LUẬN A TỲ ĐẠT MA CÂU XÁ
Tác giả: Tôn giả Thế Thân
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ 

 

QUYỂN 16

Phẩm thứ 4: PHÂN BIỆT NGHIỆP, phần 4

Lại, trong kinh nói: Nghiệp có bốn loại: Nghĩa là hoặc có nghiệp đen, dị thục đen. Hoặc lại có nghiệp trắng, dị thục trắng. Hoặc lại có nghiệp đen trắng, dị thục đen trắng. Hoặc lại có nghiệp không đen không trắng, không có dị thục, có thể diệt hết các nghiệp. Tướng của chúng là thế nào?

* Tụng viết:

Dựa khác như đen đen

Đã nói bốn loại nghiệp

Ác, thiện cõi dục, sắc

Vô lậu có thể diệt

Nên biết như thứ lớp

Gọi đen trắng, câu phi.

* Luận nêu: Đức Phật dựa nơi tánh loại bất đồng của nghiệp quả, về đối tượng được đối trị và chủ thể đối trị cũng khác để nói về bốn loại nghiệp như đen, đen v.v… Các nghiệp bất thiện hoàn toàn gọi là đen, do tánh là nhiễm ô. Dị thục cũng đen, vì không vừa ý. Nghiệp thiện của cõi sắc hoàn toàn gọi là trắng, do không xen tạp với ác. Dị thục cũng trắng, do là hợp ý.

Vì sao không nói đến nghiệp thiện của cõi vô sắc? Theo Truyền thuyết: Nếu xứ có hai dị thục, nghĩa là trung hữu, sinh hữu, tức có đủ ba thứ nghiệp là thân ngữ ý, thì nói. Cõi vô sắc không phải là xứ có các tính chất trên, nên không nói. Nhưng trong Khế kinh có chỗ cũng nói. Nghiệp thiện của cõi dục gọi là đen trắng, do có xen lẫn với ác. Dị thục cũng đen trắng, do có xen tạp quả không yêu thích. Tên gọi đen trắng này là dựa nơi sự tương tục để lập, không phải căn cứ vào tự tánh. Vì sao? Vì không một nghiệp cùng với một dị thục, là đen cũng là trắng cùng trái nhau. Thế chẳng phải quả của nghiệp ác và quả của nghiệp thiện xen tạp, tức cũng nên gọi là trắng đen. Quả của nghiệp bất thiện không hẳn phải là quả của nghiệp thiện xen tạp. Nhưng quả của nghiệp thiện thuộc cõi dục tất định nên là quả của nghiệp ác xen tạp. Do trong cõi dục, ác lấn hơn thiện.

Các nghiệp vô lậu có thể vĩnh viễn đoạn trừ ba loại nghiệp trước, gọi là không đen, vì không nhiễm ô. Cũng gọi là không trắng, do không thể chiêu cảm dị thục trắng. Ở đây, nói không trắng là mật ý thuyết. Do Đức Phật ở trong Kinh Đại Không kia đã nói với Tôn giả A-nan-đà: Các pháp vô học là thuần thiện thuần trắng, hoàn toàn là không tội. Bản luận cũng viết: Thế nào là pháp trắng? Nghĩa là các pháp thiện, vô phú vô ký.

Không có dị thục: Là không hệ thuộc nơi cõi, cùng với tánh của pháp lưu chuyển là trái nhau.

Các nghiệp vô lậu là đều có thể diệt hết ba nghiệp trước chăng? Không phải thế. Vì sao?

* Tụng viết:

Bốn pháp nhẫn lìa dục

Tám vô gián trước cùng

Mười hai tư vô lậu

Chỉ diệt nghiệp thuần đen

Lìa dục bốn tĩnh lự

Vô gián thứ chín, tư

Một diệt tạp, thuần đen

Bốn khiến thuần trắng hết.

* Luận nêu: Ở trong kiến đạo, bốn pháp trí nhẫn cùng với tám Thánh đạo vô gián, trước phần vị lìa dục nhiễm của tu đạo, cùng hành có mười hai tư, chỉ đoạn trừ hết các nghiệp thuần đen. Thánh đạo vô gián thứ chín cùng hành với một tư vô lậu, cùng khiến cả hai thứ nghiệp đen, trắng và thuần đen diệt hết. Thời gian này là đoạn trừ chung nghiệp thiện của cõi dục. Cũng đoạn trừ nghiệp bất thiện thứ chín. Đạo vô gián thứ chín lìa nhiễm nơi mỗi mỗi địa của bốn tĩnh lự, cùng hành với tư vô lậu, bốn thứ tư này chỉ khiến cho nghiệp thuần trắng diệt hết.

Vì sao pháp thiện hữu lậu của các địa chỉ do đạo sau cùng có thể đoạn, không phải là thứ khác? Do các pháp thiện không phải là tự tánh đoạn. Tuy đã đoạn, pháp thiện vẫn có thể hiện tiền. Nhưng do duyên nơi phiền não kia lúc diệt hết mới nói là đoạn trừ pháp thiện ấy. Bấy giờ pháp thiện được lìa hệ thuộc. Do đấy, cho đến duyên nơi phiền não kia, còn một phẩm chưa đoạn trừ hết thì việc đoạn pháp thiện không thành. Pháp thiện lúc ấy chưa lìa hệ thuộc.

* Tụng viết:

Có thuyết: Địa ngục thọ

Dục khác, nghiệp đen tạp

Có thuyết: Dục khiến diệt

Dục khác, nghiệp đen cùng.

* Luận nêu: Có Sư khác nói: Nghiệp thuận địa ngục thọ cùng nghiệp thuận thọ còn lại trong cõi dục, như thứ lớp gọi là nghiệp thuần đen có xen tạp. Nghĩa là dị thục của địa ngục chỉ là nghiệp bất thiện chiêu cảm. Nên thuận theo thọ kia gọi là nghiệp thuần đen. Chỉ trừ địa ngục, dị thục trong phần cõi dục còn lại đều do chung cả nghiệp thiện ác chiêu cảm. Nên thuận theo thọ kia gọi là nghiệp đen trắng. Có Sư khác cho: Nghiệp thuộc cõi dục do kiến đạo đoạn cùng nghiệp còn lại hiện có trong cõi dục, như thứ lớp gọi là nghiệp thuần đen, nghiệp cũng hợp. Nghĩa là nghiệp do kiến đạo đoạn không có thiện xen tạp nên gọi là nghiệp thuần đen. Nghiệp nơi cõi dục do tu đạo đoạn có thiện, bất thiện, nên gọi là nghiệp cùng hợp (Đen trắng).

Lại, trong kinh nói có ba Mâu-ni (Tịch tĩnh). Lại, trong kinh nói có ba thanh tịnh. Cùng hợp với thân ngữ ý. Tướng ấy là thế nào?

* Tụng viết:

Nghiệp thân ngữ vô học

Tức ý ba Mâu-ni

Ba thanh tịnh nên biết

Tức ba thứ hạnh diệu.

* Luận nêu: Nghiệp thân ngữ vô học gọi là thân ngữ Mâuni. Ý Mâu-ni tức là ý vô học, không phải là ý nghiệp. Vì sao? Vì Mâu-ni thắng nghĩa chỉ là tâm làm Thể. Nghĩa là do hai nghiệp thân ngữ so sánh để nhận biết. Lại, Thể của nghiệp thân ngữ là xa lìa. Ý nghiệp thì không như thế, vì không có vô biểu. Do nghĩa xa lìa nên kiến lập. Vì thế tức tâm do nghiệp thân ngữ chủ thể có đối tượng xa lìa nên gọi là Mâu-ni. Vì sao Mâu-ni chỉ ở nơi vô học? Do A-la-hán (Vô học) là Mâu-ni đích thật. Các thứ ngôn ngữ phiền não đã vĩnh viễn vắng lặng. Ba thứ hạnh diệu của thân ngữ ý gọi là ba thứ thanh tịnh của thân ngữ ý. Tạm thời cùng vĩnh viễn xa lìa tất cả phiền não cấu uế của hành ác nên gọi là thanh tịnh. Nói hai thứ này (Mâu-ni, thanh tịnh) là để dứt trừ các chấp của hữu tình về Mâu-ni tà, thanh tịnh tà.

Lại, trong kinh nói có ba hành ác. Lại, trong kinh nói có ba hành diệu. Cùng hợp với thân ngữ ý. Tướng của chúng là thế nào?

* Tụng viết:

Nghiệp thân ngữ ý ác

Gọi là ba hành ác

Cùng tham sân tà kiến

Ba hành diệu: Trái đây.

* Luận nêu: Tất cả nghiệp thân ngữ ý bất thiện, như thứ lớp gọi là hành ác của thân ngữ ý. Nhưng hành ác của ý lại có ba thứ: Là tham sân tà kiến, không phải là ý nghiệp. Như tham v.v… lìa tư thì riêng có Thể. Phái Thí Dụ nói: Tham sân tà kiến tức là ý nghiệp. Tức như trong Kinh Tư đã nói ba thứ ấy là ý nghiệp. Nếu vậy thì nghiệp nên cùng với phiền não hợp thành một Thể. Thừa nhận có phiền não tức là ý nghiệp, điều ấy có lỗi gì? Sư Tỳ-bà-sa cho: Luận điểm kia là phi lý. Nếu thừa nhận như thế, liền cùng với rất nhiều lý, giáo trái nhau, thành lỗi lầm lớn. Tuy nhiên, Khế kinh nói là ý nghiệp, là làm rõ về tư dùng pháp kia làm môn chuyển. Do đấy có thể chiêu cảm quả không yêu thích. Các vị thông tuệ đã chê trách, chán lìa. Hành này tức là ác nên gọi là hành ác. Ba hành diệu: Là trái ngược với ba hành ác, nên biết. Nghĩa là tất cả nghiệp thiện của thân ngữ ý, cùng không tham không sân, chánh kiến không phải là nghiệp. Chánh kiến, tà kiến đã không cố ý muốn tạo lợi ích cùng làm tổn hại kẻ khác. Vì sao thành thiện ác? Vì chúng có thể cùng với việc tạo lợi ích, gây tổn hại làm căn bản.

Lại, trong kinh nói có mười nghiệp đạo, hoặc thiện hoặc ác. Tướng ấy là thế nào?

* Tụng viết:

Nói về mười nghiệp đạo

Gồm thâu hành diệu, ác

Phẩm thô là tánh ấy

Như hợp thành thiện ác.

* Luận nêu: Ở trước đã nói về hành diệu, hành ác. Trong ấy, nếu là thô hiển bày dễ nhận biết, tức gồm thâu làm mười nghiệp đạo. NHư chỗ ứng hợp, nếu là nghiệp đạo thiện thì gồm thâu hành diệu ở trước. Nghiệp đạo bất thiện thì gồm thâu hành ác ở trước. Những hành diệu hành ác nào không gồm thâu? Là nghiệp đạo ác của thân trong bất thiện. Tức không gồm thâu một phần hành ác của thân. Nghĩa là gia hạnh, hậu khởi cùng các thân nghiệp bất thiện khác như uống các rượu, bắt trói, đánh đập v.v… Do gia hạnh v.v… không phải là pháp thô hiển bày rõ. Nếu hành ác của thân khiến hữu tình khác mất thân mạng, mất tài sản, mất thê thiếp v.v… thì nói nghiệp đạo, khiến xa lìa. Nghiệp đạo ác của ngữ đối với hành ác nơi ngữ không gồm thâu gia hạnh, hậu khởi cùng các hành ngữ nhẹ. Nghiệp đạo ác của ý đối với hành ác nơi ý không gồm thâu tư ác cùng các thứ tham nhẹ v.v… Trong nghiệp đạo thiện, nghiệp đạo thiện của thân đối với hành diệu nơi thân không gồm thâu một phần. Nghĩa là gia hạnh, hậu khởi cùng các thân nghiệp thiện khác, như lìa uống rượu, bố thí, cúng dường v.v… Nghiệp đạo thiện của ngữ đối với hành diệu nơi ngữ không gồm thâu một phần. Nghĩa là như ái ngữ v.v… Nghiệp đạo thiện của ý đối với hành diệu nơi ý không gồm thâu một phần. Nghĩa là các tư thiện.

Trong mười nghiệp đạo, thì bảy nghiệp đạo trước đều nhất định là có biểu, vô biểu chăng? Không phải thế. Vì sao?

* Tụng viết:

Sáu ác định vô biểu

Kia tự tạo, dâm hai

Bảy thiện thọ sinh hai

Định sinh chỉ vô biểu.

* Luận nêu: Trong bảy nghiệp đạo ác thì sáu thứ nhất định là có vô biểu. Nghĩa là sát sinh, không cho mà lấy, nói hư dối, nói lời ly gián, nói lời thô ác, nói lời uế tạp. Sáu thứ như thế, nếu sai khiến kẻ khác làm, lúc căn bản thành thì tự biểu là không có. Nếu có tự tạo tác, thì sáu nghiệp đạo kia đều có cả hai biểu và vô biểu. Nghĩa là lúc khởi biểu, kẻ kia liền chết v.v… Nếu sau đấy mới chết v.v… thì cùng với sự sai khiến là đồng, khi căn bản thành, chỉ có vô biểu. Về hành dục tà tất gồm đủ hai thứ. Do cần phải là tự thân thực hiện, không phải là sai kẻ khác làm. Như tự sinh vui mừng. Bảy nghiệp đạo thiện, nếu từ thọ sinh tất đều gồm đủ cả hai, tức biểu, vô biểu. Thi la thọ sinh tất dựa nơi biểu. Luật nghi thuộc về tĩnh lự, vô lậu, gọi là định sinh. Gia hạnh, hậu khởi có như nghiệp đạo căn bản chăng? Không phải thế. Vì sao?

* Tụng viết:

Gia hạnh định có biểu

Vô biểu hoặc có không

Hậu khởi: Trái với đây.

* Luận nêu: Gia hạnh của nghiệp đạo tất định có biểu. Vô biểu của phần vị này, hoặc có hoặc không. Nếu là triền cấu mãnh liệt, hoặc là tâm thuần tịnh dấy khởi tức có vô biểu. Khác với đây là không có. Hậu khởi thì trái với trước, tức nhất định có vô biểu. Còn biểu nghiệp của phần vị này thì hoặc có hoặc không. Nghĩa là nếu thời gian sau khởi là tùy theo nghiệp trước tức có biểu nghiệp. Khác với đây là không có. Ở trong nghĩa này, vì sao kiến lập phần vị gia hạnh, căn bản, hậu khởi? Do trong bất thiện, đầu tiên là nghiệp sát sinh. Như kẻ giết mổ dê: Lúc sắp hành sát, trước hết là phát sinh tâm sát hại, ra khỏi giường nằm, cầm tiền bạc đi đến chợ quán bán dê, ngắm nghía, xúc chạm nơi thân con vật, trả tiền rồi bắt dẫn về, đưa ra lò giết mổ. Tay cầm đao to, hoặc đánh hoặc đâm, một lần hai lần, cho đến khi con vật chết. Tất cả những hành động diễn ra trước khi con dê bị giết chết, đều gọi là gia hạnh của sát sinh. Tùy theo biểu nghiệp này, con vật kia chính thức mạng chung, thì nghiệp biểu, vô biểu của khoảnh khắc sát-na này gọi là nghiệp đạo căn bản của sát sinh. Do hai duyên nên khiến các hữu tình gây tạo tội sát sinh thuộc nghiệp đạo: (1) Do gia hạnh. (2) Do quả đã đủ. Sau sát-na này, nghiệp sát sinh vô biểu tùy chuyển không dứt, gọi là hậu khởi của sát sinh. Cùng ở thời gian sau, các sát-na của biểu nghiệp cạo lông, lột da, xẻ thịt, hoặc cân hoặc bán, hoặc nấu nướng, hoặc ăn uống khen ngon, như thế cũng gọi là hậu khởi của sát sinh. Sáu nghiệp đạo còn lại, tùy theo chỗ ứng hợp, ba phần chẳng đồng, nên căn cứ theo đây để giải thích. Tham sân tà kiến vừa hiện tiền, tức gọi là nghiệp đạo căn bản, nên không có gia hạnh, hậu khởi sai biệt.

Ở đây nên nêu bày: Là đối tượng bị sát sinh (Con vật bị giết) lúc trụ nơi tử hữu (Vừa chết), thì chủ thể sát sinh (Kẻ giết), nơi khoảnh khắc của sát-na kia, nghiệp biểu, vô biểu tức thành nghiệp đạo, hay là sau khi chết? Nếu như thế thì có lỗi gì? Cả hai cùng có lỗi. Nếu đối tượng bị sát sinh đang trụ nơi tử hữu, chủ thể sát sinh tức thành nghiệp đạo. Như vậy, người sát sinh và con vật bị giết hại cùng lúc mạng chung nên thành nghiệp đạo. Nhưng Tông phái thì không thừa nhận nghiệp đạo kia thành. Còn nếu con vật bị giết hại chết rồi, sau đấy người giết hại mới thành nghiệp đạo, tức không nên nói như trước: “Tùy theo biểu nghiệp này, con vật kia chính thức mạng chung, thì nghiệp biểu, vô biểu của khoảnh khắc sát-na ấy gọi là nghiệp đạo căn bản của sát sinh”. Lại nên trái bỏ với Sư Tỳ-bà-sa đã giải thích về “Gia hạnh chưa dứt” trong Bản luận. Nghĩa là Bản luận nói: Từng có một chúng sinh đã bị giết chết nhưng hành vi sát sinh chưa chấm dứt chăng? Có. Như đã đoạn sinh mạng nhưng gia hạnh kia chưa dứt. Sư Tỳ-bà-sa giải thích câu văn này cho: “Ở đây, đối với phần hậu khởi đã dùng tiếng gia hạnh để nói”. Phải nên nói là ở nơi nghiệp đạo căn bản để dùng tiếng gia hạnh để nói. Tức cho con vật sau khi mạng chung, nghiệp đạo căn bản vẫn chưa dứt. Nếu không có lỗi như ở đây đã nói, thì nên nói như thế nào gọi là không lỗi? Nghĩa là đối với nghiệp đạo căn bản đã dùng tiếng gia hạnh để nêu bày. Nếu vậy thì ngay vào lúc biểu nghiệp hiện có, vì sao có thể thành nghiệp đạo căn bản? Sao lại không thành? Do biểu nghiệp không còn có tác dụng. Nếu thế thì vô biểu ở đây có tác dụng gì? Nên nghiệp đạo thành không phải do có tác dụng, mà chỉ do quả của gia hạnh lúc đã đầy đủ. Hai thứ này cùng thành nghiệp đạo căn bản. Lại, các nghiệp đạo lần lượt cùng đối chiếu, có thể có cùng là gia hạnh, hậu khởi. Nay lại nên nói nghiệp đạo của sát sinh dùng mười nghiệp đạo để khởi gia hạnh. Như có người muốn hại kẻ oán đối của mình, đã sắp đặt các mưu kế hợp thành duyên sát hại. Hoặc giết chúng sinh tế thần thỉnh cầu trợ lực (Sát sinh). Hoặc trộm cắp vật dụng của kẻ khác để hỗ trợ cho sự việc sát hại kia (Trộm cắp). Hoặc gian dâm với vợ của kẻ oán đối (Tà dâm) xúi giục người vợ này giết chồng. Hoặc để ly gián, tạo bất hòa giữa kẻ thù cùng các bạn thân của kẻ thù ấy, nên đã khởi bốn nghiệp đạo ác của ngữ (Nói lời hư dối. Nói lời ly gián. Nói lời thô ác. Nói lời uế tạp) khiến sinh nghi ngờ, cản trở, nếu như những bạn thân của kẻ oán đối kia có thế lực, sẽ không khởi tâm cứu giúp. Hoặc đối với tài sản của kẻ thù kia, tâm sinh tham vướng (Tham). Hoặc tức ở nơi kẻ ấy khởi tâm sân hận (Sân). Hoặc khởi tà kiến nuôi lớn nghiệp sát, sau đấy mới thực hiện (Tà kiến). Như thế gọi là dùng mười nghiệp đạo làm gia hạnh của sát sinh. Giết hại kẻ oán đối rồi, lại ở nơi thời gian sau giết hết những người thân của kẻ ấy, thâu tóm tài sản, vật dụng, hành dâm với thê thiếp của kẻ kia, cho đến lại khởi tham sân tà kiến, thứ lớp hiện tiền, thì mười thứ này gọi là hậu khởi của sát sinh. Các nghiệp đạo còn lại, như chỗ ứng hợp, nên biết cũng có thể dùng mười nghiệp đạo để làm gia hạnh.

Nhưng tham, sân, tà kiến không nên cho là có thể làm gia hạnh. Vì không phải chỉ khởi tâm thì gia hạnh tức thành. Lúc chỉ khởi tâm thì chưa tạo tác sự việc.

Lại, trong kinh nói: Bí-sô nên biết! Sát sinh có ba thứ: (1) Từ tham sinh. (2) Từ sân sinh. (3) Từ si sinh. Cho đến tà kiến (Nghiệp đạo ác thứ mười) có ba thứ cũng như thế. Ở đây nên nói: Tướng sát sinh như thế nào gọi là từ tham sinh? Các nghiệp đạo còn lại cũng nên nêu hỏi như vậy. Vì không phải tất cả các nghiệp đạo đều do ba căn hoàn thành. Nhưng về gia hạnh thì không cùng với ba căn kia đồng. Vì sao chẳng đồng?

* Tụng viết:

Gia hạnh ba căn khởi

Nên vô gián kia sinh

Tham cùng ba căn sinh.

* Luận nêu: Gia hạnh của nghiệp đạo bất thiện lúc sinh, mỗi mỗi là do ba căn bất thiện khởi. Dựa nơi đẳng khởi trước nên nói như thế.

Gia hạnh của sát sinh do tham khởi: Như có người vì muốn có được phần thân của chúng sinh kia. Hoặc vì muốn có được tài sản, muốn có được những sự việc vui thích. Hoặc vì để cứu giúp bạn thân, để bảo vệ tự thân v.v… Nên từ tham dẫn khởi gia hạnh của sát sinh. Từ sân khởi: Như có người vì để trừ bỏ kẻ thù của mình nên sinh tâm giận dữ, dẫn khởi gia hạnh của sát sinh. Từ si khởi: Như có người, trong việc cúng tế cho là pháp, nên tâm khởi gia hạnh của sát sinh. Lại như các vị vua dựa nơi pháp luật thế gian, xử tội kẻ oán địch, trừ diệt đám hung bạo, cho là thành tựu phước lớn, nên khởi gia hạnh sát hại. Lại như người Ba-lạt-tư cho: Cha mẹ già bệnh, nếu khiến mạng chung thì được khỏi khốn khổ, liền sinh thắng phước. Lại như các ngoại đạo nói: Các loài rắn rít, bò cạp, ong v.v… là độc hại đối với con người. Nếu có thể sát hại chúng liền sinh thắng phước. Dê nai trâu bò cùng các loài cầm thú khác, vốn là để cung cấp thức ăn, nên giết hại chúng thì không có tội. Lại nhân nơi tà kiến sát hại chúng sinh. Những thứ gia hạnh như thế đều từ si khởi.

Gia hạnh của trộm cắp từ tham khởi: Nghĩa là từ nơi sự tham muốn khởi gia hạnh trộm cắp. Hoặc vì lợi riêng, được cung kính, được tiếng khen. Hoặc vì để cứu giúp bạn thân, bảo vệ tự thân, nên từ tham dẫn khởi gia hạnh trộm cắp. Từ sân khỏi: Nghĩa là như để trừ diệt kẻ oán đối, nên sinh tâm giận dữ, khởi gia hạnh trộm cắp. Từ si khởi: Nghĩa là như các vị vua v.v… dựa nơi pháp luật thế gian để chiếm đoạt tài sản của kẻ ác, cho là pháp nên như vậy, không có tội trộm cắp. Lại như người Bà-la-môn, nêu thuyết: Của cải vật dụng ở thế gian, vào thời kiếp sơ, là của Đại Phạm Thiên vương thí cho các Phạm chí. Về sau, thế lực của các Phạm chí suy kém, bị các tộc họ thấp kém chiếm đoạt, thọ dụng. Nay các Phạm chí đối với các thứ của cải vật dụng thuộc người khác nơi thế gian, hoặc đoạt lấy, hoặc trộm lấy, gồm đủ thức ăn, y phục, các thứ thọ dụng khác, hoặc chuyển thí cho kẻ khác, đều là dùng chính các thứ tài sản của mình, không có tội trộm cắp. Nhưng khi nhận lấy những tài sản kia thì các Phạm chí vẫn có tưởng là của kẻ khác. Lại nhân noi tà kiến để trộm cắp tài sản kẻ khác, đều gọi là gia hạnh của trộm cắp từ si khởi.

Gia hạnh của tà dâm từ tham khởi: Nghĩa là đối với thê thiếp của kẻ khác, khởi tâm nhiễm đắm. Hoặc vì để cầu được của cải nơi kẻ khác, cầu được danh dự, được cung kính. Hoặc vì để bảo vệ tự thân, tha thân. Từ tâm tham nhiễm, khởi gia hạnh của tà dâm. Từ sân khởi: Tức như vì nhằm trừ diệt kẻ oán đối, đã sinh tâm sân hận khởi gia hạnh của tà dâm. Từ si khởi: Như người Ba-lạt-tư đã tán dương sự việc đối với mẹ v.v… hành phi phạm hạnh. Lại như các Phạm chí tán thán sự việc trong đền thờ trâu bò, có các nam nữ thọ trì giới cấm của bò trâu, hớp nước, nhai cỏ, hoặc đứng hoặc đi như trâu bò, cũng không phân biệt thân sơ, tùy gặp tùy hợp. Hoặc như có các ngoại đạo nói: Hết thảy người nữ như cối giã gạo, như bông hoa, như trái cây, như thức ăn nấu chín, như thềm bậc, như đường đi, như cầu cống thuyền bè. Nhiều người nơi thế gian nên cùng thọ dụng. Các thứ gia hạnh như thế là từ nơi si sinh.

Bốn nghiệp đạo bất thiện thuộc ngữ như nói lời hư dối v.v… từ tham sân sinh nên nói giống như ở trước. Nhưng gia hạnh hiện có của nói lời hư dối từ si sinh, như Ngoại luận nói:

Nếu người nhân vui cười

Đám cưới, đối nữ, vua

Cùng cứu mạng, cứu của

Nói hư dối không tội.

Lại, các gia hạnh hiện có của nói lời hư dối, nói lời ly gián v.v… nhân nơi tà kiến sinh, nên biết tất cả là từ si khởi. Ngoài ra, các Luận Phệ-đà cùng những Luận tà khác đều thuộc về tạp uế ngữ, là gia hạnh từ si sinh.

Ba thứ như tham, sân v.v… đã không có gia hạnh, vì sao có thể nói chúng là từ tham v.v… sinh? Do chúng từ ba căn bất thiện vô gián sinh, nên có thể nói là tham v.v… là từ ba căn sinh. Nghĩa là hoặc có lúc từ tham vô gián sinh nghiệp đạo tham. Từ hai thứ còn lại cũng thế. Sân cùng tà kiến từ ba căn sinh cũng như vậy. Đã nói về bất thiện từ ba căn sinh. Về thiện thì thế nào?

* Tụng viết:

Thiện ở trong ba vị

Đều ba căn thiện khởi.

* Luận nêu: Các phần vị gia hạnh, căn bản, hậu khởi hiện có của các nghiệp đạo thiện đều từ ba căn thiện không tham, không sân, không si sinh khởi. Do ba phần vị thiện đều là đẳng khởi của tâm thiện. Tâm thiện tất cùng với ba thứ căn thiện cùng tương ưng. Ba phần vị thiện này, về tướng là thế nào? Nghĩa là xa lìa ba phần vị bất thiện ở trước. Lìa gia hạnh ác tức là gia hạnh thiện. Lìa căn bản ác tức là căn bản thiện. Lìa hậu khởi ác tức là hậu khởi thiện. Lại như Cần sách lúc thọ cụ giới: Đi vào giới đàn, lễ bái chúng Bí-sô, phát lời nói chí thành thỉnh Thân giáo sư, cho đến nhất bạch, nhị bạch yết-ma v.v… đều gọi là gia hạnh của nghiệp đạo thiện. Yết-ma thứ ba xong, thì nghiệp biểu vô biểu trong một sát-na ấy gọi là nghiệp đạo căn bản. Từ đấy trở về sau, cho đến lúc nói về bốn y chỉ (Nương dựa) cùng các y chỉ khác nối tiếp trước tùy chuyển, thì nghiệp biểu vô biểu này gọi là hậu khởi.

Như trước đã nói: Không phải tất cả các nghiệp đạo đều do ba căn tạo thành. Vậy những căn nào tạo thành những nghiệp đạo nào?

* Tụng viết:

Sát, thô ngữ, sân hận

Đều tạo thành do sân

Trộm cắp, tà hạnh, tham

Đều do tham tạo thành

Tà kiến do si tạo

Số còn lại do ba.

* Luận nêu: Trong nghiệp đạo ác: Các nghiệp đạo sát sinh, nói lời thô ác (Thô ngữ), sân hận là do sân tạo thành. Chính là do không biết quan tâm nhìn xét, cùng tâm cực kỳ thô ác, khi chúng cùng hiện tiền, nên ba thứ nghiệp đạo ấy được thành hình. Ba thứ nghiệp đạo trộm cắp, hành tà dục, tham, là do tham tạo thành. Chính là có tâm chiếu cố, dò xét, cùng tâm hết sức nhiễm ô, lúc chúng cùng hiện tiền, tức ba thứ nghiệp đạo này thành hình. Tà kiến được tạo thành chính là do ngu si. Do si phẩm thượng hiện tiền nên thành. Ba thứ nghiệp đạo: Nói lời hư dối, ly gián, uế tạp, mỗi mỗi là do ba căn bất thiện tạo thành. Do tham, sân lúc cùng hiện tiền, mỗi mỗi thứ có thể khiến ba thứ nghiệp đạo kia thành hình.

Các nghiệp đạo ác ở nơi xứ nào khởi?

* Tụng viết:

Hữu tình, vật, danh sắc Danh thân các xứ khởi. * Luận nêu: Như trước đã nói về bốn phần nghiệp đạo, thì ba loại (Sát sinh, nói lời thô ác, sân hận), ba loại (Trộm cắp, hành tà dục, tham lam), một loại (Tà kiến), ba loại (Nói lời hư dối, ly gián, uế tạp), theo thứ lớp ấy, ở nơi bốn xứ như hữu tình, các vật dụng, danh sắc, danh thân sinh khởi. Nghĩa là ba nghiệp đạo như sát sinh v.v… là từ xứ của hữu tình sinh khởi. Ba nghiệp đạo như trộm cắp v.v… là từ xứ của các vật dụng sinh khởi. Chỉ một nghiệp đạo tà kiến là từ nơi xứ của danh sắc sinh khởi. Ba thứ nghiệp đạo như nói lời hư dối v.v… là từ xứ của danh thân sinh khởi.

Như có người khởi gia hạnh định giết hại kẻ khác, nhưng lại cùng với kẻ bị hại cùng chết hoặc chết trước thì cũng thành tội của nghiệp đạo căn bản chăng?

* Tụng viết:

Cùng chết và chết trước

Không, căn dựa đã khác.

* Luận nêu: Nếu người sát hại cùng với kẻ bị sát hại cùng lúc mạng chung, hoặc người sát hại chết trước, thì người ấy nhất định không đạt được nghiệp đạo căn bản. Có câu hỏi: Từng có người sát sinh khởi gia hạnh sát hại cùng khiến quả đầy đủ, nhưng người ấy không bị liên hệ với tội giết hại chăng? Có. Là thế nào? Nghĩa là người sát hại cùng với kẻ bị sát hại cùng chết, hoặc chết trước. Vì sao như thế? Do người bị sát hại, thân mạng vẫn còn, nên không thể khiến chủ thể sát hại kia tạo thành tội sát sinh. Chủ thể sát hại kia do thân mạng đã mất, nên không thể “tạo được” tội sát sinh. Do chỗ dựa khác sinh. Nghĩa là chỗ nương dựa của gia hạnh sát hại là thân nay đã mất, tuy có loại thân đồng phần khác sinh nhưng không phải là chỗ dựa của tội, vì thân ấy chưa từng khởi gia hạnh sát sinh. Để tạo thành nghiệp đạo sát sinh, về lý như thế là không đúng.

Như có nhiều người tập hợp thành số đông, muốn giết hại kẻ oán địch hoặc là săn bắn thú rừng. Trong đây tùy lúc có một người sát sinh. Vậy người nào tạo thành nghiệp đạo sát sinh?

* Tụng viết:

Đông người nếu đồng sự

Đều thành như người tạo.

* Luận nêu: Ở trong số đông người, nếu theo đấy có một người tạo sự việc sát sinh, thì như người tự tạo, tất cả đều thành nghiệp đạo sát sinh. Do tất cả những người kia đồng cho là cùng làm một sự việc. Như vì một sự việc, lần lượt cùng chỉ dẫn kết hợp với nhau, nên một người sát sinh thì số còn lại đều bị tội. Nếu có trường hợp bị sức mạnh của kẻ khác bức bách phải nhập bọn, nhân đấy đồng tâm thì cũng thành tội sát. Chỉ trừ người đã lập nguyện không sát sinh: “Ngay cả khi để cứu lấy thân mạng mình, tôi cũng không hành sát sinh”. Nên tuy do kẻ khác bức bách phải đi theo, nhưng không có tâm sát hại, tức không có tội sát. Nay tiếp theo nên biện về tướng tạo thành nghiệp đạo. Nghĩa là ngang bằng với lượng nào thì gọi là sát sinh? Cho đến ngang bằng với mức gì thì gọi là tà kiến? Trước là phân biệt về tướng sát sinh.

* Tụng viết:

Sát sinh do cố ý

Tưởng khác, không giết lầm.

* Luận nêu: Chính là do trước đã phát khởi ý muốn giết hại, tức cố ý đối với hữu tình kia, tưởng về hữu tình ấy, tạo gia hạnh sát hại, và không giết lầm. Nghĩa là chỉ giết đúng kẻ kia, không giết lầm sang kẻ khác. Ngang với mức ấy gọi là nghiệp đạo sát sinh. Nếu có do dự trong khi sát hại, cũng thành sát sinh. Nghĩa là người kia trước ở nơi cảnh đã muốn giết hại, tâm mang do dự: Là chúng sinh hay chẳng phải chúng sinh? Nếu lại là chúng sinh thì đúng là kẻ kia hay chẳng phải kẻ kia? Sau thì khởi quyết chí: Hoặc đúng hoặc không đúng, ta nhất định sẽ giết. Do tâm không còn xem xét liên hệ. Nếu sát hại hữu tình cũng thành nghiệp đạo, thì đối với uẩn của sát-na diệt, vì sao thành sát sinh? Gió hơi thở (Tức phong) gọi là sinh, đã dựa nơi thân tâm chuyển. Nếu có người khiến sinh ấy đoạn dứt, không còn nối tiếp sinh, như thổi tắt ngọn đèn đang cháy, hoặc dứt tiếng chuông rung, thì gọi là sát. Hoặc lại cho sinh tức là mạng căn. Nếu có người khiến đoạn dứt không còn nối tiếp, gọi là sát. Nghĩa là do tâm ác đã đoạn lìa mạng của kẻ khác. Cho đến một niệm nêu sinh cũng không sinh. Chỉ ở đây, không phải nơi nào khác, tội sát sinh đã được định rõ. Hành vi đoạn dứt mạng này là thuộc về gì? Nghĩa là mạng, nếu không có thì kẻ kia liền chết. Đã nêu nơi phần thứ sáu không phải là ngã, nhưng là thứ gì, trong chương Phá Ngã sẽ xét chọn rộng. Thế nên Đức Bạc-già-phạm đã nói tụng:

Thọ mạng, noãn cùng thức

Lúc ba pháp bỏ thân

Thân đã bỏ cứng ngã

Như gỗ không hay biết.

Nên có căn thân gọi là có mạng, không căn gọi là chết, lý ấy quyết định như thế. Phái Ly Hệ nói: Không nghĩ xét mà giết cũng phạm tội sát. Cũng như chạm vào lửa, nếu như trước không xét nghĩ thì cũng bị bỏng nặng. Nếu nói như thế thì khi vô tình nhìn thấy vợ kẻ khác, hoặc xúc chạm nhầm nơi thân, cũng nên có tội. Lại, người tâm thiện cạo tóc cho các Sư Ly Hệ cũng có tội, hoặc sư phụ của Phái Ly Hệ cũng có tội vì đã khuyên nhiều người tu khổ hạnh. Hoặc nhân nơi thí chủ cúng dường thức ăn, khiến một người hoặc nhiều người thuộc Phái Ly Hệ ăn không tiêu v.v… Những trường hợp ấy đều nên có tội, vì đã khiến thọ khổ. Lại như bào thai cùng người mẹ đều là nhân của khổ, nên người mẹ cùng với thai là có tội, vì đã làm khổ kẻ khác. Như người bị giết đã cùng với kẻ sát hại hợp nhau, cũng nên như lửa có thể thiêu đốt chỗ dựa của chính nó. Không nên chỉ khiến chủ thể sát hại bị tội, còn người khiến kẻ khác giết hại thì tội sát nên không. Như lửa không thiêu đốt kẻ đã chỉ dẫn người kia xúc chạm với lửa. Lại, các thứ gỗ v.v… cũng nên bị tội, như ngôi nhà bị sập cũng làm hại chúng sinh. Như thế, không phải chỉ nêu dụ thì nghĩa có thể thành.

Đã phân biệt về sát sinh. Nghiệp đạo không cho mà lấy nay sẽ biện.

* Tụng viết:

Không cho lấy vật khác

Sức trộm lấy thuộc mình.

* Luận nêu: Trước đã nói về “Không lầm”, như chỗ ứng hợp đã dẫn đến môn sau nên không nói lại. Nghĩa là trước chính là khởi ý muốn trộm cắp nên cố ý, đối với vật của kẻ khác khởi tưởng là vật khác, hoặc dùng sức mạnh hoặc trộm lén, khởi gia hạnh trộm cắp, không lầm mà lấy khiến chúng thuộc về thân mình. Ngang với mức ấy gọi là tội không cho mà lấy. Nếu có kẻ trộm lấy vật dụng nơi bảo tháp, thì kẻ ấy đối với Đức Như Lai đã phạm tội trộm cắp. Do Đức Phật lúc sắp nhập Niết-bàn, đã thương xót thế gian nên thọ nhận chung các thứ cúng dường. Có Sư khác cho: Chỉ phạm tội khi lấy các vật không được người giữ tháp cho phép. Như có người đào lấy kho báu vô chủ dưới lòng đất, tuy ở nơi biên giới của Quốc chủ, vẫn phạm tội trộm cắp. Hoặc có trường hợp trộm lấy các vật đã hồi chuyển, tuy đã tác yết-ma nơi chúng Tăng bên trong cương giới, nếu yết-ma chưa thành, thì đối khắp đệ tử của Phật, tức phạm tội trộm cắp. Các trường hợp khác nên đối chiếu theo đấy. Đã biện về nghiệp đạo không cho mà lấy. Sẽ biện về nghiệp đạo hành dục tà.

* Tụng viết:

Hành dục tà bốn loại

Hành chốn không nên hành.

* Luận nêu: Gồm có bốn thứ hành không nên hành đều được gọi là tội hành dục tà. (1) Ở nơi cảnh sai trái (Phi cảnh) hành không nên hành. Nghĩa là hành dâm với thê thiếp thuộc về kẻ khác. Hành dâm với những người nữ đã được mẹ, cha, người thân của cha mẹ bảo hộ. Cho đến nơi cảnh đã được vua chúa bảo hộ. (2) Ở nơi “Phi đạo” hành không nên hành. Nghĩa là đối với vợ mình, hành dâm nơi miệng cùng các chỗ khác. (3) Ở nơi “Phi xứ” hành không nên hành. Nghĩa là hành dâm trong các chốn đền chùa, tháp miếu, nơi quá xa xôi. (4) Ở nơi “Phi thời” hành không nên hành. Phi thời là thế nào? Nghĩa là thời gian người nữ mang thai, cho con bú, thời gian thọ trai giới. Nếu như là thê thiếp của mình, cũng phạm tà hạnh. Có thuyết nói: Nếu người chồng đồng ý cho vợ mình thọ trai giới mà còn có trái phạm mới gọi là phi thời.

Đã nói “Không lầm” như trước cũng dẫn đến đây. Nếu đối với vợ của kẻ khác cho là vợ của mình, hoặc ở nơi vợ mình cho là vợ của kẻ khác, thì đạo, phi đạo v.v… chỉ có tâm lầm lẫn, tuy có hành tác nhưng không phải là nghiệp đạo.

Ở đây, nếu là một người nữ khác lại khởi tưởng là vợ của người khác nào đó, thì hành phi phạm hạnh, có thành nghiệp đạo không? Có thuyết cho là cũng thành, do đối với người nữ khác đã khởi gia hạnh dâm cùng thọ dụng. Có thuyết nói là không thành, do như nơi nghiệp đạo sát sinh: Ở đây khởi gia hạnh, ở nơi khác tạo thành.

Đối với Bí-sô-ni hành phi phạm hạnh, thì từ nơi xứ nào thành nghiệp đạo? Đây là từ Quốc vương không thừa nhận. Đối với thê thiếp của chính mình thời gian đang thọ trì trai giới hãy còn không nên hành dâm huống là đối với người xuất gia. Nếu đối với đồng nữ hành phi phạm hạnh, là từ nơi xứ nào thành nghiệp đạo? Như đồng nữ đã hứa hôn với kẻ khác, thì phạm tội đối với người nam đã được đồng nữ hứa hôn. Nếu chưa hứa hôn với kẻ khác, thì phạm tội đối với người bảo hộ đồng nữ. Ở đây cùng với trường hợp khác đều ở nơi nhà vua tạo thành nghiệp đạo. Đã biện về hành dục tà, sẽ biện về nghiệp đạo nói lời hư dối.

* Tụng viết:

Nhiễm, tưởng khác phát ngôn

Hiểu nghĩa, nói hư dối.

* Luận nêu: Nơi nghĩa đã nói ra, khởi tưởng khác để phát ngôn, cùng người bị lừa dối đã hiểu nghĩa được nói ấy, tâm nhiễm không lầm là thành nói lời hư dối. Nếu người bị lừa dối chưa hiểu nghĩa của lời nói kia, thì đấy là gì? Là lời nói uế tạp. Đã là lời nói hư dối tức lời nói phát ra có nhiều chữ tạo thành lời. Vậy vào lúc nào thì thành nghiệp đạo? Là cùng với chữ sau cùng, biểu thanh và nghiệp vô biểu cùng sinh thì thành nghiệp đạo này. Hoặc tùy vào lúc kẻ bị lừa dối nghe hiểu được nghĩa ấy, tức nghiệp biểu, vô biểu đã thành nghiệp đạo ấy. Chữ trước cùng hành đều là gia hạnh của nghiệp đạo Nói lời hư dối.

Hiểu được nghĩa đã nói, nhất định căn cứ vào thời nào? Là căn cứ vào lúc đã nghe đang hiểu gọi là hiểu? Hay là căn cứ vào lúc đang nghe có thể hiểu, gọi là hiểu? Nếu vậy thì có lỗi gì? Nếu căn cứ vào lúc đã nghe đang hiểu gọi là hiểu, thì lời nói được giảng giải nghĩa là do ý thức nhận biết. Ngữ biểu nơi nhĩ thức cùng lúc diệt. Thế nên nghiệp đạo này chỉ là vô biểu thành. Nếu căn cứ theo lúc đang nghe có thể hiểu gọi là hiểu thì tuy không có lỗi, nhưng chưa nhận biết rõ: Vì sao lúc đang nghe được gọi là có thể hiểu? Nghĩa của lời nói đúng, là không có duyên mê loạn. Nhĩ thức đã sinh gọi là có thể hiểu. Như người không có lỗi, nên lấy đó làm Tông chỉ. Kinh nêu các lời nói lược có mười sáu thứ. Nghĩa là ở trong bốn sự việc không thấy không nghe không hiểu không biết, nói là thật thấy v.v… Hoặc ở trong bốn sự việc đã thấy đã nghe đã hiểu đã biết, nói là không thấy v.v… Tám thứ như thế gọi là lời nói phi Thánh. Nếu đối với bốn sự việc không thấy cho đến không biết, nói là không thấy v.v… Hoặc đối với bốn sự việc đã thấy cho đến đã biết, nói là thật thấy v.v… Tám thứ như vậy gọi là Thánh ngôn. Những gì gọi là tướng của đối tượng được thấy v.v…?

* Tụng viết:

Do nhãn nhĩ ý thức

Cùng ba chỗ chứng khác

Như thứ lớp gọi là

Đã thấy nghe hiểu biết.

* Luận nêu: Sư Tỳ-bà-sa nêu ra thuyết này: Nếu cảnh là đối tượng chứng biết do nhãn thức, gọi là đối tượng được thấy. Nếu cảnh là đối tượng chứng biết do nhĩ thức, thì gọi là đối tượng được nghe. Nếu cảnh là đối tượng chứng biết của ý thức, thì gọi là đối tượng được biết. Nếu cảnh là đối tượng chứng biết do tỷ thức, thiệt thức và thân thức thì gọi là đối tượng được cảm nhận (Sở giác). Sở dĩ như thế là vì ba thứ hương vị xúc tánh là vô ký, nên như kẻ chết không có cảm nhận, nên có thể chứng biết thì lập riêng tên cảm nhận (Giác). Do đâu chứng biết như thế? Do nơi lý chứng của kinh. Nói do kinh, nghĩa là như Khế kinh nói: “Đức Phật nói với Tôn giả Đại Mẫu: Ý của ông là thế nào? Các sắc hiện có, không phải là mắt ông đang thấy, không phải là ông đã từng thấy, không phải là ông sẽ thấy, không phải là ông mong cầu được thấy, ông có nhân đấy khởi dục khởi tham khởi thân khởi ái, khởi A-lại-da, khởi Ni-diên-để, khởi tham đắm không? Bạch Đại đức, không có! Các thứ âm thanh hiện có, không phải là tai ông đang nghe, nói rộng cho đến các pháp hiện có, không phải là ý ông đang nhận biết, nói rộng cho đến: Bạch Đại đức, không có! Đức Phật lại nói với Tôn giả Đại Mẫu: Ông ở trong ấy, đối với những thứ được thấy nên nhận biết chỉ có các thứ được thấy. Các thứ được nghe, được cảm nhận, được biết, nên nhận biết là chỉ có những thứ ấy”. Kinh này đã ở nơi cảnh của sắc, thanh, pháp nói là được thấy được nghe, được biết. Dựa theo đó nhất định ở nơi ba cảnh như hương v.v… đã hợp chung để kiến lập một tên gọi được cảm nhận (Sở giác). Lại, hương vị xúc là ở ngoài được thấy v.v… Tức đối với ba cảnh kia nên không khởi ngôn thuyết. Đó gọi là lý. Dẫn chứng này không thành! Do kinh không phải là chứng. Nghĩa của đoạn kinh trên là khác. Không phải trong đoạn kinh ấy Đức Thế Tôn ý muốn phán quyết về bốn thứ tướng đã nói như thấy v.v… Rõ ràng là nghĩa đã nói của thấy nơi đoạn kinh này, tức Đức Phật khuyên Tôn giả kia, ở trong sáu cảnh, cùng đối với bốn sự việc đã nói như thấy v.v…, nên nhận biết chỉ có những thứ được thấy v.v…, không nên tăng thêm tướng yêu thích không yêu thích.

Nếu như thế thì tướng gì gọi là được thấy được nghe v.v… ? Có Sư khác nói: Nếu là cảnh hiện được chứng biết của năm căn thì gọi là được thấy. Nếu do người khác truyền nói thì gọi là được nghe. Nếu tự tâm vận động dùng các thứ lý, thì chỗ đối chiếu suy xét được thừa nhận gọi là được cảm nhận (Sở giác). Nếu ý hiện chứng biết gọi là được nhận biết. Ở trong năm cảnh mỗi mỗi có thể khởi bốn thứ ngôn thuyết thấy nghe nhận biết (Kiến văn giác tri). Đối với cảnh thứ sáu (Cảnh của ý thức), trừ thấy, còn có ba. Do giác này không phải là “Không có đối tượng được thấy”. Ba cảnh như hương vị xúc, ngôn thuyết không phải là không. Nên lý kia nêu bày cũng là vô lý. Các Quỹ phạm sư trước nói như thế này: Đối tượng hiện thấy của mắt gọi là được thấy. Từ nơi kẻ khác truyền nghe gọi là được nghe. Tâm mình tự vận động nơi các thứ được xét thành gọi là được cảm nhận. Đối tượng thọ nhận từ bên trong của chính mình cùng đối tượng do mình chứng biết gọi là được nhận biết.

Phần luận thêm nên dừng để quảng diễn phần luận chính.

Từng có do nghĩa của tưởng khác thuộc thân biểu, không do phát khởi ngữ mà thành lời nói hư dối chăng? Có. Như Bản luận nói: Từng có người thân không hành động mà tạo tội sát sinh chăng? Có. Nghĩa là phát khởi ngôn ngữ. Từng có người không phát khởi ngôn ngữ mà tạo tội nói lời hư dối chăng? Có. Nghĩa là thân hành động. Từng có người thân không động, không phát khởi ngữ, mà vẫn tạo hai tội (Sát sinh, nói lời hư dối) chăng? Có. Nghĩa là như Tiên nhân nổi giận dữ tức phạm tội sát sinh. Hoặc Bí-sô vào thời gian Bố-sáitha (Bố-tát) đã im lặng tức là nói dối.

Nếu thân không động cũng không phát khởi ngữ, là muốn không có vô biểu, lìa biểu mà sinh. Hai tội ấy vì sao được thành nghiệp đạo? Đối với vấn nạn như thế phải nên gắng sức luận xét.

Đã biện về nghiệp đạo nói lời hư dối. Sẽ biện về ba nghiệp đạo còn lại của ngữ.

* Tụng viết:

Tâm nhiễm hoại tha ngữ

Gọi là lời ly gián

Phi ái: Lời thô ác

Các nhiễm: Lời uế tạp

Có nói nhiễm khác ba

Nịnh, ca hát, tà luận v.v…

* Luận nêu: Nếu tâm nhiễm ô, phát khởi lời nói hủy hoại kẻ khác. Hoặc kẻ khác bị hủy hoại, không hủy hoại, đều thành tội nói lời ly gián. Người nghe hiểu nghĩa và không lầm đều được dẫn đến phần này.

Nếu do tâm nhiễm phát khởi lời nói “Phi ái” hủy báng kẻ khác, gọi là nói lời thô ác. Câu nói tâm nhiễm ô ở trước cũng được áp dụng ở đây. Người nghe hiểu nghĩa và không lầm cũng cùng đồng với trước. Nghĩa là tâm vốn mong muốn được mạ ly, khiến người nghe hiểu nghĩa đã nói thì nghiệp đạo mới thành. Tất cả các thứ lời nói đã phát ra của tâm nhiễm ô đều là lời nói uế tạp. Vì sao? Vì ngôn ngữ nhiễm ô đã phát khởi đều là uế tạp. Chỉ mỗi chữ ngữ ở trước là được áp dụng ở đây.

Có Sư khác cho: Khác với ba thứ lời nói ở trước như nói lời hư dối, ly gián, thô ác, tất cả lời nói phát ra của tâm nhiễm ô hiện có gọi là lời nói uế tạp. Ở đây cho là nịnh, ca hát cùng tà luận v.v… Nịnh: Nghĩa là dua nịnh. Như có Bí-sô hành tà mạng luôn tích chứa, phát khởi ngôn ngữ dua nịnh. Ca: Nghĩa là ca vịnh. Như thế gian có người do tâm nhiễm ô nên đọc tụng ngâm nga đủ giọng. Cùng các xướng kỹ, vì làm vui lòng kẻ khác, do tâm nhiễm ô nên tạo các từ khúc. Nói tà luận: Nghĩa là biện nói rộng về các thứ ngôn từ chấp trước không có chánh kiến. Vân vân (Trong câu tụng: Nịnh, ca hát, tà luận v.v…): Nghĩa là tâm nhiễm đã phát khởi bi thán, cùng các thứ ngôn từ hý luận của thế tục. Chỉ khác với ba tâm nhiễm ô đã phát khởi ngôn ngữ ở trước, tất cả đều thuộc về lời nói uế tạp.

Thời kỳ Chuyển luân vương xuất hiện cũng có ca vịnh, vì sao không cho đấy là thuộc về lời nói uế tạp? Do các lời ca vịnh kia là từ nơi tâm xuất ly phát khởi, có thể dẫn đến nẻo xuất ly, không phải là gắn với tâm nhiễm ô. Có Sư khác cho: Bấy giờ cũng có các thứ ngôn ngữ cấu nhiễm đã phát khởi như lời nói cầu hôn v.v… Do lỗi nhẹ nên không thành nghiệp đạo.

Đã biện về ba nghiệp đạo còn lại thuộc ngữ. Sẽ biện về ba nghiệp đạo của ý.

* Tụng viết:

Dục ác của khác: Tham

Hữu tình ghét: Giận dữ

Kiến chấp bác thiện ác v.v…

Gọi nghiệp đạo tà kiến.

* Luận nêu: Đối với tài sản vật dụng của người khác, khởi dục ác gọi là tham. Nghĩa là đối với tài sản của người khác dấy khởi ham muốn phi lý: Làm sao khiến các thứ tài sản kia thuộc về ta, không phải là của họ? Dấy khởi quyền lực hoặc tâm trộm cắp dốc cầu tìm tài vật của kẻ khác. Dục ác như thế gọi là nghiệp đạo tham. Có Sư khác cho: Các thứ ái thuộc cõi dục đều là nghiệp đạo tham. Vì sao? Vì như trong Kinh Ngũ Cái đã cho thấy: Dựa nơi cái tham dục, Đức Phật đã nói là nên đoạn trừ tham của thế gian này. Nên biết tên gọi tham là nói chung về ái của cõi dục. Có thuyết nói: Ái của cõi dục tuy đều gọi là tham, nhưng không thể nói chúng đều thành nghiệp đạo, do trong hành ác này chỉ gồm thâu phẩm thô. Chớ nên cho là Chuyển luân vương xuất hiện ở đời cùng người của châu Bắc Câu-lô đã khởi dục tham thành nghiệp đạo tham, tuy cả hai đều thuộc cõi dục.

Đối với loại hữu tình khởi giận dữ, ghét bỏ gọi là sân. Nghĩa là đối nơi các hữu tình khác muốn gây tạo các sự việc tổn hại cho họ. Giận ghét như vậy gọi là nghiệp đạo sân. Đối với thiện, ác v.v… khởi ác kiến bác bỏ cho là không có, thì kiến chấp này gọi là nghiệp đạo tà kiến. Như nơi kinh nói: “Không có bố thí cùng không có ái lạc, không có tế tự, không có hành diệu, không có hành ác, không có dị thục nơi quả của nghiệp tạo hành diệu hành ác. Không có thế gian này không có thế gian kia, không có cha, không có mẹ, không có hữu tình hóa sinh. Thế gian không có Sa-môn hoặc Bà-la-môn là A-la-hán v.v…”. Kinh kia đã hiển bày đủ về các thứ tà kiến hủy báng nghiệp, hủy báng quả, hủy báng Thánh nhân. Ở đây, tụng chỉ nêu phần đầu cùng chữ vân vân (Đẳng) để gồm thâu phần sau (Kiến chấp bác thiện ác v.v…).

HẾT – QUYỂN 16