LUẬN A TỲ ĐẠT MA PHÁT TRÍ
Tác giả: Tôn giả Ca Đa Diễn Ni Tử
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 5

Chương 2: KIẾT UẨN

Phẩm 3: BÀN VỀ HỮU TÌNH

Tụng nêu chung:

Đốn tiệm buộc lìa buộc

Quả thâu bảy thành ba

Tử sinh chẳng sáu thứ

Chương nầy xin nói đủ.

*

Ba cõi, mỗi cõi đều có hai bộ kiết: Nghĩa là do kiến đạo đoạn, tu đạo đoạn.

Hỏi: Đối với hai bộ kiết nơi cõi Dục do kiến đạo đoạn, tu đạo đoạn, từng có tức khắc (Đốn) bị trói buộc không?

Đáp: Có. Nghĩa là phàm phu đã lìa nhiễm dục, từ khi lìa nhiễm dục thoái chuyển và lúc mất ở nơi cõi Sắc, cõi Vô sắc, sinh nơi cõi Dục.

Hỏi: Từng có tức khắc lìa trói buộc không?

Đáp: Có. Nghĩa là phàm phu khi lìa nhiễm dục.

Hỏi: Từng có dần dần (Tiệm) bị trói buộc không?

Đáp: Không có.

Hỏi: Từng có dần dần lìa trói buộc không?

Đáp: Có. Nghĩa là đệ tử của Đức Thế Tôn trước đã lìa kiết do kiến đạo đoạn, sau lìa kiết do tu đạo đoạn.

*

Hỏi: Đối với hai bộ kiết nơi cõi Sắc do kiến đạo đoạn, tu đạo đoạn, từng có tức khắc bị trói buộc không?

Đáp: Có. Nghĩa là phàm phu đã lìa nhiễm sắc, từ khi lìa nhiễm sắc thoái chuyển và lúc mất ở nơi cõi Vô sắc, sinh nơi cõi Sắc, cõi Dục.

Hỏi: Từng có tức khắc lìa trói buộc không?

Đáp: Có. Nghĩa là phàm phu khi lìa nhiễm sắc.

Hỏi: Từng có dần dần bị trói buộc không?

Đáp: Không có.

Hỏi: Từng có dần dần lìa trói buộc không?

Đáp: Có. Nghĩa là đệ tử của Đức Thế Tôn trước đã lìa kiết do kiến đạo đoạn, sau lìa kiết do tu đạo đoạn.

*

Hỏi: Đối với hai bộ kiết nơi cõi Vô sắc do kiến đạo đoạn, tu đạo đoạn, từng có tức khắc bị trói buộc không?

Đáp: Không có.

Hỏi: Từng có tức khắc lìa trói buộc không?

Đáp: Không có.

Hỏi: Từng có dần dần bị trói buộc không?

Đáp: Không có.

Hỏi: Từng có dần dần lìa sự trói buộc không?

Đáp: Có. Nghĩa là đệ tử của Đức Thế Tôn trước đã lìa kiết do kiến đạo đoạn, sau lìa kiết do tu đạo đoạn.

*

Hỏi: Kiết tận do kiến đạo đoạn nơi cõi Dục thuộc về quả nào?

Đáp: Thuộc về bốn quả Sa-môn, hoặc Vô xứ.

Hỏi: Kiết tận do tu đạo đoạn nơi cõi Dục thuộc về quả nào?

Đáp: Thuộc về quả Bất hoàn, quả A-la-hán, hoặc Vô xứ.

Hỏi: Kiết tận do kiến đạo đoạn nơi cõi Sắc thuộc về quả nào?

Đáp: Thuộc về bốn quả Sa-môn, hoặc Vô xứ.

Hỏi: Kiết tận do tu đạo đoạn nơi cõi Sắc thuộc về quả nào?

Đáp: Thuộc về quả A-la-hán, hoặc Vô xứ.

Hỏi: Kiết tận do kiến đạo đoạn nơi cõi Vô sắc thuộc về quả nào?

Đáp: Thuộc về bốn quả Sa-môn.

Hỏi: Kiết tận do tu đạo đoạn nơi cõi Vô sắc thuộc về quả nào?

Đáp: Thuộc về quả A-la-hán.

*

Có năm bộ kiết: Nghĩa là kiết do kiến khổ đoạn, cho đến kiết do tu đạo đoạn.

Hỏi: Kiết tận do kiến khổ đoạn thuộc về quả nào?

Đáp: Thuộc về bốn quả Sa-môn, hoặc Vô xứ.

Hỏi: Kiết tận do kiến tập đoạn thuộc về quả nào?

Đáp: Thuộc về bốn quả Sa-môn, hoặc Vô xứ.

Hỏi: Kiết tận do kiến diệt đoạn thuộc về quả nào?

Đáp: Thuộc về bốn quả Sa-môn, hoặc Vô xứ.

Hỏi: Kiết tận do kiến đạo đoạn thuộc về quả nào?

Đáp: Thuộc về bốn quả Sa-môn.

Hỏi: Kiết tận do tu đạo đoạn thuộc về quả nào?

Đáp: Thuộc về quả A-la-hán.

*

Có chín bộ kiết: Nghĩa là kiết do khổ pháp trí đoạn, cho đến kiết do tu đạo đoạn.

Hỏi: Kiết tận do khổ pháp trí đoạn thuộc về quả nào?

Đáp: Thuộc về bốn quả Sa-môn, hoặc Vô xứ.

Hỏi: Kiết tận do khổ loại trí cho đến đạo pháp trí đoạn thuộc về quả nào?

Đáp: Thuộc về bốn quả Sa-môn, hoặc Vô xứ.

Hỏi: Kiết tận do đạo loại trí đoạn thuộc về quả nào?

Đáp: Thuộc về bốn quả Sa-môn.

Hỏi: Kiết tận do tu đạo đoạn thuộc về quả nào?

Đáp: Thuộc về quả A-la-hán.

*

Có mười lăm bộ kiết: Nghĩa là ba cõi, mỗi cõi đều có năm bộ, tức kiết do kiến khổ đoạn, cho đến kiết do tu đạo đoạn.

Hỏi: Kiết tận do kiến khổ, tập, diệt, đạo đoạn nơi cõi Dục thuộc về quả nào?

Đáp: Thuộc về bốn quả Sa-môn, hoặc Vô xứ.

Hỏi: Kiết tận do tu đạo đoạn nơi cõi Dục thuộc về quả nào?

Đáp: Thuộc về quả Bất hoàn, A-la-hán, hoặc Vô xứ.

Hỏi: Kiết tận do kiến khổ, tập, diệt, đạo đoạn nơi cõi Sắc thuộc về quả nào?

Đáp: Thuộc về bốn quả Sa-môn, hoặc Vô xứ.

Hỏi: Kiết tận do tu đạo đoạn nơi cõi Sắc thuộc về quả nào?

Đáp: Thuộc về quả A-la-hán, hoặc Vô xứ.

Hỏi: Kiết tận do kiến khổ, tập, diệt đoạn nơi cõi Vô sắc thuộc về quả nào?

Đáp: Thuộc về bốn quả Sa-môn, hoặc Vô xứ.

Hỏi: Kiết tận do kiến đạo đoạn nơi cõi Vô sắc thuộc về quả nào?

Đáp: Thuộc về bốn quả Sa-môn.

Hỏi: Kiết tận do tu đạo đoạn nơi cõi Vô sắc thuộc về quả nào?

Đáp: Thuộc về quả A-la-hán.

*

Hỏi: Ba kiết cho chín mươi tám tùy miên, mỗi mỗi thứ tùy miên tận (dứt hết) là thuộc về quả nào?

Đáp: Trong ba kiết: hữu thân kiến tận thuộc về bốn quả Samôn, hoặc Vô xứ.

Như hữu thân kiến tận trong ba kiết, nên biết hữu thân kiến tận trong năm kiết thuận phần dưới, hữu thân kiến, biên chấp kiến tận trong năm kiến cũng như vậy.

Giới cấm thủ, nghi tận thuộc về bốn quả Sa-môn. Như giới cấm thủ, nghi tận trong ba kiết, nên biết bộc lưu kiến, ách kiến trong bốn bộc lưu, bốn ách; kiết thủ, giới cấm thủ trong bốn thủ; giới cấm thủ và chấp thật nầy trong bốn thứ trói buộc thân; giới cấm thủ, nghi trong năm kiết thuận phần dưới; tà kiến, kiến thủ, giới cấm thủ trong năm kiến; tùy miên kiến, nghi trong bảy tùy miên; kiết kiến, kiết thủ, kiết nghi tận trong chín kiết đều cũng như vậy.

Ba căn bất thiện tận thuộc về quả Bất hoàn, A-la-hán, hoặc Vô xứ.

Như ba căn bất thiện tận, nên biết dục lậu trong ba lậu; bộc lưu dục, ách dục trong bốn bộc lưu, bốn ách; dục thủ trong bốn thủ; tham dục, giận dữ trong bốn thứ trói buộc thân; bốn cái trước trong năm cái; kiết giận, kiết ganh tị, kiết keo kiệt trong năm kiết; tham dục, giận dữ trong năm kiết thuận phần dưới; tỷ xúc, thiệt xúc sinh ra ái thân trong sáu ái thân; tùy miên dục tham, giận dữ trong bảy tùy miên; kiết giận, kiết ganh tị, kiết keo kiệt tận trong chín kiết đều cũng như vậy.

Hữu lậu, vô minh lậu tận thuộc về quả A-la-hán.

Như hữu lậu, vô minh lậu tận, nên biết: Bộc lưu hữu, bộc lưu vô minh, ách hữu, ách vô minh trong bốn bộc lưu, bốn ách; ngã ngữ thủ trong bốn thủ; kiết tham, mạn trong năm kiết; bốn kiết còn lại trừ tham sắc trong năm kiết thuận phần trên; ý xúc sinh ra ái thân trong sáu ái thân; tùy miên hữu tham, vô minh, mạn trong bảy tùy miên; kiết ái, mạn, vô minh tận trong chín kiết đều cũng như vậy.

Cái nghi tận thuộc về bốn quả Sa-môn, hoặc Vô xứ.

Tham sắc nơi kiết thuận phần trên tận thuộc về quả A-la-hán, hoặc Vô xứ.

Như tham sắc nơi kiết thuận phần trên tận, nên biết: Nhãn xúc, nhĩ xúc, thân xúc sinh ra ái thân tận cũng như vậy.

Trong chín mươi tám thứ tùy miên: Tùy miên tận do kiến khổ, tập, diệt, đạo đoạn nơi cõi Dục thuộc về bốn quả Sa-môn, hoặc Vô xứ. Tùy miên tận do tu đạo đoạn nơi cõi Dục thuộc về quả Bất hoàn, A-la-hán, hoặc Vô xứ.

Tùy miên tận do kiến khổ, tập, diệt, đạo đoạn nơi cõi Sắc thuộc về bốn quả Sa-môn, hoặc Vô xứ. Tùy miên tận do tu đạo đoạn nơi cõi Sắc thuộc về quả A-la-hán, hoặc Vô xứ.

Tùy miên tận do kiến khổ, tập, diệt đoạn nơi cõi Vô sắc thuộc về bốn quả Sa-môn, hoặc Vô xứ. Tùy miên tận do kiến đạo đoạn nơi cõi Vô sắc thuộc về bốn quả Sa-môn. Tùy miên tận do tu đạo đoạn nơi cõi Vô sắc thuộc về quả A-la-hán.

*

Hỏi: Các kiết tận trong hướng Dự lưu thuộc về quả nào?

Đáp: Thuộc về Vô xứ.

Hỏi: Các kiết tận trong quả Dự lưu thuộc về quả nào?

Đáp: Thuộc về quả Dự lưu.

Hỏi: Các kiết tận trong hướng Nhất lai thuộc về quả nào?

Đáp: Thuộc về quả Dự lưu, hoặc Vô xứ.

Hỏi: Các kiết tận trong quả Nhất lai thuộc về quả nào?

Đáp: Thuộc về quả Nhất lai.

Hỏi: Các kiết tận trong hướng Bất hoàn thuộc về quả nào?

Đáp: Thuộc về quả Nhất lai, hoặc Vô xứ.

Hỏi: Các kiết tận trong quả Bất hoàn thuộc về quả nào?

Đáp: Thuộc về quả Bất hoàn.

Hỏi: Các kiết tận trong hướng A-la-hán thuộc về quả nào?

Đáp: Thuộc về quả Bất hoàn, hoặc Vô xứ.

Hỏi: Các kiết tận trong quả A-la-hán thuộc về quả nào?

Đáp: Thuộc về quả A-la-hán. *

Hỏi: Đệ tử của Đức Thế Tôn thấy biết đủ chưa lìa nhiễm dục, các kiết tận do tu đạo đoạn nơi cõi Dục thuộc về quả nào?

Đáp: Thuộc về quả Nhất lai, hoặc Vô xứ.

Hỏi: Đã lìa nhiễm dục, chưa lìa nhiễm sắc, các kiết tận do tu đạo đoạn nơi cõi Sắc thuộc về quả nào?

Đáp: Thuộc về Vô xứ.

Hỏi: Đã lìa nhiễm sắc, chưa lìa nhiễm vô sắc, các kiết tận do tu đạo đoạn nơi cõi Vô sắc thuộc về quả nào?

Đáp: Thuộc về Vô xứ.

*

Hỏi: Các vị Dự lưu đã thành tựu pháp học, pháp nầy thuộc về quả Dự lưu chăng?

Đáp: Hoặc thuộc về, hoặc không thuộc về.

Thế nào là thuộc về? Là quả Dự lưu hữu vi đã được, không mất.

Thế nào là không thuộc về? Là các vị Dự lưu đã đạt được căn vô lậu thắng tấn cùng pháp hữu vi.

Hỏi: Nếu như pháp thuộc về quả Dự lưu thì đấy là pháp học chăng?

Đáp: Hoặc học, hoặc phi học phi vô học.

Thế nào là học? Là quả Dự lưu hữu vi.

Thế nào là phi học phi vô học? Là quả Dự lưu vô vi.

Hỏi: Các vị Nhất lai đã thành tựu pháp học, pháp nầy thuộc về quả Nhất lai chăng?

Đáp: Hoặc thuộc về, hoặc không thuộc về.

Thế nào là thuộc về? Là quả Nhất lai hữu vi đã được, không mất.

Thế nào là không thuộc về? Là các vị Nhất lai đã đạt được căn vô lậu thắng tấn cùng pháp hữu vi.

Hỏi: Nếu như pháp thuộc về quả Nhất lai thì đấy là pháp học chăng?

Đáp: Hoặc học, hoặc phi học phi vô học.

Thế nào là học? Là quả Nhất lai hữu vi.

Thế nào là phi học phi vô học? Là quả Nhất lai vô vi.

Hỏi: Các bậc Bất hoàn đã thành tựu pháp học, pháp nầy thuộc về quả Bất hoàn chăng?

Đáp: Hoặc thuộc về, hoặc không thuộc về.

Thế nào là thuộc về? Là quả Bất hoàn hữu vi đã được, không mất.

Thế nào là không thuộc về? Là các bậc Bất hoàn đã đạt được căn vô lậu thắng tấn cùng pháp hữu vi.

Hỏi: Nếu như pháp thuộc về quả Bất hoàn thì đấy là pháp học chăng?

Đáp: Hoặc học, hoặc phi học phi vô học.

Thế nào là học? Là quả Bất hoàn hữu vi.

Thế nào là phi học phi vô học? Là quả Bất hoàn vô vi.

Hỏi: Các bậc A-la-hán đã thành tựu pháp vô học, pháp nầy thuộc về quả A-la-hán chăng?

Đáp: Đúng vậy.

Hỏi: Nếu như pháp thuộc về quả A-la-hán thì đấy là pháp vô học chăng?

Đáp: Hoặc vô học, hoặc phi học phi vô học.

Thế nào là vô học? Là quả A-la-hán hữu vi.

Thế nào là phi học phi vô học? Là quả A-la-hán vô vi.

*

Hỏi: Các vị Dự lưu đã thành tựu pháp vô lậu, pháp nầy thuộc về quả Dự lưu chăng?

Đáp: Hoặc thuộc về, hoặc không thuộc về.

Thế nào là thuộc về? Là quả Dự lưu hữu vi, vô vi đã được, không mất.

Thế nào là không thuộc về? Là các vị Dự lưu đã đạt được căn vô lậu thắng tấn cùng pháp hữu vi, các kiết tận do họ đã chứng và người Dự lưu đã thành tựu phi trạch diệt.

Hỏi: Nếu như pháp thuộc về quả Dự lưu thì đấy là pháp vô lậu chăng?

Đáp: Đúng vậy.

Hỏi: Các vị Nhất lai đã thành tựu pháp vô lậu, pháp nầy thuộc về quả Nhất lai chăng?

Đáp: Hoặc thuộc về, hoặc không thuộc về.

Thế nào là thuộc về? Là quả Nhất lai hữu vi, vô vi đã được, không mất.

Thế nào là không thuộc về? Là các vị Nhất lai đã đạt được căn vô lậu thắng tấn cùng pháp hữu vi, các kiết tận do họ đã chứng và người Nhất lai đã thành tựu phi trạch diệt.

Hỏi: Nếu như pháp thuộc về quả Nhất lai thì đấy là pháp vô lậu chăng?

Đáp: Đúng vậy.

Hỏi: Các bậc Bất hoàn đã thành tựu pháp vô lậu, pháp nầy thuộc về quả Bất hoàn chăng?

Đáp: Hoặc thuộc về, hoặc không thuộc về.

Thế nào là thuộc về? Là quả Bất hoàn hữu vi, vô vi đã được, không mất.

Thế nào là không thuộc về? Là các bậc Bất hoàn đã đạt được căn vô lậu thắng tấn cùng pháp hữu vi, các kiết tận do họ đã chứng và người Bất hoàn đã thành tựu phi trạch diệt.

Hỏi: Nếu như pháp thuộc về quả Bất hoàn thì đấy là pháp vô lậu chăng?

Đáp: Đúng vậy.

Hỏi: Các bậc A-la-hán đã thành tựu pháp vô lậu, pháp nầy thuộc về quả A-la-hán chăng?

Đáp: Hoặc thuộc về, hoặc không thuộc về.

Thế nào là thuộc về? Là quả A-la-hán hữu vi, vô vi đã được, không mất.

Thế nào là không thuộc về? Là các A-la-hán đã thành tựu phi trạch diệt.

Hỏi: Nếu như pháp thuộc về quả A-la-hán thì đấy là pháp vô lậu chăng?

Đáp: Đúng vậy.

*

Hỏi: Các pháp do người Dự lưu thành tựu, pháp ấy thuộc về quả Dự lưu chăng?

Đáp: Nên tạo ra bốn trường hợp:

1. Có pháp do người Dự lưu thành tựu không phải thuộc về quả Dự lưu: Nghĩa là người Dự lưu đã đạt được căn vô lậu thắng tấn cùng pháp hữu vi, chứng đắc các kiết tận và thành tựu pháp hữu lậu phi trạch diệt.

2. Có pháp thuộc về quả Dự lưu không phải do người Dự lưu thành tựu: Nghĩa là quả Dự lưu chưa đạt được, đã mất.

3. Có pháp do người Dự lưu thành tựu cũng thuộc về quả Dự lưu: Nghĩa là quả Dự lưu đã đạt được, không mất.

4. Có pháp không phải do người Dự lưu thành tựu cũng không phải thuộc về quả Dự lưu: Nghĩa là trừ các tướng đã nêu trước.

Hỏi: Các pháp do người Nhất lai thành tựu, pháp ấy thuộc về quả Nhất lai chăng?

Đáp: Nên tạo ra bốn trường hợp:

1. Có pháp do người Nhất lai thành tựu không phải thuộc về quả Nhất lai: Nghĩa là người Nhất lai đạt được căn vô lậu thắng tấn cùng pháp hữu vi, chứng đắc các kiết tận và thành tựu pháp hữu lậu phi trạch diệt.

2. Có pháp thuộc về quả Nhất lai không phải do người Nhất lai thành tựu: Nghĩa là quả Nhất lai chưa đạt được, đã mất.

3. Có pháp do người Nhất lai thành tựu cũng thuộc về quả Nhất lai: Nghĩa là quả Nhất lai đã đạt được, không mất.

4. Có pháp không phải do người Nhất lai thành tựu cũng không phải thuộc về quả Nhất lai: Nghĩa là trừ các tướng đã nêu trước.

Hỏi: Các pháp do người Bất hoàn thành tựu, pháp ấy thuộc về quả Bất hoàn chăng?

Đáp: Nên tạo ra bốn trường hợp:

1. Có pháp do người Bất hoàn thành tựu không phải thuộc về quả Bất hoàn: Nghĩa là người Bất hoàn đạt được căn vô lậu thắng tấn cùng pháp hữu vi, chứng đắc các kiết tận và thành tựu pháp hữu lậu phi trạch diệt.

2. Có pháp thuộc về quả Bất hoàn không phải do người Bất hoàn thành tựu: Nghĩa là quả Bất hoàn chưa đạt được, đã mất.

3. Có pháp do người Bất hoàn thành tựu cũng thuộc về quả Bất hoàn: Nghĩa là quả Bất hoàn đã đạt được, không mất.

4. Có pháp không phải do người Bất hoàn thành tựu cũng không phải thuộc về quả Bất hoàn: Nghĩa là trừ các tướng đã nêu trước.

Hỏi: Các pháp do bậc A-la-hán thành tựu, pháp ấy thuộc về quả A-la-hán chăng?

Đáp: Nên tạo ra bốn trường hợp:

1. Có pháp do bậc A-la-hán thành tựu không phải thuộc về quả A-la-hán: Nghĩa là bậc A-la-hán đã thành tựu pháp hữu lậu phi trạch diệt.

2. Có pháp thuộc về quả A-la-hán không phải do bậc A-la-hán thành tựu: Nghĩa là quả A-la-hán chưa đạt được, đã mất.

3. Có pháp do bậc A-la-hán thành tựu cũng thuộc về quả A-lahán: Nghĩa là quả A-la-hán đã đạt được, không mất.

4. Có pháp không phải do bậc A-la-hán thành tựu cũng không phải thuộc về quả A-la-hán: Nghĩa là trừ các tướng đã nêu trước.

*

Hỏi: Những người ở cõi Dục mất đi, sinh ra, đều thọ nhận dục hữu chăng?

Đáp: Nên tạo ra bốn trường hợp:

1. Có người ở nơi cõi Dục mất đi, sinh ra, không thọ nhận dục hữu: Nghĩa là ở nơi cõi Dục mất đi, khởi trung hữu nơi cõi Sắc.

2. Có người thọ nhận dục hữu, không phải là mất đi, sinh ra nơi cõi Dục: Nghĩa là ở nơi cõi Sắc mất đi, khởi trung hữu nơi cõi Dục.

3. Có người ở nơi cõi Dục mất đi, sinh ra, cũng thọ nhận dục hữu: Nghĩa là ở nơi cõi Dục mất đi, khởi trung hữu, sinh hữu nơi cõi Dục.

4. Có người không phải ở nơi cõi Dục mất đi, sinh ra, cũng không thọ nhận dục hữu: Nghĩa là ở nơi cõi Sắc mất đi, sinh ra nơi cõi Sắc, Vô sắc. Nơi cõi Vô sắc mất đi, sinh ra nơi cõi Vô sắc, cõi Sắc.

Hỏi: Những người ở nơi cõi Sắc mất đi, sinh ra, đều thọ nhận sắc hữu chăng?

Đáp: Nên tạo ra bốn trường hợp:

1. Có người ở nơi cõi Sắc mất đi, sinh ra, không thọ nhận sắc hữu: Nghĩa là ở nơi cõi Sắc mất đi, khởi trung hữu nơi cõi Dục.

2. Có người thọ nhận sắc hữu, không phải là mất đi, sinh ra nơi cõi Sắc: Nghĩa là ở nơi cõi Dục mất đi, khởi trung hữu nơi cõi Sắc.

3. Có người ở nơi cõi Sắc mất đi, sinh ra, cũng thọ nhận sắc hữu: Nghĩa là ở nơi cõi Sắc mất đi, khởi trung hữu, sinh hữu nơi cõi Sắc.

4. Có người không phải ở nơi cõi Sắc mất đi, sinh ra, cũng không thọ nhận sắc hữu: Nghĩa là ở nơi cõi Dục mất đi, sinh ra nơi cõi Dục, cõi Vô sắc. Nơi cõi Vô sắc mất đi, sinh ra nơi cõi Vô sắc, cõi Dục.

Hỏi: Những người ở nơi cõi Vô sắc mất đi, sinh ra, đều thọ nhận vô sắc hữu chăng?

Đáp: Những người ở nơi cõi Vô sắc mất đi, sinh ra, đều thọ nhận vô sắc hữu. Có người thọ nhận vô sắc hữu, nhưng không phải ở nơi cõi Vô sắc mất đi, mà ở nơi cõi Vô sắc sinh ra: Nghĩa là ở nơi cõi Dục, cõi Sắc mất đi, sinh ra nơi cõi Vô sắc.

*

Hỏi: Những người ở nơi cõi Dục mất đi, sinh ra, có bao nhiêu loại?

Đáp: Có bốn: Nghĩa là hàng phàm phu, bậc Thánh nơi cõi Dục, cõi Sắc.

Hỏi: Những người ở nơi cõi Sắc mất đi, sinh ra, có bao nhiêu loại?

Đáp: Có ba: Nghĩa là hàng phàm phu nơi cõi Dục, hàng phàm phu và bậc Thánh nơi cõi Sắc.

Hỏi: Những người ở nơi cõi Vô sắc mất đi, sinh ra, có bao nhiêu loại?

Đáp: Có hai: Nghĩa là hàng phàm phu và bậc Thánh nơi cõi Vô sắc.

*

Hỏi: Những người không phải ở nơi cõi Dục mất đi, sinh ra, đều không thọ nhận dục hữu chăng?

Đáp: Nên tạo ra bốn trường hợp:

1. Có người không phải ở nơi cõi Dục mất đi, sinh ra, không phải là không thọ nhận dục hữu: Nghĩa là ở nơi cõi Sắc mất đi, khởi trung hữu nơi cõi Dục.

2. Có người không thọ nhận dục hữu, không phải là không ở nơi cõi Dục mất đi, sinh ra: Nghĩa là ở nơi cõi Dục mất đi, khởi trung hữu nơi cõi Sắc.

3. Có người không phải ở nơi cõi Dục mất đi, sinh ra, cũng không thọ nhận dục hữu: Nghĩa là ở nơi cõi Sắc mất đi, sinh ra nơi cõi Sắc, cõi Vô sắc. Ở nơi cõi Vô sắc mất đi, sinh ra nơi cõi Vô sắc, cõi Sắc.

4. Có người không phải không ở nơi cõi Dục mất đi, sinh ra, cũng không phải không thọ nhận dục hữu: Nghĩa là ở nơi cõi Dục mất đi, khởi trung hữu, sinh hữu nơi cõi Dục.

Những người không phải ở nơi cõi Sắc mất đi, sinh ra, đều không thọ nhận sắc hữu chăng?

Đáp: Nên tạo ra bốn trường hợp:

1. Có người không phải ở nơi cõi Sắc mất đi, sinh ra, không phải là không thọ nhận sắc hữu: Nghĩa là ở nơi cõi Dục mất đi, khởi trung hữu nơi cõi Sắc.

2. Có người không thọ nhận sắc hữu, không phải là không phải ở nơi cõi Sắc mất đi, sinh ra: Nghĩa là ở nơi cõi Sắc mất đi, khởi trung hữu nơi cõi Dục.

3. Có người không phải ở nơi cõi Sắc mất đi, sinh ra, cũng không thọ nhận sắc hữu: Nghĩa là ở nơi cõi Dục mất đi, sinh ra nơi cõi Dục, cõi Vô sắc. Ở nơi cõi Vô sắc mất đi, sinh ra nơi cõi Vô sắc, cõi Dục.

4. Có người không phải không ở nơi cõi Sắc mất đi, sinh ra, cũng không phải không thọ nhận sắc hữu: Nghĩa là ở nơi cõi Sắc mất đi, khởi trung hữu, sinh hữu nơi cõi Sắc.

Hỏi: Những người không phải ở nơi cõi Vô sắc mất đi, sinh ra, đều không thọ nhận vô sắc hữu chăng?

Đáp: Những người không phải ở nơi cõi Vô sắc mất đi, sinh ra, đều không thọ nhận vô sắc hữu. Có người không thọ nhận vô sắc hữu, không phải là không ở nơi cõi Vô sắc mất đi, nhưng không phải ở nơi cõi Vô sắc sinh ra: Nghĩa là ở nơi cõi Vô sắc mất đi, sinh ra nơi cõi Dục, cõi Sắc.

*

Hỏi: Những người không phải ở nơi cõi Dục mất đi, sinh ra, có bao nhiêu loại?

Đáp: Có năm: Nghĩa là hàng phàm phu ở nơi cõi Dục, hàng phàm phu nơi cõi Sắc, cõi Vô sắc, bậc Thánh nơi cõi Sắc, cõi Vô sắc.

Hỏi: Những người không phải ở nơi cõi Sắc mất đi, sinh ra, có bao nhiêu loại?

Đáp: Có sáu: Nghĩa là hàng phàm phu nơi ba cõi, bậc Thánh nơi ba cõi.

Hỏi: Những người không phải ở nơi cõi Vô sắc mất đi, sinh ra, có bao nhiêu loại?

Đáp: Có bốn: Nghĩa là hàng phàm phu ở cõi Dục, cõi Sắc, bậc Thánh ở cõi Dục, cõi Sắc.

*

Hỏi: Từng có ở nơi cõi Dục mất đi, không sinh nơi cõi Dục chăng?

Đáp: Có. Nghĩa là khởi trung hữu nơi cõi Dục, cõi Sắc, sinh nơi cõi Vô sắc, hoặc bát Niết bàn.

Hỏi: Từng có ở nơi cõi Dục mất đi, không sinh nơi cõi Sắc chăng?

Đáp: Có. Nghĩa là khởi trung hữu nơi cõi Dục, cõi Sắc, sinh nơi cõi Vô sắc, hoặc bát Niết bàn.

Hỏi: Từng có ở nơi cõi Dục mất đi, không sinh nơi cõi Vô sắc chăng?

Đáp: Có. Nghĩa là khởi trung hữu nơi cõi Dục, cõi Sắc, hoặc bát Niết bàn.

Hỏi: Từng có ở nơi cõi Sắc mất đi, không sinh nơi cõi Sắc chăng?

Đáp: Có. Nghĩa là khởi trung hữu nơi cõi Dục, cõi Sắc, sinh nơi cõi Vô sắc, hoặc bát Niết bàn.

Hỏi: Từng có ở nơi cõi Sắc mất đi, không sinh nơi cõi Dục chăng?

Đáp: Có. Nghĩa là khởi trung hữu nơi cõi Dục, cõi Sắc, sinh nơi cõi Vô sắc, hoặc bát Niết bàn.

Có trường hợp ở nơi cõi Sắc mất đi, không sinh nơi cõi Vô sắc chăng?

Đáp: Có. Nghĩa là khởi trung hữu nơi cõi Dục, cõi Sắc, hoặc bát Niết bàn.

Hỏi: Từng có ở nơi cõi Vô sắc mất đi, không sinh nơi cõi Vô sắc chăng?

Đáp: Có. Nghĩa là khởi trung hữu nơi cõi Dục, cõi Sắc, hoặc bát Niết bàn.

Hỏi: Từng có ở nơi cõi Vô sắc mất đi, không sinh nơi cõi Dục chăng?

Đáp: Có. Nghĩa là khởi trung hữu nơi cõi Dục, cõi Sắc, sinh nơi cõi Vô sắc, hoặc bát Niết bàn.

Hỏi: Từng có ở nơi cõi Vô sắc mất đi, không sinh nơi cõi Sắc chăng?

Đáp: Có. Nghĩa là khởi trung hữu nơi cõi Dục, cõi Sắc, sinh nơi cõi Vô sắc, hoặc bát Niết bàn.

*

Hỏi: Những người ở nơi cõi Dục mất đi, không sinh nơi cõi Dục, có bao nhiêu loại?

Đáp: Có sáu: Tức là hàng phàm phu nơi ba cõi, bậc Thánh nơi ba cõi.

Hỏi: Những người ở nơi cõi Dục mất đi, không sinh nơi cõi Sắc, có bao nhiêu loại?

Đáp: Có sáu: Tức hàng phàm phu nơi ba cõi, bậc Thánh nơi ba cõi.

Hỏi: Những người ở nơi cõi Dục mất đi, không sinh nơi cõi Vô sắc, có bao nhiêu loại?

Đáp: Có bốn: Tức hàng phàm phu ở cõi Dục, cõi Sắc, bậc Thánh ở cõi Dục, cõi Sắc.

Hỏi: Những người ở nơi cõi Sắc mất đi, không sinh nơi cõi Sắc, có bao nhiêu loại?

Đáp: Có năm: Tức hàng phàm phu nơi cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc, bậc Thánh nơi cõi Sắc, cõi Vô sắc.

Hỏi: Những người ở nơi cõi Sắc mất đi, không sinh nơi cõi Dục, có bao nhiêu loại?

Đáp: Có năm: Tức hàng phàm phu nơi cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc, bậc Thánh nơi cõi Sắc, cõi Vô sắc.

Hỏi: Những người ở nơi cõi Sắc mất đi, không sinh nơi cõi Vô sắc, có bao nhiêu loại?

Đáp: Có ba: Tức là hàng phàm phu nơi cõi Dục, phàm phu, Thánh giả nơi cõi Sắc.

Hỏi: Những người ở nơi cõi Vô sắc mất đi, không sinh nơi cõi Vô sắc, có bao nhiêu loại?

Đáp: Có hai: Tức là hàng phàm phu nơi cõi Dục, cõi Sắc.

Hỏi: Những người ở nơi cõi Vô sắc mất đi, không sinh nơi cõi Dục, có bao nhiêu loại?

Đáp: Có bốn: Tức là hàng phàm phu, Thánh giả nơi cõi Vô sắc, hàng phàm phu ở cõi Dục, cõi Sắc.

Hỏi: Những người ở nơi cõi Vô sắc mất đi, không sinh nơi cõi Sắc, có bao nhiêu loại?

Đáp: Có bốn: Tức là hàng phàm phu, Thánh giả nơi cõi Vô sắc, hàng phàm phu nơi cõi Dục, cõi Sắc.

*

Từng có người ở nơi cõi Dục mất đi, không sinh nơi ba cõi chăng?

Đáp: Có. Nghĩa là khởi trung hữu nơi cõi Dục, cõi Sắc, hoặc bát Niết-bàn.

Hỏi: Từng có người ở nơi cõi Sắc mất đi, không sinh nơi ba cõi chăng?

Đáp: Có. Nghĩa là khởi trung hữu nơi cõi Dục, cõi Sắc, hoặc bát Niết-bàn.

Hỏi: Từng có người ở nơi cõi Vô sắc mất đi, không sinh ở ba cõi chăng?

Đáp: Có. Nghĩa là khởi trung hữu nơi cõi Dục, cõi Sắc, hoặc bát Niết-bàn.

*

Hỏi: Những người mất ở cõi Dục, không sinh nơi ba cõi, có bao nhiêu loại?

Đáp: Có bốn: Tức là hàng phàm phu, Thánh giả nơi cõi Dục, cõi Sắc.

Hỏi: Những người mất ở cõi Sắc, không sinh nơi ba cõi, có bao nhiêu loại?

Đáp: Có ba: Tức là hàng phàm phu nơi cõi Dục, hàng phàm phu, Thánh giả nơi cõi Sắc.

Hỏi: Những người mất ở cõi Vô sắc, không sinh nơi ba cõi, có bao nhiêu loại?

Đáp: Có hai: Tức là hàng phàm phu nơi cõi Dục, cõi Sắc.

*

Hỏi: Từng có người chưa lìa nhiễm dục, sau khi mạng chung không sinh nơi cõi Dục chăng?

Đáp: Có. Nghĩa là khởi trung hữu nơi cõi Dục.

Hỏi: Từng có người chưa lìa nhiễm sắc, sau khi mạng chung không sinh nơi cõi Dục, cõi Sắc chăng?

Đáp: Có. Nghĩa là khởi trung hữu nơi cõi Dục, cõi Sắc.

Hỏi: Từng có người chưa lìa nhiễm vô sắc, sau khi mạng chung không sinh nơi ba cõi chăng?

Đáp: Có. Nghĩa là khởi trung hữu nơi cõi Dục, cõi Sắc.

*

Hỏi: Những người chưa lìa nhiễm dục, sau khi mạng chung không sinh nơi cõi Dục, có bao nhiêu loại?

Đáp: Có hai. Đó là hàng phàm phu, Thánh giả nơi cõi Dục.

Hỏi: Những người chưa lìa nhiễm dục, sau khi mạng chung không sinh nơi cõi Dục, cõi Sắc, có bao nhiêu loại?

Đáp: Có bốn. Đó là hàng phàm phu, Thánh giả nơi cõi Dục, cõi Sắc.

Hỏi: Những người chưa lìa nhiễm vô sắc, sau khi mạng chung không sinh nơi ba cõi, có bao nhiêu loại?

Đáp: Có bốn. Đó là hàng phàm phu, Thánh giả nơi cõi Dục, cõi Sắc.

*

Hỏi: Phàm phu, Thánh giả nơi cõi Dục có bao nhiêu tùy miên tùy tăng, bao nhiêu kiết trói buộc?

Đáp: Phàm phu có chín mươi tám tùy miên tùy tăng, chín kiết trói buộc. Thánh giả có mười tùy miên tùy tăng, sáu kiết trói buộc.

Phàm phu, Thánh giả nơi cõi Sắc có bao nhiêu tùy miên

tùy tăng, bao nhiêu kiết trói buộc?

Đáp: Phàm phu có sáu mươi hai tùy miên tùy tăng, sáu kiết trói buộc. Thánh giả có sáu tùy miên tùy tăng, ba kiết trói buộc.

Hỏi: Phàm phu, Thánh giả nơi cõi Vô sắc có bao nhiêu tùy miên tùy tăng, bao nhiêu kiết trói buộc?

Đáp: Phàm phu có ba mươi mốt tùy miên tùy tăng, sáu kiết trói buộc. Thánh giả có ba tùy miên tùy tăng, ba kiết trói buộc.

***

Phẩm 4: BÀN VỀ MƯỜI MÔN, phần 1

Tụng nêu chung:

Bốn mươi hai tùy tăng

Hai duyên vô gián hữu

Căn thành, không biết, chứng

Chương nầy xin nói đủ.

*

Gồm có: Hai mươi hai căn, mười tám giới, mười hai xứ.

Năm uẩn, năm thủ uẩn, sáu giới.

Pháp có sắc, không sắc; pháp có kiến, không kiến; pháp có đối, không đối; pháp hữu lậu, vô lậu; pháp hữu vi, vô vi.

Pháp quá khứ, vị lai, hiện tại; pháp thiện, bất thiện, vô ký; pháp hệ thuộc nơi cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc; pháp học, vô học, phi học phi vô học; pháp do kiến đạo đoạn, tu đạo đoạn, không đoạn.

Bốn đế, bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc.

Tám giải thoát, tám thắng xứ, mười biến xứ, tám trí.

Ba Tam-ma-địa, ba lớp Tam-ma-địa, ba kiết, ba căn bất thiện, ba lậu.

Bốn bộc lưu, bốn ách, bốn thủ, bốn thứ trói buộc thân.

Năm cái, năm kiết, năm kiết thuận phần dưới, năm kiết thuận phần trên, năm kiến.

Sáu ái thân, bảy tùy miên, chín kiết, chín mươi tám tùy miên.

*

Nhãn căn cho đến tùy miên vô minh nơi cõi Vô sắc do tu đạo đoạn.

Hỏi: Trong chín mươi tám tùy miên nơi mỗi mỗi tùy miên có bao nhiêu tùy miên tùy tăng?

Đáp: Nhãn căn, biến hành nơi cõi Dục, cõi Sắc, và tùy miên tùy tăng do tu đạo đoạn. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân căn cũng như vậy.

Nữ căn, biến hành nơi cõi Dục và tùy miên tùy tăng do tu đạo đoạn. Nam căn, khổ căn cũng như vậy.

Mạng căn, biến hành nơi ba cõi và tùy miên tùy tăng do tu đạo đoạn. Năm căn như tín v.v… cũng như vậy.

Ý căn có tất cả tùy miên tùy tăng. Xả căn cũng như vậy.

Lạc căn nơi cõi Sắc, tất cả biến hành nơi cõi Dục và tùy miên tùy tăng do tu đạo đoạn.

Hỷ căn nơi cõi Sắc, tất cả nơi cõi Dục, trừ vô lậu duyên nơi nghi, căn kia tương ưng với vô minh, còn lại là tất cả tùy miên tùy tăng.

Ưu căn nơi cõi Dục, có tất cả tùy miên tùy tăng.

Ba căn vô lậu không có tùy miên tùy tăng.

Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, sắc, thanh xúc, nhãn, nhĩ, thân thức giới, biến hành nơi cõi Dục, cõi Sắc và tùy miên tùy tăng do tu

đạo đoạn. Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, sắc, thanh xúc xứ, sắc uẩn, sắc thủ uẩn, năm giới trước, pháp có sắc, có kiến, có đối cũng như vậy.

Hương, vị, tỷ, thiệt thức giới, biến hành nơi cõi Dục, và tùy miên tùy tăng do tu đạo đoạn. Hương, vị xứ cũng như vậy.

Ý pháp, ý thức giới có tất cả tùy miên tùy tăng.

Ý pháp xứ, bốn uẩn sau, bốn thủ uẩn sau, thức giới, pháp không sắc, không kiến, không đối, pháp hữu lậu, hữu vi, pháp quá khứ, vị lai, hiện tại, phi học phi vô học cũng như vậy.

Pháp vô lậu, vô vi không có tùy miên tùy tăng. Pháp học, vô học, không đoạn cũng như vậy.

Pháp thiện và pháp do tu đạo đoạn, biến hành nơi ba cõi và tùy miên tùy tăng do tu đạo đoạn.

Pháp bất thiện và pháp hệ thuộc nơi cõi Dục, có tất cả tùy miên tùy tăng nơi cõi Dục.

Pháp vô ký nơi cõi Sắc, cõi Vô sắc, tất cả hai bộ của cõi Dục và tùy miên tùy tăng biến hành do kiến tập đoạn.

Pháp hệ thuộc nơi cõi Sắc có tất cả tùy miên tùy tăng nơi cõi Sắc.

Pháp hệ thuộc nơi cõi Vô sắc có tất cả tùy miên tùy tăng nơi cõi Vô sắc.

Pháp do kiến đạo đoạn có tất cả tùy miên tùy tăng do kiến đạo đoạn.

Khổ tập đế có tất cả tùy miên tùy tăng.

Diệt đạo đế không có tùy miên tùy tăng. Pháp, loại, khổ, tập, diệt, đạo trí, ba Tam-ma-địa cũng như vậy.

Bốn tĩnh lự nơi cõi Sắc có tất cả tùy miên tùy tăng.

Bốn vô lượng biến hành nơi cõi Sắc và tùy miên tùy tăng do tu đạo đoạn. Ba giải thoát trước, tám thắng xứ, tám biến xứ trước, tha tâm trí cũng như vậy.

Bốn vô sắc nơi cõi Vô sắc có tất cả tùy miên tùy tăng.

Năm giải thoát sau, hai biến xứ sau, biến hành nơi cõi Vô sắc và tùy miên tùy tăng do tu đạo đoạn.

Thế tục trí, trừ vô lậu duyên nơi kiến, còn lại là tất cả tùy miên tùy tăng.

Ba lớp Tam-ma-địa, biến hành nơi ba cõi và tùy miên tùy tăng do tu đạo đoạn.

Kiết hữu thân kiến, tất cả do kiến khổ đoạn và tùy miên tùy tăng biến hành, do kiến tập đoạn, hữu thân kiến nơi kiết thuận phần dưới, hữu thân kiến, biên chấp kiến cũng như vậy.

Kiết giới cấm thủ, tất cả do kiến khổ đoạn cùng kiến tập đoạn biến hành, kiến đạo đoạn tùy miên tùy tăng duyên nơi hữu lậu. Giới cấm thủ cùng giới cấm thủ nơi các thứ trói buộc thân, giới cấm thủ nơi kiết thuận phần dưới cũng như vậy.

Kiết nghi duyên nơi hữu lậu do kiến đạo đoạn và nghi tương ưng với vô minh duyên nơi vô lậu có tùy miên tùy tăng. Nghi nơi kiết thuận phần dưới, tùy miên nghi, kiết nghi cũng như vậy.

Căn bất thiện tham, giận, duyên nơi hữu lậu của cõi Dục có tùy miên tùy tăng. Hai thứ trói buộc thân trước, hai cái trước, kiết sân, hai kiết trước nơi kiết thuận phần dưới, hai tùy miên trước, kiết giận cũng như vậy.

Căn bất thiện si nơi cõi Dục, trừ vô minh duyên nơi vô lậu, còn lại là tất cả tùy miên tùy tăng.

Dục lậu nơi cõi Dục có tất cả tùy miên tùy tăng. Bộc lưu dục, ách dục, dục thủ, cái hôn trầm, thùy miên, trạo cử cũng như vậy.

Hữu lậu nơi cõi Sắc, Vô sắc có tất cả tùy miên tùy tăng. Bộc lưu hữu, ách hữu, ngã ngữ thủ cũng như vậy.

Vô minh lậu trừ vô minh duyên nơi vô lậu, còn lại là tất cả tùy miên tùy tăng. Bộc lưu vô minh, ách vô minh, tùy miên vô minh, kiết vô minh cũng như vậy.

Bộc lưu kiến, ách kiến duyên nơi hữu lậu do kiến đạo đoạn, và kiến tương ưng với vô minh duyên nơi vô lậu có tùy miên tùy tăng. Kiến thủ, tà kiến, tùy miên kiến, kiết kiến cũng như vậy.

Trói buộc thân do chấp thật nầy duyên nơi hữu lậu do kiến đạo đoạn có tùy miên tùy tăng. Kiến thủ, kiết thủ cũng như vậy.

Cái ố tác biến hành nơi cõi Dục cùng tùy miên tùy tăng do tu đạo đoạn. Tỷ xúc, thiệt xúc sinh ra ái thân, kiết ganh tị, kiết keo kiệt cũng như vậy.

Cái nghi duyên nơi hữu lậu của cõi Dục do kiến đạo đoạn, và nghi tương ưng với vô minh duyên nơi vô lậu có tùy miên tùy tăng.

Kiết tham, mạn duyên nơi hữu lậu của ba cõi có tùy miên tùy tăng. Ý xúc sinh ra ái thân, tùy miên mạn, kiết ái, kiết mạn cũng như vậy.

Tham sắc, biến hành nơi cõi Sắc và tùy miên tùy tăng do tu đạo đoạn.

Tham vô sắc, biến hành nơi cõi Vô sắc và tùy miên tùy tăng do tu đạo đoạn.

Ba kiết thuận phần trên sau, biến hành nơi cõi Sắc, cõi Vô sắc và tùy miên tùy tăng do tu đạo đoạn.

Nhãn xúc, nhĩ xúc, thân xúc sinh ra ái thân, biến hành nơi cõi Dục, cõi Sắc, và tùy miên tùy tăng do tu đạo đoạn.

Tùy miên hữu tham duyên nơi hữu lậu của cõi Sắc, cõi Vô sắc có tùy miên tùy tăng.

Tùy miên của cõi Dục do kiến khổ đoạn, tất cả do kiến khổ đoạn nơi cõi Dục và tùy miên tùy tăng biến hành do kiến tập đoạn. Tùy miên của cõi Dục do kiến tập đoạn, tất cả do kiến tập đoạn nơi cõi Dục và tùy miên tùy tăng biến hành do kiến khổ đoạn. Tùy miên của cõi Dục do kiến diệt đoạn trừ vô minh không chung duyên nơi vô lậu, tất cả còn lại và tùy miên tùy tăng biến hành đều do kiến diệt đoạn nơi cõi Dục. Tùy miên của cõi Dục do kiến đạo đoạn, trừ vô minh không chung duyên nơi vô lậu, tất cả còn lại và tùy miên tùy tăng biến hành đều do kiến đạo đoạn nơi cõi Dục. Tùy miên của cõi Dục do tu đạo đoạn, tất cả cùng tùy miên tùy tăng biến hành đều do tu đạo đoạn nơi cõi Dục.

Năm bộ tùy miên của cõi Sắc, cõi Vô sắc, nói rộng cũng như vậy.

Sự sai biệt: Nên nói về cảnh giới của mình.

*

Nhãn căn cho đến tùy miên vô minh nơi cõi Vô sắc do tu đạo đoạn duyên nơi thức và duyên nơi duyên thức.

Hỏi: Trong chín mươi tám tùy miên nơi mỗi mỗi tùy miên có bao nhiêu tùy miên tùy tăng?

Đáp: Nhãn căn duyên nơi thức theo ba bộ của cõi Dục, cõi Sắc, biến hành nơi cõi Vô sắc và duyên nơi duyên thức bốn bộ của ba cõi do tu đạo đoạn. Các căn nhĩ, tỷ, thiệt, thân cũng như vậy.

Nữ căn duyên nơi thức theo ba bộ của cõi Dục, biến hành nơi cõi Sắc và duyên nơi duyên thức do tu đạo đoạn. Bốn bộ của cõi Dục, ba bộ của cõi Sắc, biến hành nơi cõi Vô sắc cùng do tu đạo đoạn. Khổ căn, nam căn cũng như vậy.

Mạng căn duyên nơi thức theo ba bộ của ba cõi, duyên nơi duyên thức theo bốn bộ của ba cõi. Ý căn duyên nơi thức, duyên nơi duyên thức duyên nơi hữu vi. Xả căn cũng như vậy.

Lạc căn duyên nơi thức theo bốn bộ của cõi Dục, duyên nơi hữu vi của cõi Sắc theo hai bộ của cõi Vô sắc và biến hành duyên nơi duyên thức theo bốn bộ của cõi Dục, cõi Vô sắc, duyên nơi hữu vi của cõi Sắc.

Hỷ căn duyên nơi thức, duyên nơi hữu vi của cõi Dục, cõi Sắc theo hai bộ của cõi Vô sắc và biến hành duyên nơi duyên thức. Hữu vi của cõi Dục, cõi Sắc duyên nơi bốn bộ của cõi Vô sắc.

Ưu căn duyên nơi thức, duyên nơi hữu lậu của cõi Dục, biến hành nơi cõi Sắc và duyên nơi duyên thức do tu đạo đoạn. Duyên nơi hữu vi của cõi Dục theo ba bộ của cõi Sắc, biến hành nơi cõi Vô sắc cùng do tu đạo đoạn.

Năm căn như tín v.v… duyên nơi thức, duyên nơi duyên thức theo bốn bộ của ba cõi.

Ba căn vô lậu duyên nơi thức theo hai bộ của ba cõi cùng biến hành duyên nơi duyên thức theo bốn bộ của ba cõi.

Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, sắc, thanh xúc giới duyên nơi thức theo ba bộ của cõi Dục, cõi Sắc, biến hành nơi cõi Vô sắc cùng duyên nơi duyên thức do tu đạo đoạn theo bốn bộ của ba cõi. Các xúc xứ nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, sắc, thanh, sắc thủ uẩn, năm giới trước, pháp có kiến, có đối cũng như vậy.

Các giới hương, vị, tỷ, thiệt, thân duyên nơi thức theo ba bộ của cõi Dục, biến hành nơi cõi Sắc cùng duyên nơi duyên thức do tu đạo đoạn. Bốn bộ của cõi Dục, ba bộ của cõi Sắc, biến hành nơi cõi Vô sắc cùng do tu đạo đoạn. Hương xứ, vị xứ cũng như vậy.

Nhãn, nhĩ, thân thức giới duyên nơi thức theo ba bộ của cõi Dục, cõi Sắc, duyên nơi duyên thức theo bốn bộ của cõi Dục, cõi Sắc, cùng hai bộ của cõi Vô sắc và biến hành.

Ý giới, ý thức giới duyên nơi thức duyên nơi duyên thức. Ý xứ duyên nơi hữu vi, bốn uẩn sau, pháp hữu vi, pháp quá khứ, vị lai, hiện tại cũng như vậy.

Pháp giới duyên nơi thức. Ba cõi tất cả duyên nơi duyên thức. Pháp xứ duyên nơi hữu vi. Pháp thiện, không sắc, không kiến, không đối cũng như vậy.

Sắc uẩn duyên nơi thức theo bốn bộ của cõi Dục, cõi Sắc, hai bộ của cõi Vô sắc và biến hành, bốn bộ của ba cõi duyên nơi duyên thức. Pháp có sắc cũng như vậy.

Bốn thủ uẩn sau duyên nơi thức, duyên nơi duyên thức hữu lậu.

Thức giới duyên nơi hữu vi. Pháp hữu lậu, pháp do kiến đạo đoạn cũng như vậy.

Pháp vô lậu duyên nơi thức theo ba bộ của ba cõi và biến hành, duyên nơi duyên thức, duyên nơi hữu vi. Pháp không đoạn cũng như vậy.

Pháp vô vi duyên nơi thức theo hai bộ của ba cõi cùng biến hành duyên nơi duyên thức, duyên nơi hữu vi.

Pháp bất thiện duyên nơi thức, duyên nơi hữu lậu của cõi Dục, biến hành nơi cõi Sắc cùng duyên nơi duyên thức do tu đạo đoạn. Duyên nơi hữu vi của cõi Dục, theo ba bộ của cõi Sắc, biến hành nơi cõi Vô sắc cùng do tu đạo đoạn. Pháp hệ thuộc cõi Dục cũng như vậy.

Pháp vô ký duyên nơi thức theo ba bộ của cõi Dục, duyên nơi hữu lậu của cõi Sắc, cõi Vô sắc, duyên nơi duyên thức, theo bốn bộ của cõi Dục, duyên nơi hữu vi của cõi Sắc, cõi Vô sắc.

Pháp hệ thuộc nơi cõi Sắc duyên nơi thức theo ba bộ của cõi Dục, duyên nơi hữu lậu của cõi Sắc biến hành nơi cõi Vô sắc và duyên nơi duyên thức do tu đạo đoạn. Ba bộ của cõi Dục, hữu vi của cõi Sắc duyên nơi bốn bộ của cõi Vô sắc.

Pháp hệ thuộc nơi cõi Vô sắc duyên nơi thức theo ba bộ của cõi Dục, cõi Sắc, duyên nơi hữu lậu của cõi Vô sắc, duyên nơi duyên thức theo ba bộ của cõi Dục, bốn bộ của cõi Sắc, duyên nơi hữu vi của cõi Sắc.

Pháp học, vô học duyên nơi thức theo hai bộ của ba cõi và biến hành duyên nơi duyên thức theo bốn bộ của ba cõi.

Pháp phi học phi vô học duyên nơi thức theo bốn bộ của ba cõi, và duyên nơi hữu lậu, duyên nơi duyên thức, duyên nơi hữu vi do kiến đạo đoạn.

Pháp do tu đạo đoạn duyên nơi thức, theo ba bộ của ba cõi, duyên nơi duyên thức theo bốn bộ của ba cõi.

Khổ, tập đế duyên nơi thức, duyên nơi hữu lậu, duyên nơi duyên thức, duyên nơi hữu vi duyên. Thế tục trí cũng như vậy.

Diệt đế duyên nơi thức theo hai bộ của ba cõi và biến hành duyên nơi duyên thức, duyên nơi hữu vi.

Đạo đế duyên nơi thức theo hai bộ nơi ba cõi và biến hành, duyên nơi duyên thức theo bốn bộ của ba cõi. Trí khổ, tập, diệt, đạo và ba Tam-ma-địa cũng như vậy.

Bốn tĩnh lự duyên nơi thức theo bốn bộ của cõi Dục, duyên nơi hữu vi của cõi Sắc theo hai bộ của cõi Vô sắc và biến hành duyên nơi duyên thức theo bốn bộ của cõi Dục, cõi Vô sắc, duyên nơi hữu vi của cõi Sắc.

Vô lượng từ, bi, xả duyên nơi thức, theo ba bộ của cõi Dục, cõi Sắc, biến hành nơi cõi Vô sắc, và duyên nơi duyên thức do tu đạo đoạn, theo ba bộ của cõi Dục, bốn bộ của cõi Sắc, cõi Vô sắc. Tịnh giải thoát, bốn thắng xứ sau, tám biến xứ trước cũng như vậy.

Vô lượng hỷ duyên nơi thức theo ba bộ của cõi Dục, cõi Sắc, duyên nơi duyên thức theo ba bộ của cõi Dục, bốn bộ của cõi Sắc, hai bộ của cõi Vô sắc cùng biến hành. Giải thoát thứ nhất, thứ hai, bốn thắng xứ trước cũng như vậy.

Ba vô sắc trước duyên nơi thức, duyên nơi duyên thức theo ba bộ của cõi Dục, bốn bộ của cõi Sắc, duyên nơi hữu vi của cõi Vô sắc.

Phi tưởng phi phi tưởng xứ duyên nơi thức theo ba bộ của cõi Dục, cõi Sắc, duyên nơi hữu lậu của cõi Vô sắc, duyên nơi duyên thức, theo ba bộ của cõi Dục, bốn bộ của cõi Sắc, duyên nơi hữu vi của cõi Vô sắc.

Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, giải thoát duyên nơi thức, duyên nơi duyên thức theo ba bộ của cõi Dục, bốn bộ của cõi Sắc, cõi Vô sắc.

Hai giải thoát sau và hai biến xứ sau duyên nơi thức theo ba bộ của ba cõi, duyên nơi duyên thức theo ba bộ của cõi Dục, bốn bộ của cõi Sắc, cõi Vô sắc.

Pháp trí duyên nơi thức theo hai bộ của cõi Dục và biến hành, biến hành nơi cõi Sắc cùng duyên nơi duyên thức do tu đạo đoạn, theo bốn bộ của cõi Dục, ba bộ của cõi Sắc, biến hành nơi cõi Vô sắc và do tu đạo đoạn.

Loại trí duyên nơi thức theo hai bộ của cõi Sắc, cõi Vô sắc cùng biến hành, biến hành nơi cõi Dục và duyên nơi duyên thức do tu đạo đoạn, theo ba bộ của cõi Dục, bốn bộ của cõi Sắc, cõi Vô sắc.

Tha tâm trí duyên nơi thức theo bốn bộ của cõi Dục, cõi Sắc, hai bộ của cõi Vô sắc và biến hành duyên nơi duyên thức, theo bốn bộ của ba cõi.

Ba lớp Tam-ma-địa duyên nơi thức, theo ba bộ của ba cõi, duyên nơi duyên thức, theo bốn bộ của ba cõi.

Kiết hữu thân kiến duyên nơi thức, theo ba bộ của ba cõi, duyên nơi duyên thức, theo bốn bộ của ba cõi. Hữu thân kiến nơi kiết thuận phần dưới, hữu thân kiến, biên chấp kiến cũng như vậy.

Kiết giới cấm thủ duyên nơi thức, theo ba bộ của ba cõi, và duyên nơi hữu lậu, duyên nơi duyên thức do kiến đạo đoạn, theo bốn bộ của ba cõi. Giới cấm thủ và giới cấm thủ nơi các thứ trói buộc thân, giới cấm thủ của kiết thuận phần dưới cũng như vậy.

Kiết nghi duyên nơi thức, duyên nơi hữu lậu, duyên nơi duyên thức, duyên nơi hữu vi. Vô minh lậu, bộc lưu, ách, kiến thủ, trói buộc thân do chấp thật nầy, kiết tham, mạn, kiết nghi nơi kiết thuận phần dưới, tà kiến, kiến thủ, ý xúc sinh ra ái thân, tùy miên vô minh, mạn, kiến, nghi, kiết ái, mạn, vô minh, kiến thủ, nghi cũng như vậy.

Ba căn bất thiện và dục lậu duyên nơi thức, duyên nơi hữu lậu của cõi Dục, biến hành nơi cõi Sắc cùng duyên nơi duyên thức do tu đạo đoạn. Duyên nơi hữu vi của cõi Dục theo ba bộ của cõi Sắc, biến hành nơi cõi Vô sắc cùng do tu đạo đoạn. Bộc lưu dục, ách dục, dục thủ, hai thứ trói buộc thân trước, trừ cái ố tác các cái còn lại, kiết giận, hai kiết trước nơi kiết thuận phần dưới, tùy miên dục tham, giận dữ, kiết giận cũng như vậy.

Hữu lậu duyên nơi thức theo ba bộ của cõi Dục, duyên nơi hữu lậu của cõi Sắc, cõi Vô sắc, duyên nơi duyên thức theo ba bộ của cõi Dục, duyên nơi hữu vi của cõi Sắc, cõi Vô sắc. Bộc lưu hữu, ách hữu, ngã ngữ thủ, tùy miên hữu tham cũng như vậy.

Cái ố tác duyên nơi thức theo ba bộ của cõi Dục, biến hành nơi cõi Sắc và duyên nơi duyên thức do tu đạo đoạn, theo bốn bộ của cõi Dục, ba bộ của cõi Sắc, biến hành nơi cõi Vô sắc cùng do tu đạo đoạn. Kiết ganh tị, kiết keo kiệt, tỷ xúc, thiệt xúc sinh ra ái thân, cũng như vậy.

Tham sắc nơi kiết thuận phần trên duyên nơi thức, theo ba bộ của cõi Dục, cõi Sắc, biến hành nơi cõi Vô sắc và duyên nơi duyên thức do tu đạo đoạn, theo ba bộ của cõi Dục, bốn bộ của cõi Sắc, cõi Vô sắc.

Bốn kiết sau nơi kiết thuận phần trên duyên nơi thức, theo ba bộ của ba cõi, duyên nơi duyên thức, theo ba bộ của cõi Dục, bốn bộ của cõi Sắc, cõi Vô sắc.

Các nhãn xúc, nhĩ xúc, thân xúc sinh ra ái thân duyên nơi thức, theo ba bộ của cõi Dục, cõi Sắc, duyên nơi duyên thức, theo bốn bộ của cõi Dục, cõi Sắc, biến hành nơi cõi Vô sắc cùng do tu đạo đoạn.

Tùy miên của cõi Dục do kiến khổ, tập đoạn và tùy miên do tu đạo đoạn duyên nơi thức theo ba bộ của cõi Dục, biến hành nơi cõi Sắc và duyên nơi duyên thức do tu đạo đoạn, theo bốn bộ của cõi Dục, ba bộ của cõi Sắc, biến hành nơi cõi Vô sắc và do tu đạo đoạn.

Tùy miên của cõi Dục do kiến diệt đoạn duyên nơi thức, theo ba bộ của cõi Dục và duyên nơi hữu lậu do kiến diệt đoạn, biến hành nơi cõi Sắc và duyên nơi duyên thức do tu đạo đoạn. Duyên nơi hữu vi của cõi Dục theo ba bộ của cõi Sắc, biến hành nơi cõi Vô sắc cùng do tu đạo đoạn.

Tùy miên của cõi Dục do kiến đạo đoạn duyên nơi thức, theo ba bộ của cõi Dục và duyên nơi hữu lậu do kiến đạo đoạn, biến hành nơi cõi Sắc và duyên nơi duyên thức do tu đạo đoạn, theo bốn bộ của cõi Dục, ba bộ của cõi Sắc, biến hành nơi cõi Vô sắc cùng do tu đạo đoạn.

Tùy miên của cõi Sắc do kiến khổ, tập và tu đạo đoạn duyên nơi thức, theo ba bộ của cõi Dục, cõi Sắc, biến hành nơi cõi Vô sắc cùng duyên nơi duyên thức do tu đạo đoạn, theo ba bộ của cõi Dục, bốn bộ của cõi Sắc, cõi Vô sắc.

Tùy miên của cõi Sắc do kiến diệt đoạn duyên nơi thức theo ba bộ của cõi Dục, cõi Sắc và duyên nơi hữu lậu của cõi Sắc do kiến diệt đoạn, biến hành nơi cõi Vô sắc cùng duyên nơi duyên thức do tu đạo đoạn, theo ba bộ của cõi Dục, bốn bộ của cõi Vô sắc duyên nơi hữu vi của cõi Sắc.

Tùy miên của cõi Sắc do kiến đạo đoạn duyên nơi thức, theo ba bộ của cõi Dục, cõi Sắc và duyên nơi hữu lậu của cõi Sắc do kiến đạo đoạn, biến hành nơi cõi Vô sắc cùng duyên nơi duyên thức do tu đạo đoạn, theo ba bộ của cõi Dục, bốn bộ của cõi Sắc, cõi Vô sắc.

Tùy miên của cõi Vô sắc do kiến khổ, tập đoạn cùng tu đạo đoạn duyên nơi thức theo ba bộ của ba cõi, duyên nơi duyên thức theo ba bộ của cõi Dục, bốn bộ của cõi Sắc, cõi Vô sắc.

Tùy miên của cõi Vô sắc do kiến diệt đoạn duyên nơi thức theo ba bộ của ba cõi, cùng duyên nơi hữu lậu của cõi Vô sắc do kiến diệt đoạn, duyên nơi duyên thức theo ba bộ của cõi Dục, bốn bộ của cõi Sắc, duyên nơi hữu vi của cõi Vô sắc.

Tùy miên của cõi Vô sắc do kiến đạo đoạn duyên nơi thức, theo ba bộ của ba cõi cùng duyên nơi hữu lậu của cõi Vô sắc do kiến đạo đoạn, duyên nơi duyên thức, theo ba bộ của cõi Dục, bốn bộ của cõi Sắc, cõi Vô sắc.

HẾT – QUYỂN 5