LUẬN A TỲ ĐẠT MA PHÁT TRÍ
Tác giả: Tôn giả Ca Đa Diễn Ni Tử
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 3

Chương 2: KIẾT UẨN

Phẩm 1: BÀN VỀ BẤT THIỆN

Tụng nêu chung:

Ba kiết cùng tánh thục

Đoạn kiến hữu căn buộc

Hiện tại đủ thành duyên

Chương nầy xin nói đủ.

*

Gồm có:

Ba kiết: Là kiết hữu thân kiến, kiết giới cấm thủ, kiết nghi.

Ba căn bất thiện: Là căn bất thiện tham, căn bất thiện sân, căn bất thiện si.

Ba lậu: Là dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu.

Bốn bộc lưu: Là bộc lưu dục, bộc lưu hữu, bộc lưu kiến, bộc lưu vô minh.

Bốn ách: Là ách dục, ách hữu, ách kiến, ách vô minh.

Bốn thủ: Là dục thủ, kiến thủ, giới cấm thủ, ngã ngữ thủ.

Bốn thứ trói buộc thân: Là tham dục trói buộc thân, giận dữ trói buộc thân, giới cấm thủ trói buộc thân, chấp thật nầy trói buộc thân.

Năm cái: Là cái tham dục, cái giận dữ, cái hôn trầm – thùy miên, cái trạo cử – ố tác, cái nghi.

Năm kiết: Là kiết tham, kiết giận, kiết mạn, kiết ganh tị, kiết keo kiệt.

Năm kiết thuận phần dưới: Là kiết tham dục thuận phần dưới, kiết giận dữ thuận phần dưới, kiết hữu thân kiến thuận phần dưới, kiết giới cấm thủ thuận phần dưới, kiết nghi thuận phần dưới.

Năm kiết thuận phần trên: Là kiết tham sắc thuận phần trên, kiết tham vô sắc thuận phần trên, kiết trạo cử thuận phần trên, kiết mạn thuận phần trên, kiết vô minh thuận phần trên.

Năm kiến: Là hữu thân kiến, biên chấp kiến, tà kiến, kiến thủ, giới cấm thủ.

Sáu ái thân: Là ái thân do nhãn xúc sinh ra, ái thân do các xúc nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý sinh ra.

Bảy tùy miên: Là tùy miên dục tham, tùy miên giận dữ, tùy miên hữu tham, tùy miên mạn, tùy miên vô minh, tùy miên kiến, tùy miên nghi.

Chín kiết: Là kiết ái, kiết giận, kiết mạn, kiết vô minh, kiết kiến, kiết thủ, kiết nghi, kiết ganh tị, kiết keo kiệt.

Chín mươi tám tùy miên: Là ba mươi sáu tùy miên hệ thuộc nơi cõi Dục, ba mươi mốt tùy miên hệ thuộc nơi cõi Sắc, ba mươi mốt tùy miên hệ thuộc Vô sắc mỗi cõi đều có.

*

Hỏi: Ba kiết cho đến chín mươi tám tùy miên: Bao nhiêu thứ là bất thiện, bao nhiêu thứ là vô ký?

Đáp: Trong ba kiết: một thứ là vô ký, hai thứ cần phân biệt: Nghĩa là kiết giới cấm thủ, kiết nghi hoặc bất thiện, hoặc vô ký. Ở nơi cõi Dục là bất thiện, ở nơi cõi Sắc, cõi Vô sắc là vô ký.

Ba căn bất thiện chỉ là bất thiện.

Trong ba lậu: một thứ là vô ký, hai thứ cần phân biệt: Nghĩa là dục lậu hoặc là bất thiện, hoặc là vô ký. Tương ưng với không hổ không thẹn là bất thiện, còn lại là vô ký. Vô minh lậu hoặc bất thiện, hoặc vô ký. Tương ưng với không hổ không thẹn là bất thiện, còn lại là vô ký.

Trong bốn bộc lưu: một thứ là vô ký, ba thứ cần phân biệt: Nghĩa là bộc lưu dục hoặc bất thiện, hoặc vô ký. Tương ưng với không hổ không thẹn là bất thiện, còn lại là vô ký. Bộc lưu kiến hoặc bất thiện, hoặc vô ký. Ba kiến nơi cõi Dục là bất thiện, hai kiến nơi cõi Dục, năm kiến nơi cõi Sắc, cõi Vô sắc là vô ký. Bộc lưu vô minh hoặc bất thiện, hoặc vô ký. Tương ưng với không hổ không thẹn là bất thiện, còn lại là vô ký.

Như bốn bộc lưu, bốn ách cũng như vậy.

Trong bốn thủ: một thứ là vô ký, ba thứ cần phân biệt: Nghĩa là dục thủ hoặc bất thiện, hoặc vô ký. Tương ưng với không hổ không thẹn là bất thiện, còn lại là vô ký. Kiến thủ hoặc bất thiện, hoặc vô ký. Hai kiến nơi cõi Dục là bất thiện; hai kiến nơi cõi Dục, bốn kiến nơi cõi Sắc, cõi Vô sắc là vô ký. Giới cấm thủ hoặc bất thiện, hoặc vô ký. Ở nơi cõi Dục là bất thiện, ở nơi cõi Sắc, cõi Vô sắc là vô ký.

Trong bốn thứ trói buộc thân: hai thứ là bất thiện, hai thứ cần phân biệt: Nghĩa là giới cấm thủ trói buộc thân, chấp thật nầy trói buộc thân ở nơi cõi Dục là bất thiện, ở nơi cõi Sắc, cõi Vô sắc là vô ký.

Năm cái chỉ là bất thiện.

Trong năm kiết: ba thứ là bất thiện, hai thứ cần phân biệt: Nghĩa là kiết tham, kiết mạn hoặc bất thiện, hoặc vô ký. Ở nơi cõi Dục là bất thiện, ở nơi cõi Sắc, cõi Vô sắc là vô ký.

Trong năm kiết thuận phần dưới: hai thứ là bất thiện, một thứ là vô ký, hai thứ cần phân biệt: Nghĩa là kiết giới cấm thủ, kiết nghi hoặc bất thiện, hoặc vô ký. Ở nơi cõi Dục là bất thiện, ở nơi cõi Sắc, cõi Vô sắc là vô ký.

Năm kiết thuận phần trên chỉ là vô ký.

Trong năm kiến: hai thứ là vô ký, ba thứ cần phân biệt: Nghĩa là tà kiến, kiến thủ, kiến giới cấm thủ hoặc bất thiện, hoặc vô ký. Ở nơi cõi Dục là bất thiện, ở nơi cõi Sắc, cõi Vô sắc là vô ký.

Trong sáu ái thân: hai thứ là bất thiện, bốn thứ cần phân biệt: Nghĩa là ái thân được sinh ra do các nhãn xúc, nhĩ xúc, thân xúc hoặc bất thiện, hoặc vô ký. Ở nơi cõi Dục là bất thiện, ở nơi cõi Phạm thế là vô ký. Ái thân do ý xúc sinh ra hoặc bất thiện, hoặc vô ký. Ở nơi cõi Dục là bất thiện, ở nơi cõi Sắc, cõi Vô sắc là vô ký.

Trong bảy tùy miên: hai thứ là bất thiện, một thứ là vô ký, bốn thứ cần phân biệt: Nghĩa là tùy miên mạn, nghi hoặc bất thiện, hoặc vô ký. Ở nơi cõi Dục là bất thiện, ở nơi cõi Sắc, cõi Vô sắc là vô ký. Tùy miên vô minh hoặc bất thiện, hoặc vô ký. Tương ưng với không hổ không thẹn là bất thiện, còn lại là vô ký. Tùy miên kiến hoặc bất thiện, hoặc vô ký. Ba kiến nơi cõi Dục là bất thiện, hai kiến nơi cõi Dục, năm kiến nơi cõi Sắc, cõi Vô sắc là vô ký.

Trong chín kiết: ba thứ là bất thiện, sáu thứ cần phân biệt: Nghĩa là kiết ái, mạn, thủ, nghi hoặc bất thiện, hoặc vô ký. Ở nơi cõi Dục là bất thiện, ở nơi cõi Sắc, cõi Vô sắc là vô ký. Kiết vô minh hoặc bất thiện, hoặc vô ký. Tương ưng với không hổ không thẹn là bất thiện, còn lại là vô ký. Kiết kiến hoặc bất thiện, hoặc vô ký. Một kiến nơi cõi Dục là bất thiện, hai kiến nơi cõi Dục, ba kiến nơi cõi Sắc, cõi Vô sắc là vô ký.

Trong chín mươi tám tùy miên: Ba mươi ba thứ là bất thiện, sáu mươi bốn thứ là vô ký, một thứ cần phân biệt: Nghĩa là tùy miên vô minh nơi cõi Dục do kiến khổ đoạn hoặc bất thiện, hoặc vô ký. Tương ưng với không hổ không thẹn là bất thiện, còn lại là vô ký.

Hỏi: Ba kiết cho đến chín mươi tám tùy miên: Bao nhiêu thứ có dị thục, bao nhiêu thứ không có dị thục?

Đáp: Các thứ là bất thiện thì có dị thục, các thứ là vô ký thì không có dị thục.

Hỏi: Ba kiết cho đến chín mươi tám tùy miên: Bao nhiêu thứ do kiến đạo đoạn, bao nhiêu thứ do tu đạo đoạn?

Đáp: Trong ba kiết: Kiết hữu thân kiến do kiến làm hành trước có hai trường hợp: hoặc do kiến đạo đoạn, hoặc do kiến đạo, tu đạo đoạn. Nếu hữu thân kiến hệ thuộc xứ Phi tưởng phi phi tưởng, hàng tùy tín tùy pháp hành hiện quán biên do khổ nhẫn đoạn là do kiến đạo đoạn. Ngoài ra nếu phàm phu đoạn là do tu đạo đoạn, nếu đệ tử của Đức Thế Tôn đoạn là do kiến đạo đoạn.

Như kiết hữu thân kiến, kiết hữu thân kiến trong năm kiết thuận phần dưới, hữu thân kiến, biên chấp kiến trong năm kiến cũng như vậy.

Kiết giới cấm thủ, kiết nghi do kiến làm hành trước có hai trường hợp: hoặc do kiến đạo đoạn, hoặc do kiến đạo, tu đạo đoạn. Nếu giới cấm thủ, nghi, hệ thuộc nơi xứ Phi tưởng phi phi tưởng, hàng tùy tín tùy pháp hành hiện quán biên với các nhẫn đoạn là do kiến đạo đoạn. Ngoài ra nếu phàm phu đoạn là do tu đạo đoạn, nếu đệ tử của Đức Thế Tôn đoạn là do kiến đạo đoạn.

Như kiết giới cấm thủ, kiết nghi, bộc lưu kiến, ách kiến trong bốn bộc lưu, bốn ách, kiến thủ, giới cấm thủ trong bốn thủ, giới cấm thủ trói buộc thân, chấp thật nầy trói buộc thân trong bốn thứ trói buộc thân, kiết giới cấm thủ, kiết nghi trong năm kiết thuận phần dưới, tà kiến, kiến thủ, giới cấm thủ trong năm kiến, tùy miên kiến, tùy miên nghi trong bảy tùy miên, kiết kiến, kiết thủ, kiết nghi trong chín kiết, cũng đều như vậy.

Căn bất thiện tham lấy tu làm hành trước có hai trường hợp: hoặc do tu đạo đoạn, hoặc do kiến đạo, tu đạo đoạn. Nếu căn bất thiện tham do các trí của bậc học kiến tích đoạn là do tu đạo đoạn. Còn lại nếu phàm phu đoạn là do tu đạo đoạn, nếu đệ tử của Đức Thế Tôn đoạn là do kiến đạo đoạn.

Như căn bất thiện tham, căn bất thiện sân, căn bất thiện si trong ba căn, dục lậu trong ba lậu, bộc lưu dục, ách dục trong bốn bộc lưu, bốn ách, dục thủ trong bốn thủ, tham dục trói buộc thân, giận dữ trói buộc thân trong bốn thứ trói buộc thân, các cái còn lại trừ ố tác, nghi trong năm cái, kiết giận trong năm kiết, kiết tham dục, kiết giận trong năm kiết thuận phần dưới, tùy miên dục tham, tùy miên giận dữ trong bảy tùy miên, kiết giận trong chín kiết, đều cũng như vậy.

Hữu lậu, vô minh lậu dùng kiến làm hành trước có ba trường hợp: hoặc do kiến đạo đoạn, hoặc do tu đạo đoạn, hoặc do kiến đạo, tu đạo đoạn. Nếu hữu lậu, vô minh lậu hệ thuộc xứ Phi tưởng phi phi tưởng, hàng tùy tín tùy pháp hành hiện quán biên, các nhẫn đoạn, là do kiến đạo đoạn. Nếu hữu lậu, vô minh lậu do các trí của hàng học kiến tích đoạn là do tu đạo đoạn. Ngoài ra nếu phàm phu đoạn là do tu đạo đoạn, nếu đệ tử của Đức Thế Tôn đoạn là do kiến đạo đoạn.

Như hữu lậu, vô minh lậu, bộc lưu hữu, bộc lưu vô minh trong bốn bộc lưu, ách hữu, ách vô minh trong bốn ách, ngã ngữ thủ trong bốn thủ, kiết tham, kiết mạn trong năm kiết, ái thân do ý xúc sinh ra trong sáu ái thân, tùy miên hữu tham, mạn, vô minh trong bảy tùy miên, kiết ái, mạn, vô minh trong chín kiết, đều cũng như vậy.

Cái ố tác do tu đạo đoạn.

Như cái ố tác, kiết ganh tị, kiết keo kiệt trong năm kiết, năm kiết thuận phần trên, năm ái thân trước trong sáu ái thân, kiết ganh tị, kiết keo kiệt trong chín kiết, cũng như vậy.

Cái nghi nếu phàm phu đoạn là do tu đạo đoạn, nếu đệ tử của Đức Thế Tôn đoạn là do kiến đạo đoạn.

Trong chín mươi tám tùy miên: hai mươi tám thứ do kiến đạo đoạn, mười thứ do tu đạo đoạn, số tùy miên còn lại nếu là phàm phu đoạn là do tu đạo đoạn, nếu đệ tử của Đức Thế Tôn đoạn là do kiến đạo đoạn.

Hỏi: Ba kiết cho đến chín mươi tám tùy miên: Bao nhiêu thứ do kiến khổ đoạn cho đến bao nhiêu thứ do tu đạo đoạn?

Đáp: Trong ba kiết: Kiết hữu thân kiến do kiến khổ đoạn.

Như kiết hữu thân kiến, kiết hữu thân kiến trong năm kiết thuận phần dưới, hữu thân kiến, biên chấp kiến trong năm kiến cũng như vậy.

Kiết giới cấm thủ có hai thứ: Hoặc do kiến khổ đoạn, hoặc do kiến đạo đoạn.

Như kiết giới cấm thủ, giới cấm thủ trong bốn thủ, giới cấm thủ trói buộc thân trong bốn thứ trói buộc thân, kiết giới cấm thủ trong năm kiết thuận phần dưới, giới cấm thủ trong năm kiến, cũng như vậy.

Kiết nghi có bốn thứ: Hoặc do kiến khổ đoạn v.v… cho đến hoặc do kiến đạo đoạn.

Như kiết nghi, bộc lưu kiến, ách kiến trong bốn bộc lưu, bốn ách, kiến thủ trong bốn thủ, chấp thật nầy trói buộc thân trong bốn thứ trói buộc thân, cái nghi trong năm cái, kiết nghi trong năm kiết thuận phần dưới, tà kiến, kiến thủ trong năm kiến, tùy miên nghi, kiến trong bảy tùy miên, kiết nghi, kiết kiến, kiết thủ trong chín kiết, đều cũng như vậy.

Ba căn bất thiện có năm thứ: Hoặc do kiến khổ đoạn v.v… cho đến hoặc do tu đạo đoạn.

Như ba căn bất thiện, ba lậu, các bộc lưu, ách còn lại trừ kiến trong bốn bộc lưu, bốn ách, dục thủ, ngã ngữ thủ trong bốn thủ, tham dục trói buộc thân, giận dữ trói buộc thân trong bốn thứ trói buộc thân, các cái còn lại trừ ố tác, nghi trong năm cái, kiết tham, giận, mạn trong năm kiết, kiết tham dục, giận dữ trong năm kiết thuận phần dưới, ái thân do ý xúc sinh ra trong sáu ái thân, các tùy miên còn lại trừ tùy miên kiến, nghi trong bảy tùy miên, kiết ái, giận, mạn, vô minh trong chín kiết, đều cũng như vậy.

Cái ố tác do tu đạo đoạn.

Như cái ố tác, kiết ganh tị, kiết keo kiệt trong năm kiết, năm kiết thuận phần trên, năm ái thân trước trong sáu ái thân, kiết ganh tị, kiết keo kiệt trong chín kiết, đều cũng như vậy.

Trong chín mươi tám tùy miên: hai mươi tám thứ do kiến khổ đoạn, mười chín thứ do kiến tập đoạn, mười chín thứ do kiến diệt đoạn, hai mươi hai thứ do kiến đạo đoạn, mười thứ do tu đạo đoạn.

Hỏi: Ba kiết cho đến chín mươi tám tùy miên: Bao nhiêu thứ là kiến, bao nhiêu thứ là không phải kiến?

Đáp: Trong ba kiết: hai thứ là kiến, một thứ là không phải kiến.

Ba căn bất thiện là không phải kiến.

Trong ba lậu: một thứ là không phải kiến, hai thứ cần phân biệt: Nghĩa là dục lậu hoặc là kiến, hoặc là không phải kiến. Năm kiến nơi cõi Dục là kiến, còn lại là không phải kiến. Hữu lậu hoặc là kiến, hoặc là không phải kiến. Năm kiến của cõi Sắc, cõi Vô sắc là kiến, còn lại là không phải kiến.

Trong bốn bộc lưu, bốn ách: một thứ là kiến, ba thứ là không phải kiến.

Bốn thủ, bốn thứ trói buộc thân đều cùng có hai thứ là kiến, hai thứ là không phải kiến.

Năm cái, năm kiết đều cùng là không phải kiến.

Trong năm kiết thuận phần dưới: hai thứ là kiến, ba thứ là không phải kiến.

Năm kiết thuận phần trên là không phải kiến.

Năm kiến là kiến.

Sáu ái thân là không phải kiến.

Trong bảy tùy miên: một thứ là kiến, sáu thứ là không phải kiến.

Trong chín kiết: hai thứ là kiến, bảy thứ là không phải kiến.

Trong chín mươi tám tùy miên: ba mươi sáu thứ là kiến, sáu mươi hai thứ là không phải kiến.

Hỏi: Ba kiết cho đến chín mươi tám tùy miên: Bao nhiêu thứ có tầm có tứ, bao nhiêu thứ không tầm chỉ có tứ, bao nhiêu thứ không tầm không tứ?

Đáp: Ba kiết là gồm đủ ba thứ.

Ba căn bất thiện cùng dục lậu là có tầm có tứ.

Hữu lậu, vô minh lậu, trừ bộc lưu dục, ách dục, các bộc lưu, ách còn lại là gồm đủ ba thứ.

Bộc lưu dục, ách dục cùng dục thủ là có tầm có tứ. Ba thủ còn lại cùng hai trói buộc thân là có tầm có tứ. Hai trói buộc thân còn lại là gồm đủ ba thứ.

Năm cái cùng ba kiết là có tầm có tứ. Hai kiết còn lại cùng ba kiết thuận phần dưới là gồm đủ ba thứ. Hai kiết thuận phần dưới còn lại là có tầm có tứ.

Trong năm kiết thuận phần trên: Tham vô sắc là không tầm không từ. Bốn kiết thuận phần trên còn lại cùng với năm kiến là gồm đủ ba thứ.

Năm ái thân trước và tùy miên dục tham, giận dữ là có tầm có tứ.

Ái thân thứ sáu cùng năm tùy miên còn lại là gồm đủ ba thứ.

Kiết giận, kiết ganh tị, kiết keo kiệt trong chín kiết là có tầm có tứ. Sáu kiết còn lại là gồm đủ ba thứ.

Trong chín mươi tám tùy miên: Ba mươi sáu thứ thuộc cõi Dục là có tầm có tứ, ba mươi mốt thứ thuộc cõi Sắc gồm đủ ba thứ, ba mươi mốt thứ thuộc cõi Vô sắc là không tầm không tứ.

Hỏi: Ba kiết cho đến chín mươi tám tùy miên: Bao nhiêu thứ tương ưng với lạc căn, bao nhiêu thứ tương ưng với khổ căn, hỷ căn, ưu căn, xả căn?

Đáp: Trong ba kiết: Kiết hữu thân kiến, kiết giới cấm thủ tương ưng với ba căn, trừ khổ căn, ưu căn. Kiết nghi tương ưng với bốn căn, trừ khổ căn.

Trong ba căn bất thiện: Căn bất thiện tham tương ưng với ba căn, trừ khổ căn, ưu căn. Căn bất thiện sân tương ưng với ba căn, trừ lạc căn, hỷ căn. Căn bất thiện si cùng dục lậu, vô minh lậu tương ưng với năm căn. Hữu lậu tương ưng với ba căn, trừ khổ căn, ưu căn.

Trong bốn bộc lưu, bốn ách: Bộc lưu dục, bộc lưu vô minh, ách dục, ách vô minh tương ưng với năm căn. Bộc lưu hữu, ách hữu tương ưng với ba căn, trừ khổ căn, ưu căn. Bộc lưu kiến, ách kiến tương ưng với bốn căn, trừ khổ căn.

Trong bốn thủ: Dục thủ tương ưng với năm căn. Kiến thủ tương ưng với bốn căn, trừ khổ căn. Giới cấm thủ, ngã ngữ thủ tương ưng với ba căn, trừ khổ căn, ưu căn.

Trong bốn thứ trói buộc thân: Giận dữ trói buộc thân tương ưng với ba căn, trừ lạc căn, hỷ căn. Ba trói buộc thân còn lại cùng cái tham dục tương ưng với ba căn, trừ khổ căn, ưu căn. Cái giận dữ tương ưng với ba căn, trừ lạc căn, hỷ căn. Cái hôn trầm – trạo cử tương ưng với năm căn. Cái thùy miên tương ưng với ba căn, trừ lạc căn, khổ căn. Cái nghi – ố tác tương ưng với hai căn là ưu căn, xả căn.

Trong năm kiết: Kiết tham, mạn tương ưng với ba căn, trừ khổ căn, ưu căn. Kiết giận tương ưng với ba căn, trừ lạc căn, hỷ căn. Kiết ganh tị tương ưng với hai căn là ưu căn, xả căn. Kiết keo kiệt tương ưng với hai căn là hỷ căn, xả căn.

Trong năm kiết thuận phần dưới: Kiết giận tương ưng với ba căn, trừ lạc căn, hỷ căn. Kiết nghi tương ưng với bốn căn, trừ khổ căn. Ba kiết còn lại tương ưng với ba căn, trừ khổ căn, ưu căn.

Trong năm kiết thuận phần trên: Kiết tham vô sắc tương ưng với một căn là xả căn. Bốn kiết còn lại cùng bốn kiến tương ưng với ba căn, trừ khổ căn, ưu căn. Tà kiến tương ưng với bốn căn, trừ khổ căn.

Trong sáu ái thân: Năm ái thân trước tương ưng với hai căn là lạc căn, xả căn. Ái thân thứ sáu cùng tùy miên dục tham, hữu tham, mạn tương ưng với ba căn, trừ khổ căn, ưu căn. Tùy miên giận dữ tương ưng với ba căn, trừ lạc căn, hỷ căn. Tùy miên kiến, nghi tương ưng với bốn căn trừ khổ căn. Tùy miên vô minh tương ưng với năm căn.

Trong chín kiết: Kiết ái, mạn, thủ tương ưng với ba căn, trừ khổ căn, ưu căn. Kiết giận tương ưng với ba căn, trừ lạc căn, hỷ căn. Kiết vô minh tương ưng với năm căn. Kiết kiến, nghi tương ưng với bốn căn trừ khổ căn. Kiết ganh tị tương ưng với hai căn là ưu căn, xả căn. Kiết keo kiệt tương ưng với hai căn là hỷ căn, xả căn.

Trong chín mươi tám tùy miên: Bốn kiến mạn của cõi Dục và tham do kiến đạo đoạn tương ưng với hai căn là hỷ căn, xả căn. Nghi và giận dữ do kiến đạo đoạn tương ưng với hai căn là ưu căn, xả căn. Tà kiến và vô minh do kiến đạo đoạn tương ưng với ba căn, trừ lạc căn, khổ căn. Tham do tu đạo đoạn tương ưng với ba căn, trừ khổ căn, ưu căn. Sân tương ưng với ba căn, trừ lạc căn, hỷ căn. Vô minh tương ưng với năm căn.

Ba mươi mốt tùy miên của cõi Sắc tương ưng với ba căn trừ ưu căn, khổ căn. Ba mươi mốt tùy miên của cõi Vô sắc tương ưng với một căn là xả căn.

Hỏi: Ba kiết cho đến chín mươi tám tùy miên: Bao nhiêu thứ hệ thuộc nơi cõi Dục, bao nhiêu thứ hệ thuộc nơi cõi Sắc, bao nhiêu thứ hệ thuộc nơi cõi Vô sắc?

Đáp: Ba kiết hệ thuộc nơi ba cõi.

Ba căn bất thiện cùng dục lậu hệ thuộc nơi cõi Dục. Hữu lậu hệ thuộc hai cõi: hoặc hệ thuộc nơi cõi Sắc, hoặc hệ thuộc nơi cõi Vô sắc. Vô minh lậu hệ thuộc nơi ba cõi.

Bộc lưu dục, ách dục cùng dục thủ hệ thuộc nơi cõi Dục. Bộc lưu hữu, ách hữu cùng ngã ngữ thủ hệ thuộc nơi hai cõi: hoặc hệ thuộc nơi cõi Sắc, hoặc hệ thuộc nơi cõi Vô sắc. Bộc lưu, ách còn lại cùng hai thủ khác hệ thuộc nơi ba cõi.

Tham dục trói buộc thân, giận dữ trói buộc thân cùng năm cái hệ thuộc nơi cõi Dục. Hai thứ trói buộc thân còn lại hệ thuộc nơi ba cõi.

Tham, mạn trong năm kiết cùng ba kiết thuận phần dưới hệ thuộc nơi ba cõi. Ba kiết còn lại cùng tham dục, giận dữ trong năm kiết thuận phần dưới hệ thuộc nơi cõi Dục.

Trong năm kiết thuận phần trên: Sắc tham hệ thuộc nơi cõi Sắc, vô sắc tham hệ thuộc nơi cõi Vô sắc, ba kiết còn lại hệ thuộc nơi hai cõi: hoặc hệ thuộc nơi cõi Sắc, hoặc hệ thuộc nơi cõi Vô sắc.

Năm kiến cùng ái thân thứ sáu hệ thuộc nơi ba cõi. Ba thứ ái thân sinh khởi do nhãn xúc, nhĩ xúc, thân xúc hệ thuộc hai cõi: hoặc hệ thuộc nơi cõi Dục, hoặc hệ thuộc nơi cõi Sắc. Ái thân sinh ra do tỷ xúc, thiệt xúc hệ thuộc nơi cõi Dục.

Trong bảy tùy miên: Dục tham, giận dữ hệ thuộc nơi cõi Dục. Hữu tham hệ thuộc hai cõi: hoặc hệ thuộc nơi cõi Sắc, hoặc hệ thuộc nơi cõi Vô sắc. Các tùy miên còn lại hệ thuộc nơi ba cõi.

Trong chín kiết: Kiến giận dữ, kiết ganh tị, kiết keo kiệt hệ thuộc nơi cõi Dục. Các kiết còn lại hệ thuộc nơi ba cõi.

Trong chín mươi tám tùy miên: Ba mươi sáu thứ hệ thuộc nơi cõi Dục, ba mươi mốt thứ hệ thuộc nơi cõi Sắc, ba mươi mốt thứ hệ thuộc nơi cõi Vô sắc.

*

Hỏi: Các kiết rơi vào cõi Dục, kiết ấy ở nơi cõi Dục chăng?

Đáp: Nên tạo ra bốn trường hợp:

1. Có kiết rơi vào cõi Dục, kiết ấy không ở nơi cõi Dục: Nghĩa là bị triền ràng buộc, mất nơi cõi Sắc, khởi trung hữu nơi cõi Dục và ma ác trụ nơi cõi Phạm thế, vì bị triền ràng buộc nên trách chống Như Lai.

2. Có kiết ở nơi cõi Dục, kiết ấy không rơi vào cõi Dục: Nghĩa là bị triền ràng buộc, mất nơi cõi Dục, khởi trung hữu nơi cõi Sắc và trụ nơi cõi Dục, kiết của cõi Sắc, Vô sắc hiện tiền.

3. Có kiết rơi vào cõi Dục, kiết ấy cũng ở nơi cõi Dục: Nghĩa là bị triền ràng buộc, mất nơi cõi Dục, khởi trung hữu, sinh hữu nơi cõi Dục cùng trụ nơi cõi Dục, kiết của cõi Dục hiện tiền.

4. Có kiết không rơi vào cõi Dục, kiết ấy cũng không ở nơi cõi Dục: Nghĩa là bị triền ràng buộc, mất nơi cõi Sắc, khởi trung hữu, sinh hữu nơi cõi Sắc, mất nơi cõi Sắc sinh nơi cõi Vô sắc, mất nơi cõi Vô sắc sinh lại nơi cõi Vô sắc, mất nơi cõi Vô sắc sinh nơi cõi Sắc cùng trụ nơi cõi Sắc, kiết của cõi Sắc, Vô sắc hiện tiền. Trụ nơi cõi Vô sắc, kiết của cõi Vô sắc hiện tiền.

Hỏi: Các kiết rơi vào cõi Sắc, kiết ấy ở nơi cõi Sắc chăng?

Đáp: Nên tạo ra bốn trường hợp:

1. Có kiết rơi vào cõi Sắc, kiết ấy không ở nơi cõi Sắc: Nghĩa là bị triền ràng buộc, mất ở cõi Dục, khởi trung hữu nơi cõi Sắc và trụ nơi cõi Dục, kiết của cõi Sắc hiện tiền.

2. Có kiết ở nơi cõi Sắc, kiết ấy không rơi vào cõi Sắc: Nghĩa là bị triền ràng buộc, mất nơi cõi Sắc, khởi trung hữu nơi cõi Dục và ma ác trụ nơi cõi Phạm thế, vì bị triền ràng buộc nên trách chống Như Lai cùng trụ nơi cõi Sắc, kiết của cõi Vô sắc hiện tiền.

3. Có kiết rơi vào cõi Sắc, kiết ấy cũng ở nơi cõi Sắc: Nghĩa là bị triền ràng buộc, mất nơi cõi Sắc, khởi trung hữu, sinh hữu nơi cõi Sắc cùng trụ nơi cõi Sắc, kiết của cõi Sắc hiện tiền.

4. Có kiết không rơi vào cõi Sắc, kiết ấy cũng không ở nơi cõi Sắc: Nghĩa là bị triền ràng buộc, mất nơi cõi Dục, khởi trung hữu, sinh hữu nơi cõi Dục, mất nơi cõi Dục sinh nơi cõi Vô sắc, mất nơi cõi Vô sắc sinh lại nơi cõi Vô sắc, mất nơi cõi Vô sắc sinh ở nơi cõi Dục cùng trụ nơi cõi Dục, kiết của cõi Dục, Vô sắc hiện tiền. Trụ nơi cõi Vô sắc, kiết của cõi Vô sắc hiện tiền.

Hỏi: Các kiết rơi vào cõi Vô sắc, kiết ấy ở nơi cõi Vô sắc chăng?

Đáp: Các kiết ở nơi cõi Vô sắc, kiết ấy rơi vào cõi Vô sắc. Có kiết rơi vào cõi Vô sắc, kiết ấy không ở nơi cõi Vô sắc: Nghĩa là trụ nơi cõi Dục, cõi Sắc, kiết của cõi Vô sắc hiện tiền.

*

Hỏi: Các kiết không rơi vào cõi Dục, kiết ấy không ở nơi cõi Dục chăng?

Đáp: Nên tạo ra bốn trường hợp: Ngược lại với các phần đã trình bày ở trên, nên nhận biết.

Hỏi: Các kiết không rơi vào cõi Sắc, kiết ấy không ở nơi cõi Sắc chăng?

Đáp: Nên tạo ra bốn trường hợp: Ngược lại với các phần đã trình bày ở trên, nên nhận biết.

Hỏi: Các kiết không rơi vào cõi Vô sắc, kiết ấy không ở nơi cõi Vô sắc chăng?

Đáp: Đúng vậy. Có các kiết không ở nơi cõi Vô sắc, kiết ấy không phải không rơi vào cõi Vô sắc: Nghĩa là trụ nơi cõi Dục, cõi Sắc, kiết của cõi Vô sắc hiện tiền.

*

Hỏi: Đệ tử của Đức Thế Tôn thấy biết đủ, các sắc chưa đoạn, tức bị sắc ấy trói buộc chăng?

Đáp: Đúng vậy.

Hỏi: Giả như bị sắc trói buộc, sắc ấy chưa đoạn chăng?

Đáp: Đúng vậy.

Hỏi: Các thọ, tưởng, hành, thức chưa đoạn, tức bị các thọ, tưởng, hành, thức ấy trói buộc chăng?

Đáp: Đúng vậy. Có thọ, tưởng, hành, thức trói buộc, nhưng thọ, tưởng, hành, thức ấy không phải là chưa đoạn: Nghĩa là vị gia gia, hoặc nhất lai, hoặc nhất gián, các kiết thuộc phẩm trung, thượng nơi cõi Dục do tu đạo đoạn đã đoạn, đã nhận biết khắp, thì thọ, tưởng, hành, thức tương ưng kia hệ thuộc kiết nơi phẩm hạ.

*

Hỏi: Đệ tử của Đức Thế Tôn thấy biết đủ, các sắc đã đoạn, sắc ấy đã lìa trói buộc chăng?

Đáp: Đúng vậy.

Hỏi: Giả như sắc đã lìa trói buộc, sắc ấy đã đoạn chăng?

Đáp: Đúng vậy.

Hỏi: Các thọ, tưởng, hành, thức đã đoạn, tức thọ, tưởng, hành, thức ấy đã lìa trói buộc chăng?

Đáp: Các thọ, tưởng, hành, thức đã lìa trói buộc, thì thọ, tưởng, hành, thức ấy đã đoạn. Có thọ, tưởng, hành, thức đã đoạn, không phải là lìa trói buộc: Đó là vị gia gia, hoặc nhất lai, hoặc nhất gián, các kiết nơi phẩm trung, thượng thuộc cõi Dục do tu đạo đoạn, đã đoạn đã nhận biết khắp, thì thọ, tưởng, hành, thức tương ưng kia hệ thuộc kiết nơi phẩm hạ.

*

Hỏi: Có năm Bổ-đặc-già-la: Là Tùy tín hành, Tùy pháp hành, Tín thắng giải, Kiến chí, Thân chứng. Năm Bổ-đặc-già-la nầy đối với ba kiết cho đến chín mươi tám tùy miên: Bao nhiêu thứ được tạo thành, bao nhiêu thứ không tạo thành?

Đáp: Tùy tín hành: Đối với ba kiết: khổ loại trí chưa sinh đều tạo thành, khổ loại trí đã sinh thì hai thứ tạo thành, một thứ không tạo thành.

Đối với ba căn bất thiện: chưa lìa nhiễm dục thì đều tạo thành, đã lìa nhiễm dục thì đều không tạo thành.

Đối với ba lậu: chưa lìa nhiễm dục thì đều tạo thành, đã lìa nhiễm dục thì hai tạo thành, một không tạo thành.

Đối với bốn bộc lưu, bốn ách, bốn thủ: chưa lìa nhiễm dục thì đều tạo thành, đã lìa nhiễm dục thì ba tạo thành, một không tạo thành.

Đối với bốn trói buộc thân: chưa lìa nhiễm dục thì đều tạo thành, đã lìa nhiễm dục thì hai tạo thành, hai không tạo thành.

Đối với năm cái: chưa lìa nhiễm dục, đạo pháp trí chưa sinh thì đều tạo thành, đạo pháp trí đã sinh thì bốn tạo thành, một không tạo thành, đã lìa nhiễm dục thì đều không tạo thành.

Đối với năm kiết: chưa lìa nhiễm dục thì đều tạo thành, đã lìa nhiễm dục thì hai tạo thành, ba không tạo thành.

Đối với năm kiết thuận phần dưới: chưa lìa nhiễm dục, khổ loại trí chưa sinh thì đều tạo thành, khổ loại trí đã sinh thì bốn tạo thành, một không tạo thành. Đã lìa nhiễm dục, khổ loại trí chưa sinh thì ba tạo thành, hai không tạo thành, khổ loại trí đã sinh thì hai tạo thành, ba không tạo thành.

Đối với năm kiết thuận phần trên: chưa lìa nhiễm sắc thì đều tạo thành, đã lìa nhiễm sắc thì bốn tạo thành, một không tạo thành.

Đối với năm kiến: khổ loại trí chưa sinh thì đều tạo thành, khổ loại trí đã sinh thì ba tạo thành, hai không tạo thành.

Đối với sáu ái thân: chưa lìa nhiễm dục thì đều tạo thành, đã lìa nhiễm dục, chưa lìa nhiễm nơi cõi Phạm thế thì bốn tạo thành, hai không tạo thành, đã lìa nhiễm nơi cõi Phạm thế thì một tạo thành, năm không tạo thành.

Đối với bảy tùy miên: chưa lìa nhiễm dục thì đều tạo thành, đã lìa nhiễm dục thì năm tạo thành, hai không tạo thành.

Đối với chín kiết: chưa lìa nhiễm dục thì đều tạo thành, đã lìa nhiễm dục thì sáu tạo thành, ba không tạo thành.

Đối với chín mươi tám tùy miên: chưa lìa nhiễm dục, khổ pháp trí chưa sinh thì đều tạo thành, khổ pháp trí đã sinh, khổ loại trí chưa sinh, các tùy miên nơi cõi Dục do kiến khổ đoạn trừ đều không tạo thành, còn lại đều tạo thành.

Khổ loại trí đã sinh, tập pháp trí chưa sinh, các tùy miên nơi ba cõi do kiến khổ đoạn trừ đều không tạo thành, còn lại đều tạo thành.

Tập pháp trí đã sinh, tập loại trí chưa sinh, các tùy miên do kiến khổ đoạn trừ nơi ba cõi và do kiến tập đoạn nơi cõi Dục đều không tạo thành, còn lại đều tạo thành.

Tập loại trí đã sinh, diệt pháp trí chưa sinh, các tùy miên do kiến khổ, tập đoạn trừ nơi ba cõi đều không tạo thành, còn lại đều tạo thành.

Diệt pháp trí đã sinh, diệt loại trí chưa sinh, các tùy miên do kiến khổ, tập đoạn trừ nơi ba cõi và do kiến diệt đoạn nơi cõi Dục đều không tạo thành, còn lại đều tạo thành.

Diệt loại trí đã sinh, đạo pháp trí chưa sinh, các tùy miên do kiến khổ, tập, diệt đoạn trừ nơi ba cõi đều không tạo thành, còn lại đều tạo thành.

Đạo pháp trí đã sinh, các tùy miên do kiến khổ, tập, diệt đoạn trừ nơi ba cõi và kiến đạo đoạn trừ nơi cõi Dục đều không tạo thành, còn lại đều tạo thành.

Đã lìa nhiễm dục, chưa lìa nhiễm sắc, khổ loại trí chưa sinh, tùy miên nơi cõi Dục tất cả đều không tạo thành, cõi khác đều tạo thành.

Khổ loại trí đã sinh, tập loại trí chưa sinh, tất cả tùy miên nơi cõi Dục và nơi cõi Sắc, cõi Vô sắc do kiến khổ đoạn trừ đều không tạo thành, còn lại đều tạo thành.

Tập loại trí đã sinh, diệt loại trí chưa sinh, tất cả tùy miên nơi cõi Dục và các tùy miên do kiến khổ, tập đoạn trừ nơi cõi Sắc, cõi Vô sắc đều không tạo thành, còn lại đều tạo thành.

Diệt loại trí đã sinh, tất cả tùy miên nơi cõi Dục cùng các tùy miên do kiến khổ, tập, diệt đoạn trừ nơi cõi Sắc, cõi Vô sắc đều không tạo thành, còn lại đều tạo thành.

Đã lìa nhiễm sắc, khổ loại trí chưa sinh, tất cả tùy miên nơi cõi Dục, cõi Sắc đều không tạo thành, còn lại đều tạo thành.

Diệt loại trí đã sinh, tập loại trí chưa sinh, tất cả tùy miên nơi cõi Dục và cõi Sắc, cùng các tùy miên nơi cõi Vô sắc do kiến khổ đoạn trừ đều không tạo thành, còn lại đều tạo thành.

Tập loại trí đã sinh, diệt loại trí chưa sinh, tất cả tùy miên nơi cõi Dục, cõi Sắc, cùng các tùy miên do kiến khổ, tập đoạn trừ nơi cõi Vô sắc không tạo thành, còn lại đều tạo thành.

Diệt loại trí đã sinh, tất cả tùy miên nơi cõi Dục, cõi Sắc, cùng các tùy miên do kiến khổ, tập, diệt đoạn nơi cõi Vô sắc không tạo thành, còn lại đều tạo thành.

Như Tùy tín hành, Tùy pháp hành cũng như vậy.

Tín thắng giải: Đối với ba kiết: đều không tạo thành.

Đối với ba căn bất thiện: chưa lìa nhiễm dục thì đều tạo thành, đã lìa nhiễm dục thì đều không tạo thành.

Đối với ba lậu: chưa lìa nhiễm dục thì đều tạo thành, đã lìa nhiễm dục thì hai tạo thành, một không tạo thành.

Đối với bốn bộc lưu, bốn ách: chưa lìa nhiễm dục thì ba tạo thành, một không tạo thành, đã lìa nhiễm dục thì hai tạo thành, hai không tạo thành.

Đối với bốn thủ: chưa lìa nhiễm dục thì hai tạo thành, hai không tạo thành, đã lìa nhiễm dục thì một tạo thành, ba không tạo thành.

Đối với bốn trói buộc thân: chưa lìa nhiễm dục thì hai tạo thành, hai không tạo thành, đã lìa nhiễm dục thì đều không tạo thành.

Đối với năm cái: chưa lìa nhiễm dục thì bốn tạo thành, một không tạo thành, đã lìa nhiễm dục thì đều không tạo thành.

Đối với năm kiết: chưa lìa nhiễm dục thì đều tạo thành, đã lìa nhiễm dục thì hai tạo thành, ba không tạo thành.

Đối với năm kiết thuận phần dưới: chưa lìa nhiễm dục thì hai tạo thành, ba không tạo thành, đã lìa nhiễm dục thì đều không tạo thành.

Đối với năm kiết thuận phần trên: chưa lìa nhiễm sắc thì đều tạo thành, đã lìa nhiễm sắc thì bốn tạo thành, một không tạo thành.

Đối với năm kiến: đều không tạo thành.

Đối với sáu ái thân: chưa lìa nhiễm dục thì đều tạo thành, đã lìa nhiễm dục nhưng chưa lìa nhiễm nơi cõi Phạm thế thì bốn tạo thành, hai không tạo thành, đã lìa nhiễm nơi cõi Phạm thế thì một tạo thành, năm không tạo thành.

Đối với với bảy tùy miên: chưa lìa nhiễm dục thì năm tạo thành, hai không tạo thành, đã lìa nhiễm dục thì ba tạo thành, bốn không tạo thành.

Đối với chín kiết: chưa lìa nhiễm dục thì sáu tạo thành, ba không tạo thành, đã lìa nhiễm dục thì ba tạo thành, sáu không tạo thành.

Đối với chín mươi tám tùy miên: chưa lìa nhiễm dục thì mười thứ tạo thành, tám mươi tám thứ không tạo thành. Đã lìa nhiễm dục, chưa lìa nhiễm sắc thì sáu thứ tạo thành, chín mươi hai thứ không tạo thành. Đã lìa nhiễm sắc thì ba thứ tạo thành, chín mươi lăm thứ không tạo thành.

Như Tín thắng giải, Kiến chí cũng như vậy.

Thân chứng: Đối với ba kiết, ba căn bất thiện: đều không tạo thành.

Đối với ba lậu: hai thứ tạo thành, một thứ không tạo thành.

Đối với bốn bộc lưu, bốn ách: hai thứ tạo thành, hai thứ không tạo thành.

Đối với bốn thủ: một thứ tạo thành, ba thứ không tạo thành.

Đối với bốn trói buộc thân cùng năm cái: đều không tạo thành.

Đối với năm kiết: hai thứ tạo thành, ba thứ không tạo thành.

Đối với năm kiết thuận phần dưới: đều không tạo thành.

Đối với năm kiết thuận phần trên: bốn thứ tạo thành, một thứ không tạo thành.

Đối với năm kiến: đều không tạo thành.

Đối với sáu ái thân: một thứ tạo thành, năm thứ không tạo thành. Đối với bảy tùy miên: ba thứ tạo thành, bốn thứ không tạo thành.

Đối với chín kiết: ba thứ tạo thành, sáu thứ không tạo thành.

Đối với chín mươi tám tùy miên: ba thứ tạo thành, chín mươi lăm thứ không tạo thành.

*

Hỏi: Hữu thân kiến với hữu thân kiến có bao nhiêu duyên? Hữu thân kiến với giới cấm thủ v.v… cho đến tùy miên vô minh nơi cõi Vô sắc do tu đạo đoạn trừ có bao nhiêu duyên? Cho đến tùy miên vô minh nơi cõi Vô sắc do tu đạo đoạn trừ cùng với tùy miên vô minh nơi cõi Vô sắc do tu đạo đoạn trừ có bao nhiêu duyên? Tùy miên vô minh nơi cõi Vô sắc do tu đạo đoạn trừ cùng với hữu thân kiến, cho đến tùy miên mạn nơi cõi Vô sắc do tu đạo đoạn có bao nhiêu duyên?

Đáp: Hữu thân kiến với hữu thân kiến làm hoặc bốn, ba, hai, một duyên.

Thế nào là bốn? Như hữu thân kiến vô gián khởi hữu thân kiến, tức tư duy nơi đời trước với đời sau kia là bốn duyên.

Thế nào là ba? Như hữu thân kiến vô gián khởi hữu thân kiến, không tư duy nơi đời trước với đời sau kia là ba duyên, trừ sở duyên. Hoặc hữu thân kiến vô gián khởi tâm khác, sau khởi hữu thân kiến, tức tư duy thân kiến kia ở đời trước với đời sau nên là ba duyên, trừ đẳng vô gián.

Thế nào là hai? Như hữu thân kiến vô gián khởi tâm khác, sau khởi hữu thân kiến, không tư duy thân kiến kia ở đời trước với đời sau nên là hai duyên, gọi là nhân, tăng thượng.

Thế nào là một? Như hữu thân kiến của đời sau cùng với hữu thân kiến của đời trước, nếu tạo sở duyên là sở duyên, tăng thượng, không tạo sở duyên là một tăng thượng.

Hữu thân kiến vị lai cùng với hữu thân kiến quá khứ, hiện tại, nếu tạo sở duyên là sở duyên, tăng thượng, nếu không sở duyên là một tăng thượng.

Hữu thân kiến vị lai, hiện tại cùng với hữu thân kiến quá khứ, nếu tạo sở duyên là sở duyên, tăng thượng, không tạo sở duyên là một tăng thượng.

Hữu thân kiến của cõi Dục với hữu thân kiến của cõi Sắc, cõi Vô sắc là một tăng thượng.

Hữu thân kiến của cõi Sắc, cõi Vô sắc với hữu thân kiến của cõi Dục, nếu tạo đẳng vô gián là đẳng vô gián, tăng thượng, không tạo đẳng vô gián là một tăng thượng.

Hữu thân kiến của cõi Sắc với hữu thân kiến của cõi Vô sắc là một tăng thượng.

Hữu thân kiến của cõi Vô sắc với hữu thân kiến của cõi Sắc, nếu tạo đẳng vô gián là đẳng vô gián, tăng thượng, không tạo đẳng vô gián là một tăng thượng.

Như hữu thân kiến với hữu thân kiến, nên biết hữu thân kiến cùng với tất cả không phải biến hành khác, tất cả không phải biến hành khác cùng với tất cả không phải biến hành, tất cả biến hành cùng với tất cả không phải biến hành cũng như vậy.

Hữu thân kiến với giới cấm thủ làm hoặc bốn, ba, hai, một duyên.

Thế nào là bốn? Như hữu thân kiến vô gián khởi giới cấm thủ, tức tư duy nơi thân kiến kia ở đời trước và đời sau là bốn duyên.

Thế nào là ba? Như hữu thân kiến vô gián khởi giới cấm thủ, không tư duy nơi thân kiến kia ở đời trước và đời sau là ba duyên, trừ sở duyên. Hoặc hữu thân kiến vô gián khởi tâm khác, sau khởi giới cấm thủ, tức tư duy nơi thân kiến kia của đời trước và đời sau nên là ba duyên, trừ đẳng vô gián.

Thế nào là hai? Như hữu thân kiến vô gián khởi tâm khác, sau khởi giới cấm thủ, không tư duy nơi thân kiến kia ở đời trước và đời sau nên là hai duyên, gọi là nhân, tăng thượng.

Thế nào là một? Như hữu thân kiến của đời sau với giới cấm thủ của đời trước, nếu tạo sở duyên là sở duyên, tăng thượng, không tạo sở duyên là một tăng thượng.

Hữu thân kiến của vị lai với giới cấm thủ của quá khứ, hiện tại, nếu tạo sở duyên là sở duyên, tăng thượng, không tạo sở duyên là một tăng thượng.

Hữu thân kiến của vị lai, hiện tại với giới cấm thủ của quá khứ, nếu tạo sở duyên là sở duyên, tăng thượng, không tạo sở duyên là một tăng thượng.

Hữu thân kiến của cõi Dục với giới cấm thủ của cõi Sắc, cõi Vô sắc là một tăng thượng.

Hữu thân kiến của cõi Sắc, cõi Vô sắc với giới cấm thủ của cõi Dục, nếu tạo sở duyên, không phải đẳng vô gián là sở duyên, tăng thượng. Nếu tạo đẳng vô gián, không phải sở duyên là đẳng vô gián, tăng thượng. Nếu tạo đẳng vô gián và sở duyên là đẳng vô gián, sở duyên, tăng thượng. Không tạo đẳng vô gián và sở duyên là một tăng thượng.

Hữu thân kiến của cõi Sắc cùng với giới cấm thủ của cõi Vô sắc là một tăng thượng. Hữu thân kiến của cõi Vô sắc với giới cấm thủ của cõi Sắc, nếu tạo sở duyên không phải đẳng vô gián là sở duyên, tăng thượng. Nếu tạo đẳng vô gián không phải là sở duyên là đẳng vô gián, tăng thượng. Nếu tạo đẳng vô gián và sở duyên là đẳng vô gián, sở duyên, tăng thượng. Nếu không tạo đẳng vô gián và sở duyên là một tăng thượng.

Như hữu thân kiến cùng với giới cấm thủ, nên biết hữu thân kiến với tất cả biến hành khác, tất cả biến hành cùng với tất cả biến hành, tất cả phi biến hành khác với tất cả biến hành cũng như vậy.

(Bốn duyên là: nhân duyên, đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên và tăng thượng duyên)

***

Phẩm 2: BÀN VỀ NHẤT HÀNH, phần 1

Kiết một hành trải sáu

Nhỏ lớn bảy thâu hữu

Dựa thuộc đạo biết khắp

Chương nầy xin nói đủ.

Có chín kiết: Đó là kiết ái, kiết giận, kiết mạn, kiết vô minh, kiết kiến, kiết thủ, kiết nghi, kiết ganh tị, kiết keo kiệt.

**

Nếu đối với sự việc nầy:kiết ái trói buộc thì cũng có kiết giận trói buộc chăng?

Đáp: Nếu đối với sự việc nầy có kiết giận trói buộc tất có kiết ái trói buộc. Hoặc có kiết ái trói buộc không có kiết giận trói buộc: Nghĩa là đối với pháp nơi cõi Sắc, cõi Vô sắc có kiết ái chưa đoạn.

Hỏi: Nếu đối với sự việc nầy: Có kiết ái trói buộc thì cũng có kiết mạn trói buộc chăng?

Đáp: Đúng vậy.

Hỏi: Giả như có kiết mạn trói buộc lại có kiết ái trói buộc chăng?

Đáp: Đúng vậy.

Hỏi: Nếu đối với sự việc nầy: Có kiết ái trói buộc thì cũng có kiết vô minh trói buộc chăng?

Đáp: Nếu đối với sự việc nầy, có kiết ái trói buộc tất có kiết vô minh trói buộc. Hoặc có kiết vô minh trói buộc không có kiết ái trói buộc: Nghĩa là khổ trí đã sinh, tập trí chưa sinh, đối với pháp do kiến khổ đoạn có kiết vô minh do kiến tập đoạn, chưa đoạn.

Hỏi: Nếu đối với sự việc nầy: Có kiết ái trói buộc thì cũng có kiết kiến trói buộc chăng?

Đáp: Nên tạo ra bốn trường hợp:

1. Hoặc có kiết ái trói buộc không có kiết kiến trói buộc: Nghĩa là tập trí đã sinh, diệt trí chưa sinh, đối với pháp không tương ưng với kiết kiến do kiến diệt đạo đoạn và đối với pháp do tu đạo đoạn, có kiết ái chưa đoạn. Diệt trí đã sinh, đạo trí chưa sinh, đối với pháp không tương ưng với kiết kiến do kiến đạo đoạn và đối với pháp do tu đạo đoạn, có kiết ái chưa đoạn. Đệ tử thấy biết đủ của Đức Thế Tôn đối với pháp do tu đạo đoạn có kiết ái chưa đoạn.

2. Hoặc có kiết kiến trói buộc không có kiết ái trói buộc: Nghĩa là khổ trí đã sinh, tập trí chưa sinh, đối với pháp do kiến khổ đoạn, có kiết kiến do kiến tập đoạn, chưa đoạn.

3. Hoặc có kiết ái trói buộc cũng có kiết kiến trói buộc: Nghĩa là kẻ bị trói buộc đủ đối với pháp do kiến đạo, tu đạo đoạn có hai kiết trói buộc. Khổ trí đã sinh, tập trí chưa sinh, đối với pháp do kiến tập, diệt, đạo, tu đạo đoạn có hai kiết trói buộc. Tập trí đã sinh, diệt trí chưa sinh, đối với pháp tương ưng với kiết kiến do kiến diệt, đạo đoạn có hai kiết trói buộc. Diệt trí đã sinh, đạo trí chưa sinh, đối với pháp tương ưng với kiết kiến do kiến đạo đoạn có hai kiết trói buộc.

4. Hoặc không có kiết ái trói buộc cũng không có kiết kiến trói buộc: Nghĩa là tập trí đã sinh, diệt trí chưa sinh, đối với pháp do kiến khổ, tập đoạn không có hai kiết trói buộc. Diệt trí đã sinh, đạo trí chưa sinh, đối với pháp do kiến khổ, tập, diệt đoạn, không có hai kiết trói buộc. Đệ tử thấy biết đủ của Đức Thế Tôn đối với pháp do kiến đạo đoạn không có hai kiết trói buộc. Đã lìa nhiễm dục, đối với pháp nơi cõi Dục không có hai kiết trói buộc. Đã lìa nhiễm sắc, đối với pháp nơi cõi Dục, cõi Sắc, không có hai kiết trói buộc. Đã lìa nhiễm vô sắc, đối với pháp của ba cõi không có hai kiết trói buộc.

Như đối với kiết kiến, đối với kiết nghi cũng như vậy.

Hỏi: Nếu đối với sự việc nầy: Có kiết ái trói buộc thì cũng có kiết thủ trói buộc chăng?

Đáp: Nên tạo ra bốn trường hợp:

1. Hoặc có kiết ái trói buộc không có kiết thủ trói buộc: Nghĩa là tập trí đã sinh, diệt trí chưa sinh, đối với pháp do tu đạo đoạn có kiết ái chưa đoạn. Diệt trí đã sinh, đạo trí chưa sinh, đối với pháp do tu đạo đoạn có kiết ái chưa đoạn. Đệ tử thấy biết đủ của Đức Thế Tôn đối với pháp do tu đạo đoạn, có kiết ái chưa đoạn.

2. Hoặc có kiết thủ trói buộc không có kiết ái trói buộc: Nghĩa là khổ trí đã sinh, tập trí chưa sinh, đối với pháp do kiến khổ đoạn, có kiết thủ do kiến tập đoạn, chưa đoạn.

3. Hoặc có kiết ái trói buộc cũng có kiết thủ trói buộc: Nghĩa là kẻ bị trói buộc đủ đối với pháp do kiến đạo, tu đạo đoạn có hai kiết trói buộc. Khổ trí đã sinh, tập trí chưa sinh, đối với pháp do kiến tập, diệt, đạo, tu đạo đoạn, có hai kiết trói buộc. Tập trí đã sinh, diệt trí chưa sinh, đối với pháp do kiến diệt, đạo đoạn, có hai kiết trói buộc.

Diệt trí đã sinh, đạo trí chưa sinh, đối với pháp do kiến đạo đoạn, có hai kiết trói buộc.

4. Hoặc không có kiết ái trói buộc cũng không có kiết thủ trói buộc: Nghĩa là tập trí đã sinh, diệt trí chưa sinh, đối với pháp do kiến khổ, tập đoạn không có hai kiết trói buộc. Diệt trí đã sinh, đạo trí chưa sinh, đối với pháp do kiến khổ, tập diệt đoạn, không có hai kiết trói buộc. Đệ tử thấy biết đủ của Đức Thế Tôn đối với pháp do kiến đạo đoạn, không có hai kiết trói buộc. Đã lìa nhiễm dục, đối với pháp của cõi Dục không có hai kiết trói buộc. Đã lìa nhiễm sắc, đối với pháp của cõi Dục, cõi Sắc, không có hai kiết trói buộc. Đã lìa nhiễm vô sắc, đối với pháp của ba cõi, không có hai kiết trói buộc.

Hỏi: Nếu đối với sự việc nầy: Có kiết ái trói buộc thì cũng có kiết ganh tị trói buộc chăng?

Đáp: Nếu đối với sự việc nầy có kiết ganh tị trói buộc tất có kiết ái trói buộc. Hoặc có kiết ái trói buộc, không có kiết ganh tị trói buộc: Nghĩa là đối với pháp do kiến đạo đoạn nơi cõi Dục và đối với pháp nơi cõi Sắc, cõi Vô sắc, có kiết ái chưa đoạn.

Như đối với kiết ganh tị, đối với kiết keo kiệt cũng như vậy.

*

Như kiết ái đối với một hành được tạo sau, kiết mạn đối với một hành được tạo sau cũng như vậy.

*

Hỏi: Nếu đối với sự việc nầy:kiết giận trói buộc thì cũng có kiết mạn trói buộc chăng?

Đáp: Nếu đối với sự việc nầy có kiết giận trói buộc tất có kiết mạn trói buộc. Hoặc có kiết mạn trói buộc không có kiết giận trói buộc: Nghĩa là đối với pháp của cõi Sắc, cõi Vô sắc có kiết mạn chưa đoạn.

Hỏi: Nếu đối với sự việc nầy: Có kiết giận trói buộc thì cũng có kiết vô minh trói buộc chăng?

Đáp: Nếu đối với sự việc nầy có kiết giận trói buộc tất có kiết vô minh trói buộc. Hoặc có kiết vô minh trói buộc không có kiết giận trói buộc: Nghĩa là chưa lìa nhiễm dục, khổ trí đã sinh, tập trí chưa sinh, đối với pháp của cõi Dục do kiến khổ đoạn, có kiết vô minh do kiến tập đoạn, chưa đoạn. Đối với pháp của cõi Sắc, cõi Vô sắc, có kiết vô minh chưa đoạn.

Hỏi: Nếu đối với sự việc nầy: Có kiết giận trói buộc thì cũng có kiết kiến trói buộc chăng?

Đáp: Nên tạo ra bốn trường hợp:

1. Hoặc có kiết giận trói buộc không có kiết kiến trói buộc: Nghĩa là chưa lìa nhiễm dục, tập trí đã sinh, diệt trí chưa sinh. Đối với pháp không tương ưng với kiết kiến nơi cõi Dục do kiết diệt, đạo đoạn và đối với pháp do tu đạo đoạn nơi cõi Dục, có kiết giận chưa đoạn. Diệt trí đã sinh, đạo trí chưa sinh, đối với pháp không tương ưng với kiết kiến do kiến đạo đoạn nơi cõi Dục cùng đối với pháp do tu đạo đoạn nơi cõi Dục, có kiết giận chưa đoạn. Đệ tử thấy biết đủ của Đức Thế Tôn chưa lìa nhiễm dục, đối với pháp do tu đạo đoạn nơi cõi Dục, có kiết giận chưa đoạn.

2. Hoặc có kiết kiến trói buộc không có kiết giận trói buộc: Nghĩa là chưa lìa nhiễm dục, khổ trí đã sinh, tập trí chưa sinh, đối với pháp nơi cõi Dục do kiến khổ đoạn, có kiết kiến do kiến tập đoạn, chưa đoạn. Đối với pháp của cõi Sắc, cõi Vô sắc, có kiết kiến chưa đoạn.

3. Hoặc có kiết giận trói buộc cũng có kiết kiến trói buộc: Nghĩa là kẻ bị trói buộc đủ, đối với pháp nơi cõi Dục do kiến đạo, tu đạo đoạn có hai kiết trói buộc. Chưa lìa nhiễm dục, khổ trí đã sinh, tập trí chưa sinh, đối với pháp do kiến tập, diệt, đạo, tu đạo đoạn nơi cõi Dục có hai kiết trói buộc. Tập trí đã sinh, diệt trí chưa sinh, đối với pháp tương ưng với kiết kiến nơi cõi Dục do kiến diệt, đạo đoạn có hai kiết trói buộc. Diệt trí đã sinh, đạo trí chưa sinh, đối với pháp tương ưng với kiết kiến nơi cõi Dục do kiến đạo đoạn có hai kiết trói buộc.

4. Hoặc không có kiết giận trói buộc cũng không có kiết kiến trói buộc: Nghĩa là tập trí đã sinh, diệt trí chưa sinh, đối với pháp do kiến khổ, tập đoạn và đối với pháp không tương ưng với kiết kiến nơi cõi Sắc, cõi Vô sắc do kiến diệt, đạo đoạn, cùng đối với pháp nơi cõi Sắc, cõi Vô sắc do tu đạo đoạn, không có hai kiết trói buộc. Diệt trí đã sinh, đạo trí chưa sinh, đối với pháp do kiến khổ, tập, diệt đoạn và đối với pháp không tương ưng với kiết kiến nơi cõi Sắc, cõi Vô sắc do kiến đạo đoạn cùng với pháp nơi cõi Sắc, cõi Vô sắc do tu đạo đoạn không có hai kiết trói buộc. Đệ tử thấy biết đủ của Đức Thế Tôn chưa lìa nhiễm dục, đối với pháp do kiến đạo đoạn và đối với pháp do tu đạo đoạn nơi cõi Sắc, cõi Vô sắc, không có hai kiết trói buộc. Đã lìa nhiễm dục, đối với pháp của cõi Dục không có hai kiết trói buộc. Đã lìa nhiễm sắc, đối với pháp của cõi Dục, cõi Sắc không có hai kiết trói buộc. Đã lìa nhiễm vô sắc, đối với pháp của ba cõi không có hai kiết trói buộc.

Như đối với kiết kiến, đối với kiết nghi cũng như vậy.

Hỏi: Nếu đối với sự việc nầy: Có kiết giận trói buộc thì cũng có kiết thủ trói buộc chăng?

Đáp: Nên tạo ra bốn trường hợp:

1. Hoặc có kiết giận trói buộc không có kiết thủ trói buộc: Nghĩa là chưa lìa nhiễm dục, tập trí đã sinh, diệt trí chưa sinh, đối với pháp nơi cõi Dục do tu đạo đoạn, có kiết giận chưa đoạn. Diệt trí đã sinh, đạo trí chưa sinh, đối với pháp nơi cõi Dục do tu đạo đoạn, có kiết giận chưa đoạn. Đệ tử thấy biết đủ của Đức Thế Tôn chưa lìa nhiễm dục, đối với pháp nơi cõi Dục do tu đạo đoạn, có kiết giận chưa đoạn.

2. Hoặc có kiết thủ trói buộc không có kiết giận trói buộc: Nghĩa là chưa lìa nhiễm dục, khổ trí đã sinh, tập trí chưa sinh, đối với pháp nơi cõi Dục do kiến khổ đoạn, có kiết thủ do kiến tập đoạn, chưa đoạn. Đối với pháp của cõi Sắc, cõi Vô sắc, có kiết thủ chưa đoạn.

3. Hoặc có kiết giận trói buộc cũng có kiết thủ trói buộc: Nghĩa là kẻ bị trói buộc đủ, đối với pháp nơi cõi Dục do kiến đạo, tu đạo đoạn, có hai kiết trói buộc. Chưa lìa nhiễm dục, khổ trí đã sinh, tập trí chưa sinh, đối với pháp nơi cõi Dục do kiến tập, diệt, đạo đoạn, có hai kiết trói buộc. Tập trí đã sinh, diệt trí chưa sinh, đối với pháp nơi cõi Dục do kiến diệt, đạo đoạn, có hai kiết trói buộc. Diệt trí đã sinh, đạo trí chưa sinh, đối với pháp nơi cõi Dục do kiến đạo đoạn, có hai kiết trói buộc.

4. Hoặc không có kiết giận trói buộc cũng không có kiết thủ trói buộc: Nghĩa là chưa lìa nhiễm dục, tập trí đã sinh, diệt trí chưa sinh, đối với pháp do kiến khổ, tập đoạn và đối với pháp nơi cõi Sắc, cõi Vô sắc do tu đạo đoạn, không có hai kiết trói buộc. Diệt trí đã sinh, đạo trí chưa sinh, đối với pháp do kiến khổ, tập, diệt đoạn và đối với pháp nơi cõi Sắc, cõi Vô sắc do tu đạo đoạn, không có hai kiết trói buộc. Đệ tử thấy biết đủ của Đức Thế Tôn chưa lìa nhiễm dục, đối với pháp do kiến đạo đoạn và đối với pháp nơi cõi Sắc, cõi Vô sắc do tu đạo đoạn, không có hai kiết trói buộc. Đã lìa nhiễm dục, đối với pháp của cõi Dục, không có hai kiết trói buộc. Đã lìa nhiễm sắc, đối với pháp của cõi Dục, cõi Sắc, không có hai kiết trói buộc. Đã lìa nhiễm vô sắc, đối với pháp của ba cõi, không có hai kiết trói buộc.

Hỏi: Nếu đối với sự việc nầy: Có kiết giận trói buộc thì cũng có kiết ganh tị trói buộc chăng?

Đáp: Nếu đối với sự việc nầy có kiết ganh tị trói buộc tất có kiết giận trói buộc. Hoặc có kiết giận trói buộc không có kiết ganh tị trói buộc: Nghĩa là đối với pháp nơi cõi Dục do kiến đạo đoạn, có kiết giận chưa đoạn.

Như đối với kiết ganh tị, đối với kiết keo kiệt cũng như vậy.

HẾT – QUYỂN 3