LUẬN A TỲ ĐẠT MA CÂU XÁ
Tác giả: Tôn giả Thế Thân
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ 

 

QUYỂN 8

Phẩm thứ 3: PHÂN BIỆT THẾ GIỚI, phần 1

Đã dựa nơi ba cõi để phân biệt về tâm v.v… Nay tiếp theo nên nói về ba cõi là thế nào? Đều ở trong ấy nêu có bao nhiêu xứ riêng?

* Tụng viết:

Địa ngục, bàng sinh, quỷ

Người cùng sáu trời dục

Gọi cõi dục: Hai mươi

Do địa ngục, châu khác.

Mười bảy xứ trên đây

Gọi cõi sắc trong ấy:

Ba tĩnh lự đều ba

Tĩnh lự thứ tư tám.

Cõi vô sắc không xứ

Do sinh có bốn thứ

Dựa đồng phần cùng mạng

Khiến tâm cùng nối tiếp.

* Luận nêu: Bốn nẻo như địa ngục cùng sáu trời thuộc cõi dục và khí thế gian, đó gọi là cõi dục. Sáu trời cõi dục: (1) Trời Tứ Thiên Vương Chúng. (2) Trời Ba Mươi Ba (Trời Đao Lợi). (3) Trời Dạ-ma.

(4) Trời Đổ Sử Đa (Trời Đâu Suất). (5) Trời Lạc Biến Hóa. (6) Trời Tha-hóa-tự-tại. Như vậy, xứ riêng của cõi dục có bao nhiêu? Do địa ngục, châu khác nên thành hai mươi: Tám đại địa gọi là địa ngục khác: (1) Địa ngục Đẳng Hoạt. (2) Địa ngục Hắc Thằng. (3) Địa ngục Chúng Hợp. (4) Địa ngục Hào Khiếu. (5) Địa ngục Đại Khiếu. (6) Địa ngục Viêm Nhiệt. (7) Địa ngục Đại Nhiệt. (8) Địa ngục Vô Gián. Nói châu khác: Nghĩa là bốn đại châu. (1) Châu Nam Thiệm-bộ. (2) Châu Đông Thắng Thân. (3) Châu Tây Ngưu Hóa. (4) Châu Bắc Câu-lô. Mười hai xứ như thế cùng sáu trời dục, hai nẻo bàng sinh, ngạ quỷ là thành hai mươi xứ. Nếu về hữu tình giới, từ trời Tự Tại cho đến địa ngục Vô gián. Hoặc về khí thế giới cho đến phong luân đều thuộc về cõi dục.

Xứ trên cõi dục này có mười bảy: Nghĩa là ba xứ tĩnh lự đều có ba. Riêng xứ tĩnh lự thứ tư có tám. Khí thế gian cùng hữu tình gọi chung là cõi sắc. Xứ tĩnh lự thứ nhất có ba: (1) Trời Phạm Chúng. (2) Trời Phạm Phụ. (3) Trời Đại Phạm. Xứ tĩnh lự thứ hai có ba: (1) Trời Thiểu Quang. (2) Trời Vô Lượng Quang. (3) Trời Cực Quang Tịnh. Xứ tĩnh lự thứ ba có ba: (1) Trời Thiểu Tịnh. (2) Trời Vô Lượng Tịnh. (3) Trời Biến Tịnh. Xứ tĩnh lự thứ tư có tám: (1) Trời Vô Vân. (2) Trời Phước Sinh. (3) Trời Quảng Quả. (4) Trời Vô Phiền. (5) Trời Vô Nhiệt. (6) Trời Thiện Hiện. (7) Trời Thiện Kiến. (8) Trời Sắc Cứu Cánh (A Ca Ni Trá). Các vị Đại Luận sư của nước Ca-thấp-di-la đều nói: Xứ cõi sắc chỉ có mười sáu. Chư vị ấy cho: Nơi xứ trời Phạm Phụ có một đài gác cao gọi là Đại Phạm Thiên, là nơi chốn cư ngụ của một vị chủ, không phải có địa riêng. Như nơi tòa ngồi của Đức Thế Tôn, bốn chúng vây quanh. Trong cõi vô sắc đều không có xứ. Do không có sắc pháp nên không có phương sở. Quá khứ vị lai là vô biểu vô sắc, không trụ nơi phương sở, lý quyết định là như thế. Chỉ do dị thục sinh có sai biệt nên có bốn: (1) Xứ không vô biên. (2) Xứ thức vô biên. (3) Xứ vô sở hữu. (4) Xứ phi tưởng phi phi tưởng. Bốn thứ như vậy gọi là cõi vô sắc. Bốn thứ này không phải do xứ có trên dưới. Chỉ do sinh hơn kém nên có khác nhau. Lại vì sao nhận biết cõi kia là không có phương sở? Nghĩa là ở nơi xứ ấy đạt được định kia, mạng chung tức ở nơi xứ ấy sinh. Lại từ nơi cõi kia qua đời, lúc sinh vào cõi dục, cõi sắc, tức ở trong xứ ấy có khởi. Như nơi cõi có sắc, tất cả hữu tình cần dựa nơi sắc thân nên tâm cùng nối tiếp. Nơi cõi vô sắc, hữu tình thọ sinh dùng gì để nương dựa nên tâm cùng nối tiếp? Các Sư Đối Pháp nói: Tâm kia cùng dựa nơi chúng đồng phần cùng với mạng căn mà được nối tiếp. Nếu như thế thì hữu tình có sắc, tâm v.v… sao không chỉ dựa nơi hai thứ ấy để nối tiếp? Do sinh trong cõi có sắc thì hai thứ ấy là kém. Trong cõi vô sắc, hai thứ ấy (Chúng đồng phần và mạng căn) nhân nơi gì nên mạnh? Hai thứ ấy nơi cõi vô sắc là từ thắng định sinh. Do đẳng chí của cõi kia có thể chế ngự tưởng sắc. Nếu như vậy thì ở nơi cõi vô sắc, tâm v.v… nối tiếp chỉ dựa vào thắng định, đâu cần chỗ dựa khác? Lại, nay nên nói: Như cõi có sắc, hữu tình thọ sinh thì đồng phần, mạng căn dựa nơi sắc mà chuyển. Nơi cõi vô sắc, hai thứ ấy dùng gì làm chỗ dựa? Hai thứ ấy lại hỗ tương nương dựa mà chuyển. Nơi cõi có sắc, hai thứ ấy sao không cùng nương dựa vào nhau? Do sinh nơi cõi có sắc thì hai thứ ấy là kém. Nơi cõi vô sắc, hai thứ ấy nhân nơi gì nên mạnh? Do nơi cõi vô sắc, hai thứ ấy là từ thắng định sinh. Trước đã nói định kia có thể điều phục tưởng sắc, tức là trở lại đồng với vấn nạn về tâm nối tiếp. Hoặc tâm tâm sở chỉ hỗ tương nương dựa. Sư Kinh Bộ cho: Nơi cõi vô sắc, tâm v.v… nối tiếp không có riêng chỗ nương dựa. Nghĩa là nếu có nhân chưa lìa sắc ái dẫn khởi tâm v.v… thì tâm v.v… được dẫn cùng với sắc cùng sinh, dựa nơi sắc mà chuyển. Nếu nhân nơi sắc đã được lìa ái, chán bỏ sắc thì tâm v.v… được dẫn không phải sắc cùng sinh, không dựa nơi sắc chuyển. Vì sao gọi là ba cõi như dục v.v… có thể giữ lấy tự tướng, nên gọi là giới? Hoặc nghĩa chủng tộc như trước đã giải thích. Dục thuộc về cõi nên gọi là cõi dục. Sắc thuộc về cõi nên gọi là cõi sắc. Lược bỏ phần giữa nên nói như thế. Như thuốc nước hồ tiêu, như vòng kim cương. Ở trong cõi vô sắc kia, sắc không có nên gọi là vô sắc. Nói sắc là nghĩa biến ngại. Hoặc nghĩa chỉ rõ hiện rõ. Thể kia là không sắc nên lập tên gọi vô sắc, không phải cõi kia chỉ dùng sắc không làm Thể. Vô sắc thuộc về cõi nên gọi là cõi vô sắc. Lược bỏ phần giữa, dụ như trước đã nêu. Lại, cõi của dục gọi là cõi dục. Cõi này, lực có thể nhận giữ dục. Cõi sắc, vô sắc nên biết cũng như thế. Ở đây, từ dục là nói về pháp gì? Là lược nói về đoạn thực, do dâm đã dẫn tham. Như Tụng của Kinh đã nói:

Các cảnh diệu đời phi dục thật

Dục thật là người phân biệt tham

Cảnh diệu như gốc trụ thế gian

Người trí ở đấy đã trừ dục.

Ngoại đạo tà mạng liền cật vấn Tôn giả Xá-lợi-tử:

Nếu cảnh diệu đời phi dục thật

Nói dục là người phân biệt tham

Tỳ-kheo nên gọi người thọ dục

Do khởi tầm tư phân biệt ác.

Lúc ấy, Tôn giả Xá-lợi-tử đáp lại ngoại đạo kia:

Nếu cảnh diệu đời là dục thật

Nói dục phi người phân biệt tham

Thầy ông nên gọi người thọ dục

 Do luôn quán sắc diệu hợp ý.

Nếu pháp ở nơi ba cõi kia hiện hành, thì pháp ấy tức nói là hệ thuộc ba cõi chăng? Không phải thế. Vì sao? Vì trong ấy chỉ là tham của ba cõi tùy tăng mới gọi là hệ thuộc ba cõi. Ở đây, pháp gì gọi là tham của ba cõi? Nghĩa là trong ba cõi đều tùy tăng. Như vậy điều đã nói ấy là đồng với lời đáp về sự việc buộc ngựa. Như có người hỏi: Người buộc ngựa này là ai? Đáp: Là người chủ của ngựa. Lại hỏi: Người chủ của ngựa là ai? Đáp: Là người buộc ngựa. Như thế, hai lời đáp đều không khiến hiểu được sự việc. (Giải thích) Nay ở đây, điều đã nói không giống với lời đáp kia. Nghĩa là ở trước đã nêu về các xứ của cõi dục chưa lìa tham, thì tham ấy gọi là dục tham (Tham của cõi dục). Tham này đã tùy tăng gọi là hệ thuộc cõi dục. Ở trước đã nói trong cõi sắc, cõi vô sắc, theo chỗ ứng hợp nên biết cũng như vậy. Hoặc là tham của địa bất định gọi là dục tham. Tham ấy đã tùy tăng gọi là hệ thuộc cõi dục. Tham của địa thuộc các tĩnh lự gọi là sắc tham (Tham của cõi sắc). Tham ấy đã tùy tăng gọi là hệ thuộc cõi sắc. Tham của địa thuộc các định vô sắc, gọi là vô sắc tham (Tham của cõi vô sắc). Tham ấy đã tùy tăng gọi là hệ thuộc cõi vô sắc. Ở trên tâm biến hóa của cõi dục, do đâu khởi dục tham? Là theo người khác được nghe, hoặc tự mình thoái mất, sinh ái vị. Hoặc quán người biến hóa có uy lực tự tại. Nên đối với các sự việc kia, tâm biến hóa sinh tham ái. Nếu tâm có thể biến hóa hai pháp hương vị, thì tâm có thể biến hóa này là hệ thuộc cõi dục. Do tâm của cõi sắc không thể hóa tác hương vị.

Ba cõi như thế chỉ có là một chăng? Ba cõi là vô biên, lượng như hư không. Nên tuy không có hữu tình mới sinh, hoặc có vô lượng vô biên chư Phật xuất thế, mỗi mỗi vị hóa độ vô lượng hữu tình khiến chứng nhập Niết-bàn giới vô dư, nhưng ba cõi là không cùng tận, cũng như hư không.

Thế giới nên nói là an trụ như thế nào? Nên nói là an trụ theo chiều ngang. Khế kinh nói: Ví như khi trời đổ mưa, hạt mưa lớn như trục bánh xe, không gián đoạn, từ nơi không trung tuôn xuống. Như thế nơi phương Đông cũng không gián đoạn, có vô lượng thế giới hoặc hoại hoặc thành. Như ở phương Đông, các phương Nam Tây Bắc cũng lại như vậy. Không nói phương trên phương dưới. Có thuyết cho: Cũng có hai phương trên dưới. Do trong các Bộ kinh khác đã nói về mười phương. Tức trên xứ trời Sắc Cứu Cánh lại có cõi dục. Nơi bên dưới cõi dục có xứ trời Sắc Cứu Cánh. Nếu có hữu tình lúc lìa tham của một cõi dục thì tham của các cõi dục đều được diệt, lìa. Lìa tham của cõi sắc, cõi vô sắc nên biết cũng như thế. Dựa nơi tĩnh lự thứ nhất, lúc khởi thông tuệ, thì thần thông được phát khởi chỉ có thể đi đến tự cảnh giới đã sinh là trời Phạm Thế, không phải là xứ khác. Các thứ thông tuệ khác, nên biết cũng như vậy. Đã nói về ba cõi. Năm nẻo (Thú) là thế nào?

* Tụng viết:

Trong ấy như địa ngục v.v…

Mục danh nói năm nẻo

Chỉ vô phú vô ký

Hữu tình không trung hữu.

* Luận nêu: Ở trong ba cõi nói có năm nẻo. Tức địa ngục v.v… như nơi Mục tên gọi đã nêu. Nghĩa là trước đã nói: Địa ngục, bàng sinh, quỷ cùng người, trời, đó gọi là năm nẻo. Chỉ ở nơi cõi dục là có bốn nẻo hoàn toàn (Địa ngục, bàng sinh, quỷ, người). Ba cõi đều có một phần của nẻo trời. Ở trong cõi nói là có năm nẻo. Vậy thì có một phần của ba cõi không thuộc về năm nẻo chăng? Có. Tức là thiện, nhiễm, khí thế gian, trung hữu. Tuy chúng là tánh của cõi nhưng không thuộc về nẻo. Thể của năm nẻo chỉ là vô phú vô ký. Nếu khác với điều ấy thì nẻo tức nên cùng xen tạp. Ở trong một nẻo có đủ phiền não nghiệp của năm nẻo. Năm nẻo chỉ là thuộc về số hữu tình. Thể không phải là trung hữu. Luận Thi Thiết Túc nói: Bốn loài (Bốn loài đầu thai: Thai noãn thấp hóa) gồm thâu năm nẻo. Không phải năm nẻo gồm thâu bốn loài. Những gì không gồm thâu? Đó là trung hữu. Luận Pháp Uẩn Túc cũng nói: Thế nào là nhãn giới? Nghĩa là sắc tịnh được tạo do bốn đại chủng là mắt, nhãn căn, nhãn xứ, nhãn giới nơi các nẻo địa ngục, bàng sinh, quỷ, người, trời, tu thành (Thiền định) trung hữu. Khế kinh cũng phân biệt trung hữu khác với nẻo. Tức như Kinh Thất Hữu nói có bảy hữu. Nghĩa là địa ngục hữu, bàng sinh hữu, ngạ quỷ hữu, thiên hữu, nhân hữu, nghiệp hữu và trung hữu. Trong Kinh ấy đã nói năm nẻo cùng nhân và phương tiện của nẻo. Nên nẻo chỉ là vô phú vô ký, lý ấy là trọn thành. Tức phân biệt nghiệp hữu là nhân khác với các nẻo. Các Luận sư ở nước Ca-thấpdi-la đã tụng Khế kinh như vầy: “Tôn giả Xá-lợi-tử nói: Này Cụ thọ! Nếu nơi địa ngục có các lậu hiện tiền, tức nên tạo tác làm tăng trưởng thuận thọ nghiệp địa ngục. Thân ngữ ý của nghiệp kia là quanh co, cấu uế ô trược, nên ở trong Nại-lạc-ca thọ nhận dị thục là năm uẩn. Dị thục khởi rồi gọi là Na-lạc-ca. Trừ pháp năm uẩn, Na-lạc-ca kia hoàn toàn không thể đạt được gì nữa, nên nẻo chỉ là vô phú vô ký”.

Nếu như vậy thì như nơi Luận Phẩm Loại Túc đã nói nên làm sao thông hợp? Luận ấy viết: “Tất cả tùy miên của năm nẻo đều đã tùy tăng”. Luận ấy nói là nhằm chỉ cho tâm nối tiếp sinh trong năm nẻo, gồm có tất cả phiền não của năm bộ (Do kiến đạo và tu đạo đoạn trừ) đã hướng đến cùng nhập nên nói chung là nẻo, không có lỗi trái nhau. Ví như thôn xóm cùng ranh giới của thôn xóm, gọi chung là thôn xóm. Có thuyết cho: Thể của nẻo cũng chung cả thiện, nhiễm. Nhưng Kinh Thất Hữu đã phân biệt về nghiệp hữu, không phải là nói riêng, nên nhất định không phải là thuộc về nẻo kia. Như trong năm trược, phiền não và kiến được nói riêng là trược. Nhưng không phải do được nói riêng mà kiến kia nhất định không thuộc về phiền não. Như vậy, nghiệp hữu tuy cũng là nẻo, nhưng để làm rõ về nhân của nẻo, nên nói riêng. Nếu thế thì trung hữu cũng nên là nẻo. Không đúng! Vì không tương ưng với nghĩa của nẻo. Nẻo nghĩa là nơi chốn đi đến. Còn trung hữu thì không thể nói là nơi chốn đi đến, vì nó đã sinh từ xứ chết. Nếu thế thì cõi vô sắc cũng nên không phải là nẻo, vì đã ở nơi xứ chết mà thọ sinh. Trung hữu đã như vậy nên gọi là trung hữu không nên gọi là nẻo. Vì là trung gian của hai nẻo nên gọi là trung hữu. Ở đây, nếu thuộc về nẻo, không phải là trung gian, tức là không nên gọi là trung hữu. Nhưng nơi Kinh kia nêu Tôn giả Xálợi-tử cho lúc dị thục khởi rồi gọi là hữu tình nơi địa ngục, là nói dị thục khởi mới gọi là địa ngục, không phải nói địa ngục chỉ là dị thục. Tuy nhiên lại nói trừ pháp năm uẩn thì Na-lạc-ca kia là không thể có được. Tức nhằm ngăn chận là thực có một Bổ-đặc-già-la có thể đi đến các nẻo, nên nói như vậy, không phải là ngăn chận uẩn khác. Các Sư Tỳ-bà-sa nói nẻo chỉ là vô phú vô ký. Có vị cho hoàn toàn là dị thục sinh. Có Sư khác nói là cũng chung cho “Được nuôi lớn”.

Lại nơi ba cõi cùng trong năm nẻo, như thứ lớp ấy có bảy thức trụ. Bảy thức trụ này là thế nào?

* Tụng viết:

Thân khác cùng tưởng khác

Thân khác đồng một tưởng

Trái đây, thân tưởng một

Cùng ba vô sắc dưới

Nên thức trụ có bảy

Còn, không có tổn hoại.

* Luận nêu: Trong Khế kinh nói: Hữu tình có sắc, thân khác tưởng khác, như người và một phần các trời, là thức trụ thứ nhất. Một phần các trời: Là các trời thuộc cõi dục cùng tĩnh lự thứ nhất trừ kiếp mới khởi. Nói thân khác: Nghĩa là sắc thân kia có vô số hiển bày về hình tướng trạng mạo khác nhau. Các hữu tình kia do khác thân hoặc có thân khác nhau nên nói là thân khác. Nói tưởng khác: Nghĩa là các hữu tình kia có tưởng khổ vui không khổ không vui sai biệt. Các hữu tình này do khác tưởng hoặc có tưởng khác nhau nên nói là tưởng khác.

Hữu tình có sắc, thân khác tưởng một, như nơi trời Phạm chúng, vào thời kỳ kiếp mới khởi, là thức trụ thứ hai. Vì sao? Do vào lúc kiếp mới khởi thì các Phạm chúng kia dấy khởi tưởng như vầy: Chúng ta đều là do Đại phạm sinh ra. Đại phạm bấy giờ cũng khởi tưởng: Các Phạm chúng này đều do ta sinh. Đồng tưởng về một nhân nên gọi là tưởng một. Thân của Đại Phạm vương, về lượng là cao rộng, các sự việc như dung mạo, oai đức, ngôn ngữ, ánh sáng, áo mão v.v… mỗi mỗi đều chẳng đồng so với Phạm chúng, nên nói là thân khác. Kinh nói: Phạm chúng đã khởi niệm: Chúng ta đã từng thấy hữu tình như thế, trường thọ, trụ lâu xa, cho đến khởi nguyện: Làm sao để khiến các hữu tình khác cũng sinh nơi đồng phần của ta. Tức vào lúc các hữu tình này đang khởi tâm nguyện: Chúng ta liền sinh trong đồng phần ấy để cùng sống với họ. Vậy Phạm chúng ở nơi xứ nào từng thấy Phạm vương? Có Sư khác cho: Trụ nơi trời Cực quang tịnh, từ xứ trời ấy qua đời lại sinh đến đây (Trời Phạm chúng). Thế vì sao thời nay không được tĩnh lự thứ hai? Nhưng có thể nhớ nghĩ về các sự việc đã trụ của kiếp trước nơi địa kia (Trời Cực quang tịnh) chăng? Nếu thiên chúng kia đã được tĩnh lự thứ hai, thì vì sao duyên nơi Đại phạm cũng còn khởi giới cấm thủ? Có Sư khác nói: Trụ trong trung hữu. Nếu các hữu tình kia trụ nơi trung hữu, nhưng trung hữu không có nghĩa dừng trụ trong thời gian dài, do nơi việc thọ sinh không có chướng ngại, làm sao Phạm chúng kia có thể khởi niệm: Chúng ta đã từng thấy hữu tình như thế, trường thọ, trụ lâu xa v.v… Vì vậy, Phạm chúng tức trụ nơi trời của mình, nơi đời này nhớ nghĩ về các sự việc đã trải qua từ trước. Nghĩa là trước đã thấy hữu tình kia trường thọ, trụ lâu xa, về sau thấy lần nữa nên khởi niệm như vậy.

Hữu tình có sắc, thân một tưởng khác, như nơi trời Cực quang tịnh, là thức trụ thứ ba. Ở đây là nêu sau để gồm luôn việc thâu tóm trước, nên biết là gồm thâu đủ tĩnh lự thứ hai. Nếu không như thế thì các trời Thiểu quang, Vô lượng quang kia là thuộc về thức trụ nào? Hữu tình nơi cõi kia hiển bày hình tướng dạng mạo không khác nên nói là thân một. Hai tưởng vui, không khổ vui đan xen nên gọi là tưởng khác. Truyền nói: Chúng thiên kia chán hỷ căn của địa căn bản rồi khởi xả căn của địa cận phần hiện tiền. Chán xả căn của địa cận phần rồi thì khởi hỷ căn của địa căn bản hiện tiền. Như kẻ giàu sang chán dục lạc rồi liền thọ nhận pháp lạc. Chán pháp lạc rồi lại thọ nhận dục lạc. Há không như tưởng của xứ Biến tịnh cũng nên như thế? Không phải nơi trời Biến tịnh từng có chán bỏ lạc, do lạc tịch tĩnh từng không có lúc chán. Hỷ thì không như thế, vì đã nhiễu động tâm. Sư Kinh Bộ nói: Có Khế kinh khác giải thích trong xứ trời kia có nghĩa tưởng khác. Nghĩa là nơi trời Cực quang tịnh có thiên chúng mới sinh, chưa khéo nhận biết rõ về thế gian thành hoại. Vị kia thấy nơi địa dưới lửa cháy tràn khắp. Thấy rồi liền sinh kinh sợ, chán lìa. Chớ cho là lửa dữ kia đã thiêu đốt hết Phạm cung khiến hết thảy đều không, lại không lan tới xứ sở của ta. Nơi trời Cực quang tịnh này có thiên chúng sống ở đây từ lâu, đã khéo nhận biết rõ về thế gian thành hoại, liền an ủi vị thiên đang quá sợ hãi kia, nói: Tịnh Tiên! Tịnh Tiên! Đừng nên sợ hãi! Ngọn lửa dữ kia đã thiêu rụi Phạm cung, khiến cõi ấy đều không, nay thì ngọn lửa ấy đã tắt rồi! Chúng thiên kia đối với hỏa tai ấy có tưởng sẽ lan đến không lan đến, có tưởng sợ hãi không sợ hãi, nên gọi là tưởng khác, không phải do có tưởng vui, không khổ vui có đan xen nên được mang tên là tưởng khác.

Hữu tình có sắc, thân một tưởng một, như nơi trời Biến tịnh, là thức trụ thứ tư. Chỉ có tưởng vui nên gọi là tưởng một. Nơi tĩnh lự thứ nhất do tưởng nhiễm ô nên nói là tưởng một. Trong tĩnh lự thứ hai do hai tưởng thiện, nên gọi là tưởng khác. Nơi tĩnh lự thứ ba do tưởng dị thục, nên nói là tưởng một.

Ba vô sắc dưới, về tên gọi riêng khác, như kinh nói tức là ba thức trụ. Đó gọi là bảy thức trụ.

Ở đây pháp gì gọi là Thức trụ? Nghĩa là năm uẩn bốn uẩn đã hệ thuộc nơi các cõi kia, như chỗ thuận hợp ấy gọi là Thức trụ. Ngoài ra, vì sao không phải là Thức trụ? Do nơi các xứ còn lại đều có pháp thức tổn hoại. Các xứ còn lại: Nghĩa là các xứ ác, tĩnh lự thứ tư cùng xứ Hữu đảnh (Xứ phi tưởng phi phi tưởng). Vì sao? Do các xứ này đã có pháp thức tổn hoại nên không phải là thức trụ. Những gì gọi là pháp thức tổn hoại? Nghĩa là nơi các xứ ác có khổ thọ nặng có thể tổn hoại thức. Nơi tĩnh lự thứ tư có định vô tưởng cùng sự vô tưởng. Trong xứ trời Hữu đảnh có định diệt tận có thể tổn hoại thức khiến sự nối tiếp bị dứt, nên không phải là thức trụ. Lại có thuyết nói: Nếu hữu tình ở nơi xứ khác, tâm ưa thích đến xứ này, nếu đến rồi không còn cầu ra khỏi, thì xứ này gọi là Thức trụ. Nơi các xứ ác, hai nghĩa đã nêu đều không. Tĩnh lự thứ tư thì tâm luôn cầu ra khỏi. Nghĩa là các phàm phu thì cầu nhập vô tưởng, hàng Thánh giả thì ưa nhập nơi trời Tịnh cư hoặc xứ vô sắc. Nếu ở trời Tịnh cư thì ưa thích chứng tịch diệt. Nơi trời Hữu đảnh thì thức hiện hành mờ tối yếu kém, nên không phải là Thức trụ.

Như vậy là đã phân biệt về bảy thức trụ xong. Nhân đấy lai nói về chín nơi chốn cư ngụ của hữu tình.

* Tụng viết:

Nên biết gồm Hữu đảnh

Cùng hữu tình Vô tưởng

Là chín hữu tình cư

Khác phi, chẳng ưa trụ.

* Luận nêu: Bảy thức trụ trước cùng với hữu thứ nhất (Hữu đảnh) và hữu tình vô tưởng, đó gọi là chín nơi chốn cư ngụ của hữu tình. Các loài hữu tình chỉ ở nơi chín xứ ấy là ưa thích trụ nên lập làm nơi chốn hữu tình cư ngụ. Các xứ còn lại đều không phải, vì hữu tình không ưa thích trụ. Nói các xứ còn lại: Nghĩa là các xứ ác, không phải các loài hữu tình tự ưa thích ở trong ấy, do nghiệp ác La-sát bức bách khiến phải trụ, các xứ ác ấy như là lao ngục nên không lập làm nơi chốn cư ngụ của hữu tình. Tĩnh lự thứ tư, trừ trời Vô tưởng, các chốn còn lại không phải là nơi chốn cư ngụ của hữu tình, như trong phần nói về Thức trụ dã giải thích. Trước đã dẫn kinh nói về bảy thức trụ. Lại có kinh khác nói về bốn thức trụ.

* Tụng viết:

Bốn thức trụ nên biết

Bốn uẩn chỉ tự địa

Nói riêng thức phi trụ

Hữu lậu, bốn trường hợp.

* Luận nêu: Như Khế kinh nói: Thức tùy sắc trụ, thức tùy thọ trụ, thức tùy tưởng trụ, thức tùy hành trụ. Đó gọi là bốn thứ thức trụ. Bốn thức như vậy, về Thể là thế nào? Nghĩa là theo thứ lớp là bốn uẩn hữu lậu. Lại ở đây chỉ tại tự địa, không phải xứ khác. Thức đã dựa bám gọi là thức trụ, không phải ở nơi địa khác. Trong uẩn như sắc v.v…, thức tùy theo sức mạnh của ái đã dựa bám nơi kia. Vì sao không nói thức là thức trụ? Do lìa chủ thể trụ là lập đối tượng trụ. Không phải chủ thể trụ là thức có thể gọi là đối tượng trụ. Như tức nhà vua không phải có thể gọi là tòa ngồi của nhà vua (Ngai vàng). Hoặc nếu có pháp để thức nhân đấy cỡi lên điều khiển (Thừa ngự) như người lái thuyền và chiếc thuyền, thì gọi là thức trụ. Nhưng thức không phải là chủ thể thừa ngự nơi chính mình, vì vậy không nói thức là thức trụ. Sư Tỳ-bà-sa đã nói như thế. Nếu vậy thì vì sao nơi Khế kinh khác nói: Ở trong thức thức thực, có hỷ có nhiễm, có hỷ nhiễm nên thức trụ trong ấy, thức đã cỡi lên đấy để điều khiển (Thừa ngự). Lại vì sao nói bảy thức trụ trước, năm uẩn là Thể? Tuy có nói như thế, nhưng ở trong uẩn thuộc về xứ sinh đã không phân tích riêng từng uẩn, chỉ sinh chung hỷ nhiễm, nên thức lúc chuyển cũng gọi là thức trụ, không phải nói riêng về thức. Nhưng bốn uẩn như sắc v.v… phân tích riêng thì thấy mỗi mỗi uẩn có thể sinh vô số hỷ nhiễm khiến thức dựa bám theo đấy, riêng thức thì không như thế, nên nói không phải là trụ. Do đấy, ở trong bốn thức trụ này, thức không phải là thức trụ. Ở nơi xứ khác thì có thể nói. Lại, ý của Đức Phật nói bốn thức trụ cũng như ruộng tốt, nói chung về tất cả các thức có thủ (Các thức có ái đi kèm) cũng như hạt giống. Tức hạt giống không thể lập làm ruộng tốt. Kính xét giáo ý của Đức Thế Tôn là như thế. Lại, pháp cùng với thức có thể cùng thời sinh, vì thức là ruộng tốt nên có thể lập làm thức trụ. Thức uẩn thì không như thế, nên không phải là thức trụ. Như vậy là đã nói về bảy thứ thức trụ, bốn thứ thức trụ, tuy khác nhưng đều là hữu lậu. Vậy bảy gồm thâu bốn hay là bốn gồm thâu bảy? Không phải cùng gồm thâu khắp, nên có thể nêu làm bốn trường hợp. Nghĩa là xét kỹ nên biết có hai môn, Thể cùng là rộng hẹp được thành bốn trường hợp. Hoặc có khi bảy gồm thâu không phải bốn gồm thâu: Trường hợp 1: Là thức trong bảy thức trụ. Trường hợp 2: Là các xứ ác, tĩnh lự thứ tư, xứ Hữu đảnh, trong ấy trừ thức, còn lại là các uẩn kia. Trường hợp 3: Là bốn uẩn trong bảy thức trụ. Trường hợp 4: Là trừ các tướng đã nêu.

Trước đã nói về các cõi, nẻo, trong đó nên biết các loài sinh lược có bốn thứ. Những gì là bốn thứ? Xứ nào có loài sinh nào?

* Tụng viết:

Trong ấy có bốn sinh

Hữu tình là như noãn v.v…

Người, bàng sinh đủ bốn

Địa ngục và các trời

Trung hữu chỉ hóa sinh

Quỷ chung hai thai hóa.

* Luận nêu: Nghĩa là loài hữu tình có bốn loài sinh: Là thai sinh (Sinh bằng thai), noãn sinh (Sinh bằng trứng), thấp sinh (Sinh do sự ẩm ướt) và hóa sinh (Sinh do hóa hiện). Đó gọi là bốn. Sinh nghĩa là sinh ra theo loài. Trong các hữu tình, tuy loài khác là nhiều nhưng là sinh theo loài như nhau.

Thế nào là noãn sinh? Nghĩa là loài hữu tình sinh ra từ trứng. Đó gọi là noãn sinh. Như các loài ngỗng, công, anh vũ, nhạn v.v…

Thế nào là thai sinh? Nghĩa là các loài hữu tình sinh ra từ bào thai. Đó gọi là thai sinh. Như các loài voi, ngựa, bò, heo, dê, lừa v.v…

Thế nào là thấp sinh? Nghĩa là các loài hữu tình sinh từ khí hậu ẩm thấp. Đó gọi là thấp sinh. Như côn trùng, bướm, muỗi, các loài sâu bọ v.v…

Thế nào là hóa sinh? Nghĩa là các loài hữu tình sinh không từ chỗ dựa nhờ. Đó gọi là hóa sinh. Như Na-lạc-ca, thiên chúng, trung hữu v.v…

Gồm đủ căn, các chi phần không thiếu, tức thì sinh ra, từ không mà đột nhiên có nên gọi là hóa. Nẻo người, bàng sinh đều có đủ bốn loài sinh. Người sinh từ trứng: Nghĩa là như Thế-la, Ô-ba-thế-la sinh từ trứng chim hạc. Lộc mẫu đã sinh ba mươi hai con. Năm trăm người con của vua Bàn-già-la v.v… Người sinh từ thai: Như người đời nay. Người sinh từ ẩm thấp: Như Mạn-đà-la, Già-lô, Ô-ba-giàlô, Cáp-man-am-la-vệ v.v… Người sinh ra từ hóa sinh: Chỉ là người nơi thời kỳ đầu của kiếp. Bàng sinh thì nơi ba loại đầu đều cùng hiện thấy. Hóa sinh thì như: Rồng, Yết-lộ-đồ. Tất cả địa ngục, chư thiên và trung hữu đều là hóa sinh. Nẻo quỷ thì chung nơi hai thứ là thai sinh và hóa sinh. Quỷ sinh từ thai như nữ ngạ quỷ nói với Tôn giả Mục-liên:

Ta, đêm sinh năm con

Theo sinh đều tự ăn

Ngày sinh năm cũng thế

Tuy hết nhưng không no.

Trong tất cả loài sinh thì loài sinh nào là hơn hết? Nên nói hơn hết chỉ là hóa sinh. Nếu như vậy thì vì sao Bồ-tát của thân sau cùng, vốn được tự tại thọ sinh, nhưng đã thọ nhận sinh từ thai? Hiện thọ thai sinh là để có lợi lớn. Nghĩ là vì có liên hệ thân thuộc với Bồ-tát, nên Bồ-tát đã dẫn dắt giòng tộc lớn họ Thích khiến nhập chánh pháp Lại dẫn dắt các loài khác khiến nhận biết Bồ-tát là giòng tộc Luân vương nên sinh tâm kính mộ, nhân đấy xả bỏ được nẻo tà, tức về với chánh pháp. Lại khiến các hữu tình được hóa độ sinh khởi tâm tăng thượng. Bồ-tát kia đã là người, có thể thành tựu nghĩa lớn. Chúng ta cũng có thể như thế. Sao không có thể nhân đấy phát khởi chánh cần chuyên tu chánh pháp? Lại nếu Bồ-tát không chọn sinh ra từ thai, thì về giòng tộc sẽ khó nhận biết, sợ có kẻ nghi cho là huyễn hóa, là trời hay là quỷ? Như có Luận sư ngoại đạo đã đưa ra lời hủy báng nói: Quá sau trăm kiếp sẽ có một Đại huyễn xuất hiện nơi thế gian để thôn tính hết cả thế gian cho mình. Vậy nên Bồ-tát thọ nhận thai sinh là để dứt trừ các thứ nghi hoặc phỉ báng ấy. Có Sư khác cho: Vì nhằm lưu lại thân giới nên Bồ-tát thọ nhận thai sinh, khiến vô lượng người cùng các loài khác, một lần hưng khởi cúng dường thì ngàn lượt sinh thiên cùng chứng đắc giải thoát. Nếu Bồ-tát thọ nhận hóa sinh khong cần đến các chủng tử bên ngoài, thì các hữu tình hóa sinh sau khi qua đời, thân tướng không còn để lại hình tích gì, như ngọn đèn tắt thì ánh sáng tức không còn thấy gì cả. Nếu người tin Phật có trí nguyện thông tức có thể lưu giữ thân lâu, nên giải thích này là không thành.

Nhân luận sinh luận: Nếu thân của loài hóa sinh khi qua đời, như ánh sáng của ngọn đèn tắt không để lại gì cả, thì vì sao như nơi kinh nói: Loài Yết-lộ-đồ hóa sinh bắt lấy loài rồng hóa sinh để ăn thịt? Do không nhận biết nên cho là bắt lấy loài rồng để ăn, kỳ thật là kinh không nói là ăn để đỡ đói. Điều ấy thì có lỗi gì? Hoặc rồng chưa chết tức thì được ăn để đỡ đói. Chết rồi thì trở lại đói (Tức là không ăn). Tức thì ăn thì đâu có lỗi!

Trong bốn loài sinh, loài nào là nhiều nhất? Chỉ là loài hóa sinh. Vì sao? Vì hóa sinh chiếm phần ít của ba nẻo và hai nẻo (Địa ngục, trời) hoàn toàn cùng hết thảy trung hữu đều là hóa sinh. Ở đây, pháp nào được gọi là trung hữu. Do đâu trung hữu không được gọi là loài sinh?

* Tụng viết:

Giữa hai hữu tử, sinh

Năm uẩn gọi là trung hữu

Chưa đến xứ nên đến

Trung hữu không phải sinh.

* Luận nêu: Ở sau tử hữu, tại trước sinh hữu, tức hữu trung gian kia từ thể khởi. Vì đi đến xứ sinh nên khởi thân ấy. Là trung gian của hai nẻo nên gọi là trung hữu. Thân này đã khởi, vì sao không gọi là loài sinh? Sinh nghĩa là sẽ đến nơi chốn phải đến. Dựa nơi nghĩa nơi chốn đến để kiến lập tên gọi sinh. Ở đây, thân trung hữu, về thể tuy đã khởi, nhưng chưa đến nơi chốn kia nên không gọi là loài sinh. Thế nào là sẽ đến nơi chốn phải đến? Là dị thục đã dẫn hoàn toàn phân minh. Đó gọi là sẽ đến nơi chốn phải đến. Có Bộ khác nói: Từ tử đến xứ sinh là gián đoạn, là dứt hẳn, nên không có trung hữu. Thuyết này không nên thừa nhận. Vì sao? Vì dựa nơi lý, giáo. Lý giáo là thế nào?

* Tụng viết:

Như lúa thóc nối tiếp

Xứ vô gián tiếp sinh

Tướng thật có chẳng thành

Không cùng nên không dụ.

Một xứ không hai vật

Không nối tiếp hai sinh

Nói có Kiện-đạt-phược

Cùng với Kinh Ngũ, Thất.

* Luận nêu: Lại nơi chánh lý để cho trung hữu chẳng phải là không có. Hiện thấy nơi thế gian các pháp nối tiếp chuyển. Chính là ở nơi sát-na không gián đoạn đã nối tiếp sinh. Lại như lúa thóc v.v… ở thế gian đã nối tiếp. Hữu tình tương tục về lý cũng nên như thế. Nơi chốn sinh tiếp của sát-na tất là không gián đoạn. Há chẳng hiện thấy có pháp tương tục sinh, nhưng ở trong ấy, nơi chốn cũng có gián đoạn? Như dựa nơi tấm gương v.v… từ chất (Vật thật) có hình tượng sinh. Như vậy? Tử hữu, sinh hữu của hữu tình, về nơi chốn tuy có gián đoạn, nhưng đâu có trở ngại cho việc nối tiếp sinh? Các hình tượng thật có, về lý là không thành. Lại không như nhau, nên là dụ cũng không thành. Nghĩa là sắc riêng sinh gọi là hình tượng, Thể là thật có, lý ấy đã không thành. Nếu như thành thì vì không phải như nhau nên không thành dụ. Nói hình tượng không thành nên không phải là dụ: Là do nơi một xứ không có hai pháp cùng hợp. Nghĩa là ở nơi một xứ tức tấm gương, sắc cũng hình tượng đều thấy hiện tiền. Hai sắc không nên đồng xứ đều có. Vì dựa nơi đại chủng khác. Lại, trên mặt nước hẹp, sắc hai bên bờ hiện rõ, tức đồng xứ trong cùng một lúc cũng hiện hai hình tượng, người đứng nơi hai bờ cùng thấy rõ ràng. Từng không có một xứ cùng thấy hai sắc. Không nên cho hai sắc này là cùng sinh. Lại, ảnh cùng với ánh sáng chưa từng đồng xứ. Nhưng từng thấy tấm gương treo cao, ảnh hiện trong ấy. Ánh sáng hình tượng hiển nhiên hiện nơi mặt gương. Không nên ở nơi ấy cho là hai vật đều sinh. Hoặc nói một xứ không có hai pháp cùng hợp: Mặt nơi tấm gương, hình tượng mặt trăng cho đấy là hai, gần xa thấy riêng khác, như xem nước nơi giếng. Nếu có cùng sinh thì vì sao thấy riêng? Nên biết các hình tượng, nơi lý là thật không có, nhưng do thế mạnh của các nhân duyên hòa hợp khiến thấy như thế. Vì tánh của các pháp có công năng sai biệt khó có thể nghĩ bàn. Đã biện về sở dĩ không thành nên không phải là dụ. Nói vì không như nhau nên cũng không phải là dụ. Do chất (Vật chất) cùng với hình tượng không phải là cùng nối tiếp. Nghĩa là chất cùng với hình tượng không phải là một tương tục. Chỉ dựa nơi tấm gương v.v… nên có hình tượng hiện, tức hình tượng cùng với bản chất là cùng thời có. Như tử hữu, sinh hữu là một tương tục, trước sau không gián đoạn, nên ở nơi xứ khác nối tiếp sinh. Chất, hình tượng cùng hướng về nhau thì không có sự nối tiếp ấy, do không tương tợ nên không thành dụ. Lại, hình tượng được hiện bày do hai thứ sinh. Nghĩa là do hai duyên nên các hình tượng được sinh. (1) Bản chất (Vật thật gốc). (2) Tấm gương. Trong hai duyên, thứ hơn là hình tượng dựa vào đấy để sinh (Tấm gương). Sinh hữu không có dung nạp, do hai duyên khởi. Chỉ có tử hữu là không có chỗ dựa hơn riêng khác. Nên dụ được dẫn là không phải như nhau đối với pháp. Cũng không thể nói do không có các duyên bên ngoài như phi tình, tinh huyết v.v… là tánh của chỗ dựa hơn hẳn. Do người hóa sinh là từ trong không trung đột nhiên sinh khởi. Ở đây nên xét, vì sao cho là tánh của chỗ dựa hơn hẳn? Đã dựa vào chánh lý để đối phá Tông kia cho từ tử đến xứ sinh là gián cách, dứt tuyệt. Thế nên trung hữu quyết dịnh không phải là không có. Tiếp theo là dựa nơi chánh giáo để chứng minh là có trung hữu. Nghĩa là Khế kinh nói: Hữu có bảy thứ: Hữu của năm nẻo cùng nghiệp hữu, trung hữu. Nếu Khế kinh này Bộ kia không tụng, há cũng không tụng kinh nói về Kiện-đạt-phược? Như Khế kinh nói: Nhập nơi thai mẹ chính là do ba sự cùng hiện tiền: (1) Thân người mẹ vào lúc ấy là rất thuận hợp. (2) Cha mẹ hành dục hòa hợp. (3) Có Kiện-đạt-phược đang hiện tiền. Nếu trừ thân trung hữu thì Kiện-đạt-phược là gì? Uẩn trước đã hoại thì cái gì đang hiện tiền? Nếu Khế kinh này, Bộ kia cũng không tụng, vậy làm sao giải thích Kinh Chưởng Mã Tộc? Như Kinh ấy nói: Ông nay nhận biết chăng? Kiện-đạt-phược đang hiện tiền này là Bà-la-môn, là Sát-đếlợi, là Phệ-xá hay là Thủ-đà-la? Kiện-đạt-phược ấy là từ phương Đông đến, hay là từ phương Nam, phương Tây, phương Bắc đến? Uẩn trước đã hoại, không thể nói là đến. Ở đây nói đến, cố nhiên là chỉ cho trung hữu. Nếu lại không tụng Khế kinh như vậy thì như nơi kinh nói về năm loại Bất hoàn nên giải thích như thế nào? Như Khế kinh ấy viết: Có năm loại Bất hoàn: (1) Trung bát. (2) Sinh bát. (3) Vô hành bát. (4) Hữu hành bát. (5) Thượng lưu. Trung hữu nếu không có thì sao gọi là Trung bát? Có Sư khác cho: Có xứ trời gọi là trung, trụ nơi xứ ấy bát Niết-bàn, thế nên gọi là Trung bát. Tức là nên thừa nhận có các xứ trời như sinh v.v… Đã không thừa nhận như thế nên kiến giải kia là không đúng. Lại, như kinh nói có bảy nẻo của bậc Thiện sĩ. Nghĩa là nơi năm loại trước, Trung bát phân làm ba: Do xứ cùng thời là gần, vừa và xa. Ví như một tia lửa nhỏ, vừa lúc mới phát khởi tức gần, liền diệt. Bậc Thiện sĩ thứ nhất cũng như thế. Ví như tia lửa nhỏ là một mảnh sắt nung đỏ, vừa lúc phát ra đến giữa chừng mới diệt. Bậc Thiện sĩ thứ hai cũng như vậy. Ví như vệt lửa lớn là một mảnh sắt nung đỏ, cùng lúc phóng ra là xa, lúc chưa rơi xuống đất thì diệt. Bậc Thiện sĩ thứ ba cũng như thế. Chỗ chấp của các vị Sư kia cho là riêng có xứ Trung thiên. Vì không có ba phẩm có sai biệt của thời xứ này, nên điều chấp kia nhất định là không hợp lý. Lại có thuyết khác nói: Hoặc là trung gian của thọ lượng. Hoặc là trung gian của xứ trời gần, đoạn trừ các phiền não còn lại, thành tựu quả A-la-hán. Đó gọi là Trung bát. Do vị chí giới, hoặc vị chí tưởng, hoặc vị chí tầm mà bát Niết-bàn nên có ba phẩm. Hoặc nhận lấy chúng đồng phần của cõi sắc rồi tức bát Niết-bàn. Đó gọi là loại thứ nhất. Từ đó tiếp theo sau thọ nhận diệu lạc xứ trời rồi mới bát Niết-bàn. Đó gọi là loại thứ hai. Lại từ sau đấy nhập nơi pháp hội trời mới bát Niết-bàn. Đó gọi là loại thứ ba. Nhập nơi pháp hội rồi, lại trải qua nhiều thời gian mới bát Niết-bàn. Đó gọi là Sinh bát. Hoặc do giảm nhiều thọ mạng mới bát Niết-bàn, không phải là lúc mới sinh, nên gọi là Sinh bát. Như vậy là những điều đã nói, so với dụ về tia lửa đều không tương ưng. Vì sao? Là do hành của xứ kia không có sai biệt. Lại nơi cõi vô sắc cũng nên nói là có Trung bát. Vì cõi ấy cũng có trung gian của thọ lượng bát Niết-bàn. Tuy nhiên không nói là cõi vô sắc kia có Trung bát. Như trong tụng Ốt-đà-nam nói:

Tập chung chúng Thánh Hiền

Bốn tĩnh lự đều mười

Ba vô sắc đều bảy

Chỉ sáu là phi tưởng.

Thế nên các chỗ đã nêu đều là hư vọng. Nếu lại không tụng đọc các kinh như vậy, bậc Pháp vương vô thượng đã diệt độ từ lâu, chư vị Đại pháp tướng cũng bát Niết-bàn, Thánh giáo phân chia đã thành nhiều Bộ! Ở nơi văn nghĩa kia mặc tình lấy bỏ, giao tiếp, theo đuổi nơi phần chấp của mình, hiện tại hầu như càng thịnh! Đối với chư vị đã dựa vào lý giáo nêu dẫn ở trước làm lượng, thì trung hữu đối với họ là thật có và hoàn toàn thành tựu. Nếu như vậy thì vì sao trong Khế kinh nói: Ma-la-độ-sử tạo nghiệp cực ác, hiện thân đảo ngược rơi vào địa ngục Vô gián? Ý của Kinh này nói: Kẻ kia thọ mạng chưa xả bỏ, lửa dữ nơi địa ngục đã vây bọc quanh thân, nhân đấy mạng chung thọ nhận trung hữu kia. Theo đó mới đọa vào địa ngục Vô gián. Do sức mạnh của nghiệp ác ấy tăng mạnh, nên không đợi mạng chung tướng khổ đã đến. Trước thọ nhận hiện thọ, sau thọ nhận sinh thọ.

Do đâu Kinh nói: Có một loại hữu tình, nơi năm nghiệp vô gián đã tạo tác, làm tăng trưởng rồi thì tất định không gián đoạn sinh nơi Na-lạc-ca (Sinh thẳng vào địa ngục)? Ý của Kinh này là nhằm ngăn chận các kiến giải cho kẻ kia có thể đi đến nẻo khác, cùng làm rõ về nghiệp ấy nhất định là thuận sinh thọ (Nhận lấy quả báo ở đời sống kế tiếp).

Nếu chỉ chấp theo văn, tức nên cho là phải gồm đủ năm tội mới sinh nơi địa ngục, không phải theo đấy thiếu một, hoặc cho là nghiệp khác. Chấp theo văn như thế tức thành lỗi lớn. Lại nói không gián đoạn sinh nơi Na-lạc-ca (Sinh thẳng vào địa ngục), nên tạo tác tức sinh vào đấy, không đợi đến khi thân hoại mạng chung. Hoặc những ai không thừa nhận trung hữu là sinh, thì tên gọi Na-lạc-ca cũng chung cho trung hữu. Sinh hữu không gián đoạn đối với tử hữu, nên lúc khởi cũng được gọi là sinh. Là sinh khởi phương tiện. Kinh nói: Không gián đoạn sinh nơi Na-lạc-ca. Không nói: Bấy giờ tức là sinh hữu.

Nếu thế thì Tụng của kinh đây làm sao thông hợp? Tụng của kinh viết:

Tái sinh, ông nay vị thạnh hết

Suy yếu sắp gần Diễm Ma vương

Muốn đến, đường trước không lộ phí

Cầu trụ không gian không chốn dừng.

Nếu có trung hữu thì vì sao Đức Thế Tôn nói kẻ kia nơi trung gian không có nơi chốn dừng? Ý của tụng này là nhằm làm rõ nghĩa: Kẻ kia ở trong nẻo người đã mau chóng quy về sự hoại diệt, không chút dừng trụ. Hoặc trung hữu kia đã đến nơi chốn sinh cũng không hề dừng trụ. Do hành không trở ngại. Nên nhận biết ý của kinh là như đây, không phải là khác. Thế các ông lại nhận biết thế nào? Là khác, không phải như đây? Hai vấn nạn nếu đã như nhau thì còn riêng nêu chứng cứ gì nữa? Hai giải thích đối với kinh đều không trái bỏ, vì sao riêng dẫn chứng cứ cho trung hữu là không? Phàm dẫn chứng thì ngôn, lý không có hướng khác, tức chỉ giải thích theo một cách. Ở đây thì có hướng khác tức chứng cứ không thành.

HẾT – QUYỂN 8