LUẬN A TỲ ĐÀM TỲ BÀ SA
STác giả: Tôn giả Ca Chiên Diên Tử
Giải thích: Năm trăm A La Hán
Hán dịch: Đời Bắc Lương, Sa môn Phù Đà Bạt Ma, Đạo Thái v.v…
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 46

Chương 2: KIỀN ĐỘ SỬ

Phẩm thứ 4: MƯỜI MÔN, phần 10

Lại có ba sự việc nên gọi là tam muội: (1) Trụ nơi một duyên. (2) Hệ thuộc ở một duyên. (3) Chánh tư duy.

Lại có ba sự việc nên gọi là tam muội: (1) Tự làm cho tâm đúng đắn. (2) Phát khởi gieo trồng căn thiện. (3) Khiến tâm chánh trực nối tiếp.

Lại có ba sự việc nên gọi là tam muội: (1) Ở trong duyên không tùy thuộc. (2) Giữ gìn vô số thứ pháp thiện. (3) Có thể khiến vô số thứ tâm thiện trụ trong một duyên.

Tôn giả Hòa-tu-mật nói: Vì sao gọi là tam muội?

Đáp: Vì có thể khiến vô số thứ tâm thiện trụ trong một duyên. Phần còn lại nói như trên.

Tôn giả Phật-đà-đề-bà nói: Tam muội có nhiều tên gọi: Có tam muội của pháp thiện. Có tam muội của pháp bất thiện. Có tam muội của pháp vô ký. Có tam muội của chín thứ lớp. Trong đây nói tam muội chánh tâm gọi là tam muội.

Về cõi: Nếu là hữu lậu thì hệ thuộc ba cõi. Vô lậu thì không hệ thuộc.

Về địa: Hữu lậu ở nơi mười một địa. Vô lậu ở nơi chín địa.

Thân là đối tượng nương dựa: Dựa vào thân của ba cõi.

Về hành: Tam muội không có hai hành. Tam muội vô nguyện có mười hành. Tam muội vô tướng có bốn hành.

Duyên: Tam muội không, nếu là hữu lậu thì duyên nơi tất cả pháp, nếu là vô lậu thì duyên nơi khổ đế. Tam muội vô nguyện duyên nơi ba đế. Tam muội vô tướng duyên nơi diệt đế.

Niệm xứ: Tam muội không, vô nguyện là bốn niệm xứ. Tam muội vô tướng là pháp niệm xứ.

Trí: Tam muội không cùng với bốn trí kết hợp là pháp trí, tỷ trí, đẳng trí, khổ trí. Tam muội vô nguyện cùng với bảy trí kết hợp là tám trí trừ diệt trí. Tam muội vô tướng cùng với bốn trí kết hợp là pháp trí, tỷ trí, đẳng trí, diệt trí.

Về tam muội: Tức là tam muội.

Về căn: Nói tóm lại là cùng với ba căn tương ưng.

Quá khứ, vị lai, hiện tại: Là ba đời.

Duyên nơi pháp của ba đời: Tam muội không duyên nơi ba đời và không phải pháp đời. Tam muội vô nguyện duyên nơi ba đời. Tam muội vô tướng duyên nơi không phải đời.

Thiện, bất thiện, vô ký: Là thiện.

Duyên nơi thiện, bất thiện, vô ký: Tam muội không, vô nguyện duyên nơi ba thứ. Tam muội vô tướng duyên nơi thiện.

Hệ thuộc ba cõi, không hệ thuộc: Hoặc hệ thuộc ba cõi, hoặc không hệ thuộc.

Duyên hệ thuộc ba cõi và không hệ thuộc: Tam muội không, nếu là hữu lậu thì duyên hệ thuộc ba cõi và không hệ thuộc, nếu là vô lậu thì duyên hệ thuộc ba cõi. Tam muội vô nguyện duyên hệ thuộc ba cõi và không hệ thuộc. Tam muội vô tướng duyên không hệ thuộc.

Là học, vô học, phi học phi vô học: Là cả ba thứ.

Duyên nơi học, vô học, phi học phi vô học: Tam muội không, nếu là hữu lậu thì duyên nơi cả ba thứ, nếu là vô lậu thì duyên nơi phi học phi vô học. Tam muội vô nguyện duyên nơi ba thứ. Tam muội vô tướng duyên nơi phi học phi vô học.

Do kiến đạo đoạn, tu đạo đoạn, không đoạn: Các tam muội, nếu là hữu lậu thì do tu đạo đoạn, nếu là vô lậu thì không đoạn.

Duyên nơi kiến đạo đoạn, tu đạo đoạn, không đoạn: Tam muội không, nếu là hữu lậu thì duyên nơi ba thứ, nếu là vô lậu thì duyên nơi kiến đạo đoạn, tu đạo đoạn. Tam muội vô nguyện duyên nơi ba thứ. Tam muội vô tướng duyên nơi không đoạn.

Duyên nơi danh, duyên nơi nghĩa: Tam muội không, vô nguyện duyên nơi nghĩa, duyên nơi danh. Tam muội vô tướng duyên nơi nghĩa.

Duyên nơi thân mình, thân người khác, không phải thân: Tam muội không nếu là hữu lậu thì duyên nơi ba thứ, nếu là vô lậu và tam muội vô nguyện thì duyên nơi thân mình, thân người khác. Tam muội vô tướng duyên nơi không phải thân.

Hỏi: Nếu là tam muội không thì đều hành nơi hành không chăng?

Đáp: Hoặc tam muội không không hành nơi hành không, cho đến nói rộng làm bốn trường hợp:

1. Tam muội không không hành nơi hành không: Là tam muội không hành nơi hành vô ngã.

2. Hành nơi hành không không phải là tam muội không: Là hành nơi không hành theo pháp tương ưng của tam muội không.

3. Tam muội không cũng hành nơi hành không: Là tam muội không hành nơi không hành.

4. Không phải là tam muội không cũng không phải là hành nơi hành không: Là nếu nhận lấy chủng tánh này, là hành theo pháp tương ưng với tam muội không của hành vô ngã. Nếu không nhận lấy chủng tánh ấy, thì trừ từng ấy sự việc trên.

Đã hành, sẽ hành cũng lại như thế.

Như hành không của tam muội không lập ra bốn trường hợp, thì hành nơi hành vô ngã của tam muội không cũng như thế. Tam muội vô nguyện tạo ra ba mươi lượt bốn trường hợp. Tam muội vô tướng tạo ra mười hai lượt bốn trường hợp. Hợp lại là bốn mươi tám lượt bốn trường hợp.

Hỏi: Tam muội và môn giải thoát có gì khác biệt?

Đáp: Tam muội là hữu lậu, vô lậu. Môn giải thoát chỉ là vô lậu.

Hỏi: Vì sao tam muội là hữu lậu, vô lậu. Còn môn giải thoát chỉ là vô lậu?

Đáp: Do môn giải thoát không thể là hữu lậu, không thể là sự trói buộc.

Hỏi: Vì được chánh quyết định hay vì dứt hết lậu nên lập môn giải thoát? Nếu do được chánh quyết định, thì khổ pháp nhẫn tương ưng với định cũng nên là môn giải thoát. Nếu do dứt hết lậu, thì định kim cang dụ tức nên là môn giải thoát.

Đáp: Nên nói như thế này: Do được chánh quyết định, cũng do dứt hết lậu, nên gọi là môn giải thoát. Vì sao? Vì được tất cả Thánh đạo, đều gọi là quyết định. Tất cả đều đoạn trừ hết gọi là dứt hết lậu. Như pháp thế đệ nhất theo thứ lớp được khổ pháp nhẫn. Khổ theo thứ lớp được tập. Tập theo thứ lớp được diệt. Diệt theo thứ lớp được đạo.

Dứt hết lậu: Hoặc dựa vào tam muội không để dứt hết lậu của ba cõi. Hoặc dựa vào tam muội vô nguyện để dứt hết lậu của ba cõi. Hoặc dựa vào tam muội vô tướng để dứt hết lậu của ba cõi.

Hỏi: Vì sao gọi là môn giải thoát?

Đáp: Ví như pháp dùng thuẫn (mộc). Ví như người giao đấu, cầm thuẫn ở trước, đoạn dứt đầu kẻ oán địch. Hành giả bấy giờ giữ gìn môn giải thoát như cầm thuẫn ở trước, đoạn trừ được oán địch phiền não, khiến đầu kẻ oán địch phiền não rơi xuống đất. Như nói: Định là Thánh đạo, không định là tà đạo. Tâm định được giải thoát, không phải tâm định. Người có định có thể nhận biết sự sinh diệt của ấm.

Luận Thi Thiết nói rộng về không. Đó là: Nội không, ngoại không, nội ngoại không, hữu vi không, vô vi không, vô thủy không, tánh không, vô sở hữu không, đệ nhất nghĩa không, không không.

Hỏi: Vì sao Luận Thi Thiết nói rộng về không?

Đáp: Vì không là pháp đối trị gần của hai mươi thân kiến.

Kinh Phật nói: Nếu đệ tử Thánh có đầy đủ tràng hoa ba tam muội, thì có thể đoạn trừ pháp bất thiện, tu hành pháp thiện.

Hỏi: Vì sao nói ba tam muội là tràng hoa?

Đáp: Do tràng hoa kia rất tươi đẹp, người đời trông thấy sinh tâm vui vẻ tôn trọng. Như lúc tuổi trẻ, đầu quấn tràng hoa, hoặc nam, hoặc nữ đều sinh khởi tâm ái kính. Hành giả cũng như thế. Nếu đeo tràng hoa tam muội thì chư thiên, người đời đều sinh tâm ái kính.

Lại nữa, như người đầu buộc tràng hoa thì gió không thể làm rối tóc, đứng đầu các công đức. Nếu buộc tràng hoa tam muội, thì gió trạo cử không thể nhiễu loạn. Ví như các hoa, nếu kết chúng lại thành tràng tức có nhiều cách sử dụng. Các công đức cũng như thế, nếu kết lại thành tràng thì có nhiều tác dụng, có thể đạt được chánh quyết định, được quả lìa dục dứt hết lậu.

Lại nữa, người đời đối với các hoa được xâu lại tạo ra tưởng về vòng hoa. Hiền Thánh cũng như thế. Dùng ba tam muội để buộc các công đức, cũng tạo khởi tưởng về tràng vòng. Cũng như người đời theo thứ lớp kết những đóa hoa sinh khởi tưởng về vòng hoa. Hiền Thánh cũng như thế. Theo thứ lớp buộc giữ tâm ở trong một duyên, cũng tạo nên tưởng về tràng vòng.

Kinh Phật nói: Tam muội không là trụ xứ của Thượng tọa.

Hỏi: Vì sao nói tam muội không là trụ xứ của Thượng tọa?

Đáp: Vì các Thượng tọa phần nhiều trụ nơi xứ này. Trong ba cõi, Đức Phật là Thượng tọa có đức, tiếp theo là Phật-bích-chi, tiếp theo là Tôn giả Xá-lợi-phất, vì luôn trụ nơi xứ này, nên nói là trụ xứ của Thượng tọa.

Lại nữa, không là pháp không chung trong nội đạo. Nội đạo hết thảy đều là Thượng tọa. Ngoại đạo hết thảy đều là niên thiếu. Người trong nội đạo, về tuổi (Hạ lạp) được tám tuổi đều là Thượng tọa. Vì sao? Vì đã thành tựu pháp của Thượng tọa. Người ngoại đạo, về tuổi tuy là tám mươi, đều là niên thiếu. Vì sao? Vì thành tựu pháp của niên thiếu.

Hỏi: Các ngoại đạo có vô nguyện, vô tướng chăng?

Đáp: Tuy không có phần căn bản, nhưng có sự tương tợ. Hành thô tương tợ với vô nguyện. Hành chỉ tương tợ với vô tướng. Về không thì cho đến không tương tợ huống chi là căn bản.

Lại nữa, vì có thể sinh ra pháp của Thượng tọa, nên không được gọi là trụ xứ của Thượng tọa. Pháp của Thượng tọa là đạo, là quả của đạo. Thứ gì có thể sinh khởi? Đó là không có thể sinh khởi.

Lại nữa, vì an trụ nơi pháp thẩm đế, nên không được gọi là trụ xứ của Thượng tọa. Chúng sinh nếu không được tam muội không, tức tánh tình luôn vội vàng, náo động. Nếu được tam muội không, tức tánh tình không động như núi. Thế nên, Tôn giả Cù-sa nói như vầy: Nếu nhận biết pháp giải thoát thì tánh tình được xét suy chắc chắn. Tánh tình được xét suy chắc chắn gọi là Thượng tọa. Thế nên nói không là trụ xứ của Thượng tọa.

Lại nữa, hành giả khi trụ nơi pháp không, thì đối với các thứ vừa ý – không vừa ý, tốt đẹp – không tốt đẹp, việc có lợi ích – việc không có lợi ích, sự việc giúp cho sự sống vui – sự việc tạo cho sự sống khổ, ở trong những sự việc như vậy, tâm không hề dao động.

Từng nghe: Tôn giả Xá-lợi-phất, lúc mẫu thân mạng chung, đệ tử cộng trụ đã hoàn tục, Tỳ-kheo Trường Xỉ thường đối với Tôn giả Xá-lợi-phất có tâm giận oán, nên suy nghĩ như thế này: Ta nay nên đi đến nơi ấy báo với ông ta tin không lành này. Tức thì Tỳ-kheo Trường Xỉ vội đi đến chỗ Tôn giả Xá-lợi-phất nói: Trưởng lão nên biết! Mẹ của Trưởng lão đã qua đời, đệ tử cộng trụ đã hoàn tục. Tôn giả Xá-lợi-phất đáp: Mẹ ta đã mạng chung, đấy là pháp của thân hữu. Đệ tử của ta hoàn tục, đấy là pháp của hàng phàm phu. Lúc ấy, Tỳ-kheo Trường Xỉ suy nghĩ: Trưởng lão Xá-lợi-phất tuy nói lời như vậy, nhưng tâm tất có khác.

Bấy giờ, Tôn giả Xá-lợi-phất, do sự việc này, nên vừa sáng sớm đã đắp y mang bát vào thành Xá Vệ, theo thứ lớp khất thực. Ăn uống xong, trở lại trụ xứ, giải y, rửa bát, rửa chân tay, lấy Ni-sư-đàn mang trên vai, từ vườn rừng Kỳ Hoàn đi đến rừng An Đà, tới ngồi bên một cội cây nơi có khoảng trống nhận lấy ánh mặt trời, tâm sinh suy nghĩ: Ở thế gian, nếu đã từng có sắc đẹp khả ái, đến khi biến đổi tiêu tan, khiến ta sinh lo buồn khổ não. Nếu không quán khắp thì chẳng thấy được sự có – không ấy. Đến chiều tối, Tôn giả Xá-lợi-phất từ nơi rừng An Đà trở lại vườn rừng Kỳ Hoàn.

Lúc này, Trưởng lão A-nan đang kinh hành bên cạnh cổng Tinh xá trụ xứ, trông thấy Tôn giả Xá-lợi-phất đến bèn hỏi: Tôn giả Xálợi-phất từ nơi nào đến?

Tôn giả Xá-lợi-phất đáp: Tôi từ rừng An Đà đến.

Tôn giả A-nan lại hỏi: Tôn giả Xá-lợi-phất! Ở rừng An Đà ông trụ nhiều nơi tam muội nào?

Tôn giả Xá-lợi-phất đáp: Trụ nơi tam muội giác quán.

Tôn giả A-nan lại hỏi: Trụ nơi giác quán nào?

Tôn giả Xá-lợi-phất nói: Ở rừng An Đà, vào ban ngày, tôi đã có giác như thế này: Thế gian đã từng có sắc đẹp khả ái, cho đến nói rộng.

A-nan hỏi: Tôn giả Xá-lợi-phất! Ý ông thế nào? Là có sắc như thế chăng?

Tôn giả Xá-lợi-phất đáp: Không.

A-nan lại nói: Tôn giả thường nói thế này: Nếu Phật không xuất thế, chúng ta tức thành những kẻ không có mắt mà chết. Đức Phật là sắc diệu đáng yêu mến, nếu phải biến đổi, tan diệt, Tôn giả không sinh lo buồn khổ não chăng?

Tôn giả Xá-lợi-phất đáp: Nếu khiến cho Đức Thế Tôn biến đổi, tan diệt, tôi cũng không sinh tâm lo buồn khổ não, chỉ có cảm niệm này: Đức Thế Tôn nhanh chóng bát Niết-bàn. Con mắt của thế gian đã nhanh chóng diệt mất.

Bấy giờ, Trưởng lão A-nan tán thán: Lành thay! Lành thay! Tôn giả Xá-lợi-phất! Ông đã khéo diệt trừ ngã kiến, ngã sở kiến và ngã mạn, đã đoạn dứt cội rễ của chúng, như chắt đứt đầu cây Đa La, không còn mọc lại nữa. Đức Như Lai tuy là sắc diệu đáng yêu kính, nhưng nếu phải biến đổi, tan diệt thì sẽ có lo buồn khổ não nào chăng? Thế nên, khi hành giả trụ nơi pháp không kia, đối với những sự việc vừa ý – không vừa ý, tốt đẹp – không tốt đẹp, có lợi ích – không lợi ích, sự việc giúp sống vui hay sự việc khiến sống khổ, tâm không dời động. Vì vậy gọi không là trụ xứ của Thượng tọa.

Lại nói: Tôn giả Xá-lợi-phất đang ở trong một khu rừng thuộc nước Câu-tát-la. Bấy giờ, có Phạm chí A-kỳ-bà cũng đang ở nơi khu rừng ấy, cách chỗ của Tôn giả Xá-lợi-phất không xa. Gặp lúc người dân sở tại đang sắm sửa bày biện lễ tiết hội tháng tư, vị Phạm chí nọ đến trong thôn xóm, uống nhiều thứ rượu ngon, ăn thịt heo no nê, lại còn đem thịt thừa và một bình rượu trở lại khu rừng ông ta đang cư ngụ. Trông thấy Tôn giả Xá-lợi-phất đang ngồi bên một cội cây, liền sinh khởi tâm khi dể: Người kia cùng với ta đều là người xuất gia. Ta nay rất vui còn Tỳ-kheo kia lại rất khổ. Liền nói kệ:

Ta uống rượu hảo hạng

Riêng mang một bình về

Cây cỏ núi trên đất

Xem chúng như đống vàng.

Lúc ấy, Tôn giả Xá-lợi-phất suy nghĩ: Phạm chí như thây chết này đang nhắm vào mình để nói kệ như thế. Ta nay cũng nên nói kệ đáp lại. Đoạn, Tôn giả Xá-lợi-phất nói kệ:

Ta uống rượu vô tướng

Lại riêng mang bình không

Cây cỏ núi trên đất

Xem như đống nước dãi.

Trong kệ này, Tôn giả Xá-lợi-phất đã dùng ba môn giải thoát tạo nên tiếng gầm sư tử. Như nói: Ta uống rượu vô tướng: Là môn giải thoát vô tướng. Lại riêng mang bình không: Là môn giải thoát không. Cây cỏ núi trên đất, Xem như đống nước dãi: Là môn giải thoát vô nguyện.

Nói vô tướng có nhiều tên: Hoặc nói không là vô tướng. Hoặc nói kiến đạo là vô tướng. Hoặc nói giải thoát tâm không động là vô tướng. Hoặc nói xứ phi tưởng phi phi tưởng là vô tướng. Hoặc nói vô tướng là vô tướng.

Nói không là vô tướng: Như kinh nói: Có một Tỳ-kheo được định tâm vô tướng. Vị Tỳ-kheo kia vì là hàng độn căn, nên không nhận biết định này có công đức gì, quả báo gì, bèn suy nghĩ: Ai nhận biết công đức, quả báo của định này? Lại nghĩ: Trưởng lão A-nan, người được Đức Phật khen ngợi, các bậc phạm hạnh tin kính, tất biết định này có công đức, quả báo gì. Ta nay nên qua đó để hỏi xem về sự việc. Lại suy niệm: Trưởng lão A-nan là người khéo nhận biết về tướng của sự vật. Nếu ta đến đó hỏi, thì Trưởng lão sẽ hỏi lại ta: Ông được định này chăng? Nếu ta đáp là được, thì mình vốn là Tỳ-kheo thiểu dục luôn che giấu đối với pháp thiện không muốn hiển bày công đức của mình. Nếu đáp là không được, thì rõ ràng là nói dối. Nếu nói lời khác, thì việc thưa đáp không chính đáng, tức là gây não loạn Tỳ-kheo Thượng tọa. Nhưng từ trước đến ta nay không từng nhiễu loạn Tỳ-kheo Thượng tọa. Vậy ta nay chỉ nên đi theo sau vị kia, nếu vị ấy vì người khác giảng nói pháp này tức ta sẽ được nghe.

Bấy giờ, Tỳ-kheo kia trong sáu năm đã từng theo Tôn giả A-nan, nhưng cũng không nghe Tôn giả A-nan vì người khác giải nói. Lúc ấy, vị Tỳ-kheo này mới hỏi Trưởng lão A-nan: Nếu người đã được định tâm vô tướng, tâm không có tăng giảm, trụ nơi hành khó được, như nước dừng lại. Đã trụ nên giải thoát. Đã giải thoát nên trụ. Đức Thế Tôn nói định này có công đức gì, có quả báo gì?

Trưởng lão A-nan liền hỏi vị Tỳ-kheo kia: Ông đã được định này chăng?

Tỳ-kheo kia suy nghĩ: Như điều ta đã e ngại, nay quả nhiên Trưởng lão A-nan đã hỏi như vậy. Tức thì im lặng.

Tôn giả A-nan nói như vầy: Nếu Tỳ-kheo ở nơi định tâm vô tướng, thì không tăng không giảm, cho đến nói rộng. Phật nói định này hiện có quả báo là được tất cả tri kiến, có thể sinh trí tuệ, tu đạo dứt hết lậu. Ông cũng không bao lâu nữa sẽ được pháp này.

Không tăng là đoạn trừ ngã kiến. Không giảm là đoạn trừ ngã sở kiến. Năm ngã kiến, mười lăm ngã sở kiến cũng lại như thế. Không tăng là sinh tử, không giảm là Niết-bàn.

Trụ nơi hành khó được nghĩa là hành này khó được vì phải dụng công nhiều, có nhiều đối tượng tạo tác. Như nước dừng lại, nghĩa là ví như nước từ nguồn kia chảy ra, dừng lại ở một xứ, không còn dòng chảy khác. Định kia như thế là trụ nơi một duyên, tức không duyên khác.

Vì trụ nên giải thoát, là giải thoát của tự thể. Vì giải thoát nên trụ, là giải thoát trong thân.

Ở đây nói không là vô tướng. Ở chỗ khác cũng nói vô tướng là không. Như Kinh Pháp Ấn nói: Nếu đoạn dứt tướng sắc, quán sắc, cho đến nói rộng. Tướng chúng sinh là tướng cảnh giới. Nếu Tỳ-kheo kia nhận thấy nơi pháp không tức trừ bỏ tướng chúng sinh, đối với cảnh giới không thấy có tướng nam, tướng nữ. Thế nên, Tôn giả Cù-sa nói: Tướng chúng sinh là tướng cảnh giới. Nếu có hành không này, thì đối với cảnh giới không thấy có tướng nam, tướng nữ.

Kiến đạo là vô tướng: Như nói: Phạm chí Mục-kiền-liên Đề-xá không nói người thứ sáu hành vô tướng chăng?

Hỏi: Thế nào là người thứ sáu hành vô tướng?

Đáp: Người thứ sáu hành vô tướng là bậc kiên tín, kiên pháp. Vì sao? Vì bậc kiên tín, kiên pháp là vô tướng, không thể nêu bày, không thể dễ nhận biết ở đây ở kia, hoặc là khổ pháp nhẫn, hoặc là khổ pháp trí, cho đến đạo tỷ nhẫn, đạo tỷ trí.

Hỏi: Vì sao kiến đạo gọi là vô tướng?

Đáp: Do đạo này là đạo nhanh chóng, là đạo không khởi tâm trông mong.

Giải thoát tâm không động là vô tướng: Như nói: Này Trưởng lão Già-bà-đa! Tham dục là tướng. Giận, si là tướng. Giải thoát tâm không động là vô tướng tối thắng.

Hỏi: Vì sao giải thoát tâm không động gọi là vô tướng?

Đáp: Vì phiền não là tướng. Tâm kia không bị phiền não che lấp, không bị chúng làm hoại, không do trên để chấp trước dưới, không phải là không được tự tại. Thế nên nói: Giải thoát tâm không động gọi là vô tướng.

Xứ phi tưởng phi phi tưởng là vô tướng: Như nói: Ta đã dụng công nhiều nên được định tâm vô tướng.

Hỏi: Vì sao nói xứ phi tưởng phi phi tưởng là định vô tướng?

Đáp: Vì xứ phi tưởng phi phi tưởng là mờ tối, không mạnh mẽ nhanh nhạy, không quyết định, giống như nghi ngờ không rõ là có tướng tưởng, cũng không rõ là không có tướng tưởng.

Nói vô tướng là vô tướng: Như ở đây nói: Kinh nêu: Đức Phật ở nước Xá Vệ, đang trụ tại giảng đường của Tinh xá Di-giàla-mẫu ở phương Đông. Bấy giờ, Trưởng lão A-nan đi đến chỗ Đức Phật, đầu mặt lễ sát chân, bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Thuở trước, vào một thời nọ, Đức Thế Tôn đang trụ tại thôn Di-châutrá của dòng họ Thích, con theo hầu Đức Thế Tôn đã nghe nghĩa như thế này: Ta nay trụ nhiều nơi tam muội không. Vậy con nên khéo thọ trì, nhớ nghĩ lời nói như thế không? Đức Phật bảo A-nan: Như ông đã nói, tức nên khéo thọ trì nhớ nghĩ lời ta đã nêu giảng, không khác.

Hỏi: Nếu đã khéo thọ trì thì không nên sinh nghi. Nếu như sinh nghi thì không gọi là khéo thọ trì?

Đáp: Do sự việc này nên gọi là khéo thọ trì. Vì sao? Vì không sinh tà kiến, không chuyển dạy người khác, không hề quên mất.

Hỏi: Như Trưởng lão A-nan học rộng, tổng trì tám vạn pháp tụ do bậc Nhất thiết trí giảng nói, đã dùng vật chứa đựng chánh niệm để đựng đầy, vì sao chỉ trong một câu mà còn sinh tâm nghi?

Đáp: Vì khi nghe pháp này, tâm của Tôn giả A-nan có sầu não, vì các người của dòng họ Thích bị hại. Đó là nhân duyên của phần Luận này. Như vua Lưu Ly ngu si đã giết hại dòng họ Thích.

Bấy giờ, Tôn giả A-nan dẫn một Tỳ-kheo vào thành Ca-tỳ-la. Khi trước, thành này như thành của chư Thiên, hôm nay thành ấy như gò đống, mồ mả, vì khi kẻ địch rút lui, hầu hết các bức tường thấp, các vệ cầu, các thứ cửa sổ trên dưới đã có ở các lầu gác đều bị hủy hoại. Các ao, suối trong đều bị khuấy đục. Các thứ chim hồng nhạn, uyên ương, khổng tước, anh vũ, cù-sí-la bị khói lửa bức bách, đều bay bổng khắp trên hư không. Các bé trai gái kêu khóc, chạy theo sau Tôn giả A-nan nói như thế này: Đại đức A-nan! Mẹ con vừa qua đời, cha con vừa mới mất! Bấy giờ, Trưởng lão A-nan đi đến Tinh xá của Phạm chí ở xứ Tu-ca-la, nơi vua Lưu Ly ngu si đã chôn các Thích tử thành Ca-tỳ-la, một nửa thân trong đất, rồi dùng sắt vụn đổ lấp xuống, đã giết chết bảy vạn bảy ngàn Hiền Thánh.

Lúc ấy, Tôn giả A-nan thấy sự việc này xong, càng thêm sầu não. Còn như Đức Thế Tôn thì các căn không khác, tâm của Ngài an trụ, không động như núi. Ngài đã khéo điều phục tâm mình như bưng bát dầu, chế ngự năm căn như ngựa nhìn thẳng đi vào thành Ca-tỳ-la.

Khi đó, Trưởng lão A-nan nhìn dung mạo của Đức Thế Tôn vui vẻ, từ hòa. Thấy rồi suy nghĩ: Thân tộc của ta ly biệt, xứ sinh bị hủy hoại! Đức Thế Tôn thì không như vậy. Ta nay khổ não nhưng tâm Đức Thế Tôn không động như núi. Đức Thế Tôn nhận biết những suy nghĩ của Tôn giả A-nan, nên bảo: Vì Ta trụ nhiều nơi tam muội không, còn tâm ông thì trụ nơi tưởng thôn xóm. Ta trụ nơi tưởng A-luyện-nhã, còn ông trụ nơi xứ của tưởng thân tộc, trụ nơi tưởng của người phàm phu, tạo ra xứ của tưởng chúng sinh, còn Ta luôn tạo ra tưởng về pháp đầy đủ.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn nhận biết Tôn giả A-nan và các Tỳkheo không thể hành đạo, bèn dẫn các Tỳ-kheo lần lượt đi đến giảng đường của Tinh xá Di-ca-la-mẫu về phía đông nước Xá Vệ. Lúc này, Trưởng lão A-nan sầu não giảm dần, đi đến chỗ Đức Phật đầu mặt lễ sát chân, bạch Phật, nói rộng như trên.

Do sự việc này, nên khi Tôn giả A-nan hỏi Đức Phật về sự việc ấy, tâm có sầu não. Nghe Phật nói: Ta thường trụ nơi tam muội không… Do đấy sinh nghi.

Hỏi: Đức Phật nói: Ta trụ nhiều nơi không, là trụ ở không nào?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Trụ nơi không, không có đối tượng hành. Vì sao? Vì không không có đối tượng hành là tùy thuận lúc hành bốn pháp oai nghi, ba oai nghi còn lại là không, thời gian hành các oai nghi khác cũng như thế.

Lời bình: Nên nói như thế này: Trụ nơi tánh không. Vì sao? Vì chỉ quán nơi pháp tánh. Thế nên Tỳ-kheo A-nan, nếu muốn trụ nhiều nơi không, nên quán về thôn xóm và chúng sinh, trụ nơi tưởng A-luyện-nhã. Lúc ấy, các Tỳ-kheo đều có ý niệm: Trụ nơi pháp không này là pháp bất cộng của Phật. Đức Phật vì muốn trừ bỏ tâm nghi nơi các Tỳ-kheo, nên bảo Tôn giả A-nan: Nếu Tỳ-kheo muốn trụ nhiều nơi tam muội không, tất phải dứt bỏ tưởng thôn xóm và tưởng chúng sinh, trụ nơi tưởng A-luyện-nhã.

Hỏi: Vì sao Đức Phật bảo Tỳ-kheo nên dứt bỏ hai tưởng ấy?

Đáp: Vì các Tỳ-kheo đối với hai tưởng ấy đã sinh khởi khổ não. Nếu Tôn giả A-nan và các Tỳ-kheo đã loại trừ tưởng thôn xóm và tưởng chúng sinh, trụ nơi tưởng A-luyện-nhã, thì nên tạo ra tưởng địa, cho đến tạo ra tưởng của xứ phi tưởng phi phi tưởng.

Hỏi: Vì sao Đức Thế Tôn nơi tất cả thời gian đã trừ bỏ tưởng phẩm hạ, nói tưởng phẩm thượng, không nói đến căn bản của các tưởng đó?

Đáp: Vì ở đây nói là pháp cũ. Chư Phật quá khứ nhiều như cát sông Hằng, giảng nói pháp đều như thế.

Lại nữa, vì muốn khiến những lời Phật đã giảng nói không lẫn lộn. Nếu Đức Thế Tôn nói không trừ bỏ tưởng phẩm hạ, chỉ nói tưởng phẩm thượng, thì pháp Phật giảng nói sẽ lẫn lộn. Tức chư Phật giảng nói pháp mà có tạp loạn chăng?

Lại nữa, vì muốn tránh lỗi nói pháp trùng lặp. Nếu Đức Thế Tôn không trừ bỏ tưởng phẩm hạ, chỉ nói về tưởng phẩm thượng, tức là thuyết giảng pháp lần nữa. Nhưng chư Phật – Thế Tôn đều không thuyết pháp trùng lặp.

Lại nữa, định là tóm lược về pháp yếu. Nếu Đức Thế Tôn trong tất cả thời gian đều nói về phần căn bản thì văn của kinh tức nhiều.

Lại nữa, vì muốn hiện bày về đạo lý nghị luận. Theo đạo lý nghị luận, nếu đã nêu bày giảng nói, tất phải định rõ về lời nói của mình. Nếu quyết định lặp lại lời nói trước tức là hủy hoại đạo lý nghị luận. Đức Phật là Luận sư không có đối thủ, luôn khéo nhận biết về đạo lý nghị luận.

Hỏi: Nói tưởng thôn xóm là hiện bày về sự việc gì? Cho đến nói tưởng của xứ phi tưởng phi phi tưởng là hiện bày về sự việc gì?

Đáp: Tưởng thôn xóm: Là hiện bày tưởng về thành Ca-tỳ-la.

Tưởng chúng sinh: Là hiện bày tưởng về dòng họ Thích.

Tưởng A-luyện-nhã: Là hiện bày tưởng về Tinh xá Ni-câu-đà, cũng là hiện bày tưởng về nơi chốn hành đạo của các Tỳ-kheo.

Tưởng địa: Là hiện quán sắc, là tưởng về tan hoại. Vì sao? Vì có sắc nên mới có chuyện chặt đứt tay chân, tai, mũi v.v…

Tưởng khổ, không: Là hiện quán tưởng không cho đến tưởng của xứ phi tưởng phi phi tưởng là hiện quán tưởng của xứ phi tưởng phi phi tưởng.

Lại nữa, tưởng thôn xóm: Là mười lăm ngã sở kiến. Tưởng chúng sinh: Là năm ngã kiến. Tưởng xứ A-luyện-nhã: Là tam muội không. Tưởng địa: Là đối tượng duyên. Các đối trị của địa kia là định vô sắc.

Lại nữa, tưởng thôn xóm: Là khí thế giới của cõi dục. Tưởng chúng sinh: Là thế giới chúng sinh của cõi dục. Tưởng A-luyện-nhã: Là tưởng của địa thiền thứ nhất, thiền thứ hai, là thiền thứ ba, thiền thứ tư. Các đối trị của thiền kia là định vô sắc.

Lại nữa, tưởng thôn xóm: Là cõi dục. Vì sao? Vì cõi dục được gọi là thôn xóm. Như kệ nói:

Nếu chế ngự thôn xóm Cũng không mắng, buộc, hại Khổ, vui, tâm không động. Đó gọi là Tỳ-kheo.

Tưởng chúng sinh: Là thiền thứ nhất. Vì sao? Vì trong chúng sinh kia có quyến thuộc, có kẻ trên người dưới. Tưởng A-luyện-nhã: Là thiền thứ hai. Vì sao? Vì thiền thứ hai là pháp im lặng của Hiền Thánh. Tưởng địa: Là thiền thứ tư. Vì sao? Vì trong địa kia có Thắng xứ, Nhất thiết xứ. Các đối trị của địa kia là định vô sắc.

Này Tôn giả A-nan! Đó gọi là nhập nơi không vô thượng, gọi là dứt hết lậu, không sử dụng nhiều công sức, tâm được giải thoát.

Hỏi: Thế nào là dùng nhiều công sức tâm được giải thoát, không dùng nhiều công sức tâm được giải thoát?

Đáp: Thời giải thoát dùng nhiều công sức. Phi thời giải thoát thì không dùng nhiều công sức.

Lại nữa, năm hạng A-la-hán gọi là dụng công nhiều. A-la-hán bất động thì không dụng công nhiều. Nếu dựa vào thiền vị chí, trung gian, ba định vô sắc đạt được giải thoát, gọi là dụng công nhiều. Nếu dựa vào thiền căn bản đạt được giải thoát thì gọi là không dụng công nhiều.

* Lại có ba tam muội: (1) Tam muội không không. (2) Tam muội vô nguyện vô nguyện. (3) Tam muội vô tướng vô tướng.

Thế nào là tam muội không không?

Đáp: Như Luận Thi Thiết nói: Nếu Tỳ-kheo quán hữu lậu, nhận lấy hành là không, hữu lậu đó nhận lấy hành không, trong ấy không có pháp thường, không biến đổi, chỉ là không, không ngã, không ngã sở. Khi khởi tư duy như thế, lại còn sinh tâm tâm số pháp. Quán tâm tư duy trước là không, trong ấy không có pháp thường, không biến đổi, chỉ là không, không ngã, không ngã sở. Ví như có người muốn đốt mười khúc gỗ, trăm khúc gỗ, ngàn khúc gỗ thì phải chất gỗ thành đống rồi nhúm lửa để đốt. Lại cầm một thanh cây dài, đứng bên cạnh đống củi, nếu có khúc gỗ nào lăn xuống không cháy, thì dùng cây dài đó xốc gỗ trở lại đống lửa. Nhận biết các khúc gỗ đã cháy rồi thì thanh cây dài cầm nơi tay cũng ném vào lửa. Hành giả cũng như thế. Trước quán hữu lậu, nhận lấy hành là không, nói rộng như trên.

Thế nào là tam muội vô nguyện vô nguyện?

Đáp: Nếu Tỳ-kheo quán hữu lậu, nhận lấy hành là pháp vô thường, biến đổi. Lúc tư duy như thế, lại sinh khởi tâm tâm số pháp. Quán tâm đã tư duy trước cũng là pháp vô thường, biến đổi. Như người đốt gỗ, nói rộng như trên. Tỳ-kheo cũng như thế. Quán hữu lậu, nhận lấy hành là vô thường, cho đến nói rộng. Đó gọi là tam muội vô nguyện vô nguyện.

Thế nào là tam muội vô tướng vô tướng?

Đáp: Nếu Tỳ-kheo quán pháp tịch diệt, đấy là diệu lìa, gọi là dứt hết ái, lìa dục, là Niết-bàn diệt tận. Lúc tạo ra tư duy này, lại sinh tâm tâm số pháp. Quán tâm tư duy trước cũng là tịch tĩnh, cho đến nói rộng như trên. Đó gọi là tam muội vô tướng vô tướng.

Người A-tỳ-đàm tạo ra thuyết này: Tam muội không quán năm thủ ấm là không, tiếp theo sinh tam muội không không, tức quán không là không, không của ông cũng là không.

Tam muội vô nguyện quán năm thủ ấm là vô thường, sau đấy sinh tam muội vô nguyện vô nguyện, quán vô nguyện trước cùng vô nguyện của ông cũng là vô thường.

Tam muội vô tướng quán Niết-bàn tịch diệt, sau đấy sinh tam muội vô tướng vô tướng, quán tam muội vô tướng trước là phi số diệt, tam muội vô tướng của ông cũng là phi số diệt.

Không có ba tướng nên cũng là tịch diệt. Ví như khi người Chiên-đà-la đốt tử thi, tay cầm thanh cây dài đi vòng quanh bên tử thi. Nếu trong số ấy có tử thi nào rơi rớt xuống thì dùng thanh cây dài khều lại gom vào đống. Khi biết các tử thi đã được đốt cháy hết tức cũng ném thanh cây dài này vào trong lửa. Tam muội không cũng như thế. Quán năm thủ ấm là không, sau đấy sinh tam muội không không, quán tam muội không nơi ông cũng là không. Tam muội vô nguyện, vô tướng nói cũng như thế.

Hỏi: Làm thế nào đạt được tam muội này?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Là ở bên kiến đạo mà được, như đẳng trí ở bên kiến đạo.

Hoặc có thuyết cho: Khi lìa dục của cõi dục, như tâm biến hóa được tam muội này.

Lời bình: Nên nói như thế này: Nếu người nên được tam muội, thì khi lìa dục của xứ phi tưởng phi phi tưởng, có thể tạo ra phương tiện hiện ở trước.

Hỏi: Có bao nhiêu trí khởi sau tam muội này hiện ở trước?

Đáp: Có bốn là pháp trí, tỷ trí, khổ trí, diệt trí. Nói tóm lại là bốn trí khởi sau: Nơi cõi dục có ba trí khởi sau là pháp trí, khổ trí, diệt trí. Nơi cõi sắc, vô sắc cũng có ba trí khởi sau là tỷ trí, khổ trí, diệt trí. Nếu là cõi dục, thì tam muội như không không v.v… dựa vào đạo vô lậu thuộc thiền vị chí, về sau khởi hiện ở trước. Xứ phi tưởng phi phi tưởng dựa vào đạo vô lậu thuộc xứ vô sở hữu, về sau khởi hiện ở trước. Số còn lại tức dựa vào đạo vô lậu của địa mình, về sau khởi hiện ở trước.

Về cõi: Ở ba cõi.

Về địa: Ở mười một địa.

Về thân là đối tượng nương dựa: Là dựa vào thân của cõi dục.

Về hành: Tam muội không có hai hành. Tam muội không không có một hành, chỉ là hành không.

Hỏi: Vì sao tam muội không có hai hành, còn tam muội không không chỉ có một hành?

Đáp: Do nơi hành không, hành tam muội không sinh sau.

Lại nữa, hành này cùng với hữu trái nhau, nên có thể xả bỏ sinh tử. Căn thiện này có thể quán vô lậu là lỗi lầm tai hại, huống chi là sinh tử.

Hỏi: Vì sao không hành hành vô ngã?

Đáp: Nếu thấy các pháp vô ngã nhưng không thấy không, thì tuy có chán lìa sinh tử, tâm kia không thù thắng. Nếu thấy các pháp không, thì tâm chán lìa sinh tử là thù thắng. Như người ở trên đường, khi đi một mình thì không có gì lo buồn. Nếu có bạn cùng đi, thì khi biệt ly, tức cảm thấy rất buồn bã. Người thấy pháp không kia cũng lại như thế.

Tam muội vô nguyện hành mười hành. Tam muội vô nguyện vô nguyện chỉ hành hành vô thường.

Hỏi: Vì sao tam muội vô nguyện hành mười hành, còn tam muội vô nguyện vô nguyện chỉ hành hành vô thường?

Đáp: Do nơi hành vô thường, hành vô nguyện sinh sau.

Lại nữa, hành này cùng với hữu là trái nhau, nên có thể xả bỏ sinh tử. Căn thiện này có thể quán đạo vô lậu là lỗi lầm tai hại, huống chi là sinh tử.

Vì sao không hành hành khổ?

Đáp: Vì không quán đạo, nên tạo ra hành như thế.

Vì sao không hành hành tập v.v…?

Đáp: Nếu hành các hành như tập v.v…, thì quán Thánh đạo là pháp có nối tiếp.

Vì sao không hành bốn hành như đạo v.v…?

Đáp: Nếu hành các hành như đạo v.v…, tức thích ứng với Thánh đạo, không gọi là lỗi lầm tai hại để xuất ly sinh tử.

Tam muội vô tướng hành bốn hành. Tam muội vô tướng vô tướng chỉ hành hành chỉ.

Hỏi: Vì sao tam muội vô tướng hành bốn hành, còn tam muội vô tướng vô tướng chỉ hành hành chỉ?

Đáp: Vì nơi hành chỉ, hành vô tướng sinh sau.

Hỏi: Vì sao không hành hành diệt?

Đáp: Diệt có hai thứ: Có phi số diệt và vô thường diệt: Không biết là duyên nơi diệt nào?

Hỏi: Vì sao không hành hành diệu?

Đáp: Luận Ba-già-la-na nói: Thế nào là pháp diệu? Là pháp vô vi, vô lậu. Pháp diệu kia là pháp thích hợp, thế nên không hành hành diệu.

Hỏi: Vì sao không hành hành lìa?

Đáp: Luận Ba-già-la-na nói: Thế nào là pháp lìa? Là giới thiện hệ thuộc cõi dục. Là định thiện xuất yếu của cõi sắc, vô sắc. Là pháp học, pháp vô học và số diệt. Những pháp này không có là một tướng.

Về duyên: Tam muội không không, tam muội vô nguyện vô nguyện: Hoặc có thuyết nói: Duyên nơi sát-na của Thánh đạo sau cùng.

Hoặc có thuyết cho: Duyên nơi sát-na của Thánh đạo sau cùng kết hợp với năm ấm.

Hoặc có thuyết nêu: Duyên nơi Thánh đạo trong một đời.

Hoặc có thuyết nói: Duyên nơi Thánh đạo trong một đời cùng có với năm ấm.

Tam muội vô tướng vô tướng duyên nơi phi số diệt.

Về niệm xứ: Là pháp niệm xứ.

Về trí: Đều cùng với đẳng trí kết hợp.

Về định: Tức là định.

Về căn: Nói tóm tắt là cùng với ba căn tương ưng.

Về đời: Ở ba đời.

Duyên nơi đời: Tam muội không không, tam muội vô nguyện vô nguyện: Hoặc nói như vầy: Duyên nơi sát-na của Thánh đạo sau cùng. Nghĩa là quá khứ, hiện tại duyên nơi quá khứ. Vị lai đầu tiên sẽ sinh thì duyên nơi hiện tại, sát-na của vị lai còn lại thì duyên nơi ba đời.

Hoặc nói như thế này: Duyên nơi Thánh đạo trong một đời. Nghĩa là tam muội không không, tam muội vô nguyện vô nguyện, cả hai đều cùng duyên nơi ba đời.

Tam muội vô tướng vô tướng duyên nơi chẳng phải đời.

Về thiện, bất thiện, vô ký: Là thiện.

Duyên nơi thiện, bất thiện, vô ký: Tam muội không không, tam muội vô nguyện vô nguyện duyên nơi thiện. Tam muội vô tướng vô tướng duyên nơi vô ký.

Hệ thuộc ba cõi: Là hệ thuộc ba cõi.

Duyên nơi hệ thuộc ba cõi và không hệ thuộc: Là duyên nơi không hệ thuộc.

Là học, vô học, phi học phi vô học: Là phi học phi vô học.

Duyên nơi học, vô học, phi học phi vô học: Tam muội không không, vô nguyện vô nguyện duyên nơi vô học. Tam muội vô tướng vô tướng duyên nơi phi học phi vô học.

Là do kiến đạo đoạn, tu đạo đoạn, không đoạn: Là do tu đạo đoạn.

Duyên nơi kiến đạo đoạn, tu đạo đoạn, không đoạn: Là duyên nơi không đoạn.

Duyên nơi danh, duyên nơi nghĩa: Là duyên nơi nghĩa.

Duyên nơi thân mình, thân người khác, không phải thân: Tam muội không không, vô nguyện vô nguyện duyên nơi thân mình. Tam muội vô tướng vô tướng duyên nơi không phải thân.

Hỏi: Nơi xứ nào khởi tam muội này?

Đáp: Ở trong cõi dục, không phải là cõi sắc, vô sắc.

Về nẻo: Là trong nẻo người, không phải là các nẻo khác. Nơi nẻo người là ba châu thiên hạ, không phải là châu Uất-đơn-việt. Dựa vào thân nam, thân nữ, đều cùng có thể.

Cù-sa-bạt-ma nói như thế này: Chỉ ở châu Diêm-phù-đề, không phải các phương khác. Dựa vào thân nam, chẳng phải là thân nữ. Vì sao? Vì căn thiện này dựa vào thân cường tráng, vững chắc. Thân người nữ thì yếu đuối.

Lời bình: Như thuyết trước nói là tốt. Vì sao? Vì tâm người nam được tự tại, định cũng được tự tại. Người nữ tâm cũng được tự tại, nên định cũng tự tại.

Là người học hay là người vô học? Là người vô học.

Là thời giải thoát hay là phi thời giải thoát? Là phi thời giải thoát. Vì sao? Vì những người nào có thể khởi định này? Nghĩa là đối với định được tự tại, trong thân không có phiền não. Người tín giải thoát đối với định không được tự tại, cũng không ở trong thân không có phiền não. Người kiến đáo tuy ở nơi định được tự tại, nhưng trong thân không phải là không có phiền não. Người thời giải thoát tuy trong thân không có phiền não, nhưng đối với định không được tự tại. Phi thời giải thoát thì trong thân không có phiền não và đối với định cũng được tự tại.

Hỏi: Thứ gì là tam muội? Là sát-na đầu tiên hay là sát-na nối tiếp về sau?

Nếu là sát-na đầu tiên, thì sát-na khác làm gì?

Nếu là sự nối tiếp về sau thì như nơi Luận Thức Thân nói làm sao thông? Như nói: Từng có pháp là hữu lậu của thế tục, là thuộc về thủ ấm, từ bên trong khởi, nhân nơi tuệ sinh, là thiện, là hệ thuộc cõi dục. Tiếp theo Thánh đạo sinh, duyên nơi vô lậu, là pháp bất cộng, chỉ là Thánh nhân, không chung với phàm phu chăng? Đáp: Có. Là tam muội không không, vô nguyện vô nguyện, vô tướng vô tướng, hệ thuộc cõi dục.

Đáp: Nên nói như thế này: Là sát-na đầu tiên.

Hỏi: Nếu như vậy thì sát-na còn lại là gì?

Đáp: Là giống với căn thiện kia.

Lại có thuyết nói: Là sát-na nối tiếp, đều là tam muội.

Hỏi: Nếu như vậy thì như nơi Luận Thức Thân nói làm sao thông hợp?

Đáp: Sát-na đầu tiên là Thánh đạo, theo thứ lớp duyên nơi vô lậu. Sát-na còn lại tuy không phải là Thánh đạo, nhưng theo thứ lớp cũng duyên nơi vô lậu.

Hỏi: Thời gian nào khởi ba tam muội này hiện ở trước?

Đáp: Vào thời gian Bát Niết-bàn. A-la-hán khi sắp Bát Niếtbàn, từ nơi Thánh đạo khởi rồi, thì khởi tam muội này hiện ở trước. Từ tam muội này khởi xong liền Bát Niết-bàn. Không khởi lại nữa, tức Thánh đạo không khởi lại.

Lời bình: Nên nói như thế này: Được tam muội ấy xong, muốn dùng phương tiện khởi hiện ở trước.

Hỏi: Sau Thánh đạo, khởi tam muội này hiện ở trước. Sau tam muội này, lại khởi Thánh đạo hiện ở trước được chăng?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Không khởi. Vì sao? Vì tam muội này không ưa hợp với Thánh đạo.

Lại có thuyết nói: Có thể khởi.

Hỏi: Nếu có thể khởi sao gọi là không ưa hợp với Thánh đạo?

Đáp: Tam muội này tuy không ưa Thánh đạo, nhưng không như Thánh đạo ghét bỏ đối với hữu. Sau Thánh đạo cũng khởi tâm hữu lậu, huống chi là sau định này không khởi tâm vô lậu sao. Nhưng Thánh đạo theo thứ lớp khởi định này. Định này theo thứ lớp không khởi tâm vô lậu, vì định này chỉ là hữu lậu.

Hỏi: Vì sao định này chỉ là hữu lậu?

Đáp: Vì không đoạn trừ kiết.

Hỏi: Thánh nhân vì sao tu định này?

Đáp: Do bốn sự việc nên tu:

  1. Do muốn trụ nơi hiện pháp lạc.
  2. Do muốn có được sự tự tại.
  3. Do muốn quán xét công việc vốn đã làm.
  4. Do thọ dụng Thánh pháp.

Lại nữa, định này là pháp thù thắng, nên Thánh nhân muốn hành trì định này.

 

Chương 3: KIỀN ĐỘ TRÍ

Phẩm thứ 1: TÁM ĐẠO, phần 1

Đức Phật nói: Người học thành tựu tám thứ học đạo tích. A-lahán lậu đã dứt hết, phạm hạnh đã lập, thành tựu mười thứ đạo vô học.

Người học đối với tám thứ học đạo tích có bao nhiêu thứ thành tựu ở quá khứ, bao nhiêu thứ thành tựu ở vị lai, bao nhiêu thứ thành tựu ở hiện tại? A-la-hán lậu đã dứt hết, phạm hạnh đã lập, đối với mười thứ đạo vô học, có bao nhiêu thứ thành tựu ở quá khứ, bao nhiêu thứ thành tựu ở vị lai, bao nhiêu thứ thành tựu ở hiện tại?

Như chương này và giải thích nghĩa của chương, ở đây nên nói rộng là Ưu-ba-đề-xá.

Hỏi: Vì lý do gì tạo ra phần Luận này?

Đáp: Vì nhằm ngăn chận ý của những người ngu trong đời, cho là không có thành tựu đời quá khứ, vị lai, nói đời hiện tại là pháp vô vi, cũng nhằm nêu rõ về sự thành tựu hành của quá khứ, vị lai là pháp có thật. Nếu hành của quá khứ, vị lai là không có thật, tức không có sự thành tựu, không thành tựu và hành của quá khứ, vị lai như đầu thứ hai, tay thứ ba, ấm thứ sáu, nhập thứ mười ba.

Không có sự thành tựu, không thành tựu: Nghĩa là do có thành tựu hành của quá khứ, vị lai, nên biết hành của quá khứ, vị lai là pháp có thật.

Lại có thuyết nói: Sở dĩ tạo ra phần Luận này là vì hoặc có thuyết nêu: Thành tựu không phải là pháp có thật. Như phái Thí dụ. Tôn giả Phật-đà-đề-bà nói: Thành tựu không có Thể, nên không phải là pháp có thật. Vì sao? Vì nếu chúng sinh không lìa pháp kia, gọi là thành tựu. Nhưng không lìa là phân biệt pháp hòa hợp cùng đối đãi, không có Thể thật. Như năm ngón tay chụm lại gọi là nắm tay, xòe ra thì không phải là nắm tay. Nếu chúng sinh không lìa pháp kia thì gọi là thành tựu. Nếu lìa pháp kia thì không gọi là thành tựu.

Hỏi: Vì sao Tôn giả kia lập ra thuyết như thế?

Đáp: Vì Tôn giả ấy đã dựa vào kinh Phật. Kinh Phật nói: Chuyển luân Thánh vương thành tựu bảy báu. Vị kia là thành tựu pháp nơi thân người khác và pháp của phi số chúng sinh chăng? Nếu Chuyển luân vương thành tựu xe báu, thần ngọc báu, thì hủy hoại Thể của pháp. Vì sao? Vì cũng là số chúng sinh, cũng là phi số chúng sinh. Nếu thành tựu voi báu, ngựa báu, tức hủy hoại nẻo. Vì sao? Vì cũng là nẻo người, cũng là nẻo súc sinh. Nếu thành tựu ngọc nữ báu, tức hủy hoại thân. Vì sao? Vì cũng là thân nam, cũng là thân nữ. Nếu thành tựu quan chủ kho tàng, quan chủ binh, tức hủy hoại nghiệp. Vì sao? Vì cũng là tôn quý, cũng là thấp kém. Muốn khiến không có lỗi như thế, nên nói thành tựu là không có Thể thật.

Vì nhằm ngăn chận ý của những người nói như thế, cũng để làm rõ Thể của thành tựu là có thật. Nếu thành tựu không có Thể thật thì trái với kinh này. Như nói: Người học thành tựu tám thứ học đạo tích. A-la-hán dứt hết lậu, phạm hạnh đã lập, thành tựu mười thứ đạo vô học. Tâm hữu lậu của Thánh nhân khi hiện ở trước, là đã thành tựu quá khứ, vị lai, hiện tại. Không có đạo vô lậu, tức không thành tựu.

Lại còn trái với kinh khác. Như nói: Người này thành tựu pháp thiện, cũng tạo thành pháp bất thiện, vô ký. Nếu khi pháp thiện hiện ở trước, tức lìa pháp bất thiện, pháp vô ký không nên thành tựu. Pháp bất thiện khi hiện ở trước, thì lìa pháp thiện, pháp vô ký không nên thành tựu. Pháp vô ký khi hiện ở trước, là lìa pháp thiện, pháp bất thiện không nên thành tựu.

Lại còn trái với kinh khác. Như nói: Tỳ-kheo thành tựu bảy pháp, ở trong hiện pháp trụ nhiều nơi hỷ lạc. Nếu tu phương tiện, tất có thể dứt hết lậu. Không có Tỳ-kheo thành tựu bảy pháp, ở trong bảy pháp nếu khởi mỗi mỗi pháp hiện ở trước, tức thành tựu một pháp. Nếu khởi pháp khác hiện ở trước thì ở trong bảy pháp tức không thành tựu.

Lại còn trái với kinh khác. Như nói: Đức Như Lai thành tựu mười lực. Không có Như Lai thành tựu mười lực, hoặc thành tựu một lực, hoặc không thành tựu Như Lai. Ở trong mười lực, nếu khởi mỗi mỗi lực hiện ở trước tức thành tựu một lực. Vì sao? Vì ở trong một sát-na, không có hai tuệ cùng hiện ở trước, huống chi là nhiều. Nếu khởi pháp khác hiện ở trước, thì không thành tựu lực.

Lại có lỗi khác: Người phàm phu có thể nói là lìa kiết của ba cõi. Người lìa kiết của ba cõi có thể nói là người phàm phu. Người phàm phu có thể nói là lìa kiết của ba cõi: Nghĩa là tâm thiện, tâm vô ký không ẩn mất của người phàm phu, khi hiện ở trước, tức không tạo thành kiết của ba cõi nơi quá khứ, vị lai, hiện tại, nên là người đã lìa dục của ba cõi, người lìa dục của ba cõi là người phàm phu, A-la-hán khởi tâm hữu lậu thiện và tâm vô ký không ẩn mất, khi hiện ở trước, thì không thành tựu pháp vô lậu quá khứ, hiện tại, vị lai. Do không thành tựu pháp vô lậu nên là phàm phu.

Vì muốn khiến không có lỗi như thế, nên nói sự thành tựu là pháp có thật.

Hỏi: Nếu thành tựu là pháp có thật, thì người của phái Thí Dụ đã nêu dẫn kinh kia làm sao thông hợp?

Đáp: Vì Chuyển Luân Vương ở trong bảy báu được tùy ý tự tại sử dụng, nên Đức Thế Tôn nói là thành tựu.

Lại có thuyết cho: Sở dĩ tạo ra phần Luận này là vì như có người nói: Thành tựu là pháp có thật. Không thành tựu không phải là pháp có thật.

Vì nhằm ngăn chận ý của những thuyết nêu bày như thế, lại cũng làm rõ không thành tựu là pháp có thật. Nếu không thành tựu không phải là pháp có thật thì thành tựu cũng không phải là có thật. Vì sao? Vì nhân nơi không thành tựu, nên thiết lập thành tựu. như nhân nơi ánh sáng có bóng tối, nhân nơi đêm có ngày, nhân nơi lạnh có nóng. Nhân nơi không thành tựu nên có thành tựu cũng như thế.

Lại nữa, không thành tựu cùng với thành tựu là hai, là hai pháp tương đối gần. Như tham cùng với không tham, giận dữ cùng với không giận dữ, ngu si cùng với không ngu si, đều là hai pháp tương đối gần. Thành tựu cùng với không thành tựu kia cũng như thế.

Lại nữa, nếu không thành tựu không có Thể thật thì không thiết lập có pháp đoạn trừ phiền não. Vì sao? Vì Thánh đạo lúc sinh là đã đoạn trừ phiền não rồi, không phải như dùng đá mài hương. Thánh đạo lúc sinh, vì đoạn trừ được phiền não, chứng đắc giải thoát, nên gọi là đoạn dứt phiền não.

Lại có thuyết nêu: Sở dĩ tạo ra phần Luận này vì có thuyết cho Thánh đạo là pháp vô vi. Như phái Tỳ-bà Xà-bà-đề nói: Thánh đạo là pháp vô vi. Phái ấy nói như thế này: Đạo Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng là một pháp thường trụ, chư Phật xuất thế đều giác ngộ đạo này. Ví như trang hoàng các xe voi ngựa để đi lại, nhiều người cùng đến đi xe. Người người tuy khác, nhưng xe luôn là một. Như thế, đạo Bồ-đề Vô thượng là một thường trụ. Chư Phật xuất thế đều giác ngộ đạo Bồ-đề này. Chư Phật tuy khác, nhưng đạo Bồ-đề kia luôn là một.

Hỏi: Vì sao phái kia tạo ra thuyết như thế?

Đáp: Vì dựa vào kinh Phật. Kinh Phật nói: Ta được đạo cũ của chư Tiên quá khứ đã đạt được. Do Đức Phật nói đạo là pháp cũ, nên nói là vô vi.

Vì nhằm ngăn chận ý của những thuyết giảng nói như thế, cũng để nêu rõ đạo ở trong đời. Nếu đạo ở nơi đời, tất là hữu vi, không phải là vô vi. Vì sao? Vì không có pháp vô vi nào ở nơi thế gian. Nếu đạo là pháp vô vi, tất trái với kinh này. Như nói: Ưu-bà-di Tỳ-xá-khư đi đến trụ xứ của Tỳ-kheo-ni Đàn-ma-đề-na thưa hỏi như vầy: Đạo là hữu vi hay là vô vi? Vị Tỳ-kheo-ni kia đáp: Này Ưu-bà-di Tỳ-xákhư, đạo là hữu vi, không phải là vô vi.

Hỏi: Nếu đạo là hữu vi, không phải là vô vi, thì như kinh của phái Tỳ-bà Xà-bà-đề đã nêu dẫn làm sao thông hợp?

Đáp: Do năm sự việc đồng nên nói là đạo cũ: (1) Do phương tiện đồng. (2) Do địa đồng. (3) Do hành đồng. (4) Do cảnh giới đồng. (5) Do đối tượng tạo tác đồng.

Phương tiện đồng: Là như một vị Phật, ở trong ba A-tăng-kỳ kiếp hành trì đầy đủ sáu Ba-la-mật, thì chư Phật cũng như thế.

Địa đồng: Là đạo kia đều ở nơi địa thiền thứ tư.

Hành đồng: Là đều hành mười sáu hành.

Cảnh giới đồng: Là đều duyên nơi bốn đế.

Đối tượng tạo tác đồng: Là như một Đức Phật dùng đạo để diệt trừ phiền não, thì tất cả chư Phật cũng như thế.

Do nghĩa này nên thông suốt kinh kia.

Nếu như kinh đã nói: Không dựa vào nghĩa, tức như trong kinh này nói: Ta từng vượt qua thành cũ, thôn cũ. Thành, thôn có thể là pháp vô vi chăng? Tuy nói thành, thôn là cũ nhưng không phải vô vi. Đạo cũng như thế. Tuy nói là đạo cũ, nhưng không phải vô vi. Như kệ nói:

Nếu đoạn dục rốt ráo

Như hoa sen ở nước Tỳ-kheo lìa đây, kia Như rắn bỏ da cũ.

Da rắn có thể là pháp vô vi chăng? Da rắn như thế, tuy nói là cũ, nhưng không phải vô vi. Đạo cũng như thế.

Thế nên, vì để ngăn chận nghĩa của người khác, cũng nhằm làm rõ nghĩa của mình, cùng muốn nêu bày về nghĩa tương ưng của pháp tướng, nên tạo ra phần Luận này.

Tám thứ học đạo tích: Là chánh kiến cho đến chánh định.

Sự thành tựu:

Hỏi: Thứ gì thành tựu? Là pháp thành tựu hay là người thành tựu? Nếu pháp thành tựu, thì tất cả pháp đều không có đối tượng mong muốn, vậy làm sao thành tựu? Nếu người thành tựu thì ở trong thật nghĩa, người không thể thủ đắc. Còn nếu không có người thì làm sao thành tựu?

Đáp: Nên nói như thế này: Thành tựu không phải là pháp, không phải là người. Trong thật nghĩa có thành tựu, không thành tựu, nhưng không có người thành tựu không thành tựu. Trong thật nghĩa có trói buộc, có giải thoát, nhưng không có người trói buộc, người giải thoát. Có phiền não, có xuất yếu, nhưng không có người phiền não, người xuất yếu. Có sinh, có tử, nhưng không có người sinh, người tử. Có nghiệp, có báo của nghiệp, nhưng không có người tạo nghiệp, người thọ nhận báo của nghiệp. Có đạo, có quả của đạo, nhưng không có người tu đạo, người chứng quả của đạo. Ở trong thật nghĩa, có thành tựu, không thành tựu, nhưng không có người thành tựu, không thành tựu.

Hoặc có thuyết nói: Là pháp thành tựu.

Hỏi: Nếu như vậy thì nhãn nhập thành tựu mười một nhập. Mười một nhập cũng thành tựu nhãn nhập chăng?

Đáp: Hoặc nói như thế này: Nhãn nhập thành tựu mười một nhập. Mười một nhập thành tựu nhãn nhập, nhưng không có lỗi.

Lời bình: Nên nói như vầy: Thành tựu không phải là pháp, không phải là người. Nhưng khi bốn ấm, năm ấm sinh, có được sự tương tợ như thế, gọi là thành tựu, không thành tựu.

Tôn giả Hòa-tu-mật nói: Tất cả pháp không có đối tượng mong muốn. Ở trong pháp không có đối tượng mong muốn đó, có gì là thành tựu, là không thành tựu?

Hỏi: Nếu như vậy thì như kinh Phật nói làm sao thông? Như nói: Người này đã thành tựu pháp thiện, pháp bất thiện.

Đáp: Đây là Đức Như Lai tùy thuận nơi ngôn thuyết của thế tục để nói chớ không có thật.

Hỏi: Thế nào là nghĩa thành tựu?

Đáp: Tôn giả Hòa-tu-mật nói: Nghĩa không đoạn dứt là nghĩa thành tựu.

Hỏi: Nếu như vậy thì hàng phàm phu bị trói buộc đủ, đối với tất cả pháp không đoạn, đều là thành tựu chăng?

Đáp: Không phải. Vì không được pháp thành tựu kia.

Lại nữa, nghĩa không từ bỏ là nghĩa thành tựu.

Hỏi: Nếu như vậy thì người học không từ bỏ pháp vô học, là đã thành tựu pháp vô học đó chăng?

Đáp: Không phải. Vì không được pháp vô học kia.

Tôn giả Phật-đà-đề-bà nói: Nghĩa được nhưng không mất là nghĩa thành tựu. Nếu được pháp vô học kia nhưng không mất thì đó gọi là thành tựu.

Hỏi: Vì sao gọi là học? Vì học nơi pháp học nên gọi là học, hay vì được pháp học nên gọi là học? Nếu học nơi pháp học là người học, thì như nơi Kiền Độ Định đã nói làm sao thông? Như nói: Học trụ nơi tự tánh. Nếu được pháp học là người học, thì như kinh Phật nói làm sao thông? Như nói: Đức Phật nói với Thi-bà-ca: Vì học nơi pháp học, nên gọi là học.

Đáp: Nên nói như thế này: Vì học nơi pháp học, nên gọi là học.

Hỏi: Nếu như vậy thì đối với kinh Phật nói là khéo thông hợp. Còn như nơi Kiền Độ Định nói làm sao thông?

Đáp: Trong Kiền Độ Định kia nói là được pháp học, nên gọi là người học.

Lại có thuyết nói: Vì được pháp học, nên gọi là học.

Hỏi: Nếu như vậy thì như nơi Kiền Độ Định đã nói là khéo thông hợp. Còn như kinh Phật nói làm sao thông?

Đáp: Trong kinh Phật nói là không bỏ tâm trông mong, không bỏ phương tiện. Người học nếu trụ nơi tâm thiện, bất thiện, vô ký, không bỏ tâm hướng đến Niết-bàn, nên gọi là học. Như người đang nghỉ ngơi ở giữa đường, có người khác hỏi: Ông định đi đến đâu? Người kia đáp: Tôi định đi đến phương X. Người kia do không bỏ tâm đi, nên tuy đang dừng lại, vẫn nói là đi. Người học tích kia cũng như thế.

Hỏi: Vô học tích đối với Học tích là sáng sạch, thắng diệu, vì sao chỉ nói Học tích, không nói Vô học tích?

Đáp: Tức nên nói nhưng không nói, nên biết là nghĩa này nêu giảng chưa trọn vẹn.

Lại nữa, đây là nói về người mới khởi, mới bắt đầu nhập pháp, nên đã nói học, tức biết là cũng nói vô học.

Lại nữa, do đối tượng tạo tác mỗi mỗi đều không đồng, nên người học do đối tượng tạo tác của đạo tích là hơn. Còn người vô học do đối tượng tạo tác của giải thoát là hơn. Như vua cùng với quan, đối tượng tạo tác mỗi mỗi đều không đồng.

Vua do đối tượng tạo tác là sự tôn quý hàng phục là hơn. Còn quan thì do đối tượng tạo tác là sử dụng binh khí, chiến đấu là hơn. Học, vô học kia cũng như thế.

Lại nữa, học đạo tích có thể đoạn trừ phiền não. Cũng như binh khí có thể phá tan kẻ oán địch. Còn vô học thì không như thế.

Lại nữa, học đạo tích có thể tạo phương tiện đoạn trừ phiền não cùng đoạn trừ phiền não. Vô học thì không như thế.

Lại nữa, nghĩa thường xuyên hành tác là nghĩa của đạo tích. Vô học vì không thường xuyên hành tác, nên không gọi là tích.

Hỏi: Người học thành tựu tám thứ đạo tích, thì có bao nhiêu thứ thành tựu ở quá khứ, bao nhiêu thứ thành tựu ở vị lai, bao nhiêu thứ thành tựu ở hiện tại?

Đáp: Nếu dựa vào tam muội có giác có quán. Tam muội có giác có quán là thiền vị chí và thiền thứ nhất.

Hỏi: Trong đây, thứ gì là nương dựa?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Vì đều cùng sinh, nên là nương dựa.

Lại có thuyết cho: Duyên thứ đệ là nương dựa.

Lời bình: Nên nói như thế này: Vì dựa vào hai địa kia khởi pháp này, nên gọi là nương dựa.

Đầu tiên, nghĩa là có bốn thứ: (1) Được chánh quyết định đầu tiên. (2) Được quả đầu tiên. (3) Chuyển căn đầu tiên. (4) Lìa dục đầu tiên.

Được chánh quyết định đầu tiên: Nghĩa là dựa vào hai địa kia được chánh quyết định.

Được quả đầu tiên: Nghĩa là dựa vào hai địa kia, đầu tiên được quả học.

Chuyển căn đầu tiên: Nghĩa là dựa vào tín giải thoát của hai địa kia chuyển căn, tạo ra kiến đáo.

Lìa dục đầu tiên: Nghĩa là do đạo thế tục, dựa vào hai địa kia lìa dục, đầu tiên khởi đạo vô lậu hiện ở trước. Trong đây, dựa vào bốn thứ đầu tiên này để tạo luận. Tùy theo tướng mà nói học kiến hiện ở trước.

Hỏi: Người học hoặc khởi kiến phi học phi vô học, vì sao chỉ nói học kiến của người học hiện ở trước?

Đáp: Nên nói như thế này: Hoặc học kiến hiện ở trước, nhưng không nói nên biết là người học tất khởi học kiến, không khởi phi học phi vô học kiến. Như đã nói: Các sát-na đầu tiên hiện ở trước, không có quá khứ. Vì sao? Vì chưa có một sát-na trải qua sự sinh diệt. Nếu như có sinh diệt, do được quả chuyển căn, nhưng bỏ tám thành tựu vị lai, tu tám thành tựu hiện tại. Nếu diệt rồi không xả bỏ thì diệt là vô thường, tức diệt rồi không xả bỏ. Xả bỏ Thánh đạo có ba thứ: (1) Được quả. (2) Thoái chuyển. (3) Chuyển căn. Nếu không được quả, không thoái chuyển, không chuyển căn, tức dựa vào địa kia diệt rồi lại khởi hiện ở trước.

Hỏi: Vì sao dựa vào địa kia diệt rồi lại khởi hiện ở trước?

Đáp: Người học dựa vào địa kia, cùng với phiền não chiến đấu được thắng lợi, phá tan kiết oán địch, nghĩ đến ân của địa kia nên lại khởi hiện ở trước.

Như người mặc áo giáp, cầm binh khí giao đấu với giặc oán, được thắng rồi, nên về sau, do nghĩ đến ân, nên thường xuyên sửa sang khí giới, gậy gộc đã cất giấu, không khiến bị hủy hoại. Người học kia cũng lại như thế.

Lại nữa, do bốn sự việc nên lại khởi hiện ở trước: (1) Vì muốn thọ nhận hiện pháp lạc. (2) Vì muốn hiện bày diệu dụng. (3) Vì muốn quán xét công việc trước kia đã làm. (4) Vì muốn thọ dụng Thánh pháp.

Người học nơi khoảng sát-na thứ hai, tám thứ thành tựu ở quá khứ, là sự sinh diệt của sát-na trước. Tám thứ thành tựu ở vị lai là vị lai tu. Tám thứ thành tựu ở hiện tại là hiện ở trước. Tức pháp kia diệt rồi không bỏ.

Nếu dựa vào tam muội không giác không quán, học kiến hiện ở trước. Tám thứ thành tựu ở quá khứ, là dựa vào địa có giác có quán có sinh diệt. Tám thứ thành tựu ở vị lai là vị lai tu. Bảy thứ thành tựu ở hiện tại thì hiện ở trước, trừ chánh giác. Vì sao? Vì địa không có chánh giác, nên pháp kia diệt rồi không xả bỏ.

Nếu dựa vào định vô sắc, học kiến hiện ở trước. Tám thứ thành tựu ở quá khứ, là địa có giác có quán có sinh diệt. Tám thứ thành tựu ở vị lai là vị lai tu. Bốn thứ thành tựu ở hiện tại, trừ chánh giác, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, vì địa kia không có, nên pháp kia diệt rồi không xả bỏ.

Nếu nhập định diệt, hoặc khởi tâm thế tục hiện ở trước. Tám thứ thành tựu ở quá khứ, là địa có giác có quán có sinh diệt. Tám thứ thành tựu ở vị lai là vị lai tu. Hiện tại không có thành tựu. Nếu nhập định diệt thì thời gian này không có tâm, vì người có tâm có thể tu đạo. Nếu khởi tâm thế tục hiện ở trước, thì tâm kia là hữu lậu.

Ở đây chỉ nói chủng loại của đạo vô lậu. Nếu dựa vào tam muội không giác không quán, thì tam muội không giác không quán là thiền thứ hai, thiền thứ ba, thiền thứ tư.

Hỏi: Trong đây vì sao không nói thiền trung gian?

Đáp: Nên nói nhưng không nói, nên biết là nghĩa này nêu giảng chưa trọn vẹn.

Lại nữa, vì điều này sẽ nói ở phần sau. Vì sao? Vì không còn có chủng loại khác. Vì cùng với ba thiền sau là đồng chủng loại, nên dựa vào nghĩa như trước đã nói. Đầu tiên: Có bốn thứ như trước đã nói. Học kiến hiện ở trước, như trước đã nói. Sát-na đầu tiên không thành tựu ở quá khứ, như trước đã nói. Tám thứ thành tựu ở vị lai, bảy thứ thành tựu ở hiện tại, như trước đã nói. Pháp kia diệt rồi không xả bỏ, như trước đã nói.

Lại dựa vào tam muội không giác không quán, học kiến hiện ở trước. Trong khoảnh khắc sát-na thứ hai, bảy thứ thành tựu ở quá khứ, là dựa vào địa không giác không quán có sinh diệt. Tám thứ thành tựu ở vị lai, bảy thứ thành tựu ở hiện tại, như trước đã nói. Pháp kia diệt rồi không xả bỏ.

Dựa vào định vô sắc, học kiến hiện ở trước. Bảy thứ thành tựu ở quá khứ, là dựa nơi địa không giác không quán có sinh diệt. Tám thứ thành tựu ở vị lai, bảy thứ thành tựu ở hiện tại, như trước đã nói. Pháp kia diệt rồi không xả bỏ.

Dựa nơi định vô sắc, học kiến hiện ở trước. Bảy thứ thành tựu ở quá khứ, là địa không giác không quán có sinh diệt. Tám thứ thành tựu ở vị lai, bốn thứ thành tựu ở hiện tại, như trước đã nói. Pháp kia diệt rồi không xả bỏ.

Nhập định diệt, nếu khởi tâm thế tục, như trước đã nói. Pháp kia diệt rồi không xả bỏ.

Dựa vào tam muội có giác có quán, học kiến hiện ở trước. Bảy thứ thành tựu ở quá khứ, là địa không giác không quán có sinh diệt. Tám thứ thành tựu ở vị lai, tám thứ thành tựu ở hiện tại, như trước đã nói.

Nếu dựa vào định vô sắc, thì định vô sắc được gọi là xứ không, xứ thức, xứ vô sở hữu. Sự nương dựa như trước đã nói. Đầu tiên là bốn thứ đầu, như trước đã nói.

Ở đây, dựa vào sự lìa dục đầu tiên để tạo luận, không phải được chánh quyết định đầu tiên. Vì sao? Vì không có người dựa vào định vô sắc để đạt được chánh quyết định. Không phải là được quả đầu tiên. Vì sao? Vì không có người dựa vào định vô sắc để được quả học. Không phải là chuyển căn đầu tiên. Vì sao? Vì không có người dựa vào định vô sắc để chuyển căn học. Do đạo thế tục đã lìa dục của địa dưới, về sau lại dựa vào địa đó, đầu tiên khởi đạo vô lậu hiện ở trước. Sát-na đầu tiên không có thành tựu ở quá khứ. Tám thứ ở vị lai, bốn thứ ở hiện tại được thành tựu, như trước đã nói.

Hỏi: Như định vô sắc của thế tục không phải là không nhân nơi thiền thế tục. Định vô sắc vô lậu không phải là không nhân nơi thiền vô lậu. Thiền thế tục là cửa, là đối tượng nương dựa, là phương tiện của định vô sắc thế tục. Thiền vô lậu là cửa, là đối tượng nương dựa, là phương tiện của định vô sắc vô lậu. Vậy vì sao nói là không có quá khứ?

Đáp: Vì đạo chủng, hoặc có ở nơi địa thiền, hoặc có ở nơi địa vô sắc. Đạo chủng đó tuy khởi ở địa thiền, chưa khởi ở địa vô sắc, cho nên không có quá khứ diệt, là vô thường diệt, không bỏ. Xả bỏ Thánh đạo có ba loại như trước đã nói. Dựa vào sự sinh diệt của địa kia, Thánh đạo lại khởi hiện ở trước.

Hỏi: Vì sao dựa vào sự sinh diệt của địa kia, Thánh đạo lại khởi hiện ở trước?

Đáp: Vì nghĩ đến ân, nói rộng như trên.

Trong khoảnh khắc sát-na thứ hai, bốn thứ thành tựu ở quá khứ, là dựa vào định vô sắc có sinh diệt. Tám thứ thành tựu ở vị lai là vị lai tu. Bốn thứ thành tựu ở hiện tại là khởi hiện trước, trừ chánh giác, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, vì địa kia không có, nên pháp kia diệt rồi không xả bỏ.

Nếu nhập định diệt, hoặc khởi tâm thế tục hiện ở trước. Bốn thứ thành tựu ở quá khứ, tám thứ thành tựu ở vị lai, hiện tại không có thành tựu, đều như trước đã nói. Pháp kia diệt rồi không xả bỏ.

Dựa vào tam muội có giác có quán, học kiến hiện ở trước. Bốn thứ thành tựu ở quá khứ, là dựa vào định vô sắc có sinh diệt. Tám thứ thành tựu ở vị lai là vị lai tu. Tám thứ thành tựu ở hiện tại là khởi hiện ở trước.

Hỏi: Định vô sắc theo thứ lớp có thể khởi tam muội có giác có quán chăng?

Đáp: Không thể. Ở đây nói là nêu về thứ lớp, không nói theo thứ lớp của định. Ở đây nói là nói về tùy thuận, không nói tùy thuận của định. Pháp kia diệt rồi không bỏ. Dựa vào tam muội không giác không quán, học kiến hiện ở trước, bốn thứ thành tựu ở quá khứ là dựa vào định vô sắc có sinh diệt.

Hỏi: Quá khứ có tám là dựa vào tam muội có giác có quán có sinh diệt, vì sao nói có bốn?

Đáp: Vì trong đây, tất cả xứ chỉ nói về sự sinh diệt trước hết.

Tám thứ thành tựu ở vị lai, là vị lai tu. Bảy thứ thành tựu ở hiện tại là khởi hiện ở trước, trừ chánh giác, vì địa kia không có.

Hỏi: Ở đây nói những gì là người học?

Đáp: Ở đây nói về hành tập học theo thứ lớp nhập tất cả định. Cũng như người trèo lên từng bậc thềm trên đá. Trước nhập tam muội có giác có quán. Tiếp theo nhập tam muội không giác không quán. Tiếp nữa nhập định vô sắc, rồi nhập định diệt. Tiếp sau là khởi tâm thế tục. Nói về người học là như thế. Nếu trước nhập tam muội có giác có quán. Tiếp theo nhập tam muội không giác không quán. Tiếp đấy nhập định vô sắc, rồi nhập định diệt, nhưng không khởi tâm thế tục, thì không nói về người học là như thế. Ngoài ra, như trong chương Kiền Độ Tạp nơi Phẩm Người đã nói rộng về mười hai chi duyên khởi với dụ người nữ đoan chánh.

* Có bốn thứ đạo: (1) Khổ trì đạo tuệ (Khổ trì thông hành). (2) Khổ tốc đạo tuệ (Khổ tốc thông hành). (3) Lạc trì đạo tuệ (Lạc trì thông hành). (4) Lạc tốc đạo tuệ (Lạc tốc thông hành).

Hỏi: Nên nói một đạo là đạo dứt hết khổ. Đạo dứt hết hữu sinh tử. Đạo dứt hết lão tử.

Nên nói hai đạo: (1) Đạo dứt hết sắc. (2) Đạo dứt hết danh.

Nên nói ba đạo: (1) Đạo dứt hết cõi dục. (2) Đạo dứt hết cõi sắc.

(3) Đạo dứt hết cõi vô sắc.

Nên nói năm đạo: Là đạo dứt hết sắc, cho đến đạo dứt hết thức.

Nên nói mười một đạo: Là đạo dứt hết già chết, cho đến đạo dứt hết hành. Nếu do nơi thân, hoặc do nơi sát-na, thì có vô lượng vô biên đạo. Vì sao Đức Thế Tôn ở nơi một đạo nói rộng là bốn đạo, ở nơi vô lượng vô biên đạo lược nói là bốn đạo? Vì sao nêu đặt lập ra bốn đạo?

Đáp: Do ba sự việc: (1) Do địa. (2) Do căn. (3) Do người.

Nói tóm lại, là do ba sự việc, nên do hai sự việc: Hoặc do địa, do căn. Hoặc do địa, do người.

Do địa, do căn: Là dựa vào thiền vị chí, trung gian, ba định vô sắc, thì đạo cho người độn căn hành trì, gọi là khổ trì đạo tuệ. Dựa vào địa này, đạo cho người lợi căn hành trì, gọi là khổ tốc đạo tuệ.

Dựa vào thiền căn bản, đạo cho người độn căn hành trì, gọi là lạc trì đạo tuệ. Dựa vào thiền này, đạo cho người lợi căn hành trì, gọi là lạc tốc đạo tuệ. Đó gọi là do địa, do căn.

Do địa, do người: Là dựa vào thiền vị chí, trung gian, ba định vô sắc, đạo của người Kiên tín, Tín giải thoát, Thời giải thoát hành trì, gọi là khổ trì đạo tuệ. Dựa vào địa này, đạo của người Kiên pháp, Kiến đáo, Phi thời giải thoát hành trì, gọi là khổ tốc đạo tuệ. Dựa vào thiền căn bản, đạo của người Kiên tín, Tín giải thoát, Thời giải thoát hành trì, gọi là lạc trì đạo tuệ. Dựa vào thiền này, đạo của người Kiên pháp, Kiến đáo, Phi thời giải thoát hành trì, gọi là lạc tốc đạo tuệ. Đó gọi là do địa, do người.

HẾT – QUYỂN 46