LUẬN A TỲ ĐẠT MA CÂU XÁ
Tác giả: Tôn giả Thế Thân
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ 

 

QUYỂN 21

Phẩm thứ 5: PHÂN BIỆT TÙY MIÊN, phần 3

Như vậy là đã biện về tùy miên cùng triền. Đức Thế Tôn nói là lậu, bộc lưu, ách, thủ. Là chỉ có từng ấy hay là còn có thứ khác?

* Tụng viết:

Do kiết v.v… có sai biệt

Lại nói có năm thứ.

* Luận nêu: Tức các thứ phiền não, kiết, phược, tùy miên, tùy phiền não, triền, về nghĩa có sai biệt nên lại nói năm thứ.

Thế nào là kiết?

* Tụng viết:

Chín kiết vật thủ cùng

Lập hai kiết kiến thủ

Do hai chỉ bất thiện

Cùng tự tại sinh khởi.

Trong triền chỉ tật xan

Kiến lập làm hai kiết

Hoặc hai thường hiện hành

Là nhân của bần tiện.

Hiển bày khắp tùy hoặc

Não loạn nơi hai bộ.

* Luận nêu: Kiết có chín thứ: (1) Kiết ái. (2) Kiết sân. (3) Kiết mạn. (4) Kiết vô minh. (5) Kiết kiến. (6) Kiết thủ. (7) Kiết nghi. (8) Kiết tật (Ganh ghét). (9) Kiết xan (Keo kiệt). Ở đây: Kiết ái: Nghĩa là tham của ba cõi. Các thứ còn lại, theo chỗ ứng hợp sẽ biện về tướng của chúng. Kiết kiến: Nghĩa là ba kiến. Kiết thủ: Nghĩa là hai thủ. Dựa nơi lý như thế. Có thuyết nói: Từng có kiến tương ưng với pháp là thuộc về kiết ái, không phải thuộc về kiết kiến, không phải không có tùy miên kiến tùy tăng chăng? Có. Là thế nào? Là tập trí đã sinh diệt trí chưa sinh, người này khởi pháp tương ưng với hai thủ, do kiến diệt kiến đạo đoạn trừ, lại dùng kiết ái làm đối tượng duyên hệ thuộc, không phải hệ thuộc kiết kiến. Do kiết kiến biến hành đã vĩnh viễn đoạn dứt, nên kiết kiến không biến hành, về đối tượng duyên và tương ưng cả hai đều không. Nhưng người kia vẫn có tùy miên kiến tùy tăng, do hai tùy miên thủ, kiến ở nơi người ấy đã tùy tăng.

Vì sao ba kiến (Hữu thân kiến, biên chấp kiến, tà kiến) lập riêng làm kiết kiến? Hai thủ (Kiến thủ, giới cấm thủ) lập riêng làm kiết thủ? Do ba kiến và hai thủ về vật thủ là như nhau. Nghĩa là ba kiến kia có mười tám sự vật, hai thủ cũng như thế, nên gọi là sự vật như nhau. Ba kiến là đối tượng thủ, hai thủ là chủ thể thủ, nên gọi là thủ như nhau. Do đối tượng thủ và chủ thể thủ có sai biệt, nên lập làm hai kiết.

Vì sao trong triền, hai thứ tật (Ganh ghét), xan (Keo kiệt) được kiến lập làm kiết, không phải các triền khác? Do hai thứ ấy chỉ là bất thiện và sinh khởi tự tại (Chỉ hệ thuộc nơi vô minh). Nghĩa là chỉ hai thứ ấy có hai nghĩa đầy đủ, các thứ còn lại đều không như thế, nên chỉ lập hai thứ ấy làm kiết.

Nếu triền chỉ có tám thứ thì giải thích như trên là có thể đúng. Nhưng triền thừa nhận có mười thứ, nên giải thích ấy là phi lý. Do hai thứ phẫn, phú cũng gồm đủ hai nghĩa. Do đấy nếu thừa nhận triền có đủ mười thứ thì giải thích về tật, xan sở dĩ được lập làm kiết như trên là không đúng. Chính hai thứ này là luôn hiện hành. Lại, hai thứ ấy có thể làm nhân của sự bần tiện, hiển bày khắp nơi các tùy phiền não vui buồn, làm não loạn cả chúng xuất gia, tại gia. Hoặc làm não loạn chư thiên, A-tố-lạc. Hoặc có thể làm não loạn hai nẻo thù thắng là trời, người, cùng hai bộ tự, tha.

Đức Phật ở nơi xứ khác đã dựa vào môn sai biệt, dùng tiếng kiết để nói có năm thứ.

* Tụng viết:

Lại, năm thuận phần dưới

Do hai không vượt dục

Do ba lại hoàn dưới

Thâu môn căn nên ba.

Hoặc không muốn phát hướng

Mê lầm đạo, nghi đạo

Hay chướng ngại giải thoát

Nên chỉ nói đoạn ba.

* Luận nêu: Những gì là năm? Nghĩa là hữu thân kiến, giới cấm thủ, nghi, dục tham, sân hận.

Vì sao năm thứ này gọi là kiết thuận phần dưới? Vì năm thứ ấy thuận tăng nơi cõi của phần dưới. Nghĩa là chỉ cõi dục được mang tên là phần dưới. Tức năm thứ này, ở nơi cõi dục có thể tạo sự thuận tăng. Do hai thứ sau khiến chúng sinh không thể vượt khỏi cõi dục. Nếu như có người có thể vượt khỏi cõi dục, thì do ba thứ trước khiến trở lại cõi ấy. Như viên cai ngục và lính tuần canh.

Có Sư khác cho: Nói phần dưới: Nghĩa là hữu tình thấp kém, tức là các phàm phu, cùng cõi dưới tức cõi dục. Ba thứ trước có thể ngăn chận các hữu tình thấp kém vượt khỏi phần vị của mình. Hai thứ sau có thể khiến cho hữu tình không vượt khỏi cõi dưới. Nên năm thứ ấy đều được mang tên là thuận phần dưới.

Những vị đã đắc quả Dự lưu, đoạn trừ sáu phiền não. Vì sao chỉ nói đoạn trừ ba kiết? Lý thật nên nói là đoạn trừ sáu phiền não, nhưng do gồm thâu môn, căn, nên chỉ nói đoạn trừ ba. Nghĩa là về loại trong đối tượng được đoạn trừ có ba thứ: Chỉ một thông. Hai thông. Bốn bộ. Nói đoạn ba thứ là gồm thâu ba môn kia. Lại, trong đối tượng được đoạn trừ, có ba tùy ba chuyển. Nghĩa là biên chấp kiến tùy thân kiến chuyển. Kiến thủ tùy giới cấm thủ chuyển. Tà kiến tùy nghi chuyển. Nói đoạn ba thứ là gồm thâu ba căn kia. Nên nói đoạn trừ ba là đã nói đoạn trừ sáu.

Có giải thích khác: Phàm hướng đến phương khác có ba thứ chướng ngại: (1) Không muốn xuất phát. (2) Mê lầm nơi đường chính, dựa theo đường tà. (3) Nghi ngờ về đường chính. Người hướng đến giải thoát cũng có ba thứ chướng ngại tương tợ như vậy. Nghĩa là do thân kiến nên sợ hãi giải thoát không muốn phát khởi hướng tới. Do giới cấm thủ nên dựa chấp nơi tà đạo, mê lầm nơi đường chánh. Do nghi nên đối với đạo cứ mang nặng do dự. Đức Phật hiển bày quả Dự lưu đoạn trừ các chướng ngại hướng đến giải thoát như thế nên nói đoạn dứt ba. Đức Thế Tôn ở nơi kinh khác, như thuận phần dưới, đã nói thuận phần trên cũng có năm thứ.

* Tụng viết:

Thuận phần trên cũng năm

Sắc vô sắc hai tham

* Trạo cử, mạn, vô minh

Khiến không vượt cõi trên.

* Luận nêu: Năm thứ như thế, nếu lúc chưa đoạn trừ, có thể khiến cho hữu tình không vượt khỏi cõi trên. Thuận tăng nơi cõi trên nên gọi là kiết thuận phần trên.

Đã biện về kiết. Phược là thế nào?

* Tụng viết:

Phược ba do ba thọ.

* Luận nêu: Phược có ba thứ: (1) Phược tham: Nghĩa là tất cả tham. (2) Phược sân: Nghĩa là hết thảy sân hận. (3) Phược si. Nghĩa là tất cả si.

Vì sao chỉ nói ba thứ này là phược? Do tùy theo ba thọ nên nói phược có ba thứ. Nghĩa là ở nơi lạc thọ thì phược tham tùy tăng. Do đối tượng duyên, tương ưng cùng tùy tăng. Ở nơi khổ thọ thì phược sân, ở nơi xả thọ thì phược si, nên biết cũng như thế. Tuy ở nơi xả thọ cũng có tham, sân, nhưng không như si. Đây là căn cứ theo chỗ tự nối tiếp nơi ba thọ như lạc thọ v.v… là đối tượng duyên của phược để nêu bày nhất định như vậy.

Đã phân biệt về phược. Tùy miên là thế nào?

* Tụng viết:

Tùy miên trước đã nói.

* Luận nêu: Tùy miên có sáu, hoặc bảy, hoặc mười, hoặc chín mươi tám, như trước đã nêu dẫn. Thế nào là tùy phiền não?

* Tụng viết:

Tùy phiền não ngoài đây

Tâm sở nhiễm hành uẩn.

* Luận nêu: Các phiền não này cũng gọi là tùy phiền não. Do đều tùy theo tâm tạo các sự việc não loạn. Ngoài thứ này ra, còn có các phiền não khác là tâm sở nhiễm ô thuộc hành uẩn. Chúng tùy theo phiền não để khởi nên cũng gọi là tùy phiền não. Không gọi là phiền não vì không phải là căn bản. Nêu dẫn rộng về tướng của chúng như trong Phần Tạp Sự. Sau đây sẽ lược luận về triền, phiền não cấu. Lại nên biện trước: Tướng của triền là thế nào?

* Tụng viết:

Triền tám: Không hổ thẹn

Tật xan cùng hối miên

Và trạo cử, hôn trầm

Hoặc mười thêm phẫn phú.

Không hổ, xan, trạo cử

Đều từ nơi tham sinh

Không thẹn, miên, hôn trầm

Theo vô minh sinh khởi.

Tật, phẫn từ sân sinh

Hối theo nghi, phú tránh.

* Luận nêu: Phiền não căn bản cũng gọi là triền như nơi kinh nói triền dục tham làm duyên. Nhưng nơi Luận Phẩm Loại Túc nói có tám thứ triền. Tông Tỳ-bà-sa nói triền có mười thứ. Nghĩa là nơi tám thứ trước lại thêm phẫn, phú. Không hổ không thẹn như trước đã giải thích. Tật (Ganh ghét): Nghĩa là đối với các sự việc hưng thịnh của kẻ khác, khiến tâm không vui mừng. Xan (Keo kiệt): Nghĩa là đối với tài, pháp khéo thí là trái ngược, khiến tâm tiếc vướng. Hối: Tức là ố tác, như trước đã biện. Miên: Nghĩa là khiến tâm mê muội là tánh, không có công sức để giữ vững nơi thân. Hai triền hối miên chỉ nhận lấy nhiễm ô. Trạo cử, hôn trầm cũng như trước đã giải thích. Trừ sân cùng hại, đối với các hữu tình, phi tình khiến phát giận, gọi là phẫn. Ẩn giấu tội của mình, gọi là phú (Che giấu). Trong mười thứ triền đã nói ở đây, thì không hổ, xan, trạo cử là đẳng lưu của tham. Không thẹn, miên, hôn trầm là đẳng lưu của vô minh. Tật, phẫn là đẳng lưu của sân. Hối là đẳng lưu của nghi. Có thuyết nói: Phú là đẳng lưu của tham. Có thuyết cho: Phú là đẳng lưu của vô minh. Có thuyết nêu: Là đẳng lưu của cả hai, tùy theo thứ lớp có nhận biết không nhận biết.

Các phiền não cấu còn lại, về tướng là thế nào?

* Tụng viết:

Phiền não cấu sáu: Não

Hại hận siểm cuống kiêu

Cuống kiêu từ tham sinh

Hại hận theo sân khởi.

Não từ kiến thủ khởi

Siểm theo các kiến sinh.

* Luận nêu: Não: Nghĩa là chấp giữ chặt các sự việc có tội, do đấy không nhận lấy sự can ngăn như lý. Hại: Nghĩa là đối với kẻ khác có thể tạo bức bách, do đấy có thể hành tác những sự việc như đánh, mắng v.v… Hận: Nghĩa là ở trong sự việc thuộc đối tượng duyên của phẫn thường xuyên tìm xét, kết oán không bỏ. Siểm: Nghĩa là tâm quanh co. Do đấy không thể tự hiển bày như thật. Kiêu: Như trước đã giải thích. Sáu thứ như thế, từ nơi phiền não sinh, tướng cấu uế, thô gọi là phiền não cấu. Ở trong sáu thứ phiền não cấu này, thì cuống, kiêu là đẳng lưu của tham. Hại, hận là đẳng lưu của sân. Não là đẳng lưu của kiến thủ. Siểm là đẳng lưu của các kiến. Như nói: Thế nào là quanh co? Nghĩa là các ác kiến. Nên siểm nhất định là đẳng lưu của các kiến. Cấu này cùng triền từ nơi phiền não khởi. Vì thế đều lập tên là tùy phiền não.

Cấu cùng triền được đoạn trừ như thế nào?

* Tụng viết:

Triền không hổ thẹn, miên

Hôn, trạo: kiến tu đoạn

Còn cùng phiền não cấu

Tùy ý, chỉ tu đoạn.

* Luận nêu: Trong mười triền: Năm thứ như không hổ v.v… là chung do kiến đoạn, tu đạo đoạn. Do đấy nên cùng chung tương ưng với phiền não của hai bộ khởi, tùy cùng tương ưng với phần kiến đế kia đoạn trừ. Tức nói là do kiến đế ấy đoạn trừ. Các thứ triền còn lại như tật xan hối phẫn phú cùng với cấu, do tùy ý khởi nên chỉ do tu đạo đoạn trừ. Vì chỉ cùng với lực khác là vô minh (Do tu đạo đoạn) cùng tương ưng nên gọi là tùy ý khởi. Các tùy phiền não này, thứ gì là thuộc về tánh gì?

* Tụng viết:

Dục ba, hai, còn ác

Cõi trên đều vô ký.

* Luận nêu: Miên, hôn trầm, trạo cử, ba thứ thuộc cõi dục đều chung hai tánh là bất thiện, vô ký. Số còn lại tất cả chỉ là bất thiện. Trong hai cõi trên, theo chỗ ứng hợp, tất cả tùy phiền não hiện có chỉ là tánh vô ký.

Các tùy phiền não này, loại nào thuộc về cõi nào?

* Tụng viết:

Siểm cuống: Dục, định một

Ba cõi ba, dục khác.

* Luận nêu: Siểm cuống chỉ ở tại cõi dục và định thứ nhất. Do đâu nhận biết nơi trời Phạm Thế có siểm cuống? Là do Đại Phạm Vương đã che giấu sự tình của mình, hiện tướng dối gạt Bí-sô Mã Thắng. Hai thứ siểm cuống này ở trước tuy đã phân biệt về nghĩa tương quan, nay được nhắc lại vì chúng là tùy phiền não. Hôn trầm, trạo cử, kiêu, ba thứ này là chung nơi ba cõi. Số còn lại, tất cả đều chỉ ở nơi cõi dục. Nghĩa là trong mười sáu thứ thì năm thứ như trước đã biện, mười một thứ còn lại chỉ thuộc cõi dục.

Đã biện về tùy miên cùng tùy phiền não. Trong ấy có bao nhiêu thứ chỉ ở nơi địa ý? Có bao nhiêu thứ dựa chung nơi địa sáu thức khởi?

* Tụng viết:

Kiến đạo đoạn mạn miên

Tùy phiền não tùy ý

Đều chỉ địa ý khởi

Còn, dựa chung sáu thức.

* Luận nêu: Lược nêu nên biết: Các tùy miên, tùy phiền não do kiến đạo đoạn đều dựa nơi ý thức khởi. Các tùy miên tùy phiền não do tu đạo đoạn như mạn miên và các tùy phiền não tùy ý khởi, hết thảy như thế đều dựa nơi ý thức khởi. Dựa nơi năm thức thân thì không thể khởi. Tất cả các thứ còn lại thì dựa chung nơi sáu thức khởi. Nghĩa là các thứ tham sân vô minh cùng các tùy phiền não tương ưng với chúng, do tu đạo đoạn, tức không hổ không thẹn, hôn trầm trạo cử cùng các tùy phiền não thuộc pháp đại phiền não địa còn lại, là dựa nơi sáu thức thân đều có thể khởi.

Như trước đã biện về năm thọ căn như lạc căn v.v… Nay ở đây đã nêu rõ về phiền não, tùy phiền não. Như vậy những phiền não, tùy phiền não nào cùng với căn nào tương ưng?

Trước nên biện về các phiền não.

* Tụng viết:

Các phiền não cõi dục

Tham tương ưng hỷ lạc

Sân ưu khổ, si khắp

Tà kiến: Ưu cùng hỷ.

Nghi ưu, còn năm: Hỷ

Tất cả tương ưng xả

Địa trên đều tùy ưng

Khắp các thọ tự thức.

* Luận nêu: Trong các phiền não thuộc cõi dục, thì tham tương ưng với hỷ căn, lạc căn, do hành vui chuyển khắp sáu thức. Sân tương ưng với ưu căn khổ căn, do hành lo buồn chuyển khắp sáu thức. Vô minh (Si) tương ưng khắp với bốn căn trước (Lạc, hỷ, khổ, ưu), do hành vui buồn chuyển khắp sáu thức. Tà kiến tương ưng chung với ưu căn, hỷ căn, do hành vui buồn chuyển chỉ ở nơi địa ý. Vì sao tà kiến cùng chuyển với hành vui buồn? Như thứ lớp ấy, do trước đã tạo nghiệp tội phước (Tạo nghiệp phước nhưng lo buồn vì các nghiệp này không sinh quả. Tạo nghiệp tội thì tương ưng với hỷ).

Nghi tương ưng với ưu căn, do hành lo buồn chuyển chỉ ở nơi địa ý. Người mang do dự, tâm cầu quyết định nhận biết nên lo buồn. Bốn kiến còn lại và mạn tương ưng với hỷ căn, do hành vui chuyển chỉ ở nơi địa ý. Đã căn cứ theo tướng riêng để nói các phiền não tương ưng với thọ căn. Theo tướng chung để nói tương ưng với thọ căn: Tức tất cả đều cùng tương ưng với xả thọ. Do thế mạnh nơi phần vị đoạn của các tùy miên nối tiếp đã suy kiệt tất trụ nơi xả thọ. Cõi dục đã như vậy, địa trên thì thế nào? Đều theo chỗ ứng hợp, khắp cùng với tự thức của tự địa cùng khởi tương ưng với các thọ. Nghĩa là nếu trong các địa có đủ bốn thức, thì nơi mỗi mỗi thức kia các phiền não đã khởi đều tương ưng khắp với các thọ của tự thức. Nếu trong các địa chỉ có ý thức, tức đối với ý thức kia, các phiền não đã khởi đều tương ưng khắp với các thọ của ý thức. Trong các địa trên, thức thọ nhiều ít như trước đã biện nên không nói riêng.

Đã biện về các phiền não tương ưng với các thọ. Tiếp theo là biện về tùy phiền não.

* Tụng viết:

Trong các tùy phiền não

Tật hối phẫn cùng não

Hại hận, ưu đều khởi

Xan tương ưng hỷ thọ.

Siểm cuống cùng miên phú

Chung ưu hỷ cùng khởi

Kiêu: Hỷ lạc đều xả

Còn bốn: Tương ưng khắp.

* Luận nêu: Trong các tùy phiền não: Sáu thứ như tật v.v… tất cả đều cùng tương ưng với ưu căn, do hành lo buồn chuyển chỉ ở nơi địa ý. Xan tương ưng với hỷ căn, do hành vui chuyển chỉ ở nơi địa ý. Hành vui chuyển: Là do tướng của xan cùng với tham là rất giống nhau. Siểm cuống miên phú thì tương ưng với ưu căn và hỷ căn, do hành vui buồn chuyển chỉ ở nơi địa ý. Hành vui buồn: Nghĩa là hoặc có khi do tâm hoan hỷ mà hành siểm cuống v.v… Hoặc có lúc do tâm lo buồn mà hành. Kiêu thì tương ưng với hỷ căn. Lạc căn do hành vui chuyển chỉ ở nơi địa ý. Tại tĩnh lự thứ ba thì kiêu cùng tương ưng với lạc căn. Nếu ở các địa dưới thì tương ưng với hỷ căn.

Trên đây đã nói về các tùy phiền não, tất cả đều cùng với xả thọ tương ưng. Do lúc tương tục bị đoạn đều trụ nơi xả. Do có hành chung chỉ tại địa xả, nên xả đối với tất cả tương ưng không ngăn trở. Ví như các phiền não tùy phiền não đều tương ưng với vô minh. Bốn thứ còn lại là không hổ, không thẹn, hôn trầm, trạo cử đều cùng tương ưng khắp với năm thọ căn. Hai thứ trước là thuộc về pháp đại bất thiện địa. Hai thứ sau là thuộc về pháp đại phiền não địa.

Phần nói về phiền não, tùy phiền não, trong ấy dựa nơi môn khác, Đức Phật nói là Cái. Nay tiếp theo biện về tướng của cái.

* Tụng viết:

Cái: Năm, chỉ tại dục

Thực, trị dụng là đồng

Tuy hai lập một cái

Chướng uẩn nên chỉ năm.

* Luận nêu: Ở nơi kinh, Đức Thế Tôn nói cái có năm: (1) Cái dục tham. (2) Cái sân hận. (3) Cái hôn miên. (4) Cái trạo hối. (5) Cái nghi.

Ở đây, đã nói về ba cái hôn, trạo và nghi, là như dục, tham, sân hận, miên, hối chỉ ở nơi cõi dục, hay là chung nơi ba cõi? Nên biết ba cái ấy cũng chỉ ở tại cõi dục. Do Khế kinh nói năm thứ cái như thế đều hoàn toàn thuộc nhóm bất thiện. Ở hai cõi sắc, vô sắc không có bất thiện, nên năm cái chỉ ở nơi cõi dục, không phải ở nơi cõi sắc, vô sắc.

Vì sao hai cái hôn miên, trạo hối, Thể đều có hai hợp lập làm một? Do thực trị dụng là đồng nên hợp lập làm một. Thực: Nghĩa là thức ăn, cũng gọi là tư lương. Trị: Nghĩa là có thể đối trị, cũng gọi là phi thực (Không phải thức ăn). Dụng: Nghĩa là sự dụng, cũng gọi là công năng. Do trong kinh ấy đã nói như thế.

Hôn trầm – miên tuy là hai nhưng về thực và phi thực là đồng. Những gì gọi là thực của cái hôn miên? Nghĩa là năm thứ pháp: (1) Đặng mông. (2) Bất lạc. (3) Tần thân. (4) Tánh của thực không bình đẳng. (5) Tánh của tâm tối kém.

Những gì gọi là phi thực của cái này? Nghĩa là tưởng ánh sáng. Hai thứ sự dụng như thế cũng là đồng. Tức là cùng có thể khiến tâm tánh chìm nặng, tối tăm.

Trạo cử – hối tuy là hai, nhưng thực và phi thực là đồng. Những gì gọi là thực của cái trạo hối? Nghĩa là bốn thứ pháp: (1) Tầm về thân lý. (2) Tầm về cõi nước. (3) Tầm về không chết. (4) Nhớ nghĩ về vô số các sự việc vui đùa, hoan lạc, thừa hành đã trải qua nơi thời xưa.

Những gì gọi là phi thực của cái này? Đó là Xa-ma-tha (Chỉ). Hai thứ sự dụng như thế cũng đồng. Nghĩa là cùng có thể khiến tâm không tịch tĩnh. Do đấy nói vì thực, trị (Phi thực) dụng là đồng, nên hôn trầm – miên, trạo cử – hối, hai Thể hợp lập làm một cái. Các phiền não v.v… đều có nghĩa cái. Vì sao Đức Như Lai chỉ nói có năm thứ ấy? Do năm thứ ấy đối với năm uẩn có thể gây chướng ngại hơn hết. Nghĩa là cái tham, sân có thể gây chướng ngại cho giới uẩn. Cái hôn trầm – thùy miên có thể gây chướng ngại cho tuệ uẩn. Cái trạo cử – ố tác (Hối) có thể gây chướng ngại cho định uẩn. Định tuệ không có nên đối với bốn đế sinh nghi. Do nghi nên có có thể khiến cho đến uẩn giải thoát, uẩn giải thoát trí kiến đều không thể khởi. Vì vậy chỉ năm thứ này được kiến lập làm cái. Nếu tạo giải thích như thế là theo ý của kinh. Nhưng về lý, cái trạo hối nên nói trước cái hôn miên. Do tất dựa nơi định mới có tuệ sinh. Chướng của định nên nói trước chướng của tuệ. Dựa vào lý như vậy, nên có Sư khác cho: Trong năm cái này, hai cái hôn miên, trạo hối, như thứ lớp có thể gây chướng ngại cho định uẩn, tuệ uẩn. Do Khế kinh này đã nói như thế. Người tu đẳng trì thì sợ hôn trầm, thùy miên. Người tu trạch pháp thì sợ trạo cử hối. Có thuyết khác nói: Chỉ lập năm nhân: Nghĩa là tại phần vị hành, trước hết ở trong vô số cảnh như sắc v.v… nhận lấy hai thứ tướng đáng yêu ghét. Sau tại phần vị trụ, do trước làm nhân nên khởi hai cái dục tham, sân hận. Hai cái này có thể gây chướng ngại cho tâm sắp nhập định. Do đấy, nơi thời gian sau tại phần vị đang nhập định, thì đối với chỉ, quán không thể hành tập chính xác. Vì thế liền khởi hôn miên, trạo hối, như thứ lớp ấy, gây chướng ngại cho Xa-ma-tha (Chỉ), Tỳ-bátxá-na (Quán) khiến chúng không khởi được. Do vậy, ở trong phần vị xuất định sau đó, lúc xét chọn pháp thì nghi lại tạo chướng ngại. Thế nên kiến lập cái chỉ có năm thứ như vậy. Nay nên phân biệt: Nơi cõi khác, các phiền não biến hành cùng các phiền não duyên nơi hữu lậu do kiến diệt kiến đạo đoạn, ở tại phần vị đoạn kia lại không nhận biết đối tượng duyên ấy. Lúc nhận biết đối tượng duyên này nhưng các phiền não kia không đoạn. Như vậy các phiền não được đoạn trừ là do nhân gì? Không phải chủ yếu là nhận biết khắp về đối tượng duyên nên đoạn? Nếu thế thì đoạn trừ phiền não gồm do bao nhiêu nhân? Do bốn thứ nhân. Những gì là bốn?

* Tụng viết:

Nhận biết khắp sở duyên

Đoạn chủ thể duyên kia

Đoạn đối tượng duyên ấy

Đối trị khởi nên đoạn.

* Luận nêu: Các phiền não do kiến đạo đoạn được đoạn trừ do ba nhân trước: (1) Do nhận biết khắp về đối tượng duyên (Sở duyên) nên đoạn. Nghĩa là do kiến khổ, kiến tập đoạn các phiền não duyên nơi tự cõi, cùng do kiến diệt, kiến đạo đoạn trừ các phiền não duyên nơi vô lậu. (2) Do đoạn trừ chủ thể duyên kia nên đoạn. Tức do kiến khổ, kiến tập đoạn trừ phiền não duyên nơi cõi khác. Vì chủ thể duyên là phiền não duyên nơi tự cõi. Đối với chủ thể duyên kia nếu đã đoạn thì phiền não duyên nơi cõi khác cũng theo đấy mà đoạn. (3) Do đoạn trừ đối tượng duyên kia nên đoạn. Nghĩa là do kiến diệt, kiến đạo đoạn trừ các phiền não duyên nơi hữu lậu. Do các phiền não duyên nơi vô lậu có thể làm cảnh kia. Đối tượng duyên nếu đã đoạn thì các phiền não duyên nơi hữu lậu kia cũng theo đấy được đoạn. Nếu các phiền não do tu đạo đoạn, thì được đoạn trừ do một nhân sau: Nghĩa là chỉ do nhân thứ tư là đối trị khởi nên đoạn. Tức nếu đạo đối trị của phẩm này sinh, thì các phiền não trong phẩm ấy tức thì đoạn. Thế các phiền não của phẩm nào, cái gì là đối trị? Nghĩa là các phiền não hiện có thuộc phẩm thượng thượng, do đạo của phẩm hạ hạ có thể làm đối trị. Cho đến các phiền não hiện có thuộc phẩm hạ hạ, do đạo của phẩm thượng thượng có thể làm đối trị. Môn nghĩa như thế phần sau sẽ biện rộng. Nói đối trị là gồm có bao nhiêu thứ?

* Tụng viết:

Đối trị có bốn thứ

Là đoạn, trì, viễn, yếm.

* Luận nêu: Các môn đối trị gồm có bốn thứ: (1) Đối trị bằng đoạn trừ: Nghĩa là đạo vô gián. (2) Đối trị bằng giữ vững (Trì): Nghĩa là đạo tiếp sau đạo vô gián này (Đạo giải thoát). Do đạo ấy có thể giữ vững phần đoạn trừ do đạo này đã đạt được. (3) Đối trị phần xa (Viễn): Nghĩa là đạo hiện có sau đạo giải thoát. Do đạo ấy có thể khiến lại xa lìa các thứ phiền não đã được đoạn trừ trước đây. Có Sư khác cho: Đây cũng là đạo giải thoát. Do đạo giải thoát cũng có thể khiến lại xa lìa các thứ phiền não đã được đoạn ở trước. (4) Đối trị bằng cách chán bỏ: Tức như có đạo thấy rõ lỗi lầm của cõi này nên sinh chán ghét sâu xa.

Tuy nhiên, các môn đối trị này, nếu được nêu bày chính xác nhất tức nên theo thứ lớp như sau: (1) Đối trị bằng cách chán bỏ: Nghĩa là duyên nơi khổ tập khởi đạo gia hạnh. (2) Đối trị bằng đoạn trừ: Nghĩa là duyên nơi tất cả khởi đạo vô gián. (3) Đối trị bằng giữ vững: Nghĩa là duyên nơi tất cả khởi đạo giải thoát. (4) Đối trị phần xa: Nghĩa là duyên nơi tất cả khởi đạo thắng tấn.

Các phiền não được đoạn trừ vĩnh viễn là định rõ từ nơi nào?

* Tụng viết:

Nên biết từ sở duyên

Tức khiến các Hoặc đoạn.

* Luận nêu: Nên biết các phiền não lúc được đoạn trừ vĩnh viễn, thì không thể khiến lìa pháp tương ưng của chúng. Chỉ có thể khiến xa lìa đối tượng duyên (Sở duyên) của chúng, khiến chúng ở nơi đối tượng duyên không còn sinh khởi.

Đoạn trừ phiền não của vị lai, lý có thể là như thế. Tức có thể khiến chúng ở nơi cảnh không còn sinh. Nhưng các phiền não của quá khứ thì làm sao nói là đoạn? Nếu cho nơi Tụng nói: “Từ đối tượng duyên” ý là nhằm hiển bày nhận biết khắp về đối tượng duyên nên đoạn trừ, thì điều ấy cũng phi lý, vì không quyết định. Do đấy nên nói các phiền não v.v… được đoạn định rõ là từ nơi gì? Là các phiền não v.v… từ trong sự nối tiếp của mình được đoạn. Do được đoạn nên các phiền não v.v… trong sự nối tiếp của kẻ khác cùng với tất cả các pháp sắc không nhiễm đều được đoạn. Do chủ thể duyên lòa các phiền não hiện có trong sự nối tiếp của mình ấy đã hoàn toàn được đoạn trừ.

Đã nói về phần xa. Vậy tánh của phần xa ấy có bao nhiêu thứ?

* Tụng viết:

Tánh xa có bốn thứ

Là tướng trị xứ thời

Như đại chủng, Thi la

Phương, hai đời v.v… nơi khác.

* Luận nêu: Theo truyền thuyết tánh xa có bốn thứ: (1) Tánh xa của tướng. Như ba đại chủng. Tuy lại cùng ở trong một tụ sinh nhưng do tướng khác nên cũng gọi là xa. (2) Tánh xa của trị: Như trì giới, phạm giới. Tuy lại cùng ở trong một thân hành trì nhưng do cùng trị nên cũng gọi là xa. (3) Tánh xa của xứ. Như biển Đông, Tây. Tuy lại cùng ở trong một thế giới, nhưng do phương xứ cách nhau nên cũng gọi là xa. (4) Tánh xa của thời. Như đời quá khứ vị lai. Tuy lại cùng dựa trên một pháp để lập, nhưng do thời phân cách nên cũng gọi là xa.

Đối chiếu với gì để nói là xa? Đối chiếu với đời hiện tại. Vô gián đã diệt, cùng lúc đang sinh, so với hiện tại là cùng gần, vì sao gọi là xa? Do tánh của đời khác nhau nên được được mang tên là xa. Không phải từng ở lâu nơi ấy mới được gọi là xa. Nếu vậy thì hiện tại cũng nên được mang tên là xa, do đối chiếu với đời quá khứ vị lai, tánh cũng khác biệt? Ở đây cho pháp quá khứ vị lai là không có tác dụng, lìa tác dụng nên gọi là xa. Các pháp vô vi, về tác dụng đã là không, vì sao gọi là gần? Do hiện được khắp pháp vô vi nên gọi là gần. Hai đời quá khứ vị lai được nêu dẫn cũng như thế, nhưng hư không vô vi vì sao gọi là gần? Tức cho quá khứ vị lai lại cùng hướng về nhau, do cách với hiện tại nên gọi là xa. Hiện tại hướng về hai đời đều cùng là gần. Vô vi vì không ngăn cách nên đều là gần. Tức nên cho quá khứ vị lai là gần với đời hiện tại. Do cùng hướng về nhau có ngăn cách, nên có đủ hai tên gọi, không nên hoàn toàn chỉ nói là xa. Nếu dựa nơi chánh lý, nên nói quá khứ vị lai do lìa tự tướng của pháp nên gọi là xa. Tức vị lai thì chưa được tự tướng của pháp. Còn quá khứ thì đã bỏ tự tướng của pháp. Chữ Đẳng (Vân vân: Phương, hai đời v.v… nơi khác) là làm rõ sự việc nêu lên chưa hết. Trước đã nói các phiền não được đoạn trừ do đạo đối trị sinh khởi. Vậy lúc đạo thắng tấn đoạn trừ các phiền não là đoạn trừ lần nữa chăng? Phần lìa trói buộc đã đạt được có đạt được lần nữa chăng?

* Tụng viết:

Các Hoặc không đoạn lại

Lìa buộc được nhiều lần

Là trị sinh, đắc quả

Luyện căn trong sáu thời.

* Luận nêu: Các phiền não nếu đã được đạo kia có thể đoạn, tức do đạo ấy nên các phiền não này liền đoạn. Tất không có nghĩa nơi thời gian sau lại đoạn trừ phiền não nữa. Phần lìa trói buộc đã đạt được, về lý tuy không tùy theo đạo dần dần thắng, nhưng khi đạo tiến tới thì phần lìa trói buộc kia có thể phát khởi lần nữa. Chỗ đạt được lần nữa đã nói là gồm có bao nhiêu thời? Gồm có sáu thời. Nghĩa là đạo trị khởi, đắc quả, luyện căn. Thời đạo trị khởi: Tức là đạo giải thoát. Thời đắc quả: Là đắc các quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán. Thời luyện căn: Nghĩa là thời gian chuyển căn. Trong sáu thời này thì sự lìa trói buộc của các phiền não tùy theo đạo thắng tấn mà sinh khởi lần nữa pháp thù thắng đã đạt được. Nhưng nên biết là các thứ lìa trói buộc tùy theo chỗ ứng hợp. Có trường hợp gồm đủ sáu thời mới khởi đạt được pháp thù thắng lìa trói buộc. Cho đến cũng có trường hợp chỉ gồm đủ hai thời. Nghĩa là các phiền não thuộc cõi dục do kiến bốn đế đoạn dứt cùng các phiền não thuộc cõi sắc vô sắc do kiến ba đế đoạn trừ, thì pháp lìa trói buộc hiện có do gồm đủ sáu thời đạt được. Các phiền não thuộc cõi sắc vô sắc do kiến đạo đế đoạn trừ, thì các pháp lìa trói buộc hiện có chỉ gồm năm thời đạt được. Do thời đạo đối trị sinh tức đắc quả tức ở đấy không nên phân làm hai thời. Năm phẩm phiền não thuộc cõi dục do tu đạo đoạn, pháp lìa trói buộc ở đây cũng do năm thời đạt được. Trừ quả Dự lưu, pháp lìa trói buộc thứ sáu, chỉ do bốn thời đạt được. Nghĩa là nơi năm thời trước lại trừ một thời. Tức thời đắc quả, đạo đối trị sinh không khác. Phẩm thứ bảy, phẩm thứ tám cũng do bốn thời đạt được. Tức trong đắc quả có bốn, trừ hai thứ trước. Pháp lìa trói buộc thứ chín chỉ do ba thời đạt được. Nghĩa là nơi bốn thời trước, lại trừ một thời, là cũng thời đạo đối trị sinh tức đắc quả. Trong các phiền não thuộc cõi sắc, vô sắc do tu đạo đoạn, chỉ trừ xứ Hữu đảnh, là pháp lìa trói buộc thứ chín. Pháp lìa trói buộc còn lại cũng do ba thời đạt được. Tức trong đắc quả có bốn, trừ ba thứ trước. Pháp lìa trói buộc thứ chín nơi xứ Hữu đảnh chỉ do hai thời đạt được. Nghĩa là trong ba thời trước lại trừ một thời. Tức thời đạo đối trị sinh cũng tức đắc quả. Như vậy là lại dựa theo các trường hợp có lý để nói. Do lợi căn, nên trong các phần vị trước, mỗi mỗi đều trừ thời luyện căn đạt được. Các hữu tình nhập Thánh đạo có siêu vượt, tùy chỗ ứng hợp đều có trừ quả Dự lưu v.v… Tức các pháp lìa trói buộc nơi các phần vị kia, được mang tên là nhận biết khắp (Biến tri). Nhận biết khắp có hai: (1) Nhận biết khắp do trí. (2) Nhận biết khắp do đoạn. Nhận biết khắp do trí: Nghĩa là trí vô lậu. Nhận biết khắp do đoạn: Tức là các thứ đoạn trừ. Đây là đối với quả được đặt tên theo nhân.

Là tất cả sự đoạn trừ lập làm một nhận biết khắp chăng? Không phải thế. Vì sao?

* Tụng viết:

Có chín biết khắp đoạn

Dục, đoạn hai đầu, một

Hai đầu một hợp ba

Cõi trên ba cũng thế. Còn, năm thuận phần dưới Sắc tất cả đoạn ba.

* Luận nêu: Các đoạn lập chung làm chín thứ nhận biết khắp. Tức các phiền não thuộc ba cõi do kiến đế đoạn trừ, sự đoạn trừ ấy lập làm sáu nhận biết khắp. Các phiền não còn lại của ba cõi do tu đạo đoạn trừ, sự đoạn trừ này lập làm ba nhận biết khắp.

Sáu nhận biết khắp được lập kia là những gì? Nghĩa là đoạn trừ phiền não thuộc cõi dục do hai bộ đầu lập làm một nhận biết khắp. Nói hai bộ đầu: Tức làm rõ các phiền não do kiến khổ kiến tập đoạn trừ. Hai bộ tiếp theo đoạn trừ phiền não mỗi bộ đều lập làm một nhận biết khắp. Nói hai bộ tiếp theo: Là làm rõ các phiền não do kiến diệt kiến đạo đoạn. Như vậy, các phiền não nơi cõi dục do kiến đế đoạn trừ được lập làm ba nhận biết khắp. Như cõi dục có ba, hai cõi trên cũng thế. Nghĩa là các phiền não nơi hai cõi sắc vô sắc: Do hai bộ đầu đoạn cũng lập một nhận biết khắp. Hai bộ tiếp theo đoạn cũng lập hai nhận biết khắp, hợp là ba. Như vậy nơi ba cõi, do kiến đế đoạn được lập làm sáu nhận biết khắp. Các phiền não còn lại nơi ba cõi do tu đạo đoạn trừ được lập làm ba nhận biết khắp như thế nào? Nghĩa là các phiền não thuộc cõi dục do tu đạo đoạn được lập làm một nhận biết khắp. Nên biết tức là năm kiết thuận phần dưới đều nhận biết khắp và lập như trước. Các phiền não thuộc cõi sắc do tu đạo đoạn được lập làm một nhận biết khắp. Nên biết đấy tức là sắc ái, đều được nhận biết khắp. Các phiền não thuộc cõi vô sắc do tu đạo đoạn được lập làm một nhận biết khắp. Tức tất cả kiết đều hoàn toàn nhận biết khắp. Đây cũng cùng với trước hợp lập một nhận biết khắp. Như vậy gọi là phiền não nơi ba cõi do tu đạo đoạn được lập làm ba nhận biết khắp.

Do nhân duyên gì các phiền não thuộc cõi sắc, cõi vô sắc do tu đạo đoạn được lập riêng làm hai nhận biết khắp, không phải như do kiến đạo đoạn? Do sự đối trị của tu đạo đoạn là không đồng. Như thế là đã lập chín thứ nhận biết khắp. Ở đây nên biện có bao nhiêu thứ là quả của đạo nào?

* Tụng viết:

Trong ấy quả nhẫn sáu

Ba khác là quả trí

Quả vị chí tất cả

Căn bản năm hoặc tám.

Biên vô sắc một quả

Ba căn bản cũng vậy

Tục quả hai, Thánh chín

Pháp trí ba, loại hai.

Phẩm pháp trí quả sáu

Phẩm loại trí quả năm.

* Luận nêu: Ở trong chín thứ ấy, trước nên biện cùng với đạo nhẫn trí về quả có sai biệt. Quả của nhẫn có sáu: Nghĩa là sáu thứ nhận biết khắp do kiến đạo đoạn trừ các phiền não thuộc ba cõi. Quả của trí có ba: Nghĩa là năm kiết thuộc phần dưới, kiết sắc ái, tất cả kiết nơi cõi vô sắc đều nhận biết khắp. Ba thứ nhận biết khắp này là quả của tu đạo. Vì sao quả của nhẫn được nói là nhận biết khắp? Do các nhẫn đều là quyến thuộc của trí. Như quyến thuộc của vua được tạm lập tên vua. Hoặc nhẫn cùng với trí đồng một quả.

Nay tiếp theo nên biện về cùng với địa tĩnh lự, gồm căn bản, quyến thuộc về quả có sai biệt. Quả của tĩnh lự vị chí có đủ chín thứ nhận biết khắp. Đây là dựa nơi khả năng đoạn trừ phiền não trong ba cõi do kiến đạo và tu đạo đoạn trừ. Quả của tĩnh lự căn bản có năm hoặc tám. Nói năm: Là theo Sư Tỳ-bà-sa nói: Địa căn bản chỉ có thể đoạn trừ vĩnh viễn các phiền não thuộc cõi sắc, cõi vô sắc. Còn các phiền não thuộc cõi dục được đoạn trừ, theo chư vị là quả của tĩnh lự vị chí. Nói có tám thứ: Là theo Tôn giả Diệu Âm nói: Địa căn bản cũng đoạn trừ các phiền não thuộc cõi dục là do đối trị đoạn. Các hành giả trước đã lìa nhiễm của cõi dục, lúc dựa nơi địa căn bản để nhập kiến đế, đối với các pháp thuộc cõi dục do kiến đạo đoạn, thì sự đoạn trừ này được xem là đạo riêng khác dẫn đến đạt được vô lậu. Do đấy, cũng là quả của kiến đạo kia. Trừ năm kiết thuận phần dưới đều được nhận biết khắp, do chúng chỉ là quả của tĩnh lự vị chí, không do tu đạo đối trị kia đoạn. Tĩnh lự trung gian cũng như tĩnh lự căn bản. Sau đây, nên biện cùng với địa vô sắc, gồm căn bản, quyến thuộc, về quả có sai biệt. Quả của địa vô sắc biên chỉ có một. Nghĩa là dựa nơi địa cận phần của hư không, quả của đạo đạt được là sắc ái đều nhận biết khắp. Quả của ba căn bản trước cũng chỉ có một. Nghĩa là dựa nơi ba căn bản vô sắc trước, quả đạt được là tất cả đều nhận biết khắp.

Lại biện: Cùng với đạo thế tục và các Thánh đạo, về quả có sai biệt. Quả của đạo thế tục có hai: Nghĩa là lực của đạo thế tục chỉ có thể đạt được quả là năm kiết thuận phần dưới cùng sắc ái đều được nhận biết khắp. Quả của Thánh đạo có chín. Nghĩa là lực của Thánh đạo có thể đoạn trừ vĩnh viễn khắp các thứ phiền não nơi ba cõi.

Lại biện: Cùng với pháp trí, loại trí, về quả có khác nhau. Quả của pháp trí có ba: Nghĩa là lực của pháp trí có thể đoạn trừ các thứ phiền não nơi ba cõi do tu đạo đoạn, nên đạt được ba quả sau. Quả của loại trí có hai: Nghĩa là lực của loại trí chỉ có thể đoạn trừ vĩnh viễn các thứ phiền não thuộc cõi sắc cõi vô sắc do tu đạo đoạn, đạt được hai quả sau.

Lại nên biện: Cùng với các đạo đồng phẩm của pháp trí, loại trí, về quả có khác nhau. Quả của phẩm pháp trí có sáu: Tức là sáu quả đã đạt được của pháp trí pháp nhẫn ở trước. Quả của phẩm loại trí có năm: Tức là năm quả đã đạt được của loại trí loại nhẫn ở trước. Nói phẩm: Là gồm thâu chung trí và nhẫn.

Vì sao nơi mỗi mỗi đoạn không lập riêng làm một nhận biết khắp? Chỉ dựa theo chín phần vị như trước để kiến lập?

* Tụng viết:

Được vô lậu đoạn đắc

Cũng thiếu hữu thứ nhất

Diệt hai nhân vượt cõi

Nên lập chín biết khắp.

* Luận nêu: Pháp hữu lậu được đoạn trừ tuy nhiều Thể vị, nhưng do bốn duyên nên lập chín nhận biết khắp. Do ba duyên nên lập sáu quả của nhẫn. Nghĩa là được vô lậu do lìa trói buộc được. Do làm thiếu xứ Hữu đảnh (Hữu thứ nhất). Do diệt hai nhân. Các thứ đoạn cần gồm đủ ba duyên như thế mới lập tên nhận biết khắp. Thiếu tức không như thế. Như nơi phần vị dị sinh: Có diệt hai nhân nhưng không có đạt được vô lậu đoạn, chưa làm thiếu xứ Hữu đảnh, nên tuy cũng được nhưng không gọi là nhận biết khắp. Nếu trong Thánh vị, từ nhập kiến đế đến khổ loại nhẫn hiện hành, do trước tuy có đã đạt được vô lậu đoạn, nhưng chưa làm thiếu xứ Hữu đảnh, chưa diệt hai nhân. Đến vị khổ loại trí, tập pháp nhẫn, tuy đã làm thiếu xứ Hữu đảnh nhưng cũng chưa diệt hai nhân, là chưa diệt các nhân biến hành do kiến tập đoạn. Đến trong vị sau pháp trí, loại trí, các đoạn đã đạt được gồm đủ ba duyên, nên ở nơi mỗi mỗi vị kiến lập nhận biết khắp. Do gồm đủ bốn duyên lập quả của ba trí. Nghĩa là nơi ba duyên trước thêm vượt cõi. Nói vượt cõi: Nghĩa là trong cõi ấy, các pháp như phiền não v.v… đều hoàn toàn lìa bỏ. Có thuyết cho: Lập lìa cùng trói buộc cũng là một duyên, nên lập nhận biết khắp, về duyên gồm có năm thứ. Lìa cùng trói buộc: Nghĩa là ở đây tuy đã đoạn nhưng chưa lập nhận biết khắp. Chủ yếu là lìa duyên còn lại nơi phiền não của cảnh ấy thì mới có thể kiến lập. Duyên lìa cùng trói buộc này cùng với duyên diệt hai nhân và vượt cõi, về dụng là không khác biệt, nên tuy nghĩa có khác nhưng không nêu riêng. Tuy các phần vị vượt cõi đều diệt hai nhân, nhưng lúc diệt hai nhân thì không phải đều là vượt cõi. Nên ngoài diệt hai nhân đã lập riêng duyên vượt cõi. Diệt hai nhân của ba địa chưa lập làm nhận biết khắp.

Có thể thành tựu được bao nhiêu thứ nhận biết khắp?

* Tụng viết:

Trụ vị kiến đế không

Hoặc thành một đến năm

Tu thành sáu, một, hai

Vô học chỉ thành một.

* Luận nêu: Hàng dị sinh (Phàm phu) về lý là nhất định không thành tựu nhận biết khắp. Nếu các Thánh giả: Ở nơi vị kiến đế, từ đầu cho đến lúc tập pháp nhẫn hiện hành, đối với các thứ nhận biết khắp cũng chưa thành tựu. Đến khi tập pháp trí, tập loại nhẫn hiện hành, thì chỉ thành tựu một. Đến khi tập loại trí, diệt pháp nhẫn hiện hành, tức thành tựu hai. Đến lúc diệt pháp trí, diệt loại nhẫn hiện hành, thì thành tựu ba. Đến lúc diệt loại trí, đạo pháp nhẫn hiện hành, tức thành tựu bốn. Đến khi đạo pháp trí, đạo loại nhẫn hiện hành, thì thành tựu năm. Trụ nơi vị tu đạo: Đạo loại trí là đầu, cho đến chưa được hoàn toàn lìa nhiễm của cõi dục, cùng lìa dục thoái chuyển, đều thành tựu sáu. Đến hoàn toàn lìa dục, nhưng sắc ái chưa dứt hết. Hoặc trước đã lìa dục, từ đạo loại trí đến trước chưa khởi đạo của quả thù thắng, sắc diệt hết, thì chỉ thành tựu một nhận biết khắp. Nghĩa là nhận biết khắp về năm kiết thuận phần dưới đều hết. Từ sắc ái hết cùng vị vô học khởi triền sắc thoái chuyển cũng thành tựu một như trước. Có sắc ái: Là từ sắc ái vĩnh viễn dứt hết. Trước lìa sắc: Là từ khởi đạo sắc diệt hết, đến trước chưa hoàn toàn lìa vô sắc ái thì thành tựu năm thứ kiết phần dưới hết. Sắc ái dứt hết thì thành tựu hai. Từ vị vô học thoái chuyển, khởi triền vô sắc, thành tựu hai nhận biết khắp, tên gọi như trước đã nói. Trụ nơi vị vô học, chỉ thành tựu một. Nghĩa là nhận biết khắp về tất cả kiết vĩnh viễn dứt hết. Vì sao quả Bất hoàn, A-la-hán đã tập hợp chung các thứ đoạn chỉ lập một nhận biết khắp?

* Tụng viết:

Do vượt cõi, đắc quả

Hai xứ tập, biết khắp.

* Luận nêu: Gồm đủ hai duyên, nên ở nơi tất cả đoạn đã tập hợp chung để kiến lập làm một nhận biết khắp: (1) Vượt cõi. (2) Đắc quả. Do hai vị kia gồm đủ hai duyên, nên phần nhận biết khắp ấy đã được tập hợp chung làm một.

Có bao nhiêu thứ nhận biết khắp được xả và đắc?

* Tụng viết:

Xả một, hai, năm, sáu

Đắc cũng thế, trừ năm.

* Luận nêu: Nói xả một: Nghĩa là từ quả vô học cùng sắc ái hết, hoàn toàn lìa dục, bị thoái chuyển. Nói xả hai: Nghĩa là các quả Bất hoàn từ sắc ái hết, khởi triền dục thoái chuyển, cùng lúc vị ấy đạt được quả A-la-hán. Nói xả năm: Nghĩa là trước lìa dục, sau nhập kiến đế, khi đạo loại trí đạt được năm thứ kiết phần dưới hết, thì xả năm thứ nhận biết khắp trước. Nói xả sáu: Nghĩa là các Thánh giả hiện có chưa lìa dục, lúc được lìa dục, thì xả sáu thứ nhận biết khắp. Đắc cũng thế: Nghĩa là có đắc một, đắc hai, đắc sáu, chỉ trừ đắc năm. Nói đắc một: Nghĩa là đắc thứ chưa đắc, cùng từ quả vô học khởi triền sắc, thoái chuyển. Nói đắc hai: Nghĩa là từ quả vô học lúc khởi các triền cõi vô sắc, thoái chuyển. Nói đắc sáu: Là thoái chuyển quả Bất hoàn.

Nhân biện về tùy miên đã phân biệt về đoạn xong.

HẾT – QUYỂN 21