LUẬN A TỲ ĐẠT MA PHẨM LOẠI TÚC
Tác giả: Tôn giả Thế Hữu
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 1

Phẩm 1: BIỆN VỀ NĂM SỰ

* Nêu dẫn các pháp: Có năm pháp. Những gì là năm? 1. Sắc. 2. Tâm. 3. Tâm sở pháp. 4. Tâm bất tương ưng hành. 5. Vô vi.

1. Thế nào là Sắc?

Đáp: Là các sắc hiện có nơi tất cả bốn đại chủng và sắc do bốn đại chủng tạo ra.

Những gì là bốn đại chủng? Là địa giới, thủy giới, hỏa giới, phong giới.

Những gì là sắc được tạo? Là nhãn căn, nhĩ căn, tỷ căn, thiệt căn, thân căn, sắc, thanh, hương, vị, một phần được tiếp xúc và sắc vô biểu.

2. Thế nào là Tâm?

Đáp: Là tâm, ý, thức. Đây lại là thế nào? Là sáu thức thân, tức nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức.

3. Thế nào là Tâm sở pháp?

Đáp: Là như tâm, pháp tương ưng. Đây lại là thế nào? Là thọ, tưởng, tư, xúc, tác ý, dục, thắng giải, niệm, định, tuệ, tín, cần, tầm, tứ, phóng dật, bất phóng dật, căn thiện, căn bất thiện, căn vô ký, tất cả kiết, phược, tùy miên, tùy phiền não, triền, các trí hiện có, các kiến hiện có, các thứ hiện quán hiện có. Lại còn có các loại pháp như thế tương ưng với tâm, gọi chung là Tâm sở pháp.

4. Thế nào là Tâm bất tương ưng hành?

Đáp: Là những pháp không tương ưng với tâm. Đây lại là thế nào? Là đắc, định vô tưởng, định diệt, sự vô tưởng, mạng căn, chúng đồng phận, y đắc, sự đắc, xứ đắc, tánh sinh, lão, trụ, vô thường, danh thân, cú thân, văn thân. Lại còn có các pháp cùng loại như thế không tương ưng với tâm, gọi chung là Tâm bất tương ưng hành.

5. Thế nào là Vô vi?

Đáp: Là ba thứ vô vi: Hư không. Phi trạch diệt. Trạch diệt.

**

* Giải thích các pháp vừa nêu trên:

1. Nói về Sắc:

Thế nào là Địa giới? Là tánh cứng chắc.

Thế nào là Thủy giới? Là tánh thấm ướt.

Thế nào là Hỏa giới? Là tánh ấm nóng.

Thế nào là Phong giới? Là tánh lay động như nhẹ nhàng v.v…

Thế nào là Nhãn căn? Là sắc tịnh làm chỗ dựa cho nhãn thức.

Thế nào là Nhĩ căn? Là sắc tịnh làm chỗ dựa cho nhĩ thức.

Thế nào là Tỷ căn? Là sắc tịnh làm chỗ dựa cho tỷ thức.

Thế nào là Thiệt căn? Là sắc tịnh làm chỗ dựa cho thiệt thức.

Thế nào là Thân căn? Là sắc tịnh làm chỗ dựa cho thân thức.

Thế nào là Sắc? Là các sắc hiện có, hoặc sắc hiện rõ, đẹp, hoặc sắc hiện rõ xấu, hoặc trung gian giữa hai thứ trên, tức tương tợ với sắc nơi xứ hiện rõ. Các sắc như thế do hai thức nhận biết là nhãn thức và ý thức. Ở đây, một loại nhãn thức nhận biết trước, tức nhãn thức thọ nhận xong ý thức mới nhận biết theo.

Thế nào là Thanh? Là tiếng, tiếng nầy có hai: Nghĩa là tiếng có chấp nhận đại chủng làm nhân và tiếng không chấp nhận đại chủng làm nhân. Các thứ tiếng như thế do hai thức nhận biết là nhĩ thức và ý thức. Ở đây, một loại nhĩ thức nhận biết trước, tức nhĩ thức thọ nhận xong ý thức mới nhận biết theo.

Thế nào là Hương? Là các mùi hiện có, hoặc mùi thơm, hoặc mùi thối, hoặc mùi trung bình do mũi ngửi. Các hương như thế do hai thức nhận biết là tỷ thức và ý thức. Ở đây, một loại tỷ thức nhận biết trước, tức tỷ thức thọ nhận xong ý thức mới nhận biết theo.

Thế nào là Vị? Là mọi thứ vị hiện có, hoặc vừa ý, hoặc không vừa ý, hoặc thuận theo xứ xả bỏ do lưỡi nếm. Các vị như thế do hai thức nhận biết là thiệt thức và ý thức. Ở đây, một loại thiệt thức nhận biết trước, tức thiệt thức thọ nhận xong ý thức mới nhận biết theo.

Thế nào là Một phần được tiếp xúc? Là các tánh chất trơn, nhám, nhẹ, nặng, lạnh, đói, khát, là đối tượng được thân tiếp xúc. Các xúc và bốn đại chủng như thế do hai thức nhận biết là thân thức và ý thức. Ở đây một loại thân thức nhận biết trước là thân thức thọ nhận xong ý thức mới nhận biết theo.

Thế nào là Sắc vô biểu? Là sắc thuộc về pháp xứ. Sắc nầy và năm sắc căn nơi tất cả thời do một thức nhận biết là ý thức.

*

2. Nói về Tâm:

Thế nào là Nhãn thức? Là nương nơi nhãn căn đều phân biệt rõ về sắc.

Thế nào là Nhĩ thức? Là nương nơi nhĩ căn đều phân biệt rõ về tiếng.

Thế nào là Tỷ thức? Là nương nơi tỷ căn đều phân biệt rõ về hương.

Thế nào là Thiệt thức? Là nương nơi thiệt căn đều phân biệt rõ về vị.

Thế nào là Thân thức? Là nương nơi thân căn đều phân biệt rõ về đối tượng được tiếp xúc.

Thế nào là Ý thức? Là nương nơi ý căn đều phân biệt rõ về các pháp.

*

3. Nói về Tâm sở pháp:

Thế nào là Thọ? Là tánh lãnh nạp. Thọ nầy có ba thứ là lạc thọ, khổ thọ và thọ không khổ không lạc.

Thế nào là Tưởng? Là tánh nhận lấy hình tượng. Tưởng nầy có ba thứ là tưởng nhỏ, tưởng lớn và tưởng vô lượng.

Thế nào là Tư? Là tánh của tâm tạo tác, tức là ý nghiệp. Tư nầy có ba thứ là tư thiện, tư bất thiện và tư vô ký.

Thế nào là Xúc? Là tánh hòa hợp của ba thứ. Xúc nầy có ba loại là xúc thuận với lạc thọ, xúc thuận với khổ thọ và xúc thuận với thọ không khổ không lạc.

Thế nào là Tác ý? Là tánh tỉnh thức nhận biết của tâm. Tác ý nầy có ba thứ là tác ý học, tác ý vô học và tác ý phi học phi vô học.

Thế nào là Dục? Là tánh ưa thích tạo tác.

Thế nào là Thắng giải? Là tánh hiểu biết rõ, đúng đắn của tâm đã hiểu rõ, sẽ hiểu rõ.

Thế nào là Niệm? Là tánh ghi nhớ sáng tỏ của tâm.

Thế nào là Định? Là tánh của tâm chuyên nhất nơi cảnh.

Thế nào là Tuệ? Là tánh lựa chọn pháp của tâm.

Thế nào là Tín? Là tánh lặng sạch của tâm.

Thế nào là Cần? Là tánh dũng mãnh của tâm.

Thế nào là Tầm? Là tánh động thô của tâm.

Thế nào là Tứ? Là tánh động vi tế của tâm.

Thế nào là Phóng dật? Là tánh không tu tập pháp thiện.

Thế nào là Bất phóng dật? Là tánh tu tập pháp thiện.

Thế nào là Căn thiện? Là ba căn thiện: căn thiện không tham, căn thiện không sân, căn thiện không si.

Thế nào là Căn bất thiện? Là ba căn bất thiện: căn bất thiện tham, căn bất thiện sân, căn bất thiện si.

Thế nào là Căn vô ký? Là bốn căn vô ký: ái vô ký, kiến vô ký, mạn vô ký, vô minh vô ký.

Thế nào là Kiết? Kiết có chín thứ: Kiết ái, kiết sân, kiết mạn, kiết vô minh, kiết kiến, kiết thủ, kiết nghi, kiết tật (ganh ghét), kiết xan (keo kiệt).

Thế nào là kiết ái? Là tham nơi ba cõi.

Thế nào là kiết sân? Là đối với các hữu tình có thể làm tổn hại.

Thế nào là kiết mạn? Là bảy thứ mạn: mạn, quá mạn, mạn quá mạn, ngã mạn, tăng thượng mạn, ty mạn, tà mạn. Mạn: Là đối với kém cho mình là hơn, hoặc đối với sự ngang bằng cho mình là bằng. Do chính mạn nầy nên đã kiêu mạn, sẽ kiêu mạn, tâm tự đề cao, tâm ỷ thị khinh miệt. Quá mạn: Là đối với sự ngang bằng cho mình là hơn, hoặc đối với chỗ hơn cho mình là bằng họ. Do chính mạn nầy nên đã kiêu mạn, sẽ kiêu mạn, tâm tự đề cao, tâm ỷ thị khinh miệt. Mạn quá mạn: Là đối với người hơn mình cho mình là hơn. Do chính mạn ấy nên đã kiêu mạn, sẽ kiêu mạn, tâm tự đề cao, tâm ỷ thị khinh miệt. Ngã mạn: Là đối với năm thủ uẩn v.v… tùy quán chấp ngã hoặc ngã sở. Do chính mạn nầy nên đã kiêu mạn, sẽ kiêu mạn, tâm tự đề cao, tâm ỷ thị khinh miệt. Tăng thượng mạn: Là đối với pháp chứng thắng thượng chưa đạt được, chưa đạt đến, chưa tiếp xúc, chưa chứng nhập, nhưng cho là mình đã đạt được, đã đạt đến, đã tiếp xúc, đã chứng nhập. Do chính mạn nầy nên đã kiêu mạn, sẽ kiêu mạn, tâm tự đề cao, tâm ỷ thị khinh miệt. Ty mạn: Là đối với người khác hơn mình rất nhiều cho là mình chỉ kém họ chút ít. Do chính mạn nầy nên đã kiêu mạn, sẽ kiêu mạn, tâm tự đề cao, tâm ỷ thị khinh miệt. Tà mạn: Là thật sự không có đức nhưng cho là mình có đức. Do chính mạn nầy nên đã kiêu mạn, sẽ kiêu mạn, tâm tự đề cao, tâm ỷ thị khinh miệt.

Thế nào là kiết vô minh? Là không có trí hiểu biết về ba cõi.

Thế nào là kiết kiến? Là ba thứ kiến: hữu thân kiến, biên chấp kiến, tà kiến. Hữu thân kiến: Là đối với năm thủ uẩn v.v… tùy quán chấp ngã hoặc ngã sở. Do đấy nên khởi thọ nhận, ưa thích chấp nơi tuệ quán. Biên chấp kiến: Là đối với năm thủ uẩn v.v… tùy quán chấp hoặc đoạn, hoặc thường. Do đấy nên khởi thọ nhận, ưa thích chấp nơi tuệ quán. Tà kiến: Là hủy báng nhân quả, hoặc hủy báng tác dụng, hoặc hủy hoại sự thật. Do đấy nên khởi thọ nhận, ưa thích chấp nơi tuệ quán.

Thế nào là kiết thủ? Là hai thứ thủ: kiến thủ, giới cấm thủ. Kiến thủ: Là đối với năm thủ uẩn v.v… tùy quán chấp cho là hơn hết, là tột bậc. Do đấy nên khởi thọ nhận, ưa thích chấp nơi tuệ quán. Giới cấm thủ: Là đối với năm thủ uẩn v.v… tùy quán cho là có thể thanh tịnh, có thể giải thoát, có thể xuất ly. Do đấy nên khởi thọ nhận, ưa thích chấp nơi tuệ quán.

Thế nào là kiết nghi? Là đối với chân lý (Đế) còn do dự.

Thế nào là kiết tật? Là tâm đố kỵ.

Thế nào là kiết xan? Là tâm bỏn sẻn, keo kiệt.

Thế nào là Phược? Các kiết cũng gọi là phược (trói buộc). Lại có ba thứ trói buộc: trói buộc của tham, trói buộc của sân, trói buộc của si.

Thế nào là Tùy miên? Tùy miên có bảy thứ: tùy miên dục tham, tùy miên sân, tùy miên hữu tham, tùy miên mạn, tùy miên vô minh, tùy miên kiến, tùy miên nghi.

Tùy miên dục tham có năm thứ: Là tham thuộc cõi Dục do kiến khổ, tập, diệt, đạo cùng do tu đạo đoạn trừ.

Tùy miên sân có năm thứ: Là sân do kiến khổ, tập, diệt, đạo cùng do tu đạo đoạn trừ.

Tùy miên hữu tham có mười thứ: Là thuộc cõi Sắc có năm, thuộc cõi Vô sắc có năm. Thuộc cõi Sắc có năm: Nghĩa là tham thuộc cõi Sắc do kiến khổ, tập, diệt, đạo cùng do tu đạo đoạn trừ. Thuộc cõi Vô sắc có năm: Cũng như vậy.

Tùy miên mạn có mười lăm thứ: Là thuộc cõi Dục có năm, thuộc cõi Sắc có năm, thuộc cõi Vô sắc có năm. Thuộc cõi Dục có năm: Là mạn thuộc cõi Dục do kiến khổ, tập, diệt, đạo cùng do tu đạo đoạn trừ. Thuộc cõi Sắc, cõi Vô sắc đều có năm cũng như vậy.

Tùy miên vô minh có mười lăm thứ: Là thuộc cõi Dục có năm, thuộc cõi Sắc có năm, thuộc cõi Vô sắc có năm. Thuộc cõi Dục có năm: Là vô minh thuộc cõi Dục do kiến khổ, tập, diệt, đạo cùng do tu đạo đoạn trừ. Thuộc cõi Sắc, cõi Vô sắc đều có năm cũng như vậy.

Tùy miên kiến có ba mươi sáu thứ: Là thuộc cõi Dục có mười hai, thuộc cõi Sắc có mười hai, thuộc cõi Vô sắc có mười hai. Thuộc cõi Dục có mười hai: Là hữu thân kiến, biên chấp kiến thuộc cõi Dục do kiến khổ, tập, diệt, đạo đoạn trừ, cùng do kiến khổ, kiến đạo đoạn trừ kiến thủ, giới cấm thủ của tà kiến, do kiến tập, kiến diệt đoạn trừ kiến thủ của tà kiến. Thuộc cõi Sắc, cõi Vô sắc đều có mười hai cũng như vậy.

Tùy miên nghi có mười hai thứ: Là thuộc cõi Dục có bốn, thuộc cõi Sắc có bốn, thuộc cõi Vô sắc có bốn. Thuộc cõi Dục có bốn: Là nghi thuộc cõi Dục do kiến khổ, tập, diệt, đạo đoạn trừ. Thuộc cõi Sắc, cõi Vô sắc đều có bốn cũng như vậy.

Thế nào là Tùy phiền não? Là các tùy miên cũng gọi là tùy phiền não, nhưng có tùy phiền não không gọi là tùy miên, nghĩa là trừ các nhiễm ô khác của tùy miên.

Thế nào là Triền? Sự trói buộc của tâm sở nơi hành uẩn có tám thứ (triền): Là hôn trầm, trạo cử, thùy miên, ố tác (hối), tật, xan, vô tàm (không hổ), vô quý (không thẹn).

Thế nào là Các trí hiện có? Là có mười trí: Pháp trí, loại trí, tha tâm trí, thế tục trí, khổ trí, tập trí, diệt trí, đạo trí, tận trí, vô sinh trí.

Thế nào là pháp trí? Là các trí vô lậu thuộc cõi Dục duyên nơi các hành, duyên nơi nhân của các hành, duyên nơi diệt của các hành, duyên nơi đạo có thể đoạn trừ các hành. Lại có các trí vô lậu duyên nơi pháp trí và địa của pháp trí cũng gọi là pháp trí.

Thế nào là loại trí? Là các trí vô lậu thuộc cõi Sắc, Vô sắc duyên nơi các hành, duyên nơi nhân của các hành, duyên nơi diệt của các hành, duyên nơi đạo có thể đoạn trừ các hành. Lại có các trí vô lậu duyên nơi loại trí và địa của loại trí cũng gọi là loại trí.

Thế nào là tha tâm trí? Là như trí do tu tập tạo thành, là quả dựa vào sự tu tập, tu tập xong đạt được trí không mất, thuộc cõi Dục, cõi Sắc hòa hợp hiện tiền, nhận biết về tâm tâm sở nơi kẻ khác và một phần vô lậu nơi tâm, tâm sở của kẻ khác, đều gọi là tha tâm trí.

Thế nào là thế tục trí? Là các tuệ hữu lậu.

Thế nào là khổ trí? Là trí vô lậu đã khởi đối với năm thủ uẩn tư duy về vô thường, khổ, không, vô ngã.

Thế nào là tập trí? Là trí vô lậu đã khởi đối với nhân hữu lậu tư duy về nhân, tập, sinh, duyên.

Thế nào là diệt trí? Là trí vô lậu đã khởi đối với trạch diệt tư duy về diệt, tĩnh, diệu, ly.

Thế nào là đạo trí? Là trí vô lậu đã khởi đối với Thánh đạo tư duy về đạo, như, hành, xuất.

Thế nào là tận trí? Là tự nhận biết khắp: Ta đã biết khổ, ta đã đoạn tập, ta đã chứng diệt, ta đã tu đạo, do đấy dấy khởi trí, kiến, minh, giác, tuệ thông tỏ, quán sáng rõ, đều gọi là tận trí.

Thế nào là vô sinh trí? Là tự nhận biết khắp: Ta đã biết khổ, không còn biết nữa. Ta đã đoạn tập, không còn đoạn nữa, ta đã chứng diệt, không còn chứng nữa. Ta đã tu đạo, không còn tu nữa. Do đấy dấy khởi trí, kiến, minh, giác, tuệ thông tỏ, quán sáng rõ, đều gọi là vô sinh trí.

Thế nào là Các kiến hiện có? Các trí cũng gọi là kiến, nhưng có kiến không phải là trí. Có tám thứ nhẫn của hiện quán biên: 1. Khổ pháp trí nhẫn. 2. Khổ loại trí nhẫn. 3. Tập pháp trí nhẫn. 4. Tập loại trí nhẫn. 5. Diệt pháp trí nhẫn. 6. Diệt loại trí nhẫn. 7. Đạo pháp trí nhẫn. 8. Đạo loại trí nhẫn.

Thế nào là Các thứ hiện quán hiện có? Hoặc trí, hoặc kiến đều gọi là hiện quán.

*

4. Nói về Tâm bất tương ưng hành:

Thế nào là Đắc? Là được các pháp.

Thế nào là Định vô tưởng? Là đã lìa nhiễm ở cõi Biến tịnh, chưa lìa nhiễm ở cõi trên, tác ý của tưởng xuất ly, vì trước là diệt tâm, tâm sở.

Thế nào là Định diệt? Là đã lìa nhiễm nơi Vô sở hữu xứ, tác ý chấm dứt tưởng, vì trước là diệt tâm, tâm sở.

Thế nào là Sự vô tưởng? Là tâm, tâm sở đã diệt của hữu tình sinh trong cõi trời Vô tưởng.

Thế nào là Mạng căn? Là thọ mạng trong ba cõi.

Thế nào là Chúng đồng phận? Là tánh đồng loại của hữu tình.

Thế nào là Y đắc? Là được nơi chốn nương dựa.

Thế nào là Sự đắc? Là được các uẩn.

Thế nào là Xứ đắc? Là được các xứ trong ngoài.

Thế nào là Sinh? Là khiến các uẩn khởi hiện.

Thế nào là Lão? Là khiến các uẩn thành thục.

Thế nào là Trụ? Là khiến các hành đã sinh không hoại.

Thế nào là Vô thường? Là khiến các hành đã sinh hoại diệt.

Thế nào là Danh thân? Là tăng ngữ.

Thế nào là Cú thân? Là chữ đầy đủ.

Thế nào là Văn thân? Là gồm nhiều chữ.

*

5. Nói về Vô vi:

Thế nào là Hư không? Là thể rỗng lặng rộng lớn, không ngăn ngại, không cản trở mọi hành của sắc.

Thế nào là Phi trạch diệt? Là diệt mọi sai trái, lìa trói buộc.

Thế nào là Trạch diệt? Là diệt trừ, là lìa trói buộc.

***

Phẩm 2: BIỆN VỀ CÁC TRÍ, phần 1

Có mười trí: 1. Pháp trí. 2. Loại trí. 3. Tha tâm trí. 4. Thế tục trí. 5. Khổ trí. 6. Tập trí. 7. Diệt trí. 8. Đạo trí. 9. Tận trí. 10. Vô sinh trí.

*

* Hỏi: Thế nào là đối tượng duyên của Pháp trí?

Đáp: Là duyên nơi các hành thuộc cõi Dục và một phần pháp vô lậu.

Hỏi: Thế nào là đối tượng duyên của Loại trí?

Đáp: Là duyên nơi các hành thuộc cõi Sắc, Vô sắc và một phần pháp vô lậu.

Hỏi: Thế nào là đối tượng duyên của Tha tâm trí?

Đáp: Là duyên theo sự hòa hợp hiện tiền nơi tâm, tâm sở của người khác ở cõi Dục, cõi Sắc cùng một phần tâm, tâm sở vô lậu của người khác.

Hỏi: Thế nào là đối tượng duyên của Thế tục trí?

Đáp: Là duyên nơi tất cả pháp.

Hỏi: Thế nào là đối tượng duyên của Khổ trí?

Đáp: Là duyên nơi năm thủ uẩn.

Hỏi: Thế nào là đối tượng duyên của Tập trí?

Đáp: Là duyên nơi nhân hữu lậu.

Hỏi: Thế nào là đối tượng duyên của Diệt trí?

Đáp: Là duyên nơi trạch diệt.

Hỏi: Thế nào là đối tượng duyên của Đạo trí?

Đáp: Là duyên nơi pháp học, vô học.

Hỏi: Thế nào là đối tượng duyên của Tận trí?

Đáp: Là duyên nơi tất cả pháp hữu vi và trạch diệt.

Hỏi: Thế nào là đối tượng duyên của Vô sinh trí?

Đáp: Là duyên nơi tất cả pháp hữu vi và trạch diệt.

*

* Hỏi: Vì sao pháp trí duyên nơi các hành thuộc cõi Dục và một phần pháp vô lậu?

Đáp: Vì pháp trí nhận biết các hành thuộc cõi Dục: nhân của các hành, diệt các hành và đạo có thể đoạn trừ các hành.

Hỏi: Vì sao loại trí duyên nơi các hành thuộc cõi Sắc, Vô sắc và một phần pháp vô lậu?

Đáp: Vì loại trí nhận biết các hành thuộc cõi Sắc, Vô sắc: nhân của các hành, diệt các hành và đạo có thể đoạn trừ các hành.

Hỏi: Vì sao tha tâm trí duyên theo sự hòa hợp hiện tiền nơi tâm, tâm sở của người khác ở cõi Dục, cõi Sắc và một phần tâm, tâm sở vô lậu của người khác?

Đáp: Vì tha tâm trí nhận biết sự hòa hợp hiện tiền nơi tâm, tâm sở của người khác ở cõi Dục, cõi Sắc cùng một phần tâm, tâm sở vô lậu của người khác.

Hỏi: Vì sao thế tục trí duyên nơi tất cả pháp?

Đáp: Vì thế tục trí nhận biết tất cả pháp hoặc đã dẫn phát như lý, hoặc đã dẫn phát không như lý, hoặc đã dẫn phát không phải như lý không phải không như lý.

Hỏi: Vì sao khổ trí duyên nơi năm thủ uẩn?

Đáp: Vì khổ trí nhận biết năm thủ uẩn là vô thường, khổ, không, vô ngã.

Hỏi: Vì sao tập trí duyên nơi nhân hữu lậu?

Đáp: Vì tập trí nhận biết nhân hữu lậu là nhân, tập, sinh, duyên.

Hỏi: Vì sao diệt trí duyên nơi trạch diệt?

Đáp: Vì diệt trí nhận biết về trạch diệt là diệt, tĩnh, diệu, lìa.

Hỏi: Vì sao đạo trí duyên nơi pháp học, vô học?

Đáp: Vì đạo trí nhận biết pháp học, vô học là đạo, như, hành, xuất.

Hỏi: Vì sao tận trí duyên nơi tất cả pháp hữu vi và trạch diệt?

Đáp: Vì tận trí tự nhận biết khắp: Ta đã biết khổ, ta đã đoạn tập, ta đã chứng diệt, ta đã tu đạo.

Hỏi: Vì sao vô sinh trí duyên nơi tất cả pháp hữu vi và trạch diệt?

Đáp: Vì vô sinh trí tự nhận biết khắp: Ta đã biết khổ, không còn biết nữa. Ta đã đoạn tập, không còn đoạn nữa. Ta đã chứng diệt, không còn chứng nữa. Ta đã tu đạo, không còn tu nữa.

*

* Hỏi: Pháp trí có bao nhiêu trí toàn phần và bao nhiêu trí phần ít?

Đáp: Pháp trí là pháp trí toàn phần và phần ít của bảy trí: tha tâm trí, khổ trí, tập trí, diệt trí, đạo trí, tận trí, vô sinh trí.

Hỏi: Loại trí có bao nhiêu trí toàn phần và bao nhiêu trí phần ít?

Đáp: Loại trí là loại trí toàn phần và phần ít của bảy trí: tha tâm trí, khổ trí, tập trí, diệt trí, đạo trí, tận trí, vô sinh trí.

Hỏi: Tha tâm trí có bao nhiêu trí toàn phần và bao nhiêu trí phần ít?

Đáp: Tha tâm trí là tha tâm trí toàn phần và phần ít của bốn trí: pháp trí, loại trí, thế tục trí và đạo trí.

Hỏi: Thế tục trí có bao nhiêu trí toàn phần và bao nhiêu trí phần ít?

Đáp: Thế tục trí là thế tục trí toàn phần và phần ít của một trí là tha tâm trí.

Hỏi: Khổ trí có bao nhiêu trí toàn phần và bao nhiêu trí phần ít?

Đáp: Khổ trí là khổ trí toàn phần và phần ít của bốn trí: pháp trí, loại trí, tận trí và vô sinh trí.

Như khổ trí, tập trí, diệt trí cũng như vậy.

Hỏi: Đạo trí có bao nhiêu trí toàn phần và bao nhiêu trí phần ít?

Đáp: Đạo trí là đạo trí toàn phần và phần ít của năm trí: pháp trí, loại trí, tha tâm trí, tận trí và vô sinh trí.

Hỏi: Tận trí có bao nhiêu trí toàn phần và bao nhiêu trí phần ít?

Đáp: Tận trí là tận trí toàn phần và phần ít của sáu trí: pháp trí, loại trí, khổ trí, tập trí, diệt trí, đạo trí.

Như tận trí, vô sinh trí cũng như vậy.

*

* Hỏi: Vì sao pháp trí là pháp trí toàn phần?

Đáp: Vì pháp trí nhận biết các hành thuộc cõi Dục: nhân của các hành, diệt các hành, cùng đạo có thể đoạn trừ các hành.

Vì sao pháp trí là phần ít của tha tâm trí? Vì pháp trí nhận biết về tâm, tâm sở vô lậu của kẻ khác trong đạo có thể đoạn trừ các hành nơi cõi Dục.

Vì sao pháp trí là phần ít của khổ trí? Vì pháp trí nhận biết năm thủ uẩn thuộc cõi Dục là vô thường, là khổ, là không, là vô ngã.

Vì sao pháp trí là phần ít của tập trí? Vì pháp trí nhận biết nhân của các hành thuộc cõi Dục là nhân, tập, sinh, duyên.

Vì sao pháp trí là phần ít của diệt trí? Vì pháp trí nhận biết các hành diệt thuộc cõi Dục là diệt, tĩnh, diệu, ly.

Vì sao pháp trí là phần ít của đạo trí? Vì pháp trí nhận biết về đạo có thể đoạn trừ các hành thuộc cõi Dục, là đạo, như, hành, xuất.

Vì sao pháp trí là phần ít của tận trí? Vì pháp trí tự nhận biết khắp: Ta đã nhận biết các hành khổ nơi cõi Dục. Ta đã đoạn dứt các hành tập nơi cõi Dục. Ta đã chứng nhập các hành diệt nơi cõi Dục. Ta đã tu tập đạo có thể đoạn trừ các hành thuộc cõi Dục.

Vì sao pháp trí là phần ít của vô sinh trí? Vì pháp trí tự nhận biết khắp: Ta đã nhận biết các hành khổ nơi cõi Dục, không còn nhận biết nữa. Ta đã đoạn dứt các hành tập nơi cõi Dục, không còn đoạn dứt nữa. Ta đã chứng nhập các hành diệt nơi cõi Dục, không còn chứng nữa. Ta đã tu tập đạo có thể đoạn trừ các hành thuộc cõi Dục, không còn tu nữa.

Hỏi: Vì sao loại trí là loại trí toàn phần?

Đáp: Vì loại trí nhận biết rõ các hành thuộc cõi Sắc và Vô sắc: nhân của các hành, diệt các hành, cùng đạo có thể đoạn trừ các hành.

Vì sao loại trí là phần ít của tha tâm trí? Vì loại trí nhận biết về tâm, tâm sở vô lậu của kẻ khác trong đạo có thể đoạn trừ các hành nơi cõi Sắc, cõi Vô sắc.

Vì sao loại trí là phần ít của khổ trí? Vì loại trí nhận biết năm thủ uẩn nơi cõi Sắc, Vô sắc là vô thường, khổ, không, vô ngã.

Vì sao loại trí là phần ít của tập trí? Vì loại trí nhận biết nhân của các hành nơi cõi Sắc, Vô sắc là nhân, tập, sinh, duyên.

Vì sao loại trí là phần ít của diệt trí? Vì loại trí nhận biết các hành diệt nơi cõi Sắc, Vô sắc là diệt, tĩnh, diệu, ly.

Vì sao loại trí là phần ít của đạo trí? Vì loại trí nhận biết về đạo có thể đoạn trừ các hành nơi cõi Sắc, Vô sắc là đạo, như, hành, xuất.

Vì sao loại trí là phần ít của tận trí? Vì loại trí tự nhận biết khắp: Ta đã nhận biết các hành khổ nơi cõi Sắc, Vô sắc. Ta đã đoạn dứt các hành tập nơi cõi Sắc, Vô sắc. Ta đã chứng nhập các hành diệt nơi cõi Sắc, Vô sắc. Ta đã tu tập đạo có thể đoạn dứt các hành nơi cõi Sắc, Vô sắc.

Vì sao loại trí là phần ít của vô sinh trí? Vì loại trí tự nhận biết khắp: Ta đã nhận biết các hành khổ nơi cõi Sắc, Vô sắc, không còn nhận biết nữa. Ta đã đoạn dứt các hành tập nơi cõi Sắc, Vô sắc, không còn đoạn dứt nữa. Ta đã chứng nhập các hành diệt nơi cõi Sắc, Vô sắc, không còn chứng nữa. Ta đã tu tập đạo có thể đoạn trừ các hành thuộc cõi Sắc, Vô sắc, không còn tu nữa.

Hỏi: Vì sao tha tâm trí là tha tâm trí toàn phần?

Đáp: Vì tha tâm trí nhận biết về tâm, tâm sở của người khác nơi cõi Dục và cõi Sắc đã hòa hợp hiện tiền, cùng một phần tâm, tâm sở vô lậu của người khác.

Vì sao tha tâm trí là phần ít của pháp trí? Vì tha tâm trí nhận biết về tâm, tâm sở vô lậu của người khác trong đạo có thể đoạn dứt các hành thuộc cõi Dục.

Vì sao tha tâm trí là phần ít của loại trí? Vì tha tâm trí nhận biết về tâm, tâm sở vô lậu của người khác trong đạo có thể đoạn trừ các hành thuộc cõi Sắc, Vô sắc.

Vì sao tha tâm trí là phần ít của thế tục trí? Vì tha tâm trí nhận biết về tâm, tâm sở hữu lậu của người khác.

Vì sao tha tâm trí là phần ít của đạo trí? Vì tha tâm trí nhận biết về tâm, tâm sở vô lậu của người khác trong Thánh đạo.

Hỏi: Vì sao thế tục trí là thế tục trí toàn phần?

Đáp: Vì thế tục trí nhận biết tất cả các pháp hoặc đã dẫn phát như lý, hoặc đã dẫn phát không như lý, hoặc đã dẫn phát không phải như lý không phải không như lý.

Vì sao thế tục trí là phần ít của tha tâm trí? Vì thế tục trí nhận biết về tâm, tâm sở hữu lậu của người khác.

Hỏi: Vì sao khổ trí là khổ trí toàn phần?

Đáp: Vì khổ trí nhận biết năm thủ uẩn là vô thường, khổ, không, vô ngã.

Vì sao khổ trí là phần ít của pháp trí? Vì khổ trí nhận biết năm thủ uẩn thuộc cõi Dục là vô thường, khổ, không, vô ngã.

Vì sao khổ trí là phần ít của loại trí? Vì khổ trí nhận biết năm thủ uẩn thuộc cõi Sắc, Vô sắc là vô thường, khổ, không, vô ngã.

Vì sao khổ trí là phần ít của tận trí? Vì khổ trí tự nhận biết khắp: Ta đã nhận biết các khổ.

Vì sao khổ trí là phần ít của vô sinh trí? Vì khổ trí tự nhận biết khắp: Ta đã nhận biết các khổ, không còn nhận biết nữa.

Hỏi: Vì sao tập trí là tập trí toàn phần?

Đáp: Vì tập trí nhận biết các nhân hữu lậu là nhân, tập, sinh, duyên.

Vì sao tập trí là phần ít của pháp trí? Vì tập trí nhận biết nhân của các hành thuộc cõi Dục là nhân, tập, sinh, duyên.

Vì sao tập trí là phần ít của loại trí? Vì tập trí Niết-bàn nhân của các hành thuộc cõi Sắc, Vô sắc là nhân, tập, sinh, duyên.

Vì sao tập trí là phần ít của tận trí? Vì tập trí đã tự nhận biết khắp: Ta đã đoạn dứt các tập.

Vì sao tập trí là phần ít của vô sinh trí? Vì tập trí đã tự nhận biết khắp: Ta đã đoạn dứt các tập, không còn đoạn dứt nữa.

Hỏi: Vì sao diệt trí là diệt trí toàn phần?

Đáp: Vì diệt trí nhận biết trạch diệt là diệt, tĩnh, diệu, ly.

Vì sao diệt trí là phần ít của pháp trí? Vì diệt trí nhận biết các hành diệt thuộc cõi Dục là diệt, tĩnh, diệu, ly.

Vì sao diệt trí là phần ít của loại trí? Vì diệt trí nhận biết các hành diệt thuộc cõi Sắc, Vô sắc là diệt, tĩnh, diệu, ly.

Vì sao diệt trí là phần ít của tận trí? Vì diệt trí đã tự nhận biết khắp: Ta đã chứng đắc các diệt.

Vì sao diệt trí là phần ít của vô sinh trí? Vì diệt trí đã tự nhận biết khắp: Ta đã chứng đắc các diệt, không còn chứng nữa.

Hỏi: Vì sao đạo trí là đạo trí toàn phần?

Đáp: Vì đạo trí nhận biết Thánh đạo là đạo, như, hành, xuất.

Vì sao đạo trí là phần ít của pháp trí? Vì đạo trí nhận biết về đạo có thể đoạn dứt các hành thuộc cõi Dục là đạo, như, hành, xuất.

Vì sao đạo trí là phần ít của loại trí? Vì đạo trí nhận biết về đạo có thể đoạn dứt các hành thuộc cõi Sắc, Vô sắc là đạo, như, hành, xuất.

Vì sao đạo trí là phần ít của tha tâm trí? Vì đạo trí nhận biết về tâm, tâm sở vô lậu của người khác trong Thánh đạo.

Vì sao đạo trí là phần ít của tận trí? Vì đạo trí đã tự nhận biết khắp: Ta đã tu tập đạo.

Vì sao đạo trí là phần ít của vô sinh trí? Vì đạo trí đã tự nhận biết khắp: Ta đã tu tập đạo, không còn tu tập nữa.

Hỏi: Vì sao tận trí là tận trí toàn phần?

Đáp: Vì tận trí đã tự nhận biết khắp: Ta đã biết khổ, ta đã đoạn tập, ta đã chứng diệt, ta đã tu đạo.

Vì sao tận trí là phần ít của pháp trí? Vì tận trí đã tự nhận biết khắp: Nơi cõi Dục ta đã nhận biết các hành khổ, ta đã đoạn dứt các hành tập, ta đã chứng nhập các hành diệt, ta đã tu tập đạo có thể đoạn trừ các hành.

Vì sao tận trí là phần ít của loại trí? Vì tận trí đã tự nhận biết khắp: Nơi cõi Sắc và Vô sắc, ta đã nhận biết các hành khổ, ta đã đoạn dứt các hành tập, ta đã chứng nhập các hành diệt, ta đã tu tập đạo có thể đoạn trừ các hành.

Vì sao tận trí là phần ít của khổ trí? Vì tận trí đã tự nhận biết khắp: Ta đã nhận biết về khổ.

Vì sao tận trí là phần ít của tập trí? Vì tận trí đã tự nhận biết khắp: Ta đã đoạn dứt tập.

Vì sao tận trí là phần ít của diệt trí? Vì tận trí đã tự nhận biết khắp: Ta đã chứng đắc diệt.

Vì sao tận trí là phần ít của đạo trí? Vì tận trí đã tự nhận biết khắp: Ta đã tu tập đạo.

Hỏi: Vì sao vô sinh trí là vô sinh trí toàn phần?

Đáp: Vì vô sinh trí tự nhận biết khắp: Ta đã biết rõ các khổ, không còn biết nữa. Ta đã đoạn dứt các tập, không còn đoạn nữa. Ta đã chứng đắc các diệt, không còn chứng nữa. Ta đã tu tập đạo có thể đoạn trừ các hành, không còn tu nữa.

Vì sao vô sinh trí là phần ít của pháp trí? Vì vô sinh trí tự nhận biết khắp: Nơi cõi Dục, ta đã biết rõ các hành khổ, không còn biết nữa. Ta đã đoạn dứt các hành tập, không còn đoạn nữa. Ta đã chứng đắc các hành diệt, không còn chứng nữa. Ta đã tu tập đạo có thể đoạn trừ các hành, không còn tu nữa.

Vì sao vô sinh trí là phần ít của loại trí? Vì vô sinh trí tự nhận biết khắp: Nơi cõi Sắc và Vô sắc, ta đã biết rõ các hành khổ, không còn biết nữa. Ta đã đoạn dứt các hành tập, không còn đoạn nữa. Ta đã chứng đắc các hành diệt, không còn chứng nữa. Ta đã tu tập đạo có thể đoạn trừ các hành, không còn tu nữa.

Vì sao vô sinh trí là phần ít của khổ trí? Vì vô sinh trí tự nhận biết khắp: Ta đã nhận biết về khổ, không còn nhận biết nữa.

Vì sao vô sinh trí là phần ít của tập trí? Vì vô sinh trí tự nhận biết khắp: Ta đã đoạn dứt các tập, không còn đoạn nữa.

Vì sao vô sinh trí là phần ít của diệt trí? Vì vô sinh trí tự nhận biết khắp: Ta đã chứng đắc diệt, không còn chứng nữa.

Vì sao vô sinh trí là phần ít của đạo trí? Vì vô sinh trí tự nhận biết khắp: Ta đã tu tập đạo, không còn tu nữa.

HẾT – QUYỂN 1