, thì trung bát, thượng lưu tức nên không có sai biệt. Nghĩa là quyết định không có nhân duyên sai biệt, có thể nói thế này: Chỉ ở nơi cõi dục mất, thọ trung hữu của cõi sắc, liền bát Niết-bàn, được mang tên trung bát, không phải ở nơi cõi sắc mất.

Do đâu vị hữu học chưa lìa dục tham, không có trung hữu trung bát Niết-bàn?

Vì trung hữu của cõi dục dựa vào thân yếu kém, đối với nhiều sự việc là không có khả năng. Nên trụ ở phần vị bản hữu, đối với pháp của cõi dục hãy còn khó vượt qua, huống chi là trong trung hữu có thể vượt qua cõi dục đến được quả ứng hợp. Người nhiều sự việc, nghĩa là vượt ba cõi và vĩnh viễn đoạn trừ hai thứ phiền não và chứng được hai, ba quả Sa-môn. Trụ nơi phần vị trung hữu không có công năng như thế.

Lại, hữu này trước chưa từng thường tập để đối trị chín phẩm phiền não có sai biệt. Lại, quả Bất hoàn v.v… không phải nơi thân trung hữu đạt được. Vì đoạn trừ Hoặc tăng thượng, là đối tượng chứng đắc. Nên lìa nhiễm của ba cõi rất là khó.

Không có trung hữu của cõi dục có thể bát Niết-bàn. Trung hữu của cõi sắc so với trung hữu của cõi dục này đều khác. Nên có người ở trong ấy được Niết-bàn. Lại, trung hữu của địa này được bát Niếtbàn, chỉ khởi Thánh đạo hiện có trong địa ấy.

Trung bát Niết-bàn của phần vị trung hữu nơi địa tĩnh lự thứ nhất chỉ khởi tĩnh lự căn bản của tự địa, thì Thánh đạo hiện tiền, không phải vị chí, trung gian, vì khó khiến hiện tiền. Ở phần vị trung hữu dựa vào thân yếu kém, chủ yếu là dễ khởi mới có thể hiện tiền.

Năm thứ này gọi là hành nơi cõi sắc. Hành nơi cõi vô sắc sai biệt có bốn. Nghĩa là ở nơi cõi dục lìa tham của cõi sắc. Từ đấy mạng chung sinh nơi cõi vô sắc. Trong đây sai biệt chỉ có bốn thứ. Nghĩa là sinh bát v.v… có sai biệt. Đây cùng với năm hành trước thành sáu Bất hoàn. Lại, có không hành nơi cõi sắc, vô sắc. Tức trụ nơi cõi này có thể bát Niết-bàn, gọi là hiện bát Niết-bàn và sáu thứ trước là bảy. Hoặc nên lập chung chín thứ Bất hoàn. Nghĩa là hiện bát Niết-bàn phân làm hai thứ: (1) Ở nơi phần vị trước khéo biện giải về Thánh chỉ. (2) Lúc lâm chung mới có thể khéo biện giải.

Ở trong thượng lưu cũng phân làm hai thứ: (1) Hành nơi cõi sắc. (2) Hành nơi cõi vô sắc.

Và bốn hành trước là tám, cùng với chuyển sinh thành chín. Nói chuyển sinh: Nghĩa là ở nơi đời trước đã được Dự lưu, hoặc quả Nhất lai, ở trong đời hiện nay mới được Bất hoàn.

Trước nói hiện bát chỉ là nói về hiện đời là người đầu tiên được nhập Thánh đến Niết-bàn. Hoặc người Bất hoàn, do căn sai biệt, tùy theo đối tượng thích hợp ấy được phân thành chín thứ. Hoặc hành nơi cõi sắc trong năm Bất hoàn, lại có môn khác phân thành chín thứ.

Tụng nêu:

Hành cõi sắc có chín

Tức ba đều phân ba

Nghiệp, hoặc, căn có khác

Nên thành ba, chín riêng.

Luận nói: Tức năm thứ Bất hoàn hành nơi cõi sắc lập chung làm ba đều phân làm ba thứ nên thành chín thứ.

Những gì là ba?

Là Trung, Sinh, Thượng lưu có sai biệt.

Thế nào là ba thứ đều phân làm ba?

Trung bát Niết-bàn phân làm ba: Đầu tiên khởi đến xứ xa gần sẽ sinh được bát Niết-bàn có sai biệt.

Sinh bát Niết-bàn phân làm ba. Vừa sinh, hữu hành, vô hành khác nhau. Ba thứ này đều sinh đã được bát Niết-bàn. Vì thế đều nên gọi là sinh bát.

Ở trong thượng lưu phân làm ba: Siêu việt hoàn toàn, siêu việt phân nửa và tử khắp có khác nhau. Tuy nhiên, các thứ nơi ba thứ, tất cả đều do nhanh chóng, không phải nhanh chóng, trải qua thời gian lâu mới được bát Niết-bàn. Phân làm chín thứ không cùng tạp loạn.

Ba thứ, chín thứ Bất hoàn như thế, do nghiệp, hoặc, căn có sai biệt nên có nhanh chóng, không nhanh chóng, trải qua thời gian lâu có khác nhau. Lại, gồm chung thành ba, do trước đã tập hợp, thuận khởi sinh hậu nghiệp có khác. Như thứ lớp đó: Vì phiền não của phẩm hạ, trung, thượng hiện hành có sai biệt và vì căn thượng, trung, hạ có khác, nên ba thứ này mỗi mỗi như đối tượng ứng hợp của chúng, cũng do nghiệp, hoặc, căn có sai biệt, nên mỗi thứ đều có ba riêng tức thành chín thứ. Nghĩa là đầu, hai, ba do hoặc, căn riêng, đều thành ba thứ, không phải do nghiệp nên khác. Ba thứ sau cũng do thuận hậu thọ nghiệp, vì có sai biệt, nên phân thành ba thứ.

Thế nên nói Bất hoàn hành nơi sắc như thế, do nghiệp, hoặc, căn có khác nên thành ba, chín thứ riêng.

Nếu như vậy thì vì sao trong các Khế kinh Đức Phật chỉ nói có bảy nẻo thiện sĩ?

Tụng nêu:

Lập bảy nẻo thiện sĩ

Do thượng lưu không riêng

Thiện, ác hành, không hành

 Có đến không trở lại.

Luận nói: Trung, sinh đều có ba, thượng lưu là một. Kinh dựa nơi đây để lập bảy nẻo thiện sĩ.

Vì sao hai thứ trung, sinh trước đều phân làm ba? Còn thượng lưu thứ ba thì chỉ lập làm một?

Vì hành trên nên gọi là thượng lưu. Do nghĩa này đồng nên chỉ lập làm một. Hai thứ trước tuy cũng là nghĩa đồng, nhưng vì ở trong đó tướng riêng rất khó nhận. Vì muốn khiến dễ hiểu rõ, nên đều phân làm ba.

Thượng lưu có ba tướng riêng dễ hiểu rõ, không phiền phải ở nơi hành kia lại kiến lập riêng. Lại, hai thứ trước là riêng khác, chỉ có từng ấy dễ hiển bày chỉ rõ, nên đều phân làm ba.

Về thượng lưu thứ ba vì nghĩa riêng có nhiều thứ, thật khó hiển thị, nên lập chung làm một. Nghĩa là thứ nhất tức Trung bát chỉ ở nơi sắp sinh, căn phẩm Hoặc vì khác nên phân làm ba thứ.

Thứ hai là Sinh bát chỉ ở nơi đã sinh, cũng có căn, Hoặc khác nhau nên phân làm ba thứ.

Thượng lưu có chung cả nơi sắp sinh, đã sinh. Thượng lưu sắp sinh lại có hai thứ, nghĩa là ở nơi tĩnh lự có tu xen tạp, không tu xen tạp. Thượng lưu đã sinh phân làm hai cũng như vậy.

Lại, ở trong hai thượng lưu như thế, nếu không có tu xen tạp, thì cùng sinh nơi hai cõi. Nếu có tu xen tạp thì chỉ sinh nơi một cõi. Sinh nơi một cõi lại phân làm ba: Siêu việt hoàn toàn, siêu việt phân nửa và tử khắp có khác nhau. Ở trong siêu việt phân nửa thì sai biệt có nhiều, do thượng lưu này, tướng riêng là nhiều rộng. Nếu mỗi mỗi đều biện thì khó có thể chu tất, nên dựa nơi nghĩa bằng nhau để lập chung là thượng lưu.

Trong phần vị Trung, Sinh, thì nghĩa sai biệt có ít dễ hiển bày hiểu rõ nên phân làm sáu. Tuy nơi mỗi mỗi phần kia cũng có nghĩa đồng, nhưng là bằng với loại thứ ba. Ở trong thượng lưu tuy có nghĩa khác, nhưng bằng với hai thứ trước. Vì cùng ảnh hiển, nên chỉ lập bảy thứ. Chỉ ở đây là đã đoạn tham, sân v.v… của cõi dục, không phải là pháp thiện sĩ và pháp vô học. Quả của đại thiện sĩ vì rất gần nhau, nên kinh chỉ nói quả này gọi là hướng đến Thiện sĩ, không phải cho Dự lưu và Nhất lai đều không thể nói, gọi là hướng đến Thiện sĩ. Đức Phật cũng nói vị kia gọi là Thiện sĩ. Như Khế kinh nói: Thế nào là Thiện sĩ? Nghĩa là nếu thành tựu chánh kiến hữu học, cho đến thành tựu chánh định hữu học. Đi tới cõi trên gọi là hướng đến. Nghĩa là hướng đến quả trên và hướng sinh lên cõi trên. Thế nên chỉ nói bảy. Hoặc chỉ bảy thứ này đều có thể hành thiện, không hành bất thiện. Pháp khác thì không như vậy. Lại, chỉ bảy thứ này là đi đến sinh nơi cõi trên, không còn trở lại. Pháp khác thì không như vậy. Nên chỉ dựa nơi đấy để lập nẻo Thiện sĩ.

Những người ở nơi Thánh vị đã từng trải qua nhiều đời cũng có tướng sai biệt như thế này chăng? Không phải vậy. Vì sao?

Tụng nêu:

Qua cõi dục sinh Thánh

Không đến cõi khác sinh

Đây cùng đến sinh trên

Không luyện căn, thoái chuyển.

Luận nói: Nếu ở nơi Thánh vị, trải qua sinh nơi cõi dục, tất sẽ không đi đến sinh nơi cõi sắc, vô sắc. Do vị kia chứng đắc quả Bất hoàn rồi, nhất định ở nơi hiện thân bát Niết-bàn. Nếu Thánh giả ở nơi cõi sắc trải qua sinh ở đấy, tức cùng có nghĩa sinh lên trên là cõi vô sắc. Nhưng Thiên Đế Thích nói như thế này: Từng nghe có trời gọi là Sắc cứu cánh. Ta về sau nếu thoái chuyển rơi rớt sẽ sinh vào cõi kia. Do Thiên Đế Thích này không hiểu rõ về tướng đối trị. Tức người cõi này đã trải qua sinh nơi cõi dục và đã từ cõi này vãng sinh nơi cõi trên. Các Thánh tất không có luyện căn và thoái chuyển. Do từng trải qua thọ sinh ở nơi tự cùng nối tiếp đã tích tụ Thánh đạo hết sức vững chắc và được thân của đối tượng nương dựa là thù thắng.

Trước đã nói về thượng lưu do tu xen tạp tĩnh lự làm nhân, có thể đi đến trời Sắc cứu cánh.

Trước nên tu xen tạp các tĩnh lự nào? Do những phần vị nào nhận biết tu xen tạp thành? Lại vì duyên gì tu xen tạp tĩnh lự?

Tụng nêu:

Trước tu xen thứ tư

Thành do một niệm lẫn

Vì thọ sinh hiện lạc

Và ngăn phiền não thoái.

Luận nói: Những hành giả muốn tu xen tạp bốn tĩnh lự, tất trước là tu xen tạp tĩnh lự thứ tư, do đẳng trì của tĩnh lự kia rất có khả năng, nên trong các lạc hành, đẳng trì kia là hơn hết.

Người nào ở nơi tĩnh lự có khả năng huân tu xen tạp?

Chỉ các Thánh giả chung cho hữu học và vô học. Nơi phần vị học, chỉ chung cho vị tín giải, kiến chí. Ở quả vị vô học thì chung cho thời, phi thời. Tất trước là ở nơi ba châu tu xen tạp tĩnh lự, thoái chuyển sinh nơi cõi sắc, cũng có thể tu xen tạp. Thoái chuyển rồi, do luyện căn thành tánh kiến chí. Từ cõi dục mất, sinh trong cõi sắc, nhân theo trước lại có thể tu xen tạp tĩnh lự, nên sáu chủng tánh đều có thượng lưu. Vào thời gian tu xen tạp, thì tạo ra phương tiện gì? Hành giả kia tất trước nhập tĩnh lự thứ tư, nhiều niệm vô lậu cùng nối tiếp hiện tiền. Từ đấy dẫn sinh nhiều niệm hữu lậu. Về sau lại có nhiều niệm vô lậu hiện tiền.

Như thế xoay vòng càng về sau thì giảm dần, cho đến hai niệm vô lậu sau cùng. Tiếp theo dẫn hai niệm hữu lậu hiện tiền, vô gián lại sinh hai niệm vô lậu, gọi là gia hạnh của tu xen tạp định đã thành mãn. Từ đấy về sau, không do công sức, tự nhiên chỉ từ một niệm vô lậu, dẫn khởi một niệm hữu lậu hiện tiền, vô gián lại sinh một niệm vô lậu.

Như vậy sát-na trung gian của hữu lậu, sát-na trước sau là vô lậu xen lẫn, nên gọi là tu xen tạp định căn bản viên thành.

Tu xen tạp định thứ tư như thế xong, nhân nơi uy lực này, tùy theo đối tượng ứng hợp kia, cũng có thể tu xen tạp ba tĩnh lự dưới. Tu xen tạp tĩnh lự dùng năm uẩn làm thể. Nhưng ở trong ấy các thế tục trí là bốn pháp, bốn loại, tức tám trí đã tu xen tạp. Lược có ba duyên nên tu xen tạp tĩnh lự: (1) Vì thọ sinh. (2) Vì hiện lạc. (3) Vì ngăn chận khởi phiền não thoái chuyển.

Trong các Bất hoàn, nếu là tánh kiến chí thì làm hai duyên trước. Nếu là tánh tín giải thì làm đủ ba duyên. Trong A-la-hán thì bất thời giải thoát chỉ là hiện lạc. Người thời giải thoát là hai duyên sau.

Nếu tu xen tạp về tĩnh lự thì sinh nơi trời Năm Tịnh cư. Do đâu xứ Tịnh cư chỉ có năm?

Tụng nêu:

Do tu xen năm phẩm

Sinh có năm Tịnh Cư.

Luận nói: Do huân tu xen tạp tĩnh lự thứ tư có năm phẩm nên Tịnh Cư chỉ có năm.

Những gì gọi là năm phẩm?

Nghĩa là phẩm hạ, trung, thượng thượng thắng, thượng cực có sai biệt.

Trong đây, phẩm đầu có ba tâm hiện tiền liền được thành mãn. Nghĩa là đầu tiên tức vô lậu, tiếp theo khởi hữu lậu, sau khởi vô lậu.

Phẩm trung thứ hai có sáu tâm hiện tiền mới được thành mãn. Nghĩa là hai hữu lậu, bốn vô lậu đã tu xen tạp. Như vậy, số còn lại tùy theo thứ lớp của chúng có chín, mười hai, mười lăm niệm tâm, như chỗ ứng hợp hiện tiền mới được thành mãn.

Tu xen tạp năm phẩm như thế làm nhân, như thứ lớp có thể chiêu cảm quả của năm Tịnh Cư.

Mười lăm tâm hữu lậu, vô lậu như thế đều là từ trước đến nay chưa từng được, nay đạt được.

Có Sư khác nói: Năm tâm vô lậu đầu là từ trước đến nay chưa được, nay được, mười tâm còn lại đều là từng đã được. Khi năm vô lậu trước hiện tiền rồi là tu vị lai. Có người không khởi định, tu xen tạp thành mãn. Có người chủ yếu thường khởi mới được viên thành.

Có Sư khác cho: Do năm căn như tín v.v… theo thứ lớp tăng thượng, nên chiêu cảm năm Tịnh cư. Các thứ chiêu cảm Tịnh cư do sức của tu xen tạp, cũng do sức của nghiệp cùng hỗ trợ. Nhưng chỉ hữu lậu mới chiêu cảm dị thục kia, không phải là sức của vô lậu, vì đã từ bỏ hữu. Kinh nói: Không trở lại hữu gọi là Thân chứng.

Dựa nơi đức vượt hơn nào để lập danh xưng này?

Tụng nêu:

Bất hoàn được định diệt

Chuyển gọi là Thân chứng.

Luận nói: Người có định diệt đắc gọi là đắc định diệt, tức là người Bất hoàn. Nếu ở trong thân có được định diệt, thì chuyển gọi là Thân chứng. Nghĩa là người Bất hoàn. Do thân chứng đắc pháp giống với Niết-bàn, nên gọi là Thân chứng.

Vì sao nói chứng đắc định diệt kia chỉ gọi là Thân chứng?

Vì định ấy không có tâm, vì dựa vào thân sinh, do thân đều cùng có uy lực của sinh đắc, nên ở phần vị đã diệt kia cũng gọi là được định diệt ấy.

Do đâu Đức Phật nói phước điền của hàng hữu học thì thân chứng Bất hoàn, không dựa vào số ấy?

Vì như Đức Thế Tôn nói với Trưởng giả Cấp Cô Độc: Trưởng giả nên biết phước điền có hai: (1) Hữu học. (2) Vô học.

Hữu học có mười tám. Vô học chỉ có chín.

Những gì gọi là mười tám nơi hữu học?

Nghĩa là hướng quả Dự lưu, hướng quả Nhất lai, hướng quả Bất hoàn, hướng A-la-hán. Tùy tín hành, Tùy pháp hành, Tín giải, Kiến chí, Gia gia, Nhất gián. Trung, Sinh, Hữu hành, Vô hành, Thượng lưu. Đó gọi là mười tám.

Những gì gọi là chín thứ nơi vô học? Nghĩa là: Thoái, tư, hộ, an trụ, kham đạt, bất động, bất thoái, tuệ, câu giải thoát. Đó gọi là chín.

Về lý tức cũng nên nói nhưng không nói, vì Đức Phật quán thấy hàng hữu học, vô học, do đoạn và căn có thù thắng, nên có thể sinh quả hơn hẳn, gọi là ruộng phước. Tuy nhiên, chư vị Bất hoàn đã được định diệt, vì là hữu lậu, nên không thể nêu bày. Vì tự tánh giải thoát, nên gọi là thanh tịnh. Thân của đối tượng nương dựa thuộc Bất hoàn kia cũng có phiền não, vì chưa đoạn trừ vĩnh viễn, nên không thể nêu dẫn. Vì giải thoát cùng nối tiếp, nên gọi là thanh tịnh. Nên không căn cứ theo phần thành kia để lập ruộng phước hữu học. Trong quả vị vô học, công đức hữu lậu tuy không phải thuộc về tự tánh giải thoát, nhưng vì giải thoát cùng nối tiếp nên gọi là thanh tịnh. Do đấy cũng có thể sinh quả thù thắng.

Vì thế căn cứ ở định và căn có sai biệt, nói chín ứng quả, đều gọi là ruộng phước.

Đã biện về tướng thô của Bất hoàn có sai biệt. Nếu phân tích nhỏ thì số thành nhiều ngàn. Trong đây lại dựa vào hành nơi cõi sắc có năm, căn cứ theo năm môn như các địa v.v… để phân biệt. Nghĩa là năm, căn cứ theo địa thì số thành hai mươi, vì trong địa của bốn định, mỗi địa đều có năm thứ. Năm căn cứ theo chủng tánh thì số thành ba mươi, vì trong sáu chủng tánh, mỗi chủng tánh đều có năm thứ. Năm căn cứ theo xứ sinh, tức số thành tám mươi, vì trong mười sáu xứ, mỗi xứ đều có năm thứ. Năm căn cứ theo căn của chủng tánh thì số thành chín mươi. Nghĩa là căn hạ, trung, thượng của chủng tánh pháp thoái có sai biệt, nên số thành mười lăm. Cho đến chủng tánh bất động cũng như vậy.

Năm căn cứ theo chủng tánh của địa thì số thành một trăm hai mươi. Nghĩa là trong bốn địa, mỗi địa đều có ba mươi.

Năm căn cứ theo căn nơi chủng tánh của địa thì số thành ba trăm sáu mươi. Nghĩa là trong bốn địa, mỗi địa đều có chín mươi.

Năm căn cứ theo chủng tánh của xứ sinh tức số thành bốn trăm tám mươi. Nghĩa là nơi mười sáu xứ, mỗi xứ đều có ba mươi.

Năm căn cứ theo chủng tánh của xứ sinh và căn thì số thành một ngàn bốn trăm bốn mươi. Nghĩa là nơi mười sáu xứ, mỗi xứ đều có chín mươi.

Năm căn cứ theo căn nơi chủng tánh của xứ lìa nhiễm, thì tích số gồm chung thành một vạn hai ngàn chín trăm sáu mươi loại Bất hoàn sai biệt. Nghĩa là nơi lìa nhiễm chín phẩm không đồng, nhân với một ngàn bốn trăm bốn mươi ở trước.

HẾT – QUYỂN 31