LUẬN A TỲ ĐẠT MA PHÁP UẨN TÚC
Tác giả: Tôn giả Đại Mục Kiền Liên
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 7

Phẩm 11: TĨNH LỰ, phần 2

2. Tĩnh lự thứ hai:

Tầm tứ cùng tịch tĩnh: Tầm và tứ như trước đã nói, nơi bậc tĩnh lự thứ hai thì hai thứ đó cùng vắng lặng, vắng lặng khắp, vắng lặng gần, hoàn toàn không có, nên gọi là tầm tứ cùng tịch tĩnh.

Các thứ bên trong cùng tịnh: Thế nào là các thứ bên trong cùng tịnh? Nghĩa là tầm tứ cùng vắng lặng, cho nên các thứ tin, tánh tin tưởng, tánh tin hiện tiền, tùy thuận, thừa nhận, mến mộ, tánh mến mộ, tâm lặng, tâm tịnh, gọi chung là các thứ bên trong cùng tịnh.

Tánh tâm một cõi: Thế nào là tánh tâm một cõi? Nghĩa là tầm tứ vắng lặng, nên tâm không tán, không động, không trôi, an trụ vào một cảnh, nên gọi là tánh tâm một cõi.

Không tầm không tứ: Nghĩa là ở bậc tĩnh lự thứ hai, tầm và tứ đều không thể được, không hiện hành, không có, không cùng có, nên gọi là không tầm không tứ.

Định sinh hỷ lạc:

Thế nào là định? Là khi tầm tứ đều vắng lặng, tâm trụ cùng trụ, trụ gần, an trụ, không tán, không loạn, thâu giữ đẳng trì, tánh tâm một cảnh, gọi chung là định.

Thế nào là hỷ? Là khi tầm tứ đều vắng lặng, tâm sẽ vui, rất vui v.v… nói rộng cho đến hoan hỷ, tánh hoan hỷ, gọi chung là hỷ.

Thế nào là lạc? Là khi tầm tứ đều vắng lặng, đã đoạn trừ được tánh nặng nề của thân, tâm v.v… nói rộng cho đến tánh của thân tâm được nhu hòa, gọi chung là lạc.

Thế nào là định sinh hỷ lạc? Nghĩa là hỷ lạc đã nói trước, nhân nơi định, dựa vào định, được định kiến lập, do sức mạnh của định nên sinh khởi cùng sinh khởi, hướng nhập xuất hiện, nên gọi đó là định sinh hỷ lạc.

Trụ đầy đủ nơi tĩnh lự thứ hai:

Thứ hai: Nghĩa là như đã nói về thứ nhất. Lại nữa, tĩnh lự nầy trong chín loại định thứ đệ thì nó ở hàng thứ hai.

Tĩnh lự: Nghĩa là ở trong định nầy, bên trong cùng tịnh, sinh hỷ, sinh lạc, tánh tâm một cảnh, gồm chung bốn chi ấy gọi là bậc tĩnh lự thứ hai. Như có tụng nêu:

Tầm tứ cùng vắng lặng

Như mưa trừ bụi bặm

Trong tịnh tâm một cảnh

Được Bồ-đề diệu lạc

Không tầm, tứ, có hỷ

Lạc trong tịnh cùng định

Là tĩnh lự thứ hai

Chư Phật đều khen ngợi.

Ở trong định nầy, các tâm ý thức gọi là tĩnh lự thứ hai cùng có tâm. Các thứ tư duy, cùng tư duy v.v… cho đến tâm tạo ý nghiệp, gọi là tĩnh lự thứ hai cùng có ý nghiệp. Các tâm thắng giải, đã và sẽ thắng giải, gọi là tĩnh lự thứ hai cùng có thắng giải.

Ở trong định nầy, có các pháp hoặc thọ, hoặc tưởng v.v… cho đến hoặc tuệ, gọi là tĩnh lự thứ hai cùng có các pháp. Các pháp như thế cũng được gọi là tĩnh lự thứ hai.

Tên gọi của tĩnh lự nầy là dựa vào nghĩa nào để lập? Tức như trước đã nói.

Đầy đủ và Trụ: Tức cũng như trước đã nói.

*

3. Tĩnh lự thứ ba:

Lìa hỷ: Thế nào là hỷ? Nghĩa là tâm vui, rất vui v.v… cho đến hoan hỷ, tánh hoan hỷ, gọi chung là hỷ. Thế nào là lìa hỷ? Nghĩa là tâm đối với hỷ nầy lìa nhiễm được giải thoát, nên gọi là lìa hỷ.

Trụ nơi xả, chánh niệm, chánh tri: Thế nào là xả? Nghĩa là khi lìa hỷ thì tâm có các tánh bình đẳng, ngay thẳng, không cảnh giác, trụ vào vắng lặng, gọi chung là xả. Thế nào là chánh niệm? Nghĩa là khi lìa hỷ, các niệm tùy niệm v.v… cho đến tánh ghi tâm sáng, gọi chung là chánh niệm. Thế nào là chánh tri? Nghĩa là khi lìa hỷ, đối với các pháp hiện có đã dấy khởi sự lựa chọn kỹ lưỡng v.v… cho đến hành Tỳ-bát-xá-na, gọi chung là chánh tri.

Thân thọ nhận lạc: Thân tức là ý thân, do ý trong thân có thọ lạc, nên thân tứ đại chủng cũng được an vui. Vì nhân duyên ấy nên gọi là thân thọ nhận lạc. Ở đây, lạc tức khi lìa hỷ là đã đoạn dứt các tánh nặng nề của thân tâm v.v… cho đến được tánh nhu hòa của thân tâm, gọi chung là lạc. Đây là lạc của thọ, không phải là lạc của khinh an.

Thánh nói nên xả: Thánh nghĩa là chư Phật và đệ tử của Phật. Nói nghĩa là tuyên nói, phân biệt, chỉ bày, khuyên người tu định nên xả lạc ấy, không nên tham đắm nơi vị, chỉ nên trụ vào xả, chánh niệm chánh tri.

Trụ đầy đủ nơi tĩnh lự thứ ba:

Thứ ba: Nghĩa là như đã nói về thứ nhất. Lại nữa, tĩnh lự nầy trong chín loại định thứ đệ thì nó ở hàng thứ ba.

Tĩnh lự: Nghĩa là ở trong định nầy, là hành xả, chánh niệm, chánh tri, thân thọ nhận lạc, tánh tâm một cảnh, gồm chung năm chi ấy gọi là bậc tĩnh lự thứ ba. Như có tụng nêu:

Lìa hỷ nẻo tối thượng

Xả, niệm, tri, lạc, định

Gọi tĩnh lự thứ ba

Chư Phật đều khen ngợi.

Ở trong định nầy, các tâm ý thức gọi là tĩnh lự thứ ba cùng có tâm. Các thứ tư duy, cùng tư duy v.v… cho đến tâm tạo ý nghiệp, gọi là tĩnh lự thứ ba cùng có ý nghiệp. Các tâm thắng giải, đã và sẽ thắng giải, gọi là tĩnh lự thứ ba cùng có thắng giải.

Ở trong định nầy, có các pháp hoặc thọ, hoặc tưởng v.v… cho đến hoặc tuệ, gọi là tĩnh lự thứ ba cùng có các pháp. Các pháp như thế cũng được gọi là tĩnh lự thứ ba.

Tên gọi của tĩnh lự nầy là dựa vào nghĩa nào để lập? Tức như trước đã nói.

Đầy đủ và Trụ: Tức cũng như trước đã nói.

*

4. Tĩnh lự thứ tư:

Đoạn dứt lạc khổ: Đoạn dứt lạc: Thế nào là lạc? Nghĩa là xúc thuận theo lạc đã khởi thân lạc, tâm lạc, thọ nhận bình đẳng, thuộc về thọ, gọi chung là lạc. Lại nữa, khi tu tĩnh lự thứ ba, xúc thuận theo lạc đã khởi tâm lạc, thọ nhận bình đẳng, thuộc về thọ, đó gọi là lạc. Đoạn dứt khổ: Thế nào là khổ? Nghĩa là xúc thuận theo khổ đã khởi thân khổ, tâm khổ, thọ nhận không bình đẳng, do thọ thâu giữ, gọi chung là khổ. Khổ và lạc ấy bấy giờ cùng được đoạn trừ, nhận biết khắp, xa lìa hết sức xa lìa, điều phục hết sức điều phục, trừ diệt hết hẳn, thế nên gọi là Đoạn dứt lạc khổ.

Các hỷ, ưu trước đây đều mất hết: Thế nào là hỷ? Nghĩa là xúc thuận theo hỷ đã khởi tâm hỷ, thọ nhận bình đẳng, thuộc về thọ, đó gọi là hỷ. Lại nữa, khi tu tĩnh lự thứ hai, xúc thuận theo hỷ đã khởi tâm hỷ, thọ nhận bình đẳng, thuộc về thọ, đó gọi là hỷ. Thế nào là ưu? Nghĩa là xúc thuận theo ưu, khiến tâm lo buồn, thọ nhận không bình đẳng, do thọ thâu giữ, đó gọi là ưu. Ưu nầy và hỷ ở trước bấy giờ cùng được đoạn dứt và nhận biết khắp v.v… cho đến trừ diệt hết hẳn, thế nên nói là Các hỷ, ưu trước đây đều mất hết.

Lại nữa, khi nhập vào tĩnh lự thứ nhất thì ưu đã được đoạn dứt và nhận biết khắp. Khi nhập vào tĩnh lự thứ hai thì khổ đã được đoạn dứt và nhận biết khắp. Khi nhập vào tĩnh lự thứ ba thì hỷ đã được đoạn dứt và nhận biết khắp. Khi nhập vào tĩnh lự thứ tư thì hoặc khổ, hoặc lạc, hoặc hỷ, hoặc ưu đều được đoạn dứt và nhận biết khắp, xa lìa hết sức xa lìa, điều phục hết sức điều phục, trừ diệt hết hẳn, thế nên nói là Đoạn lạc đoạn khổ.

Không khổ không lạc: Nghĩa là chỉ rõ ở đây không có hai thọ khổ lạc, chỉ có thọ thứ ba là không khổ không lạc.

Xả, niệm thanh tịnh: Thế nào là xả? Nghĩa là người ấy bấy giờ có tánh tâm bình đẳng, tánh tâm ngay thẳng, tánh tâm không cảnh giác, trụ vào tịch tĩnh, gọi chung là xả. Thế nào là niệm? Nghĩa là người ấy bấy giờ có các niệm, tùy niệm v.v… nói rộng cho đến có tánh tâm ghi rõ, gọi chung là niệm. Thế nào là thanh tịnh? Bấy giờ, hoặc xả hoặc niệm, người ấy đều được thanh tịnh, các lạc khổ hỷ ưu và hai thứ tầm tứ đã đoạn dứt, đều xa lìa, gọi chung là thanh tịnh.

Trụ đầy đủ nơi tĩnh lự thứ tư:

Thứ tư: Nghĩa là như đã nói về thứ nhất. Lại nữa, tĩnh lự nầy trong chín loại định thứ đệ thì nó ở hàng thứ tư.

Tĩnh lự: Nghĩa là ở trong định nầy, thọ không khổ không lạc, xả, niệm, tánh tâm một cảnh, gồm chung bốn chi ấy gọi là bậc tĩnh lự thứ tư. Như có tụng nêu:

Lạc khổ cùng đã diệt

Tâm bền trụ, bất động

Được thiên nhãn thanh tịnh

Hay thấy rộng các sắc.

Thọ không khổ không lạc

Xả niệm tịnh và định

Gọi tĩnh lự thứ tư

Chư Phật đều khen ngợi.

Ở trong định nầy, các tâm ý thức gọi là tĩnh lự thứ tư cùng có tâm. Các thứ tư duy, cùng tư duy v.v… cho đến tâm tạo ý nghiệp, gọi là tĩnh lự thứ tư cùng có ý nghiệp. Các tâm thắng giải, đã và sẽ thắng giải, gọi là tĩnh lự thứ tư cùng có thắng giải.

Ở trong định nầy, có các pháp hoặc thọ, hoặc tưởng v.v… cho đến hoặc tuệ, gọi là tĩnh lự thứ tư cùng có các pháp. Các pháp như thế cũng được gọi là tĩnh lự thứ tư.

Tên gọi của tĩnh lự nầy là dựa vào nghĩa nào để lập? Tức như trước đã nói.

Đầy đủ và Trụ: Tức cũng như trước đã nói.

***

Phẩm 12: VÔ LƯỢNG

Một thời, Đức Bạc-già-phạm trú nơi khu vườn rừng Thệ Đa – Cấp Cô Độc, thuộc thành Thất-la-phiệt.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói với chúng Bí-sô: Có 4 vô lượng.

Những gì là bốn?

1. Có một loài Từ, cùng hành với tâm, không có oán địch, xa lìa não hại, rộng lớn vô lượng, khéo tu tập, tưởng đối một phương đều thắng giải trọn khắp, đầy đủ mà trụ. Đối với các phương thứ hai, thứ ba, thứ tư, trên dưới hoặc bên cạnh, tất cả thế gian cũng lại như vậy. Đó gọi là thứ nhất.

2. Có một loại Bi, cùng hành với tâm, không có oán địch, xa lìa não hại, rộng lớn vô lượng, khéo tu tập, tưởng đối một phương đều thắng giải trọn khắp, đầy đủ mà trụ. Đối với các phương thứ hai, thứ ba, thứ tư, trên dưới hoặc bên cạnh, tất cả thế gian cũng lại như vậy. Đó gọi là thứ hai.

3. Có một loại Hỷ, cùng hành với tâm, không có oán địch, xa lìa não hại, rộng lớn vô lượng, khéo tu tập, tưởng đối một phương đều thắng giải trọn khắp, đầy đủ mà trụ. Đối với các phương thứ hai, thứ ba, thứ tư, trên dưới hoặc bên cạnh, tất cả thế gian cũng lại như vậy. Đó gọi là thứ ba.

4. Có một loại Xả, cùng hành với tâm, không có oán địch, xa lìa não hại, rộng lớn vô lượng, khéo tu tập, tưởng đối một phương đều thắng giải trọn khắp, đầy đủ mà trụ. Đối với các phương thứ hai, thứ ba, thứ tư, trên dưới hoặc bên cạnh, tất cả thế gian cũng lại như vậy. Đó gọi là thứ tư.

Đó gọi là bốn vô lượng.

*

1. Thế nào là Từ?

Đáp: Nghĩa là có một loại hữu tình khởi suy nghĩ: “Nguyện cho các hữu tình đều được an lạc thù thắng”. Người ấy hoặc dựa vào hạnh xuất gia, hoặc dựa vào sự xa lìa, do sức mạnh của sự xét chọn, nên nội tâm của người ấy phát khởi định thiện ở cõi Sắc, có các thứ từ, tánh của từ, gọi là thương xót, tánh thương xót, gọi là nhớ thương, tánh nhớ thương, gọi chung là Từ.

Lại nữa, các thứ thọ tưởng hành thức cùng tương ưng với Từ, đã cùng khởi hai thứ nghiệp thân và ngữ, hành không tương ưng, cũng gọi là Từ.

Thế nào là gia hạnh của định tâm từ? Tu gia hạnh nào để nhập định tâm từ? Nghĩa là:

Như có một loại hữu tình khởi tâm như vầy: “Nguyện cho các hữu tình đều được an lạc thù thắng”. Tuy có tâm như thế, nhưng không thắng giải. Khi nguyện cho các hữu tình đều được an lạc thù thắng như thế như thế, tuy tâm của người ấy là thiện tịnh diệu, tùy thuận sáng tỏ, tăng trưởng ứng cúng trang nghiêm, luôn tin giao, hỗ trợ về tư lương, nhưng chưa gọi là gia hạnh của định tâm từ, cũng chưa gọi là nhập định tâm từ.

Lại có một loại hữu tình nói lời như vầy: “Nguyện cho các hữu tình đều được an lạc thù thắng”. Tuy có lời nói như thế, nhưng không thắng giải. Khi nguyện cho các hữu tình đều được an lạc thù thắng như thế như thế, tuy lời nói của người ấy là thiện tịnh diệu v.v… cho đến hỗ trợ về tư lương, nhưng chưa gọi là gia hạnh của định tâm từ, cũng chưa gọi là nhập định tâm từ.

Lại có một loại hữu tình khởi tâm như vầy, nói lời như vầy: “Nguyện cho các hữu tình đều được an lạc thù thắng”. Tuy có tâm và lời nói như thế, nhưng không thắng giải. Khi nguyện cho các hữu tình đều được an lạc thù thắng như thế như thế, tuy tâm và lời nói của người ấy đều là thiện tịnh diệu v.v… cho đến hỗ trợ về tư lương, nhưng chưa gọi là gia hạnh của định tâm từ, cũng chưa gọi là nhập định tâm từ.

Lại có một loại hữu tình phát khởi tâm như vầy, phát khởi lời nói như vầy và có thắng giải: “Nguyện cho các hữu tình đều được an lạc thù thắng như thế như thế v.v…”. Tuy tâm, lời nói và thắng giải của người ấy đều là thiện tịnh diệu v.v… cho đến hỗ trợ về tư lương, nhưng chưa gọi là gia hạnh của định tâm từ, cũng chưa gọi là nhập định tâm từ.

Sự việc ấy như thế nào? Nghĩa là: Như có một loài hữu tình bị khổ của lạnh bức bách, nay được ấm áp nên sinh vui mừng, liền giữ lấy tướng vui ấy khởi tâm như vầy, nói lời như vầy: “Nguyện cho các hữu tình đều được an lạc thù thắng như thế như thế v.v…”. Tuy tâm, lời nói và thắng giải của người ấy đều là thiện tịnh diệu v.v… cho đến hỗ trợ về tư lương, nhưng chưa gọi là gia hạnh của định tâm từ, cũng chưa gọi là nhập định tâm từ.

Lại có một loại hữu tình bị khổ của nóng bức bách, nay được mát mẻ nên sinh vui mừng, liền giữ lấy tướng vui ấy khởi tâm như vầy, nói lời như vầy: “Nguyện cho các hữu tình đều được an lạc thù thắng như thế như thế v.v…”. Tuy tâm, lời nói và thắng giải của người ấy đều là thiện tịnh diệu v.v… cho đến hỗ trợ về tư lương, nhưng chưa gọi là gia hạnh của định tâm từ, cũng chưa gọi là nhập định tâm từ.

Lại có một loại hữu tình bị khổ của đói bức bách, khi được ăn no nên sinh vui mừng, liền giữ lấy tướng vui đó khởi tâm như vầy, nói lời như vầy: “Nguyện cho các hữu tình đều được an lạc thù thắng như thế như thế v.v…”. Tuy tâm, lời nói và thắng giải của người ấy đều là thiện tịnh diệu v.v… cho đến hỗ trợ về tư lương, nhưng chưa gọi là gia hạnh của định tâm từ, cũng chưa gọi là nhập định tâm từ.

Lại có một loại hữu tình bị khổ của khát bức bách, khi được uống đủ nên sinh vui mừng, liền giữ lấy tướng vui ấy khởi tâm như vầy, nói lời như vầy: “Nguyện cho các hữu tình đều được an lạc thù thắng như thế như thế v.v…”. Tuy tâm, lời nói và thắng giải của người ấy đều là thiện tịnh diệu v.v… cho đến hỗ trợ về tư lương, nhưng chưa gọi là gia hạnh của định tâm từ, cũng chưa gọi là nhập định tâm từ.

Lại có một loại hữu tình thân thể cấu uế, chân tay mệt mỏi, thiếu thốn mọi thứ, bạn bè lánh xa v.v…, khi gặp được dịp tắm gội kỹ lưỡng, bạn bè hòa hợp v.v… nên sinh vui mừng, liền giữ lấy tướng vui đó khởi tâm như vầy, nói lời như vầy: “Nguyện cho các hữu tình đều được an lạc thù thắng như thế như thế v.v…”. Tuy tâm, lời nói và thắng giải của người ấy đều là thiện tịnh diệu v.v… cho đến hỗ trợ về tư lương, nhưng chưa gọi là gia hạnh của định tâm từ, cũng chưa gọi là nhập định tâm từ.

Lại có một loại hữu tình vào mùa hè trời oi bức, ánh mặt trời như thiêu đốt, nên bị nóng và khát bức bách, thân tâm nhiệt não, bỗng gặp được ao nước mát mẻ, liền tắm gội và uống đầy đủ nên sinh vui mừng, liền giữ lấy tướng vui nầy khởi tâm như vầy, nói lời như vầy: “Nguyện cho các hữu tình đều được an lạc thù thắng như thế như thế v.v…”. Tuy tâm, lời nói và thắng giải của người ấy đều là thiện tịnh diệu v.v… cho đến hỗ trợ về tư lương, nhưng chưa gọi là gia hạnh của định tâm từ, cũng chưa gọi là nhập định tâm từ.

Như vậy, khi đã thọ nhận các thứ lạc nơi cõi Dục và nhập vào tĩnh lự thứ hai thọ nhận thắng lạc, liền giữ lấy tướng vui ấy khởi tâm như vầy, nói lời như vầy: “Nguyện cho các hữu tình đều được an lạc thù thắng như thế như thế v.v…”. Tuy tâm, lời nói và thắng giải của người ấy đều là thiện tịnh diệu v.v… cho đến hỗ trợ về tư lương, nhưng chưa gọi là gia hạnh của định tâm từ, cũng chưa gọi là nhập định tâm từ. Nếu có sinh ra điều ấy thì đó là gần được hiện nhập.

Nhập vào tĩnh lự thứ ba, giữ lấy tướng vui ấy khởi tâm như vầy, nói lời như vầy: “Nguyện cho các hữu tình đều được an lạc thù thắng như thế như thế v.v…”. Tâm, lời nói và thắng giải của người ấy đều là thiện tịnh diệu v.v… cho đến hỗ trợ về tư lương, bấy giờ mới có thể gọi là gia hạnh của định tâm từ, cũng gọi là nhập định tâm từ.

Lại trong định nầy, các tâm ý thức gọi là Từ cùng có tâm. Các thứ tư duy, cùng tư duy, hiện tiền cùng tư duy, đã và sẽ tư duy, tâm tạo ý nghiệp, gọi là Từ cùng có ý nghiệp. Các tâm thắng giải, đã và sẽ thắng giải, gọi là Từ cùng có thắng giải.

Lại trong định nầy, có các pháp hoặc thọ, hoặc tưởng, hoặc dục, hoặc tác ý, hoặc niệm, hoặc định, hoặc tuệ, gọi là Từ cùng có các pháp. Các pháp như thế cũng được gọi là gia hạnh của định tâm từ, cũng gọi là nhập định tâm từ.

Lại nữa, định tâm từ có 2 thứ: a. Nhỏ hẹp. b. Vô lượng.

Thế nào là gia hạnh của định tâm từ nhỏ hẹp? Tu gia hạnh nào để nhập định tâm từ nhỏ hẹp?

Đáp: Nghĩa là có một loại hữu tình nơi các hữu tình đáng yêu mến, vui thích, hợp ý, vừa ý như cha mẹ, anh em, chị em, cùng một số bà con hay bạn bè thân thiết khác v.v…, người ấy đối với số hữu tình nhỏ hẹp kia khiến tâm cùng có từ nhỏ hẹp được trụ cùng trụ, trụ gần, an trụ, điều phục, tịch tĩnh, tịch tĩnh cùng cực, một hướng đẳng trì, nguyện cho những hữu tình kia đều được an vui thù diệu.

Bấy giờ, người ấy nếu tâm bị tán loạn, chạy theo cảnh khác, không thể chuyên vào một cõi, không thể giữ niệm khiến trụ nơi một duyên để nguyện cho số hữu tình nhỏ hẹp kia đều được an vui, thì trong trường hợp nầy chưa gọi là gia hạnh của định tâm từ nhỏ hẹp, cũng chưa gọi là nhập định tâm từ nhỏ hẹp.

Lúc đó, người ấy nếu thâu giữ tự tâm khiến không tán loạn, không chạy theo cảnh khác, có thể chuyên vào một cõi, trụ niệm nơi một duyên, tư duy về tướng của số hữu tình nhỏ hẹp kia, nguyện cho họ đều được an vui. Tư duy như thế để phát khởi sức siêng năng tinh tấn, thế dụng mạnh mẽ, hăng hái tột bậc, không gì có thể ngăn cản, tâm ý luôn cố gắng không dừng, lúc nầy mới gọi là gia hạnh của định tâm từ nhỏ hẹp, cũng gọi là nhập định tâm từ nhỏ hẹp.

Người ấy đối với đạo như thế đã sinh rồi thì tu tập, tu tập nhiều, liền khiến tâm trụ cùng trụ, trụ gần, an trụ, đẳng trì (định) một hướng, không hai không thoái, nguyện cho số hữu tình nhỏ hẹp kia đều được an vui, bấy giờ gọi là đã nhập định tâm từ nhỏ hẹp.

Lại trong định nầy, các tâm ý thức gọi là Từ nhỏ hẹp cùng có tâm. Các thứ tư duy, cùng tư duy v.v… cho đến tâm tạo ý nghiệp, gọi là Từ nhỏ hẹp cùng có ý nghiệp. Các tâm thắng giải, đã và sẽ thắng giải, gọi là Từ nhỏ hẹp cùng có thắng giải.

Lại trong định nầy, có các pháp hoặc thọ, hoặc tưởng v.v… cho đến hoặc tuệ, gọi là Từ nhỏ hẹp cùng có các pháp. Các pháp như thế cũng được gọi là gia hạnh của định tâm từ nhỏ hẹp, cũng gọi là nhập định tâm từ nhỏ hẹp.

Thế nào là gia hạnh của định tâm từ vô lượng? Tu gia hạnh nào để nhập định tâm từ vô lượng?

Đáp: Nghĩa là đối với định tâm từ nhỏ hẹp kia, người ấy thường xuyên tu tập, khiến tâm được tùy thuận, điều phục, tịch tĩnh, lại luôn chế ngự, rèn luyện, khiến tâm trở nên thành thật, ngay thẳng, nhu hòa, có thể đảm nhận công việc, cùng với định thù thắng ở sau làm chỗ nương dựa, sau đấy dần khiến tâm thắng giải trọn khắp, đối với vô lượng các hữu tình ở các phương như phương Đông v.v… đều nguyện cho họ được an vui thù diệu.

Bấy giờ, người ấy nếu tâm bị tán loạn, chạy theo cảnh khác, không thể chuyên vào một cõi, không thể giữ niệm khiến trụ nơi một duyên để nguyện cho vô lượng các hữu tình kia đều được an vui, thì khi đó chưa gọi là gia hạnh của định tâm từ vô lượng, cũng chưa gọi là nhập định tâm từ vô lượng.

Lúc đó, người ấy nếu thâu giữ tự tâm, khiến không tán loạn, không chạy theo cảnh khác, có thể chuyên vào một cõi, trụ niệm nơi một duyên, tư duy về tướng của vô lượng các hữu tình kia, nguyện cho họ đều được an vui. Tư duy như vậy để phát khởi sức siêng năng tinh tấn, thế dụng mạnh mẽ v.v… cho đến tâm ý luôn cố gắng không dừng, lúc nầy mới gọi là gia hạnh của định tâm từ vô lượng, cũng gọi là nhập định tâm từ vô lượng.

Người nầy đối với đạo như thế đã sinh rồi thì tu tập, tu tập nhiều, liền khiến tâm trụ cùng trụ, trụ gần, an trụ, một hướng đẳng trì, không hai không thoái, nguyện cho vô lượng các hữu tình kia đều được an vui, bấy giờ gọi là đã nhập định tâm từ vô lượng.

Lại trong định nầy, các tâm ý thức gọi là Từ vô lượng cùng có tâm. Các thứ tư duy, cùng tư duy v.v… cho đến tâm tạo ý nghiệp, gọi là Từ vô lượng cùng có ý nghiệp. Các tâm thắng giải, đã thắng giải và sẽ thắng giải, gọi là Từ vô lượng cùng có thắng giải.

Lại trong định nầy, có các pháp hoặc thọ, hoặc tưởng v.v… cho đến hoặc tuệ, gọi là Từ vô lượng cùng có các pháp. Các pháp như thế cũng được gọi là gia hạnh của định tâm từ vô lượng, cũng gọi là nhập định tâm từ vô lượng.

*

2. Thế nào là Bi?

Đáp: Nghĩa là có một loại hữu tình khởi suy nghĩ: “Nguyện cho các hữu tình đều được lìa khổ”. Người ấy hoặc dựa vào hạnh xuất gia, hoặc dựa vào sự xa lìa, do sức mạnh của sự xét chọn, nên nội tâm của người ấy phát khởi định thiện ở cõi Sắc, có các thứ bi, tánh của bi, gọi là thương xót, tánh thương xót, gọi là xót xa đối với khổ, tánh xót xa đối với khổ, gọi chung là Bi.

Lại nữa, các thứ thọ tưởng hành thức cùng tương ưng với Bi, đã cùng khởi hai thứ nghiệp thân và ngữ, hành không tương ưng, cũng gọi là Bi.

Lại nữa, định tâm bi có 2 thứ: a. Nhỏ hẹp. b. Vô lượng.

Thế nào là gia hạnh của định tâm bi nhỏ hẹp? Tu gia hạnh nào để nhập định tâm bi nhỏ hẹp?

Đáp: Nghĩa là có một loại hữu tình nơi các hữu tình đáng yêu mến, ưa thích, hợp ý, vừa ý như cha mẹ, anh em, chị em, cùng một số bà con hay bạn bè thân thiết khác v.v…, người ấy đối với số hữu tình nhỏ hẹp kia khiến tâm cùng có bi nhỏ hẹp được trụ cùng trụ, trụ gần, an trụ, điều phục, tịch tĩnh, tịch tĩnh tận cùng, một hướng đẳng trì, nguyện cho các hữu tình kia đều được lìa khổ.

Bấy giờ, người ấy nếu tâm bị tán loạn, chạy theo cảnh khác, không thể chuyên vào một cõi, không thể giữ niệm khiến trụ nơi một duyên để nguyện cho số hữu tình nhỏ hẹp kia đều được lìa khổ, thì trong trường hợp nầy chưa gọi là gia hạnh của định tâm bi nhỏ hẹp, cũng chưa gọi là nhập định tâm bi nhỏ hẹp.

Lúc đó, người ấy nếu thâu giữ tự tâm khiến không tán loạn, không chạy theo cảnh khác, có thể chuyên vào một cõi, trụ niệm nơi một duyên, tư duy về tướng của số hữu tình nhỏ hẹp kia, nguyện cho họ đều được lìa khổ. Tư duy như thế để phát khởi sức siêng năng tinh tấn v.v… cho đến tâm ý luôn cố gắng không dừng, lúc nầy mới gọi là gia hạnh của định tâm bi nhỏ hẹp, cũng gọi là nhập định tâm bi nhỏ hẹp.

Người nầy đối với đạo như thế đã sinh rồi thì tu tập, tu tập nhiều, liền khiến tâm trụ cùng trụ, trụ gần, an trụ, một hướng đẳng trì, không hai không thoái, nguyện cho số hữu tình nhỏ hẹp kia đều được lìa khổ, bấy giờ gọi là đã nhập định tâm bi nhỏ hẹp.

Lại trong định nầy, các tâm ý thức gọi là Bi nhỏ hẹp cùng có tâm. Các thứ tư duy, cùng tư duy v.v… cho đến tâm tạo ý nghiệp, gọi là Bi nhỏ hẹp cùng có ý nghiệp. Các tâm thắng giải, đã và sẽ thắng giải, gọi là Bi nhỏ hẹp cùng có thắng giải.

Lại trong định nầy, có các pháp hoặc thọ, hoặc tưởng v.v… cho đến hoặc tuệ, gọi là Bi nhỏ hẹp cùng có các pháp. Các pháp như thế cũng được gọi là gia hạnh của định tâm bi nhỏ hẹp, cũng gọi là nhập định tâm bi nhỏ hẹp.

Thế nào là gia hạnh của định tâm bi vô lượng? Tu gia hạnh nào để nhập định tâm bi vô lượng?

Đáp: Nghĩa là đối với định tâm bi nhỏ hẹp kia, người ấy thường xuyên tu tập, khiến tâm được tùy thuận, điều phục, tịch tĩnh, lại luôn chế ngự, rèn luyện, khiến tâm trở nên thành thật, ngay thẳng, nhu hòa, có thể đảm nhận công việc, cùng với định thù thắng ở sau làm chỗ nương dựa, tiếp đến dần khiến tâm thắng giải trọn khắp, đối với vô lượng các hữu tình ở các phương như phương Đông v.v… đều nguyện cho họ được lìa khổ.

Bấy giờ, người ấy nếu tâm bị tán loạn, chạy theo cảnh khác, không thể chuyên vào một cõi, không thể giữ niệm khiến trụ nơi một duyên để nguyện cho vô lượng các hữu tình kia đều được lìa khổ, thì khi đó chưa gọi là gia hạnh của định tâm bi vô lượng, cũng chưa gọi là nhập định tâm bi vô lượng.

Lúc đó, người ấy nếu thâu giữ tự tâm khiến không tán loạn, không chạy theo cảnh khác, có thể chuyên vào một cõi, trụ niệm nơi một duyên, tư duy về tướng của vô lượng các hữu tình kia, nguyện cho họ đều được lìa khổ. Tư duy như vậy để phát khởi sức siêng năng tinh tấn v.v… cho đến tâm ý luôn cố gắng không dừng, lúc nầy mới gọi là gia hạnh của định tâm bi vô lượng, cũng gọi là nhập định tâm bi vô lượng.

Người ấy đối với đạo như thế đã sinh rồi thì tu tập, tu tập nhiều, liền khiến tâm trụ cùng trụ, trụ gần, an trụ, một hướng đẳng trì, không hai không thoái, nguyện cho vô lượng các hữu tình kia đều được lìa khổ, bấy giờ gọi là đã nhập định tâm bi vô lượng.

Lại trong định nầy, các tâm ý thức gọi là Bi vô lượng cùng có tâm. Các thứ tư duy, cùng tư duy v.v… cho đến tâm tạo ý nghiệp, gọi là Bi vô lượng cùng có ý nghiệp. Các tâm thắng giải, đã thắng giải và sẽ thắng giải, gọi là Bi vô lượng cùng có thắng giải.

Lại trong định nầy, có các pháp hoặc thọ, hoặc tưởng v.v… cho đến hoặc tuệ, gọi là Bi vô lượng cùng có các pháp. Các pháp như thế cũng được gọi là gia hạnh của định tâm bi vô lượng, cũng gọi là nhập định tâm bi vô lượng.

*

3. Thế nào là Hỷ?

Đáp: Nghĩa là có một loại hữu tình khởi suy nghĩ: “Các hữu tình đạt được lợi ích thật đáng vui mừng”. Người ấy hoặc dựa vào hạnh xuất gia, hoặc dựa vào sự xa lìa, do sức mạnh của sự xét chọn, nên nội tâm của người ấy phát khởi định thiện ở cõi Sắc, có tâm vui mừng, rất vui mừng, hiện tiền rất vui mừng, tánh vui mừng, loại vui mừng, vừa ý, hợp ý, tánh hoan hỷ, loại hoan hỷ, thích hòa hợp, không biệt ly, tánh có thể đảm nhận sự việc, phấn khích hân hoan, gọi chung là Hỷ.

Lại nữa, các thứ thọ, tưởng, hành, thức cùng tương ưng với Hỷ, đã cùng khởi hai thứ nghiệp thân và ngữ, hành không tương ưng, cũng gọi là Hỷ.

Lại nữa, định tâm hỷ có 2 thứ: a. Nhỏ hẹp. b. Vô lượng.

Thế nào là gia hạnh của định tâm hỷ nhỏ hẹp? Tu gia hạnh nào để nhập định tâm hỷ nhỏ hẹp?

Đáp: Nghĩa là có một loại hữu tình nơi các hữu tình đáng yêu mến, ưa thích, hợp ý, vừa ý như cha mẹ, anh em, chị em, cùng một số bà con hay bạn bè thân thiết khác v.v…, người ấy đối với số hữu tình nhỏ hẹp kia khiến tâm cùng có hỷ nhỏ hẹp được trụ cùng trụ, trụ gần, an trụ, điều phục, tịch tĩnh, tịch tĩnh tận cùng, một hướng đẳng trì, nguyện cho các hữu tình kia đều được vui vì lìa khổ.

Bấy giờ, người ấy nếu tâm bị tán loạn, chạy theo cảnh khác, không thể chuyên vào một cõi, không thể giữ niệm khiến trụ nơi một duyên để nguyện cho số hữu tình nhỏ hẹp kia đạt được lợi ích, thì trong trường hợp nầy chưa gọi là gia hạnh của định tâm hỷ nhỏ hẹp, cũng chưa gọi là nhập định tâm hỷ nhỏ hẹp.

Lúc nầy, người ấy nếu thâu giữ tự tâm khiến không tán loạn, không chạy theo cảnh khác, có thể chuyên vào một cõi, trụ niệm nơi một duyên, tư duy về tướng của số hữu tình nhỏ hẹp kia, nguyện cho họ đều đạt được lợi ích. Tư duy như thế để phát khởi sức siêng năng tinh tấn v.v… cho đến tâm ý luôn cố gắng không dừng, lúc nầy mới gọi là gia hạnh của định tâm hỷ nhỏ hẹp, cũng gọi là nhập định tâm hỷ nhỏ hẹp.

Người ấy đối với đạo như thế đã sinh rồi thì tu tập, tu tập nhiều, liền khiến tâm trụ cùng trụ, trụ gần, an trụ, một hướng đẳng trì, không hai không thoái, nguyện cho số hữu tình nhỏ hẹp kia đều đạt được lợi ích, bấy giờ gọi là đã nhập định tâm hỷ nhỏ hẹp.

Lại trong định nầy, các tâm ý thức gọi là Hỷ nhỏ hẹp cùng có tâm. Các thứ tư duy, cùng tư duy v.v… cho đến tâm tạo ý nghiệp, gọi là Hỷ nhỏ hẹp cùng có ý nghiệp. Các tâm thắng giải, đã và sẽ thắng giải, gọi là Hỷ nhỏ hẹp cùng có thắng giải.

Lại trong định nầy, có các pháp hoặc thọ, hoặc tưởng v.v… cho đến hoặc tuệ, gọi là Hỷ nhỏ hẹp cùng có các pháp. Các pháp như thế cũng được gọi là gia hạnh của định tâm hỷ nhỏ hẹp, cũng gọi là nhập định tâm hỷ nhỏ hẹp.

Thế nào là gia hạnh của định tâm hỷ vô lượng? Tu gia hạnh nào để nhập định tâm hỷ vô lượng?

Đáp: Nghĩa là đối với định tâm hỷ nhỏ hẹp kia, người ấy thường xuyên tu tập, khiến tâm được tùy thuận, điều phục, tịch tĩnh, lại luôn chế ngự, rèn luyện, khiến tâm trở nên thành thật, ngay thẳng, nhu hòa, có thể đảm nhận công việc, cùng với định thù thắng ở sau làm chỗ nương dựa, tiếp đến dần khiến tâm thắng giải đủ khắp, đối với vô lượng các hữu tình ở các phương như phương Đông v.v… đều nguyện cho họ đạt được lợi ích.

Bấy giờ, người ấy nếu tâm bị tán loạn, chạy theo cảnh khác, không thể chuyên vào một cõi, không thể giữ niệm khiến trụ nơi một duyên để nguyện cho vô lượng các hữu tình kia đều có được lợi ích, thì khi đó chưa gọi là gia hạnh của định tâm hỷ vô lượng, cũng chưa gọi là nhập định tâm hỷ vô lượng.

Lúc ấy, người nầy nếu thâu giữ tự tâm khiến không tán loạn, không chạy theo cảnh khác, có thể chuyên vào một cõi, trụ niệm nơi một duyên, tư duy về tướng của vô lượng các hữu tình kia, nguyện cho họ đều có được lợi ích. Tư duy như vậy để phát khởi sức siêng năng tinh tấn v.v… cho đến tâm ý luôn cố gắng không dừng, lúc nầy mới gọi là gia hạnh của định tâm hỷ vô lượng, cũng gọi là nhập định tâm hỷ vô lượng.

Người ấy đối với đạo như thế đã sinh rồi thì tu tập, tu tập nhiều, liền khiến tâm trụ cùng trụ, trụ gần, an trụ, một hướng đẳng trì, không hai không thoái, nguyện cho vô lượng các hữu tình kia nhận được lợi ích, bấy giờ gọi là đã nhập định tâm hỷ vô lượng.

Lại trong định nầy, các tâm ý thức gọi là Hỷ vô lượng cùng có tâm. Các thứ tư duy, cùng tư duy v.v… cho đến tâm tạo ý nghiệp, gọi là Hỷ vô lượng cùng có ý nghiệp. Các tâm thắng giải, đã thắng giải và sẽ thắng giải, gọi là Hỷ vô lượng cùng có thắng giải.

Lại trong định nầy, có các pháp hoặc thọ, hoặc tưởng v.v… cho đến hoặc tuệ, gọi là Hỷ vô lượng cùng có các pháp. Các pháp như thế cũng được gọi là gia hạnh của định tâm hỷ vô lượng, cũng gọi là nhập định tâm hỷ vô lượng.

*

4. Thế nào là Xả?

Đáp: Nghĩa là có một loại hữu tình khởi suy nghĩ: “Nên đối với các hữu tình trụ nơi xả bình đẳng”. Người ấy hoặc dựa vào hạnh xuất gia, hoặc dựa vào pháp xa lìa, do sức mạnh của sự xét chọn, nên nội tâm của người ấy sinh khởi định thiện ở cõi Sắc, có tánh tâm bình đẳng, tâm chân chất, ngay thẳng, tâm không cảnh giác, trụ nơi tịch tĩnh, gọi chung là Xả.

Lại nữa, các thứ thọ, tưởng, hành, thức cùng tương ưng với Xả, đã cùng khởi hai thứ nghiệp thân và ngữ, hành không tương ưng, cũng gọi là Xả.

Thế nào là gia hạnh của định tâm xả? Tu gia hạnh nào để nhập định tâm xả?

Đáp: Nghĩa là như có một loại hữu tình tuy thấy các hữu tình rất đáng yêu mến, ưa thích, hợp ý, vừa ý, nhưng không khởi nhận biết: Đây là cha ta, đây là mẹ ta v.v… cho đến đây là bạn bè thân thiết của ta, chỉ khởi thắng giải về hữu tình bình đẳng. Như Đạo sĩ vô cầu đi vào một khu rừng tuy thấy đủ các loại cây như cây Sa-la, cây Đa-la, cây Dạ-man, cây Mã tướng, cây Ô-đàm-bạt-la, cây Nặc-cù-đà v.v…, nhưng không hề khởi phân biệt: Đây là cây Sa-la, đây là cây Đa-la v.v… cho đến đây là cây Nặc-cù-đà, chỉ khởi thắng giải về cây rừng bình đẳng. Người tu tập hành xả đối với các hữu tình không khởi phân biệt nên biết cũng như vậy. Đó gọi là gia hạnh của định tâm xả, cũng gọi là nhập định tâm xả.

Lại nữa, định tâm xả có 2 thứ: a. Nhỏ hẹp. b. Vô lượng.

Thế nào là gia hạnh của định tâm xả nhỏ hẹp? Tu gia hạnh nào để nhập định tâm xả nhỏ hẹp?

Đáp: Nghĩa là có một loại hữu tình nơi các hữu tình đáng yêu mến, ưa thích, vừa ý, hợp ý như cha mẹ, anh em, chị em, cùng một số bà con hay bạn bè thân thiết khác v.v…, người ấy đối với số hữu tình nhỏ hẹp kia khiến tâm cùng có xả nhỏ hẹp được trụ cùng trụ, trụ gần, an trụ, điều phục, tịch tĩnh, tịch tĩnh tột cùng, một hướng đẳng trì, đối với các hữu tình kia trụ nơi xả bình đẳng.

Bấy giờ, người ấy nếu tâm bị tán loạn, chạy theo cảnh khác, không thể chuyên nhất, không thể giữ niệm khiến trụ nơi một duyên để đối với số hữu tình nhỏ hẹp kia trụ nơi xả bình đẳng, thì trong trường hợp nầy chưa gọi là gia hạnh của định tâm xả nhỏ hẹp, cũng chưa gọi là nhập định tâm xả nhỏ hẹp.

Lúc ấy, người nầy nếu thâu giữ tự tâm khiến không tán loạn, không chạy theo cảnh khác, có thể khiến chuyên nhất trụ niệm nơi một duyên, tư duy về tướng của số hữu tình nhỏ hẹp kia trụ nơi xả bình đẳng. Tư duy như thế để phát khởi sức siêng năng tinh tấn v.v… cho đến tâm ý luôn cố gắng không dừng, lúc nầy mới gọi là gia hạnh của định tâm xả nhỏ hẹp, cũng gọi là nhập định tâm xả nhỏ hẹp.

Người ấy đối với đạo như thế đã sinh rồi thì tu tập, tu tập nhiều, liền khiến tâm trụ cùng trụ, trụ gần, an trụ, một hướng đẳng trì, không hai không thoái, để đối với số hữu tình nhỏ hẹp kia trụ nơi xả bình đẳng, bấy giờ gọi là đã nhập định tâm xả nhỏ hẹp.

Lại trong định nầy, các tâm ý thức gọi là Xả nhỏ hẹp cùng có tâm. Các thứ tư duy, cùng tư duy v.v… cho đến tâm tạo ý nghiệp, gọi là Xả nhỏ hẹp cùng có ý nghiệp. Các tâm thắng giải, đã và sẽ thắng giải, gọi là Xả nhỏ hẹp cùng có thắng giải.

Lại trong định nầy, có các pháp hoặc thọ, hoặc tưởng v.v… cho đến hoặc tuệ, gọi là Xả nhỏ hẹp cùng có các pháp. Các pháp như thế cũng được gọi là gia hạnh của định tâm xả nhỏ hẹp, cũng gọi là nhập định tâm xả nhỏ hẹp.

Thế nào là gia hạnh của định tâm xả vô lượng? Tu gia hạnh nào để nhập định tâm xả vô lượng?

Đáp: Nghĩa là đối với định tâm xả nhỏ hẹp kia, người ấy thường xuyên tu tập, khiến tâm được tùy thuận, điều phục, tịch tĩnh, lại luôn chế ngự, rèn luyện, khiến tâm trở nên thành thật, ngay thẳng, nhu hòa, có thể đảm nhận công việc, cùng với định thù thắng ở sau làm chỗ nương dựa, tiếp đến dần khiến tâm thắng giải trọn khắp, đối với vô lượng các hữu tình ở các phương như phương Đông v.v… trụ nơi xả bình đẳng.

Bấy giờ, người ấy nếu tâm bị tán loạn, chạy theo cảnh khác, không thể chuyên nhất, không thể giữ niệm khiến trụ nơi một duyên để đối với vô lượng các hữu tình kia trụ nơi xả bình đẳng, thì khi đó chưa gọi là gia hạnh của định tâm xả vô lượng, cũng chưa gọi là nhập định tâm xả vô lượng.

Lúc ấy, người nầy nếu thâu giữ tự tâm khiến không tán loạn, không chạy theo cảnh khác, có thể khiến chuyên nhất, trụ niệm nơi một duyên, tư duy về tướng của vô lượng các hữu tình kia, đối với vô lượng hữu tình ấy trụ nơi xả bình đẳng. Tư duy như vậy để phát khởi sức siêng năng tinh tấn v.v… cho đến tâm ý luôn cố gắng không dứt, lúc nầy mới gọi là gia hạnh của định tâm xả vô lượng, cũng gọi là nhập định tâm xả vô lượng.

Người nầy đối với đạo như thế đã sinh rồi thì tu tập, tu tập nhiều, liền khiến tâm trụ cùng trụ, trụ gần, an trụ, một hướng đẳng trì, không hai không thoái, để đối với vô lượng các hữu tình kia trụ nơi xả bình đẳng, bấy giờ gọi là đã nhập định tâm Xả vô lượng.

Lại trong định nầy, các tâm ý thức gọi là Xả vô lượng cùng có tâm. Các thứ tư duy, cùng tư duy v.v… cho đến tâm tạo ý nghiệp, gọi là Xả vô lượng cùng có ý nghiệp. Các tâm thắng giải, đã thắng giải và sẽ thắng giải, gọi là Xả vô lượng cùng có thắng giải.

Lại trong định nầy, có các pháp hoặc thọ, hoặc tưởng v.v… cho đến hoặc tuệ, gọi là Xả vô lượng cùng có các pháp. Các pháp như thế cũng được gọi là gia hạnh của định tâm xả vô lượng, cũng gọi là nhập định tâm xả vô lượng.

HẾT – QUYỂN 7