LUẬN A TỲ ĐẠT MA PHÁP UẨN TÚC
Tác giả: Tôn giả Đại Mục Kiền Liên
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 11

Phẩm 20: NHIỀU GIỚI, phần 2

* Nói về 6 giới: Đó là các giới dục, giận, hại và không dục, không giận, không hại.

1. Thế nào là giới dục?

Đáp: Nghĩa là đối với cảnh dục, khởi các tham cùng tham v.v… cho đến là loại tham, sinh ra tham, gọi chung là giới dục. Lại nữa, dục tham cùng dục tham tương ưng với thọ tưởng hành thức đã cùng khởi các nghiệp thân, ngữ, hành không tương ưng, gọi chung là giới dục.

2. Thế nào là giới giận?

Đáp: Nghĩa là đối với các hữu tình muốn gây tổn hại v.v… cho đến hiện gây tai họa, gọi chung là giới giận. Lại nữa, giận dữ cùng giận dữ tương ưng với thọ tưởng hành thức đã cùng khởi các nghiệp thân, ngữ, hành không tương ưng, gọi chung là giới giận.

3. Thế nào là giới hại?

Đáp: Nghĩa là dùng tay, đất, đá, đao gậy v.v…, các thứ như thế theo đấy để đánh đập các hữu tình, có các tổn hại cùng tổn hại, dấy khởi giận dữ có thể gây tạo các sự khổ, gọi chung là giới hại. Lại nữa, hại cùng hại tương ưng với thọ tưởng hành thức đã cùng khởi các nghiệp thân, ngữ, hành không tương ưng, gọi chung là giới hại.

4. Thế nào là giới không dục?

Đáp: Nghĩa là đối với giới dục, luôn tư duy về các lỗi lầm tai họa của nó. Giới dục như thế là pháp bất thiện, là kẻ thấp kém mới tin hiểu thọ trì. Phật và hàng đệ tử, các bậc Thiện sĩ hiền quý thảy đều chê trách chán bỏ, vì nó làm hại mình, hại người, hại cả mình và người, có thể tiêu diệt trí tuệ, có thể ngăn trở loại ấy, có thể gây chướng ngại cho Niết-bàn, thọ trì pháp ấy thì không sinh thông tuệ, không dẫn đến Bồ-đề, không chứng đắc Niết-bàn. Tư duy như thế liền phát sinh sức siêng năng tinh tấn v.v… cho đến tâm ý luôn cố gắng không dừng. Đó gọi là giới không dục.

Lại nữa, vì nhằm đoạn trừ giới dục, nên đối với giới không dục luôn tư duy về các công đức. Giới không dục như thế là pháp thiện, các bậc tôn quý nhất đã tin hiểu thọ trì. Phật và các đệ tử, những bậc Thiện sĩ hiền quý đều cùng vui mừng khen ngợi, vì pháp ấy không hại mình, không hại người, hoặc không hại cả hai, làm tăng trưởng trí tuệ, không ngăn trở loại ấy, không gây chướng ngại cho Niết-bàn, thọ trì pháp ấy có thể khởi thông tuệ, dẫn đến Bồ-đề, có thể chứng đắc Niết-bàn. Tư duy như thế liền phát sinh sức siêng năng tinh tấn v.v… cho đến tâm ý luôn cố gắng không dừng. Đó gọi là giới không dục.

Lại nữa, tư duy về giới dục như bệnh hoạn, như ung nhọt, như sự não hại của mũi tên độc, là vô thường, khổ, không, vô ngã, luôn chuyển động, mệt mỏi, suy yếu, là pháp mất mát, tan hủy, nhanh chóng không dừng, luôn hư nát, không thường hằng, không thể tin giữ, là pháp biến hoại. Tư duy như thế liền phát sinh sức siêng năng tinh tấn v.v… cho đến tâm ý luôn cố gắng không dừng. Đó gọi là giới không dục.

Lại nữa, vì nhằm đoạn trừ giới dục, nên tư duy về diệt đế là diệt, là lìa, tư duy về đạo đế là đạo, là xuất. Tư duy như thế liền phát sinh sức siêng năng tinh tấn v.v… cho đến tâm ý luôn cố gắng không dừng.

Đó gọi là giới không dục.

Lại nữa, nếu tư duy về định tâm xả và đạo tương ưng với định tâm xả, cùng định vô tưởng, định diệt tận và trạch diệt. Tư duy như thế liền phát sinh sức siêng năng tinh tấn v.v… cho đến tâm ý luôn cố gắng không dừng. Đó gọi là giới không dục.

Lại nữa, không dục cùng không dục tương ưng với thọ tưởng hành thức đã cùng khởi các nghiệp thân, ngữ, hành không tương ưng, gọi chung là giới không dục.

5. Thế nào là giới không giận?

Đáp: Nghĩa là đối với giới giận luôn tư duy về các lỗi lầm tai họa của nó. Giới giận như thế là pháp bất thiện v.v… cho đến không chứng đắc Niết-bàn. Tư duy như thế liền phát sinh sức siêng năng tinh tấn v.v… cho đến tâm ý luôn cố gắng không dừng. Đó gọi là giới không giận.

Lại nữa, vì nhằm đoạn trừ giới giận, nên đối với giới không giận luôn tư duy về các công đức. Giới không giận như thế là pháp thiện v.v… cho đến có thể chứng đắc Niết-bàn. Tư duy như thế liền phát sinh sức siêng năng tinh tấn v.v… cho đến tâm ý luôn cố gắng không dừng. Đó gọi là giới không giận.

Lại nữa, tư duy về giới giận như bệnh hoạn, như ung nhọt v.v… cho đến là pháp biến hoại. Tư duy như thế liền phát sinh sức siêng năng tinh tấn v.v… cho đến tâm ý luôn cố gắng không dừng. Đó gọi là giới không giận.

Lại nữa, vì nhằm đoạn trừ giới giận, nên tư duy về diệt đế là diệt, là lìa, tư duy về đạo đế là đạo, là xuất. Tư duy như thế liền phát sinh sức siêng năng tinh tấn v.v… cho đến tâm ý luôn cố gắng không dừng. Đó gọi là giới không giận.

Lại nữa, nếu tư duy về định tâm từ và đạo tương ưng với định tâm từ. Tư duy như thế liền phát sinh sức siêng năng tinh tấn v.v… cho đến tâm ý luôn cố gắng không dừng. Đó gọi là giới không giận.

Lại nữa, không giận cùng không giận tương ưng với thọ tưởng hành thức đã cùng khởi các nghiệp thân, ngữ, hành không tương ưng, gọi chung là giới không giận.

6. Thế nào là giới không hại?

Đáp: Nghĩa là đối với giới hại, luôn tư duy về các lỗi lầm tai họa của nó. Giới hại như thế là pháp bất thiện v.v… cho đến không chứng đắc Niết-bàn. Tư duy như thế liền phát sinh sức siêng năng tinh tấn v.v… cho đến tâm ý luôn cố gắng không dừng. Đó gọi là giới không hại.

Lại nữa, vì nhằm đoạn trừ giới hại, nên đối với giới không hại luôn tư duy về các công đức. Giới không hại như thế là pháp thiện v.v… cho đến có thể chứng đắc Niết-bàn. Tư duy như thế liền phát sinh sức siêng năng tinh tấn v.v… cho đến tâm ý luôn cố gắng không dừng. Đó gọi là giới không hại.

Lại nữa, tư duy về giới hại như bệnh hoạn, như ung nhọt v.v… cho đến là pháp biến hoại. Tư duy như thế liền phát sinh sức siêng năng tinh tấn v.v… cho đến tâm ý luôn cố gắng không dừng. Đó gọi là giới không hại.

Lại nữa, vì nhằm đoạn trừ giới hại, nên tư duy về diệt đế là diệt, là lìa, tư duy về đạo đế là đạo, là xuất. Tư duy như thế liền phát sinh sức siêng năng tinh tấn v.v… cho đến tâm ý luôn cố gắng không dừng. Đó gọi là giới không hại.

Lại nữa, nếu tư duy về định tâm bi và đạo tương ưng với định tâm bi. Tư duy như thế liền phát sinh sức siêng năng tinh tấn v.v…

cho đến tâm ý luôn cố gắng không dừng. Đó gọi là giới không hại.

Lại nữa, không hại cùng không hại tương ưng với thọ tưởng hành thức đã cùng khởi các nghiệp thân, ngữ, hành không tương ưng, gọi chung là giới không hại.

*

* Nói về 6 giới: Đó là các giới lạc, khổ, hỷ, ưu, xả, vô minh.

1. Thế nào là giới lạc?

Đáp: Nghĩa là xúc thuận theo lạc sinh khởi thân vui, tâm vui, thọ nhận bình đẳng, đều thuộc về thọ nhận. Đó gọi là giới lạc. Lại nữa, khi tu tĩnh lự thứ ba xúc thuận theo lạc thọ sinh khởi tâm vui, thọ nhận bình đẳng, đều thuộc về thọ nhận. Đó gọi là giới lạc.

2. Thế nào là giới khổ?

Đáp: Nghĩa là xúc thuận theo khổ sinh khởi thân khổ, thọ nhận không bình đẳng, đều thuộc về thọ nhận. Đó gọi là giới khổ.

3. Thế nào là giới hỷ?

Đáp: Nghĩa là xúc thuận theo hỷ sinh khởi tâm mừng, thọ nhận bình đẳng, đều thuộc về thọ nhận. Đó gọi là giới hỷ.

4. Thế nào là giới ưu?

Đáp: Nghĩa là xúc thuận theo ưu sinh khởi tâm lo, thọ nhận không bình đẳng, đều thuộc về thọ nhận. Đó gọi là giới ưu.

5. Thế nào là giới xả?

Đáp: Nghĩa là xúc thuận theo xả sinh khởi thân xả, tâm xả, thọ nhận không bình đẳng, không phải là không bình đẳng, đều thuộc về thọ nhận. Đó gọi là giới xả. Lại nữa, khi tu định vị chí, tĩnh lự trung gian, tĩnh lự thứ tư và định vô sắc, xúc thuận theo không khổ không lạc sinh khởi tâm xả, thọ nhận không bình đẳng, không phải là không bình đẳng, đều thuộc về thọ nhận. Đó gọi là giới xả.

6. Thế nào là giới vô minh?

Đáp: Nghĩa là ba cõi đều không nhận biết. Đó gọi là giới vô minh.

*

* Nói về 4 giới: Đó là các giới thọ, tưởng, hành, thức.

1. Thế nào là giới thọ?

Đáp: Nghĩa là sáu thọ nơi thân, tức mắt tiếp xúc với sắc sinh ra thọ v.v… cho đến ý tiếp xúc với pháp sinh ra thọ, đó gọi là giới thọ.

2. Thế nào là giới tưởng?

Đáp: Nghĩa là sáu tưởng nơi thân, tức mắt tiếp xúc sinh ra tưởng v.v… cho đến ý tiếp xúc sinh ra tưởng, đó gọi là giới tưởng.

3. Thế nào là giới hành?

Đáp: Nghĩa là sáu tư nơi thân, tức mắt tiếp xúc sinh ra tư v.v…cho đến ý tiếp xúc sinh ra tư, đó gọi là giới hành.

4. Thế nào là giới thức?

Đáp: Nghĩa là sáu thức thân, tức là nhãn thức v.v… cho đến ý thức, đó gọi là giới thức.

*

* Nói về 3 giới: Đó là cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc.

1. Thế nào là cõi Dục?

Đáp: Nghĩa là có các pháp dục tham theo đấy tăng lên, đó gọi là cõi Dục.

Lại nữa, hệ thuộc cõi Dục có mười tám giới, mười hai xứ, năm uẩn, đó gọi là cõi Dục.

Lại nữa, dưới từ địa ngục Vô gián, trên đến cõi trời Tha-hóa-tựtại, trong ấy đều hiện có sắc thọ tưởng hành thức, đó gọi là cõi Dục.

2. Thế nào là cõi Sắc?

Đáp: Nghĩa là có các pháp sắc tham theo đấy tăng lên, đó gọi là cõi Sắc.

Lại nữa, hệ thuộc cõi Sắc có mười bốn giới, mười xứ, năm uẩn, đó gọi là cõi Sắc.

Lại nữa, dưới từ cõi trời Phạm chúng, trên đến cõi trời Sắc cứu cánh, trong ấy đều hiện có sắc thọ tưởng hành thức, đó gọi là cõi Sắc.

3. Thế nào là cõi Vô sắc?

Đáp: Nghĩa là có các pháp vô sắc tham theo đấy tăng lên, đó gọi là cõi Vô sắc.

Lại nữa, hệ thuộc cõi Vô sắc có ba giới, hai xứ, bốn uẩn, đó gọi là cõi Vô sắc.

Lại nữa, như ở cõi Dục, cõi Sắc, xứ định được kiến lập thì không cùng tạp loạn, còn ở cõi Vô sắc thì không có sự việc như thế. Nhưng dựa vào định sinh, hơn kém có sai biệt, nên lập ra trên dưới. Dưới từ xứ Không vô biên, trên đến xứ Phi tưởng phi phi tưởng, trong ấy đều hiện có thọ tưởng hành thức, đó gọi là cõi Vô sắc.

*

* Nói về 3 giới: Đó là các giới sắc, vô sắc, diệt.

1. Thế nào là giới sắc?

Đáp: Nghĩa là cõi Dục và cõi Sắc, gọi chung là giới sắc.

2. Thế nào là giới vô sắc?

Đáp: Nghĩa là bốn định vô sắc, đó gọi là giới vô sắc.

3. Thế nào là giới diệt?

Đáp: Nghĩa là trạch diệt, phi trạch diệt, đó gọi là giới diệt.

Lại nữa, các pháp có sắc gọi chung là giới sắc. Trừ trạch diệt, phi trạch diệt, các pháp vô sắc còn lại gọi là giới vô sắc. Trạch diệt và phi trạch diệt gọi là giới diệt.

*

* Nói về 3 giới: Đó là các giới quá khứ, hiện tại, vị lai.

1. Thế nào là giới quá khứ?

Đáp: Nghĩa là năm uẩn quá khứ, đó gọi là giới quá khứ.

2. Thế nào là giới hiện tại?

Đáp: Nghĩa là năm uẩn hiện tại, đó gọi là giới hiện tại.

3. Thế nào là giới vị lai?

Đáp: Nghĩa là năm uẩn vị lai, đó gọi là giới vị lai.

*

* Nói về 3 giới: Đó là các giới thấp kém, trung bình, thượng diệu.

1. Thế nào là giới thấp kém?

Đáp: Nghĩa là pháp bất thiện hữu phú vô ký, đó gọi là giới thấp kém.

2. Thế nào là giới trung bình?

Đáp: Nghĩa là pháp thiện hữu lậu và pháp vô phú vô ký, đó gọi là giới trung bình.

3. Thế nào là giới thượng diệu?

Đáp: Nghĩa là pháp thiện vô lậu, đó gọi là giới thượng diệu.

*

* Nói về 3 giới: Đó là các giới thiện, bất thiện, vô ký.

1. Thế nào là giới thiện?

Đáp: Nghĩa là nghiệp thân, ngữ thiện, pháp tâm, tâm sở, hành không tương ưng cùng trạch diệt, đó gọi là giới thiện.

2. Thế nào là giới bất thiện?

Đáp: Nghĩa là nghiệp thân, ngữ bất thiện, pháp tâm, tâm sở, hành không tương ưng, đó gọi là giới bất thiện.

3. Thế nào là giới vô ký?

Đáp: Nghĩa là sắc vô ký, pháp tâm, tâm sở, hành không tương ưng cùng hư không và phi trạch diệt, đó gọi là giới vô ký

*

* Nói về 3 giới: Đó là các giới học, vô học, phi học phi vô học.

1. Thế nào là giới học?

Đáp: Nghĩa là năm uẩn hữu học, đó gọi là giới học.

2. Thế nào là giới vô học?

Đáp: Nghĩa là năm uẩn vô học, đó gọi là giới vô học.

3. Thế nào là giới phi học phi vô học?

Đáp: Nghĩa là năm uẩn hữu lậu cùng hư không, trạch diệt, phi trạch diệt, đó gọi là giới phi học phi vô học.

*

* Nói về 2 giới: Đó là giới hữu lậu, giới vô lậu.

1. Thế nào là giới hữu lậu?

Đáp: Nghĩa là năm uẩn hữu lậu, đó gọi là giới hữu lậu.

2. Thế nào là giới vô lậu?

Đáp: Nghĩa là năm uẩn vô lậu cùng hư không, trạch diệt, phi trạch diệt, đó gọi giới vô lậu.

*

* Nói về 2 giới: Đó là giới hữu vi, giới vô vi.

1. Thế nào là giới hữu vi?

Đáp: Nghĩa là năm uẩn, đó gọi là giới hữu vi.

2. Thế nào là giới vô vi?

Đáp: Nghĩa là hư không cùng trạch diệt, phi trạch diệt, đó gọi là giới vô vi.

Tụng nêu tổng quát:

Giới có sáu, mười hai

Mười tám giới là trước

Ba sáu, một bốn thứ

Sáu ba, hai thứ sau.

***

Phẩm 21: DUYÊN KHỞI, phần 1

Một thời, Đức Bạc-già-phạm ngụ tại khu vườn rừng Thệ Đa – Cấp Cô Độc, thuộc thành Thất-la-phiệt.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói với chúng Bí-sô: Ta sẽ vì các Bí-sô giảng nói rõ về Duyên khởiPháp duyên đã sinh. Chư vị nên lắng nghe, hết sức khéo tác ý để lãnh hội.

Thế nào là Duyên khởi?

Đáp: Nghĩa là dựa vào cái nầy có nên cái kia có, cái nầy sinh nên cái kia sinh. Tức là vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục xứ, lục xứ duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sinh, sinh duyên lão tử, phát sinh sầu than khổ ưu nhiễu não. Như thế liền tu tập thuần là uẩn khổ lớn. Bí-sô nên biết! Sinh duyên lão tử, nếu Phật có ra đời hay không ra đời duyên khởi như thế là pháp trụ pháp giới, tất cả các Như Lai đều tự nhiên thông đạt, đẳng giác, nêu rõ, kiến lập, phân biệt, khai thị, khiến được hiển bày. Đó là sinh duyên lão tử v.v… Như thế cho đến vô minh duyên hành, nên biết cũng như vậy. Trong đây hiện có các thứ pháp tánh, pháp định, pháp lý, pháp thú, là chân là thật, là đế là như, không hư không dối, không điên đảo, không khác nhau. Đó gọi là Duyên khởi.

Thế nào là Pháp duyên đã sinh?

Đáp: Nghĩa là vô minh, hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử v.v… Như thế gọi là Pháp duyên đã sinh. Bísô nên biết! Lão tử (già chết) là vô thường, là hữu vi, là có tạo tác, là duyên đã sinh, là pháp tận, pháp mất, pháp lìa, pháp diệt v.v… Sinh, hữu, thủ, ái, thọ, xúc, lục xứ, danh sắc, thức, hành, vô minh v.v… cũng như thế.

Bí-sô nên biết! Các đệ tử Hiền Thánh đa văn của Ta, đối với duyên khởi và pháp duyên đã sinh nầy có thể dùng chánh tuệ để khéo thấy biết, hiểu rõ đúng như thật, khéo tư duy, khéo thông đạt, không dựa nơi đời trước để khởi những nghi vấn ngu tối lầm lạc: Ta nơi đời quá khứ là từng có hay không có. Những gì là ta từng có? Vì sao ta từng có? Không dựa vào đời sau để khởi nghi vấn ngu lầm: Ta nơi đời vị lai là sẽ có hay không có? Những gì là ta sẽ có? Vì sao ta sẽ có? Cũng không dựa vào bên trong để khởi nghi vấn ngu lầm: Những gì là ngã, là ngã nầy? Vì sao ta và kẻ khác hiện có? Ta sẽ có những ai? Nay hữu tình nầy từ đâu đến, ở xứ nầy chết rồi sẽ đi đến nơi nào? Người kia biết như thế thấy như thế, thế gian hiện có đều có kiến thú rồi. Nghĩa là luận về ngã tương ưng, luận về hữu tình tương ưng, luận về thọ mạng tương ưng, luận về lành dữ tương ưng làm cho sáng đẹp, chấp là mình có. Tức có khổ, có chướng ngại, có tai họa, có bức não. Người ấy bấy giờ đã đoạn trừ, nhận biết khắp, như chặt đứt gốc rễ cây to cùng ngọn cây Đa la, không còn sức lực nên về sau vĩnh viễn không sinh. Vì sao như thế? Nghĩa là các hàng đệ tử Hiền Thánh đa văn của Như Lai, đối với duyên khởi và pháp duyên đã sinh nầy có thể dùng chánh tuệ để khéo thấy, khéo biết, khéo hiểu rõ đúng như thật, khéo tư duy, khéo thông đạt.

Lúc nầy, chúng Bí-sô đều hoan hỷ kính thọ.

Ở đây, nói về duyên khởi và pháp duyên đã sinh, Thể tuy là một, nhưng nghĩa thì có khác. Nghĩa là: Hoặc có duyên khởi không phải là pháp duyên đã sinh. Hoặc có pháp duyên đã sinh không phải là duyên khởi. Hoặc có duyên khởi cũng là pháp duyên đã sinh. Hoặc có không phải là duyên khởi cũng không phải là pháp duyên đã sinh.

Hoặc có duyên khởi không phải là pháp duyên đã sinh: Không có trường hợp nầy.

Hoặc có pháp duyên đã sinh không phải là duyên khởi: Tức là vô minh, hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử.

Hoặc có duyên khởi cũng là pháp duyên đã sinh: Tức sinh nhất định là chủ thể sinh nơi lão tử. Như thế, chi sinh nhất định là có thể làm duyên, là tánh của duyên khởi, cùng tánh của pháp duyên đã sinh. Như vậy các chi hữu, thủ, ái, thọ, xúc, lục xứ, danh sắc, thức, hành, vô minh nên biết cũng thế.

Không phải là duyên khởi cũng không phải là pháp duyên đã sinh: Tức là trừ tướng ở trước.

Lại, sinh duyên lão tử, nghĩa là chi sinh nầy tuy sinh khác diệt khác, nhưng lý duyên khởi thì trong mọi thời đều quyết định.

Nếu ở quá khứ sinh không duyên với lão tử nên ở vị lai sinh cũng không duyên với lão tử. Nếu ở vị lai sinh không duyên với lão tử nên ở quá khứ sinh cũng không duyên với lão tử. Nếu ở quá khứ sinh không duyên với lão tử nên ở hiện tại sinh cũng không duyên với lão tử. Nếu ở hiện tại sinh không duyên với lão tử nên ở quá khứ sinh cũng không duyên với lão tử. Nếu ở vị lai sinh không duyên với lão tử nên ở hiện tại sinh cũng không duyên với lão tử. Nếu ở hiện tại sinh không duyên với lão tử nên ở vị lai sinh cũng không duyên với lão tử.

Nếu khi Phật xuất hiện ở đời sinh không duyên với lão tử, nên khi Phật không xuất hiện ở đời sinh cũng không duyên với lão tử. Nếu khi Phật không ra đời sinh không duyên với lão tử, nên khi Phật ra đời sinh cũng không duyên với lão tử.

Nếu lý duyên khởi có điên đảo, nên thành hai phần, không quyết định, nên có thể phá bỏ, vì lý tạp loạn. Nếu thế thì không nên thiết lập duyên khởi, Phật không nên nói sinh duyên lão tử. Nhưng Phật đã nói sinh duyên lão tử, lý sâu xa quyết định, ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai, có Phật, không Phật, từng không đổi chuyển, pháp tánh hằng trụ, không ẩn không mất, không nghiêng không động, lý ấy trong lặng, chư Phật trước sau đều cùng chứng nhập, là chân là thật, là đế là như, không giả không hư, không lệch, không khác, thế nên Phật nói sinh duyên lão tử. Như vậy các chi hữu, thủ, ái, thọ, xúc, lục xứ, danh sắc, thức, hành, vô minh duyên hành cũng như thế.

Lại nữa, vô minh duyên hành, thì thế nào là vô minh? Nghĩa là đối với phần trước không biết, phần sau không biết, phần trước sau không biết. Đối với trong không biết, ngoài không biết, trong ngoài đều không biết. Đối với nghiệp không biết, dị thục không biết, dị thục của nghiệp không biết. Không biết về tạo nghiệp thiện, tạo nghiệp ác, tạo nghiệp thiện ác. Không biết nhân, không biết nhân sinh pháp, không biết Phật Pháp Tăng, không biết khổ tập diệt đạo, không biết pháp thiện, pháp bất thiện, pháp có tội, pháp không tội, pháp nên tu, pháp không nên tu, pháp thấp kém, pháp thắng diệu, pháp trắng đen. Không biết pháp có đối nghịch, pháp duyên sinh, không biết sáu xúc xứ như thật v.v… Như thế đều không biết, không thấy, không hiện quán, luôn ngu si, mịt mờ, tăm tối, vây bọc, buộc trói, ngu đần, cặn đục, ngăn che, phát sinh mù, phát sinh không sáng, không trí, phát sinh tụt kém, chướng ngại các phẩm thiện, khiến không chứng đắc Niết-bàn, là lậu vô minh, bộc lưu vô minh, ách nặng vô minh, rễ độc, thân độc, cành độc, lá độc, hoa độc, quả độc vô minh. Các thứ si cùng si, si cùng cực, ngu ác, cùng ngu ác, rất ngu ác, là loại si, sinh ra si, gọi chung là vô minh.

*

1. Thế nào là Vô minh duyên Hành?

Đáp: Nghĩa là Đức Thế Tôn nói: Bí-sô nên biết! Vô minh làm nhân, vô minh làm duyên, nên tham sân si dấy khởi, là tánh của tham sân si, đó gọi là Vô minh duyên Hành.

Lại nữa, như Đức Thế Tôn nói: Bí-sô nên biết! Vô minh là kẻ cầm cờ hiệu đi trước dẫn đầu, nên khởi vô số thứ pháp ác bất thiện, tức như không hổ không thẹn v.v… Do không hổ không thẹn nên khởi các tà kiến. Do tà kiến nên khởi tà tư duy. Do tà tư duy nên khởi tà ngữ. Do tà ngữ nên khởi tà nghiệp. Do tà nghiệp nên khởi tà mạng. Do tà mạng nên khởi tà cần (Phương tiện tà vạy). Do tà cần nên khởi tà niệm. Do tà niệm nên khởi tà định. Các thứ tà kiến, tà tư duy, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, tà cần, tà niệm, tà định ấy, đó gọi là Vô minh duyên Hành.

Lại nữa, như Đức Thế Tôn nói: Bí-sô nên biết! Khi sinh khởi vô số pháp ác bất thiện, tất cả đều do vô minh làm gốc, do vô minh làm nơi tụ tập, là loại vô minh, từ vô minh sinh. Kẻ bị rơi vào nẻo vô minh, thì không nhận biết đúng như thật về pháp thiện – bất thiện, pháp có tội – không tội, pháp nên tu – không nên tu, pháp thấp kém – thượng diệu, pháp trắng – đen, pháp có đối nghịch, các pháp duyên sinh. Do không biết đúng như thật về các pháp như thế, nên liền khởi tà kiến, tà tư duy v.v… cho đến tà niệm, tà định, đó gọi là Vô minh duyên Hành.

Lại nữa, trong Kinh Ống Dụ, Đức Phật nói: “Do vô minh làm duyên tạo ra các hành phước, phi phước và bất động”.

Thế nào là hành phước? Nghĩa là các thân nghiệp và ngữ nghiệp thiện hữu lậu, các pháp tâm tâm sở, hành không tương ưng.

Các hành như thế nên trong đêm dài sinh tử đã có thể chiêu cảm các quả dị thục rất đáng yêu mến, ưa thích, vui mừng. Quả ấy gọi là phước, cũng gọi là quả phước, là quả dị thục của nghiệp phước, nên gọi là hành phước.

Thế nào là hành phi phước? Nghĩa là các thân nghiệp và ngữ nghiệp bất thiện, các pháp tâm tâm sở, hành không tương ưng. Các hành như thế nên trong đêm dài sinh tử đã có thể chiêu cảm các quả dị thục không đáng yêu mến, ưa thích, vui mừng. Quả ấy gọi là phi phước, cũng gọi là quả phi phước, là quả dị thục của nghiệp phi phước, nên gọi là hành phi phước.

Thế nào là hành bất động? Nghĩa là bốn định vô sắc có các pháp thiện hữu lậu, nên gọi là hành bất động.

Thế nào là vô minh làm duyên tạo ra hành phi phước? Nghĩa là có một loại hữu tình, do tâm bị tham sân si trói buộc, nên tạo ra ba thứ hành ác thân ngữ ý. Ba hành ác nầy gọi là hành phi phước. Do nhân duyên ấy nên sau khi chết bị đọa vào địa ngục, ở đấy lại tạo ra hành phi phước nữa. Đó gọi là vô minh làm duyên tạo ra hành phi phước. Như nói về địa ngục, thì bàng sinh, cõi quỷ nên biết cũng như vậy.

Thế nào là vô minh làm duyên tạo ra hành phước? Nghĩa là có một loại hữu tình, đối với những an lạc nơi cõi người chú tâm mong cầu, khởi suy nghĩ: “Mong cho ta được sinh nơi đồng phận của cõi người, cùng với mọi người thọ nhận an lạc”. Nhân nơi sự cầu mong đó, người kia đã tạo các hành diệu của thân ngữ ý, có thể chiêu cảm nơi nẻo người. Ba hành diệu ấy gọi là hành phước. Do nhân duyên ấy nên sau khi mạng chung được sinh vào nẻo người cùng với nhiều người thọ nhận an lạc, ở đấy người ấy lại tạo ra các hành phước khác. Đó gọi là vô minh làm duyên tạo ra hành phước.

Có người không chú tâm mong cầu an vui nơi nẻo người, nhưng do vô minh che lấp, tâm khởi động, nên tạo ra ba thứ hành diệu của thân ngữ ý. Ba hành diệu nầy gọi là hành phước. Do nhân duyên ấy nên sau khi mạng chung được sinh nơi nẻo người, ở đấy người ấy lại tạo ra các hành phước khác. Đó gọi là do vô minh làm duyên tạo ra hành phước.

Như nói về nẻo người, thì các cõi trời Tứ đại vương chúng, trời Ba mươi ba, trời Dạ-ma, trời Đổ-sử-đa, trời Lạc-biến-hóa, trời Thahóa-tự-tại v.v… nên biết cũng như vậy.

Lại có một loại hữu tình đối với cõi trời Phạm chúng, chú tâm mong cầu, khởi suy nghĩ: “Mong cho ta được sinh nơi chúng đồng phận của cõi trời Phạm chúng”. Nhân nơi sự mong cầu đó nên siêng năng tu tập gia hạnh, lìa bỏ dục và các pháp ác bất thiện, có tầm có tứ, được ly sinh hỷ lạc, trụ đầy đủ nơi tĩnh lự thứ nhất. Ở trong định nầy, các thứ luật nghi của thân, ngữ và đời sống thanh tịnh, gọi là hành phước. Do nhân duyên nầy nên sau khi mạng chung được sinh vào chúng đồng phận của cõi trời Phạm chúng, ở đấy người ấy lại tạo ra các hành phước khác. Đó gọi là do vô minh làm duyên tạo ra hành phước.

Có hữu tình không chú tâm mong cầu sinh lên cõi ấy, nhưng do vô minh che lấp, tâm khởi động, nên siêng năng tu tập gia hạnh, lìa bỏ dục và các pháp ác bất thiện, có tầm có tứ, được ly sinh hỷ lạc, trụ đầy đủ vào tĩnh lự thứ nhất. Ở trong định nầy, các thứ luật nghi của thân và ngữ cùng đời sống thanh tịnh, gọi là hành phước. Do nhân duyên nầy nên sau khi không cùng được sinh vào chúng đồng phận của cõi trời Phạm chúng, ở đấy người ấy lại tạo ra các hành phước khác. Đó gọi là do vô minh làm duyên tạo ra hành phước.

Như nói về cõi trời Phạm chúng, các cõi trời khác như trời Phạm trụ, trời Đại phạm, trời Thiểu quang, trời Vô lượng quang, trời Cực quang tịnh, trời Thiểu tịnh, trời Vô lượng tịnh, trời Biến tịnh, trời Vô vân, trời Phước sinh, trời Quảng quả, theo chỗ ứng hợp nói rộng cũng như thế.

Lại có một loại hữu tình chú tâm mong cầu nơi cõi trời Vô tưởng, khởi suy nghĩ: “Mong cho ta được sinh nơi chúng đồng phận của cõi trời Vô tưởng”. Nhân nơi sự mong cầu đó nên siêng năng tu tập gia hạnh, tư duy về các tưởng là chướng khổ thô, tư duy về vô tưởng là sự lìa bỏ tĩnh diệu. Do tư duy như thế nên có thể diệt hết các tưởng, trụ nơi vô tưởng. Người ấy lúc diệt trừ các tưởng, trụ nơi vô tưởng, gọi là định vô tưởng. Khi nhập định nầy, các luật nghi của thân và ngữ cùng đời sống thanh tịnh, gọi là hành phước. Do nhân duyên nầy nên sau khi mạng chung được sinh nơi chúng đồng phận của cõi trời Vô tưởng, ở cõi đó, người ấy cũng có thể tạo một ít hành phước. Đó gọi là do vô minh làm duyên tạo ra hành phước.

Có hữu tình không chú tâm mong cầu được sinh lên cõi đó, nhưng do vô minh che lấp, tâm khởi động, nên siêng năng tu tập gia hạnh, tư duy về các tưởng là chướng khổ thô, tư duy về vô tưởng là sự lìa bỏ tĩnh diệu. Vì tư duy đó nên có thể diệt hết các tưởng, an trụ vào vô tưởng. Khi người ấy đã diệt hết các tưởng trụ nơi vô tưởng gọi là định vô tưởng. Lúc nhập định ấy, các thứ luật nghi của thân và ngữ cùng đời sống thanh tịnh, gọi là hành phước. Do nhân duyên nầy nên sau khi mạng chung được sinh lên nơi chúng đồng phận của cõi trời Vô tưởng, ở cõi nầy, người đó cũng có thể tạo một ít hành phước. Đó gọi là do vô minh làm duyên tạo ra hành phước.

Thế nào là do vô minh làm duyên tạo ra hành bất động? Nghĩa là có một loại hữu tình đối với cõi trời Không vô biên xứ chú tâm mong cầu, khởi suy nghĩ: “Mong cho ta được sinh nơi chúng đồng phận của cõi trời Không vô biên xứ”. Nhân nơi sự mong cầu đó nên siêng năng tu tập gia hạnh, vượt quá các tưởng sắc, diệt hết tưởng có đối, không tư duy đến các thứ tưởng, nhập vào không vô biên, trụ đầy đủ nơi Không vô biên xứ. Ở trong định nầy, các tư duy cùng tư duy, hiện tiền cùng tư duy, đã và sẽ tư duy, tánh tư duy, loại tư duy, tạo nghiệp tâm ý, gọi là hành bất động. Do nhân duyên nầy nên sau khi mạng chung được sinh nơi chúng đồng phận của cõi trời Không vô biên xứ, ở cõi nầy, người đó lại có thể tạo ra hành bất động. Đó gọi là do vô minh làm duyên tạo ra hành bất động.

Có một loại hữu tình không chú tâm mong cầu được sinh vào cõi ấy, nhưng do vô minh che lấp, tâm khởi động, nên siêng năng tu tập gia hạnh, vượt lên các tưởng sắc, diệt hết tưởng có đối, không tư duy đến các thứ tưởng, nhập vào không vô biên, trụ đầy đủ nơi Không vô biên xứ. Ở trong định nầy, các tư duy cùng tư duy, hiện tiền cùng tư duy, đã và sẽ tư duy, tánh tư duy, loại tư duy, tạo nghiệp tâm ý, gọi là hành bất động. Do nhân duyên ấy nên sau khi mạng chung được sinh nơi chúng đồng phận của cõi trời Không vô biên xứ, ở cõi nầy, người đó lại có thể tạo ra hành bất động. Đó gọi là do vô minh làm duyên tạo ra hành bất động.

Như nói về Không vô biên xứ, các cõi Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, Phi tưởng phi phi tưởng xứ v.v… nên biết cũng như vậy.

Như vậy các hành đều do vô minh làm duyên, vô minh làm chỗ dựa, vô minh tạo sự kiến lập, nên sinh khởi cùng sinh khởi, tụ tập xuất hiện, nên gọi là Vô minh duyên Hành.

*

2. Thế nào là Hành duyên Thức?

Đáp: Nghĩa là có một loại hữu tình có tham sân si cùng sinh tư duy làm duyên nên khởi tham sân si cùng sinh các thức. Đó gọi là Hành duyên Thức.

Lại có một loại hữu tình không tham sân si cùng sinh tư duy làm duyên nên khởi không tham, không sân, không si cùng sinh các thức. Đó gọi là Hành duyên Thức.

Lại nữa, mắt và sắc làm duyên sinh ra nhãn thức. Ở đây mắt là hành hữu vi bên trong, sắc là duyên bên ngoài sinh ra nhãn thức. Đó gọi là hành duyên thức v.v… Cho đến ý cùng pháp làm duyên sinh ra ý thức. Ở đấy, ý là hành hữu vi bên trong, pháp là duyên bên ngoài sinh ra ý thức. Đó gọi là Hành duyên Thức.

Lại nữa, trong Kinh Ống Dụ, Đức Phật nói: “Tạo các hành phước, phi phước và bất động rồi, có các thức theo phước, phi phước và bất động”.

Thế nào là tạo hành phi phước rồi, có thức tùy theo phi phước? Nghĩa là có một loại hữu tình tâm bị tham sân si trói buộc, nên tạo ra ba thứ hành ác của thân, ngữ, ý. Ba hành ác nầy gọi là hành phi phước. Do nhân duyên ấy, nên sau khi mạng chung bị đọa vào địa ngục, ở đấy người nầy khởi các thức. Đó gọi là tạo hành phi phước rồi có thức tùy theo phi phước.

Như nói về địa ngục, các cõi bàng sinh, quỷ nên biết cũng như vậy.

Thế nào là tạo hành phước rồi, có thức tùy theo phước? Nghĩa là có một loại hữu tình đối với các an vui nơi cõi người đã chú tâm mong cầu, khởi suy nghĩ: “Mong cho ta được sinh nơi đồng phận của cõi người cùng với nhiều người thọ nhận an lạc”. Nhân nơi sự mong cầu đó người ấy tạo ra các hành diệu của thân ngữ ý, có thể chiêu cảm nơi cõi người. Ba hành diệu nầy gọi là hành phước. Do nhân duyên ấy nên sau khi qua đời được sinh nơi cõi người, ở đấy người nầy khởi các thức. Đó gọi là tạo hành phước rồi, có thức tùy theo phước.

Có một loại hữu tình không chú tâm mong cầu các an vui nơi cõi người, nhưng do vô minh che lấp, nên tâm động, tạo ra ba thứ hành diệu của thân, ngữ, ý. Ba hành diệu nầy gọi là hành phước. Do nhân duyên nầy nên sau khi mạng chung được sinh vào cõi người, ở đấy người nầy khởi các thức. Đó gọi là tạo hành phước rồi, có thức tùy theo phước.

Như nói về cõi người, các cõi như trời Tứ Đại Vương chúng v.v… cho đến trời Tha-hóa-tự-tại nên biết cũng như vậy.

Lại có một loại hữu tình đối với cõi trời Phạm chúng luôn chú tâm mong cầu, khởi suy nghĩ: “Mong cho ta được sinh nơi chúng đồng phận của cõi trời Phạm chúng”. Nhân nơi mong cầu đó, người ấy siêng năng tu tập gia hạnh, lìa bỏ dục và các pháp ác bất thiện, có tầm có tứ, được ly sinh hỷ lạc, trụ đầy đủ vào tĩnh lự thứ nhất. Ở trong định nầy các thứ luật nghi của thân và ngữ cùng đời sống thanh tịnh, gọi là hành phước. Do nhân duyên nầy nên sau khi qua đời được sinh vào chúng đồng phận của cõi trời Phạm chúng, ở cõi đó người ấy khởi các thức. Đó gọi là tạo hành phước rồi, có thức tùy theo phước.

Có một loại hữu tình không chú tâm mong cầu được sinh lên cõi đó, nhưng do vô minh che lấp, nên tâm động, siêng năng tu tập gia hạnh, lìa bỏ dục và các pháp ác bất thiện v.v… cho đến đời sống thanh tịnh, gọi là hành phước. Do nhân duyên nầy nên sau khi mạng chung được sinh vào chúng đồng phận của cõi trời Phạm chúng, ở cõi đó, người ấy khởi các thức. Đó gọi là tạo hành phước rồi, có thức tùy theo phước.

Như nói về cõi trời Phạm chúng, các cõi trời như Phạm phụ v.v… cho đến trời Vô tưởng, nên biết cũng như vậy.

Thế nào là tạo hành bất động rồi, có thức tùy theo bất động? Nghĩa là có một loại hữu tình đối với cõi trời Không vô biên xứ luôn chú tâm mong cầu, khởi suy nghĩ: “Mong cho ta được sinh nơi chúng đồng phận của cõi trời Không vô biên xứ”. Nhân nơi mong cầu nầy, người ấy siêng năng tu tập gia hạnh, vượt quá các tưởng sắc, diệt hết các tưởng có đối, không còn tư duy đến các thứ tưởng nữa, nhập vào không vô biên, trụ đầy đủ nơi Không vô biên xứ. Ở trong định nầy, các tư duy cùng tư duy, tư duy hiện tiền, đã và sẽ tư duy, là tánh tư duy, loại tư duy, tạo nghiệp tâm ý, gọi là hành bất động. Do nhân duyên nầy nên sau khi mạng chung được sinh lên chúng đồng phận của cõi trời Không vô biên xứ, ở cõi ấy người ấy khởi các thức. Đó gọi là tạo hành bất động rồi, có thức tùy theo bất động.

Có một loại hữu tình không chú tâm mong cầu được sinh lên cõi đó, nhưng do vô minh che lấp, nên tâm động, siêng năng tu tập gia hạnh, vượt lên các tưởng sắc v.v… cho đến tạo nghiệp tâm ý, gọi là hành bất động. Do nhân duyên ấy nên sau khi mạng chung được sinh lên chúng đồng phận của cõi trời Không vô biên xứ, ở cõi đó người ấy khởi các thức. Đó gọi là tạo hành bất động rồi, có thức tùy theo bất động.

Như nói về cõi trời Không vô biên xứ, các cõi khác v.v… cho đến cõi Phi tưởng phi phi tưởng xứ, nên biết cũng như vậy.

Như vậy các thức đều do hành làm duyên, hành làm chỗ nương dựa, hành tạo sự kiến lập, nên sinh khởi cùng sinh khởi, tụ tập xuất hiện, nên gọi là Hành duyên Thức.

*

3. Thế nào là Thức duyên Danh sắc?

Đáp: Nghĩa là có một loại hữu tình có tham, có sân, có si cùng sinh thức làm duyên dấy khởi tham sân si cùng sinh thân nghiệp, ngữ nghiệp, gọi là sắc, tức ở đấy sinh ra thọ, tưởng, hành, thức, gọi là danh. Đó gọi là Thức duyên Danh sắc.

Lại có một loại hữu tình không tham, không sân, không si cùng sinh thức làm duyên dấy khởi không tham, không sân, không si cùng sinh thân nghiệp, ngữ nghiệp, gọi là sắc, tức ở đấy sinh ra thọ, tưởng, hành, thức, gọi là danh. Đó gọi là Thức duyên Danh sắc.

Lại nữa, trong Kinh Giáo Hối Na Địa Ca, Đức Phật nói: Như Na-địa-ca yêu mến bạn thân biến hoại ly tán, nên sinh ra các nỗi ưu sầu buồn than khổ não. Sầu khổ nầy cùng sinh ra thức làm duyên, nên dấy khởi sầu não cùng sinh thân nghiệp, ngữ nghiệp, gọi là sắc, tức ở đấy sinh ra thọ, tưởng, hành, thức, gọi là danh. Đó gọi là Thức duyên Danh sắc.

Lại nữa, trong Kinh Giáo Hối Phả Lặc Lũ Na, Đức Phật nói: Nầy Phả-lặc-lũ-na! Vì thức làm thức ăn nên đời sau sinh khởi. Thức nầy là thế nào? Nghĩa là do Kiện-đạt-phược là tâm ý thức sau cùng tăng trưởng trụ vững vào đấy, chưa đoạn dứt, chưa nhận biết khắp, chưa diệt hết, chưa biến đổi, loại bỏ hết. Thức nầy không gián đoạn, ở trong thai mẹ cùng hòa hợp với tự thể Yết-lạt-lam. Tự thể Yết-lạtlam hòa hợp nầy gọi là sắc, tức ở đấy sinh ra thọ, tưởng, hành, thức, gọi là danh. Đó gọi là Thức duyên Danh sắc.

Lại nữa, trong Kinh Giáo Hối Sa Để, Đức Phật nói: Ba sự hòa hợp nhập vào bào thai mẹ. Thế nào là ba sự? Nghĩa là việc cha mẹ hòa hợp, cùng khởi tâm nhiễm, việc người mẹ khi ấy thuận thích và việc Kiện-đạt-phược đang hiện tiền. Ba việc như thế hòa hợp nhập vào bào thai mẹ, trong đó, Kiện-đạt-phược là tâm ý thức sau cùng tăng trưởng và trụ vững ở đấy, chưa đoạn dứt, chưa nhận biết khắp, chưa diệt hết, chưa biến đổi, loại bỏ hết. Thức nầy không gián đoạn, nhập vào bào thai mẹ, việc nhập nơi thai nầy gọi là sắc, tức ở đấy sinh ra thọ, tưởng, hành, thức, gọi là danh. Đó gọi là Thức duyên Danh sắc.

Lại nữa, trong Kinh Đại Nhân Duyên, Tôn giả Khánh Hỷ hỏi Đức Phật: Danh sắc có duyên hay không? Đức Phật bảo: Có duyên. Duyên ấy là thức. Đức Phật nói với Tôn giả Khánh Hỷ: Thức nếu không nhập vào bào thai mẹ, thì danh sắc có thành được Yết-lạtlam không? Tôn giả A-nan-đà đáp: Thưa không, bạch Đức Thế Tôn. Hỏi: Thức nếu không nhập vào bào thai mẹ, thì danh sắc có được sinh trong giới nầy không? Đáp: Thưa không, bạch Đức Thế Tôn. Hỏi: Nếu ngay từ lúc đầu, thức đã bị đoạn hoại, sau đó danh sắc có được tăng trưởng không? Đáp: Thưa không, bạch Đức Thế Tôn. Hỏi: Nếu thức hoàn toàn không thể thiết lập thì có danh sắc không? Đáp: Thưa không, bạch Đức Thế Tôn. Nầy Tôn giả Khánh Hỷ! Thế nên tất cả danh sắc đều do thức làm duyên, đó gọi là Thức duyên Danh sắc.

Như vậy các danh sắc đều do thức làm duyên, thức làm nơi nương dựa, thức tạo sự kiến lập, nên sinh khởi cùng sinh khởi, tụ tập xuất hiện. Đó gọi là Thức duyên Danh sắc.

Thế nào là Danh sắc duyên Thức?

Đáp: Nghĩa là mắt, sắc làm duyên sinh ra nhãn thức. Ở đây mắt và sắc gọi là sắc, tức sắc đó sinh ra thọ, tưởng, hành, thức, gọi là danh, trong ấy tác ý cùng có thể hỗ trợ để sinh ra nhãn thức. Đó gọi là Danh sắc duyên thức v.v… Cho đến ý và pháp làm duyên sinh ra ý thức. Ở đây, các ý thức hiểu rõ về sắc, gọi là sắc, tức sắc ấy sinh ra thọ, tưởng, hành, thức, gọi là danh, trong ấy tác ý cùng có thể hỗ trợ để sinh ra ý thức. Đó gọi là Danh sắc duyên Thức.

Lại nữa, trong Kinh Giáo Hối Phả Lặc Lũ Na, Đức Phật nói: Nầy Phả-lặc-lũ-na! Do thức làm thức ăn nên đời sau sinh khởi. Thức nầy là thế nào? Nghĩa là Kiện-đạt-phược v.v… nói rộng cho đến cùng hòa hợp với tự thể Yết-lạt-lam. Tự thể Yết-lạt-lam nầy hòa hợp gọi là sắc, tức sắc ấy sinh ra thọ, tưởng, hành, thức, gọi là danh. Bấy giờ, tác ý phi lý cùng sinh danh sắc làm duyên dấy khởi cùng sinh ra thức. Đó gọi là Danh sắc duyên Thức.

Lại nữa, trong Kinh Giáo Hối Sa Để, Đức Phật nói: Ba sự hòa hợp nhập nơi bào thai mẹ v.v… nói rộng cho đến thức nầy không gián đoạn, nhập nơi bào thai mẹ. Sự nhập thai nầy gọi là sắc, tức sắc ấy sinh ra thọ, tưởng, hành, thức, gọi là danh. Bấy giờ, tác ý phi lý cùng sinh danh sắc làm duyên, dấy khởi cùng sinh ra thức. Đó gọi là Danh sắc duyên Thức.

Lại có một loại hữu tình tâm bị tham sân si trói buộc nên tạo ra ba thứ hành ác của thân ngữ ý. Ở đây hành ác của thân, ngữ gọi là sắc, còn hành ác của ý gọi là danh. Do danh sắc của hành ác nầy làm duyên, nên sau khi mạng chung bị đọa vào địa ngục, tại đấy lại khởi thức. Đó gọi là Danh sắc duyên Thức.

Như nói về địa ngục, các nẻo bàng sinh, cõi quỷ, nên biết cũng như vậy.

Lại có một loại hữu tình đối với các thứ an vui nơi cõi người luôn chú tâm mong cầu. Nhân nơi mong cầu đó nên người ấy tạo ra các hành diệu của thân ngữ ý có thể chiêu cảm về cõi người, trong ấy hành diệu của thân ngữ gọi là sắc, hành diệu của ý gọi là danh. Do danh sắc của hành diệu nầy làm duyên, nên sau khi mạng chung được sinh vào cõi người, tại đấy đã khởi thức. Đó gọi là Danh sắc duyên Thức.

Có người không chú tâm mong cầu các thứ an vui ở cõi người, nhưng do vô minh che lấp, nên tâm động, người ấy tạo ra ba thứ hành diệu của thân ngữ ý, trong đó hành diệu của thân, ngữ gọi là sắc, hành diệu của ý gọi là danh. Do danh sắc của hành diệu nầy làm duyên, nên sau khi mạng chung được sinh vào cõi người, tại đấy lại khởi thức. Đó gọi là Danh sắc duyên Thức.

Như nói về cõi người, các cõi trời Tứ Đại Vương chúng v.v… cho đến cõi trời Tha-hóa-tự-tại, nên biết cũng như vậy.

Lại có một loại hữu tình đối với cõi trời Phạm chúng luôn chú tâm mong cầu. Nhân nơi mong cầu nầy người ấy siêng năng tu tập gia hạnh, lìa bỏ ác dục và các pháp ác bất thiện v.v… cho đến trụ đầy đủ nơi tĩnh lự thứ nhất. Ở trong định nầy, các thứ luật nghi của thân và ngữ cùng đời sống thanh tịnh, gọi là sắc, tức sắc ấy sinh ra thọ, tưởng, hành, thức, gọi là danh. Do nhân duyên ấy nên sau khi mạng chung được sinh vào chúng đồng phận của cõi trời Phạm chúng, tại đấy liền khởi các thức. Đó gọi là Danh sắc duyên Thức.

Như nói về cõi trời Phạm chúng, cõi trời Phạm phụ v.v… cho đến cõi trời Phi tưởng phi phi tưởng xứ, tùy theo chỗ ứng hợp nên biết cũng như vậy.

Lại nữa, trong Kinh Đại Nhân Duyên, Tôn giả Khánh Hỷ hỏi Đức Phật: Các thức là có duyên hay không? Đức Phật bảo: Có duyên, đó gọi là danh sắc. Đức Phật bảo: Nầy Tôn giả Khánh Hỷ! Nếu không có danh sắc thì các thức có chuyển đổi hay không? Tôn giả A-nan-đà đáp: Thưa không, bạch Đức Thế Tôn. Hỏi: Nếu không có danh sắc làm chỗ nương dựa để nơi đời sau khi thọ nhận sinh lão tử thức có được sinh ra chăng? Đáp: Thưa không, bạch Đức Thế Tôn. Hỏi: Nếu các danh sắc đều không hiện có để có thể thiết lập thì có các thức chăng? Đáp: Thưa không, bạch Đức Thế Tôn. Thế nên, nầy Tôn giả Khánh Hỷ! Các thức đều do danh sắc làm duyên, đó gọi là Danh sắc duyên Thức.

Như vậy các thức đều do danh sắc làm duyên, danh sắc làm chỗ nương dựa, danh sắc tạo sự kiến lập, nên sinh khởi cùng sinh khởi, tụ tập xuất hiện. Đó gọi là Danh sắc duyên Thức.

HẾT – QUYỂN 11