LUẬN A TỲ ĐÀM TỲ BÀ SA
STác giả: Tôn giả Ca Chiên Diên Tử
Giải thích: Năm trăm A La Hán
Hán dịch: Đời Bắc Lương, Sa môn Phù Đà Bạt Ma, Đạo Thái v.v…
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 29

Chương 2: KIỀN ĐỘ SỬ

Phẩm thứ 1: BẤT THIỆN, phần 5

* Ba kiết này, bao nhiêu thứ là kiến, bao nhiêu thứ không phải là kiến? Cho đến chín mươi tám sử, bao nhiêu thứ là kiến, bao nhiêu thứ không phải là kiến?

Hỏi: Vì lý do gì tạo ra phần Luận này?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Tất cả phiền não đều là tánh của kiến.

Hỏi: Vì sao người kia tạo ra thuyết như thế?

Đáp: Người kia tạo ra thuyết này: Đối tượng hành mạnh nhanh là tánh của kiến. Tất cả phiền não gọi là ở nơi tự phần, đối tượng hành đều mạnh nhanh. Như thân kiến chấp ngã, ngã sở. Biên kiến chấp đoạn, thường. Tà kiến chấp không có thật. Kiến thủ chấp bậc nhất. Giới thủ chấp tịnh, đều có đối tượng hành mạnh nhanh.

Ái cũng như thế, đối với chỗ nhiễm chấp, đối tượng hành cũng mạnh nhanh. Giận oán ghét, mạn tự cao, si ngu tối, nghi do dự, đối tượng hành của chúng cũng đều mạnh nhanh. Vì nhằm đoạn trừ ý tưởng của thuyết như thế, cũng nhằm biện minh phiền não có thứ là tánh của kiến, có thứ không phải là tánh của kiến, nên tạo ra phần Luận này.

Ba kiết này, bao nhiêu thứ là tánh của kiến? Bao nhiêu thứ không phải là tánh của kiến?

Đáp: Hai thứ là tánh của kiến, là kiết thân kiến, kiết giới thủ. Một thứ không phải là tánh của kiến là kiết nghi.

Các môn còn lại: Nói rộng như nơi Bản Luận.

Hỏi: Vì sao gọi là kiến?

Đáp: Trong đây nên nói rộng, như nơi xứ kiến của năm kiến.

* Ba kiết này, bao nhiêu thứ có giác có quán, bao nhiêu thứ không giác có quán, bao nhiêu thứ không giác không quán? Cho đến chín mươi tám sử, bao nhiêu thứ có giác có quán, bao nhiêu thứ không giác có quán, bao nhiêu thứ không giác không quán?

Hỏi: Vì lý do gì tạo ra phần Luận này?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Giác, quán (Tầm, tứ) từ cõi dục cho đến cõi Hữu đảnh, như Phái Thí Dụ đã nói.

Vì sao phái kia tạo ra thuyết ấy? Vì phái kia đã dựa vào kinh Phật. Trong kinh Phật nói: Tâm thô là giác, tâm tế là quán. Tướng thô tế này, từ cõi dục cho đến cõi Hữu đảnh đều có thể đạt được.

Tôn giả Phật-đà-đề-bà nói: Người A-tỳ-đàm nói thế này: Tướng thứ lớp của tâm tròn đủ nhưng có thô tế hiện bày khắp trong ba cõi. Tuy nhiên, từ cõi dục cho đến cõi Phạm thế là có giác có quán. Người nói như thế, gọi là nói về ác. Các ông đã tạo ra thuyết này: Tâm thô là giác, tâm tế là quán. Tâm thô, tâm tế này, cho đến cõi Hữu đảnh đều có thể đạt được, nhưng lại nói giác quán là từ cõi dục cho đến trong cõi Phạm thế là có. Vậy nên thuyết các ông đã nói là thuyết ác, chẳng phải là thuyết thiện, thọ trì điều ác, chẳng phải thọ trì điều thiện.

Người A-tỳ-đàm nêu bày thế này: Thuyết của chúng tôi đã nói là thuyết thiện, là thọ trì thiện, chẳng phải thọ trì ác. Vì sao? Vì chúng tôi đã dùng vô số các thứ việc để nói về tướng thô, tế, không phải dùng một việc. Như nói triền thô, sử tế, ở đây không nói giác thô, quán tế. Vì sao? Vì hai pháp này chẳng phải là tướng của triền, sử. Như nói: Sắc ấm là thô, bốn ấm là tế. Như thế, tức nói giác và quán đều cùng là pháp tế. Vì sao? Vì đồng thuộc về hành ấm.

Như nói: Cõi dục là thô, thiền thứ nhất là tế. Như thế tức cũng nói giác, quán là thô là tế. Vì sao? Vì cõi dục, thiền thứ nhất đều cùng có giác quán. Như nói: Địa thiền thứ nhất thô, địa thiền thứ hai tế. Như thế tức nói giác, quán là thô. Vì sao? Vì trên địa thiền thứ nhất không có giác quán.

Hỏi: Thuyết kia đã nói trên địa thiền thứ nhất có giác, quán. Vậy vì sao lại nói ba địa có sai biệt?

Đáp: Thuyết kia nói thế này: Cõi dục, thiền thứ nhất cho đến xứ phi tưởng phi phi tưởng có ba thứ pháp: Là thiện, nhiễm ô và vô ký không ẩn mất.

Thiền trung gian cho đến xứ phi tưởng phi phi tưởng, pháp nhiễm ô thì sâu đậm nên đó gọi là địa có giác có quán.

Pháp thiện, pháp vô ký không ẩn mất của thiền trung gian, đó gọi là địa không có giác có quán.

Pháp thiện, pháp vô ký không ẩn mất của thiền thứ hai trở lên, cho đến xứ phi tưởng phi phi tưởng, đó gọi là địa không giác không quán.

Hỏi: Nếu như vậy thì thuyết kia làm sao thông nơi kinh Phật? Như kinh nói: Diệt hết giác quán, định sinh hỷ lạc, nhập thiền thứ hai. Thuyết kia đáp: Diệt giác quán thiện, không phải là giác quán nhiễm ô.

Hỏi: Nếu như vậy là nhân nơi sự việc gì để diệt giác quán thiện, không phải là nhiễm ô?

Đáp: Tức trước là diệt nhiễm ô, về sau, lúc lìa địa mới diệt thiện.

Chỉ Phái Thí Dụ nói địa trên có giác, quán. Nên biết thuyết này là quả của vô minh, quả đen tối, quả của phương tiện không siêng năng, nhưng vì giác, quán trong cõi dục, thiền thứ nhất là có.

Vì muốn ngăn trừ nghĩa của người khác, cho đến nói rộng, nên tạo ra phần Luận này.

Ba kiết này, bao nhiêu thứ có giác có quán? Bao nhiêu thứ không giác có quán? Bao nhiêu thứ không giác không quán?

Đáp: Ba kiết có đủ ba thứ: Hoặc có giác có quán. Hoặc không giác có quán. Hoặc không giác không quán.

Thế nào là có giác có quán? Là ở nơi cõi dục, thiền thứ nhất.

Thế nào là không giác có quán? Là ở nơi thiền trung gian.

Thế nào là không giác không quán? Là ở nơi ba thiền và bốn định vô sắc.

Các môn còn lại: Nói rộng như nơi Bản Luận.

Hỏi: Vì sao gọi là có giác có quán? Vì sao gọi là không giác có quán? Vì sao gọi là không giác không quán?

Đáp: Đều cùng với giác quán cùng có. Đều cùng với giác quán tương ưng. Đều cùng với giác quán hiện ở trước. Đó gọi là có giác có quán.

Nếu không cùng với giác cùng có, chỉ cùng với quán cùng có, không cùng với giác tương ưng, chỉ cùng với quán tương ưng, đã diệt giác nhưng cùng với quán cùng hiện ở trước. Đó gọi là không giác có quán.

Nếu không cùng với giác quán cùng có, cũng không cùng với giác quán tương ưng, đã diệt giác quán. Đó gọi là không giác không quán.

Lại nữa, nếu có vô số tìm cầu, vô số xem xét, thì gọi là có giác có quán. Nếu không có các thứ tìm cầu, chỉ có các thứ xem xét, thì gọi là không giác có quán. Nếu không có các thứ tìm cầu, cũng không có các thứ xem xét, thì gọi là không giác không quán.

* Ba kiết này, bao nhiêu thứ tương ưng với lạc căn? Bao nhiêu thứ tương ưng với khổ căn? Bao nhiêu thứ tương ưng với hỷ căn? Bao nhiêu thứ tương ưng với ưu căn? Bao nhiêu thứ tương ưng với xả căn? Cho đến chín mươi tám sử cũng như thế.

Hỏi: Vì lý do gì tạo ra phần Luận này?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Lúc pháp sinh là sinh theo thứ lớp, không sinh cùng một lúc, như Phái Thí Dụ. Tôn giả Phật-đà-đề-bà nói như thế này: Khi pháp sinh là sinh theo thứ lớp, không sinh cùng một lúc. Cũng như nhiều người đi qua con đường nhỏ hẹp, phải theo thứ lớp mà đi, không được đi qua cùng một lúc. Nếu muốn hai người cùng đi qua, điều này cũng là khó, huống chi là nhiều người. Như thế, tất cả pháp hữu vi, mỗi mỗi đều từ tướng sinh sinh, duyên nơi gì để có nhiều pháp sinh cùng một lúc sinh? Người A-tỳ-đàm nêu bày như thế này: Pháp hữu vi tự có một pháp hòa hợp mà sinh. Tự có nhiều pháp hòa hợp mà sinh.

Một pháp hòa hợp sinh: Là ở trong khoảnh một sát-na sinh, nên gọi là một pháp hòa hợp sinh.

Nhiều pháp hòa hợp sinh: Là như mỗi một số pháp, đều có một sự sinh, tuy nhiều nhưng không lìa nhau, nên gọi là nhiều pháp hòa hợp sinh.

Lại nữa, sở dĩ tạo ra phần Luận này, là vì có thuyết nói: Nghĩa của sức lần lượt nhân nơi nhau, là nghĩa tương ưng. Người kia tạo ra thuyết này: Nếu pháp cùng với pháp kia do sức của nhân nơi nhau sinh ra là nghĩa tương ưng. Như tâm nhân nơi sức của tâm nên sinh, tâm cùng với tâm số pháp tương ưng, nhân nơi sức của tâm nên sinh. Số pháp cùng với tâm tương ưng, số pháp nhân nơi sức của số pháp nên sinh. Số pháp cùng với số pháp tương ưng, tâm không nhân nơi sức của số pháp sinh, nên tâm không cùng với số pháp tương ưng.

Vì nhằm ngăn chận ý của người nói như thế, cũng để nêu rõ tâm cùng với số pháp tương ưng, số pháp cũng cùng với số pháp tương ưng, số pháp cùng với tâm tương ưng, tâm không cùng với tâm tương ưng, nên tạo ra phần Luận này.

Lại nữa, sở dĩ tạo ra phần Luận này, là vì hoặc có thuyết nói: Tự thể cùng với tự thể tương ưng, không cùng với thứ khác tương ưng. Người kia nói thế này: Nghĩa cùng tôn kính nhau là nghĩa tương ưng. Các pháp tôn kính nhau, không gì hơn là tôn kính tự thể. Vì nhằm ngăn trừ ý của thuyết như thế, cũng vì muốn biện rõ về nghĩa cùng với pháp khác tương ưng, nên tạo ra phần Luận này.

Lại nữa, sở dĩ tạo ra phần Luận này, là vì hoặc có thuyết nói: Tự thể đối với tự thể, không gọi là tương ưng, không gọi là không tương ưng. Không gọi là tương ưng: Là tất cả các pháp không thể cùng với tự thể làm duyên. Không gọi là không tương ưng: Nghĩa cùng tôn kính nhau là nghĩa tương ưng. Vì sao? Vì các pháp cùng kính nhau, không gì hơn là tôn kính tự thể. Vì nhằm ngăn trừ ý của thuyết như thế, cũng để nêu rõ về pháp tương ưng không tạp loạn. Thế nên, vì nhằm ngăn trừ nghĩa của người khác, để hiển bày nghĩa của mình, cho đến nói rộng.

Ba kiết này, bao nhiêu thứ tương ưng với lạc căn? Bao nhiêu thứ tương ưng với khổ căn? Bao nhiêu thứ tương ưng với hỷ căn? Bao nhiêu thứ tương ưng với ưu căn? Bao nhiêu thứ tương ưng với xả căn?

Hỏi: Vì sao chỉ hỏi về phần cùng với thọ tương ưng, không hỏi về số pháp khác?

Đáp: Vì ý của người tạo luận muốn như thế, cho đến nói rộng.

Lại nữa, vì thọ không gây trở ngại cho sự thành tựu nhưng ngăn ngại cho hành hiện tiền.

Thế nào là không gây trở ngại cho sự thành tựu? Như một người thành tựu năm thọ.

Thế nào là ngăn ngại cho hành hiện tiền? Là không có hai thọ cùng một lúc hành hiện tiền.

Lại nữa, do một thể của thọ có tướng của các căn.

Lại nữa, do thọ ở trong vòng duyên khởi, cũng như pháp quay của bầu xe.

Lại nữa, do thọ nhận lãnh, hội nhập nơi tất cả các pháp.

Lại nữa, nếu không hỏi về thọ thì lại hỏi về gì? Nếu hỏi về tám căn như mạng v.v… thì các căn kia hoàn toàn là pháp không tương ưng. Nếu hỏi về ba căn vô lậu, năm căn như tín v.v…, thì tất cả chúng hoàn toàn là thiện.

Hoặc tạo ra thuyết này: Vì sao không hỏi về ý căn? Do ý căn nên gọi là pháp tương ưng. Như do tâm nên gọi là pháp tương ưng của tâm.

Kiết thân kiến, kiết giới thủ cùng với ba căn tương ưng, trừ khổ căn, ưu căn. Sở dĩ trừ khổ căn, vì khổ căn ở nơi địa năm thức, còn đây là địa ý. Sở dĩ không cùng với ưu căn tương ưng, vì ưu căn là hành sầu buồn, còn đây là hành vui vẻ, phấn khích. Nói chung là cùng với ba căn tương ưng. Ba căn này ở nơi ba cõi: Nơi cõi dục, thiền thứ nhất, thiền thứ hai cùng với hai căn tương ưng là hỷ căn, xả căn. Ở thiền thứ ba cùng với hai căn tương ưng là lạc căn, xả căn. Nơi thiền thứ tư và bốn định vô sắc cùng với một căn tương ưng là xả căn. Thế nên, nói tóm tắt là cùng với ba căn tương ưng, trừ khổ căn, ưu căn.

Kiết nghi cùng với bốn căn tương ưng, trừ khổ căn. Không cùng với khổ căn tương ưng, vì khổ căn ở nơi năm thức. Nói chung là cùng với bốn căn tương ưng. Nghi ở ba cõi: Ở cõi dục cùng với hai căn tương ưng là ưu căn, xả căn. Nếu ở nơi thiền thứ nhất, thiền thứ hai thì cùng với hai căn tương ưng là hỷ căn, xả căn. Ở thiền thứ ba thì cùng với hai căn tương ưng là lạc căn, xả căn. Nơi thiền thứ tư và bốn định vô sắc thì cùng với một căn tương ưng là xả căn. Thế nên, nói tóm lại là cùng với bốn căn tương ưng.

Hỏi: Vì sao nghi của cõi dục không cùng với hỷ căn tương ưng. Ở thiền thứ nhất, thiền thứ hai thì cùng với hỷ căn tương ưng?

Đáp: Do nghi của cõi dục so với đối tượng hành của hỷ đều khác. Đối tượng hành của nghi không phải là đối tượng hành của hỷ. Đối tượng hành của hỷ không phải là đối tượng hành của nghi. Vì sao? Vì nghi hiện hành là lo buồn. Hỷ hiện hành là vui vẻ, phấn khích. Vì nghĩa đồng là nghĩa tương ưng. Do nghi không đồng, nên không cùng với hỷ tương ưng. Thiền thứ nhất, thiền thứ hai vì đều cùng hiện hành vui vẻ, phấn khích nên tương ưng.

Lại nữa, hỷ của cõi dục thô, nghi thì vi tế. Pháp thô không cùng với pháp tế tương ưng. Vì sao? Vì nghĩa bằng nhau là nghĩa tương ưng.

Hỏi: Hỷ có nghĩa thô như thế nào?

Đáp: Là nơi chúng sinh không nên khởi mà khởi. Ở nơi trước vật không nên khởi mà khởi. Thế nào là nơi chúng sinh không nên khởi mà khởi? Vì tánh của chúng sinh là khổ. Thế nào là ở nơi trước vật không nên khởi mà khởi? Là như thấy người khác, hoặc điên đảo, hoặc đọa lạc, hoặc nhầm lẫn, phải nên khởi tâm từ bi thì lại vui cười. Ở thiền thứ nhất, thiền thứ hai, vì đều cùng vi tế nên tương ưng.

Lại nữa, hỷ của cõi dục thì nhẹ, vội, nghi thì giữ phần nặng. Nhẹ, vội thì không cùng với tính chất nặng nề tương ưng. Vì sao? Vì nghĩa bằng nhau là nghĩa tương ưng. Địa thiền thứ nhất, thiền thứ hai đều cùng giữ phần nặng, thế nên tương ưng.

Lại nữa, hỷ của cõi dục từ pháp ngoài sinh, nghi từ pháp trong sinh. Pháp từ bên ngoài sinh không cùng với pháp từ bên trong sinh tương ưng. Vì sao? Vì nghĩa bằng nhau là nghĩa tương ưng. Thiền thứ nhất, thiền thứ hai đều cùng từ trong sinh, thế nên tương ưng.

Lại nữa, hỷ của cõi dục là khách, nghi là chủ cư trú cũ. Khách không cùng với chủ cư trú cũ tương ưng. Vì sao? Vì nghĩa bằng nhau là nghĩa tương ưng. Thiền thứ nhất, thiền thứ hai đều cùng là chủ cư trú cũ, thế nên tương ưng.

Lại nữa, nghi của cõi dục tuy không tương ưng với hỷ căn, nhưng cùng với thọ khác tương ưng. Hỷ của thiền thứ nhất, thiền thứ hai là thọ nhận tánh của địa kia. Nếu không cùng với hỷ căn tương ưng, thì đây gọi là tụ tâm không thọ, là hoại pháp cùng nương dựa, là hủy hoại pháp tương ưng.

Vì muốn khiến không có lỗi như thế, nên nghi của cõi dục không cùng với hỷ căn tương ưng, còn nghi của thiền thứ nhất, thiền thứ hai thì cùng với hỷ căn tương ưng.

Tham cùng với ba căn tương ưng, trừ khổ căn, ưu căn. Vì sao? Vì hành tham là vui thích, còn hành ưu, khổ là lo buồn.

Giận cùng với ba căn tương ưng, trừ hỷ căn, lạc căn. Vì sao? Vì hành giận dữ thì lo buồn, còn hành hỷ, lạc thì vui vẻ phấn khích.

Si, dục lậu, vô minh lậu cùng với năm căn tương ưng. Vì sao? Vì ba thứ này chung nơi sáu thức thân, nẻo hành là vui vẻ phấn khích, cũng hành lo buồn.

Hữu lậu cùng với ba căn tương ưng, trừ khổ căn, ưu căn. Vì sao? Vì nơi cõi sắc, vô sắc không có khổ, ưu, nên ở cõi sắc, vô sắc không có nghĩa khổ, ưu. Trong phần Kiền Độ Căn sẽ nói rộng.

Trừ tà kiến, nghĩa của các môn còn lại, như nơi Bản Luận đã nói.

Tà kiến cùng với bốn căn tương ưng, trừ khổ căn. Nói chung là tà kiến tương ưng với bốn căn. Tà kiến ở nơi ba cõi: Ở cõi dục cùng với ba căn tương ưng, trừ khổ căn, lạc căn. Tại thiền thứ nhất, thiền thứ hai cùng với hai căn tương ưng là hỷ căn, xả căn. Ở thiền thứ ba thì cùng với hai căn tương ưng là lạc căn, xả căn. Ở thiền thứ tư và bốn định vô sắc thì cùng với một căn tương ưng là xả căn.

Hỏi: Tà kiến của cõi dục vì sao cùng với hỷ căn tương ưng? Vì sao cùng với ưu căn tương ưng?

Đáp: Như có người bản tánh không ưa bố thí, không ưa cúng tế. Về sau nếu cùng với ngoại đạo tà kiến hội hợp một xứ, rồi nghe lời nói này: Không có bố thí, không có cúng tế, không có báo của nghiệp thiện ác. Lúc nghe những lời nói ấy, tâm khởi tin ưa, liền sinh tâm hỷ: Việc ta đã làm là tốt đẹp. Tà kiến như thế là cùng với hỷ căn tương ưng. Lại có người tánh ưa hành bố thí, cúng tế, về sau nếu cùng với ngoại đạo tà kiến hội hợp một xứ, nghe họ nói: Không có bố thí, cúng tế, không có báo của nghiệp thiện ác. Lúc nghe như thế, tâm sinh tin ưa liền sinh tâm ưu tư: Những gì ta đã thí cho là trở nên vô ích. Vì sao? Vì không có quả báo. Tà kiến như thế là cùng với ưu căn tương ưng.

Môn này là nói rộng tức là Ưu-ba-đề-xá, Tỳ-bà-sa.

Hỏi: Vì sao gọi là tương ưng?

Đáp: Về nghĩa tương ưng, như trong Kiền Độ Tạp, phần nhân tương ưng đã nói rộng.

* Ba kiết này, bao nhiêu thứ hệ thuộc cõi dục? Bao nhiêu thứ hệ thuộc cõi sắc? Bao nhiêu thứ hệ thuộc cõi vô sắc?

Hỏi: Vì lý do gì tạo ra phần Luận này?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Ganh ghét, keo kiệt ở tại cõi dục, cõi Phạm thế.

Hỏi: Vì sao thuyết kia nói như thế?

Đáp: Vì thuyết kia đã dựa vào kinh Phật. Kinh Phật nói: Phạm Thiên vương nói với các Phạm chúng: Chúng ta đều cùng trụ ở đây, không đến chỗ của Sa-môn Cù-đàm. Nhưng ở xứ này tự có thể dẫn đến già, chết.

Người kia tạo ra thuyết: Phạm vương vì do ganh ghét, keo kiệt, nên nói lời ấy.

Vì nhằm ngăn chận ý của người nói như thế, cũng nhằm làm rõ ganh ghét, keo kiệt chỉ ở cõi dục, nên tạo ra phần Luận này.

Ba kiết, hoặc hệ thuộc cõi dục, hoặc hệ thuộc cõi sắc, hoặc hệ thuộc cõi vô sắc. Về nghĩa của môn này đã nói rộng như nơi Bản Luận.

Hỏi: Vì sao gọi là hệ thuộc cõi dục? Vì sao gọi là hệ thuộc cõi sắc, vô sắc?

Đáp: Vì bị pháp của cõi dục trói buộc, nên gọi là hệ thuộc cõi dục. Vì bị pháp của cõi sắc, vô sắc trói buộc, nên gọi là hệ thuộc cõi sắc, vô sắc. Như buộc con bò gắn vào cây trụ, gọi là buộc bò vào trụ. Sự hệ thuộc nơi các cõi kia cũng như thế.

Lại nữa, vì chân của cõi dục bị pháp của cõi dục trói buộc, nên gọi là hệ thuộc cõi dục. Chân của cõi sắc, vô sắc bị pháp của cõi sắc, vô sắc trói buộc, nên gọi là hệ thuộc cõi sắc, vô sắc. Chân gọi là phiền não, như kệ nói:

Phật có vô lượng hành Không chân, cái gì đi?

Như người có chân thì được tự tại dạo khắp bốn phương. Như thế, người có chân phiền não thì có thể đi trong sinh tử nơi các nẻo, các loài.

Lại nữa, phiền não nơi cõi dục tạo ra tưởng chỗ cư trú tưởng ta có, nên gọi là hệ thuộc cõi dục. Phiền não nơi cõi sắc, vô sắc đối với cõi sắc, vô sắc tạo ra tưởng chỗ cư trú tưởng ta có, nên gọi là hệ thuộc cõi sắc, vô sắc. Chỗ cư trú là ái. Ta có là kiến. Do ái của cõi dục làm thấm nhuần, nên kiến chấp là ngã, ngã sở. Do ái của cõi sắc, vô sắc làm thấm nhuần, nên kiến chấp là ngã, ngã sở.

Lại nữa, vì có thể sinh ra lạc dục của cõi dục, nên gọi là hệ thuộc cõi dục. Vì có thể sinh ra lạc dục của cõi sắc, vô sắc, nên gọi là hệ thuộc cõi sắc, vô sắc. Lạc là ái, dục là kiến.

Lại nữa, vì bị pháp sinh tử của cõi dục trói buộc, nên gọi là hệ thuộc cõi dục. Vì bị pháp sinh tử của cõi sắc, vô sắc trói buộc, nên gọi là hệ thuộc cõi sắc, vô sắc.

Lại nữa, vì bị chất độc của cõi dục xâm hại, vì bị tai họa của cõi dục tạo lỗi lầm, vì bị cấu uế của cõi dục làm nhiễm ô, nên gọi là hệ thuộc cõi dục.

Vì bị chất độc của cõi sắc, vô sắc xâm hại, vì bị tai họa của cõi sắc, vô sắc tạo lỗi lầm, vì bị cấu uế của cõi sắc, vô sắc làm nhiễm ô, nên gọi là hệ thuộc cõi sắc, vô sắc.

* Các kiết là cõi dục, các kiết ấy ở nơi cõi dục chăng?

Là có sáu thứ: (1) Là của cõi (giới). (2) Là của nẻo (thú). (3) Là của người. (4) Là của nhập. (5) Là của lậu. (6) Là của tự thân.

Là của cõi: Như ở đây nói các kiết là cõi dục, các kiết ấy ở nơi cõi dục chăng? Ở đây nói pháp xứ gọi là là. Pháp của cõi dục gọi là là của cõi dục. Pháp của cõi sắc, vô sắc gọi là là của cõi sắc, vô sắc.

Là của nẻo (thú): Như nói: Lúc pháp thí của pháp, nói như vầy: Tất cả là chúng của năm nẻo, đều là khổ của sinh tử.

Là của người: Như Tỳ-ni nói: Là hai người ở trong số Tăng, trong Tăng tức có thể được.

Là của nhập: Như Luận Ba-già-la-na nói: Thế nào là sắc ấm? Là mười sắc nhập và là sắc trong pháp nhập.

Là của lậu: Như nói: Thế nào là pháp lậu, là pháp hữu lậu?

Là của tự thân: Như nơi chương Kiền Độ Bốn Đại nói: Thế nào là pháp đại? Đáp: Là tự thân. Ở trong sáu là đã nêu, dùng là của cõi để tạo luận, không dùng các là khác.

Ở nơi (tại) có bốn thứ: (1) Ở nơi tự thể. (2) Ở nơi vật đựng. (3) Ở nơi đối tượng hành. (4) Ở nơi xứ sở.

Ở nơi tự thể: Tự thể, tự tướng, tự tánh của tất cả các pháp đều ở trong tự phần.

Ở nơi vật đựng: Như quả ở trong vật đựng. Như Đề-bà-đạt-đa ở trong nhà.

Như ở nơi vật đựng, ở nơi đối tượng hành, ở nơi xứ sở, về nghĩa cũng như thế.

Trong đây, dùng cả bốn thứ ở nơi để tạo luận, tùy theo tướng mà nói.

Hỏi: Các kiết là cõi dục, các kiết ấy ở nơi cõi dục chăng?

Đáp: Hoặc kiết là cõi dục, kiết ấy không ở nơi cõi dục. Hoặc kiết ở nơi cõi dục, kiết ấy không là cõi dục. Hoặc kiết là cõi dục, kiết ấy cũng ở nơi cõi dục. Hoặc kiết không là cõi dục, kiết ấy không ở nơi cõi dục.

Thế nào là kiết là cõi dục, kiết ấy không ở nơi cõi dục? Vì bị triền trói buộc. Ma Ba Tuần ở trên trời Phạm muốn nói chuyện với Đức Như Lai.

Hỏi: Ma Ba Tuần bị triền nào trói buộc, muốn cùng với Đức Như Lai nói chuyện?

Đáp: Vì bị triền phẫn che lấp, nên muốn cùng với Đức Như Lai nói chuyện.

Lại có thuyết nói: Ma Ba Tuần bị triền ganh ghét che lấp, nên muốn cùng với Đức Như Lai nói chuyện.

Lại có thuyết cho: Vì bị triền keo kiệt trói buộc, nên Ma Ba Tuần muốn cùng với Đức Như Lai nói chuyện.

Lời bình: Nên tạo ra thuyết này: Vì bị mười triền che lấp, nên khởi mỗi mỗi triền hiện ở trước, nên muốn cùng với Đức Như Lai nói chuyện.

Hỏi: Vì sao gọi là ma?

Đáp: Vì đoạn dứt tuệ mạng, nên gọi là ma. Lại nữa, vì thường hành phóng dật, xâm hại tự thân, nên gọi là ma.

Hỏi: Vì sao gọi là Ba Tuần?

Đáp: Vì thường có ý xấu ác, tạo tác pháp ác, gây tạo tuệ ác, nên gọi là Ba Tuần (Ba Tuần, đời Tần dịch là ác).

Tôn giả Cù-sa nói: Nên nói là Ba tuần du (Ba tuần, đời Tần dịch là ác. Du là cõi nước). Vì sao? Vì từ Ba tuần du sinh trong cõi kia, trụ nơi cõi Phạm thiên, muốn cùng với Đức Như Lai nói chuyện.

Hỏi: Ma vương ở trên cõi Phạm thiên làm gì?

Đáp: Kinh Phạm Thiên Chư Ma là duyên gốc của Luận này: Từng nghe Đức Phật trụ tại Tinh xá Cấp Cô Độc, trong rừng Kỳ Đà, thuộc nước Xá-vệ. Bấy giờ, có một Phạm thiên ở trên trời Phạm, sinh khởi ác kiến, nói lời này: Xứ này là thường còn, không đoạn, hoàn toàn là pháp tịch diệt. Lại không có xứ nào là thường còn, không đoạn, hoàn toàn là pháp tịch diệt vượt hơn xứ này.

Lúc ấy, Đức Thế Tôn nhận biết tâm niệm của Phạm thiên kia. Ví như vị tráng sĩ trong khoảnh khắc co duỗi cánh tay, từ rừng Kỳ-đà, Đức Như Lai bỗng nhiên biến mất, hiện ra nơi cõi Phạm thiên, cách chỗ vị Phạm thiên kia không xa, rồi dừng lại cạnh đấy. Phạm thiên từ xa thoáng thấy Đức Như Lai, vội vàng kính thỉnh bạch Phật: Bậc Đại Tiên đã khéo tới đây! Xứ này là thường còn, không đoạn, hoàn toàn là xuất ly tịch diệt. Lại không có xứ nào thường còn, vượt hơn ở đây. Ông có thể từ bỏ vô số sự khổ do phiền não loạn động của cõi dục để đến chốn này. Thật là việc vui thích hết mực, Ông có thể yên vui thường trụ ở đây!

Đức Như Lai nói với Phạm thiên: Xứ này chẳng phải là thường còn, nhưng ông nói là thường còn. Xứ này chẳng phải là nơi chốn an vui, tịch tĩnh hoàn toàn xuất ly, nhưng ông nói là nơi chốn an vui, tịch tĩnh hoàn toàn xuất ly. Ông bị vô minh che lấp nên nói như thế. Ông nên nhớ nghĩ đến các Phạm chúng trong quá khứ đã bị rơi vào cõi dục, như hoa quả rụng.

Phạm thiên lại bạch Phật: Đại Tiên đã đến đây! Thật hết sức tốt đẹp! Xứ này là thường lạc, nói rộng như trên. Lần thứ hai, thứ ba cũng nói như thế.

Đức Như Lai cũng theo lần thứ hai, thứ ba nói với Phạm thiên: Xứ này là vô thường, cho đến nói rộng. Ông bị vô minh che lấp nên nói như thế. Ông nên nhớ nghĩ đến các Phạm chúng trong quá khứ đã bị rơi vào cõi dục, như hoa quả rụng.

Phạm thiên khởi suy nghĩ: Hôm nay Đức Như Lai thật khó có thể gần gũi, khó cùng luận bàn. Nhưng pháp của các Phạm là ở nơi địa lìa dục, ý chí tĩnh lặng không thể cùng với Phật tranh luận về sự việc ấy. Lại nghĩ: Ma vương Ba Tuần thường xuyên chống đối Đức Như Lai, tất có thể cùng với Đức Phật ngôn thuyết tranh luận. Khi đó, Phạm vương liền cho gọi Ba Tuần tới cõi Phạm thiên, hóa làm địa của cõi dục, an định nơi đó. Phạm vương lại bạch Phật: Đại Tiên nên biết! Xứ này là thường còn, cho đến lại không có nơi chốn nào vượt hơn.

Đức Như Lai nói với Phạm vương: Xứ này là vô thường, nói rộng như trên.

Bấy giờ, Ba Tuần bạch Phật: Đại Tiên! Ông chớ nên trái lời Phạm vương đã nói. Nên theo chỗ chỉ dẫn của ông ấy để phụng hành. Nếu ông trái lời của Phạm vương thì cũng như có người, lúc thiên thần công đức vào nhà, người này lại dùng gậy xua đuổi, nói: Tôi chẳng cần ông! Nếu ông trái lời của Phạm vương đã nói thì cũng như thế. Như có người từ trên cao rơi dần xuống, nếu người ấy không dùng tay chân để tự chế ngự, tất phải rơi xuống. Như người từ trên cây rớt xuống đất, vì không nắm chắc cành cây, nên phải nhận lấy khổ sở. Nếu nắm giữ chặt cành cây, tức không phải chịu khổ não. Như thế, này Đại Tiên! Ông chớ nên trái lời của Phạm vương. Nên theo chỗ chỉ dẫn để phụng hành.

Lại bạch Phật: Đại Tiên hôm nay không thấy Phạm chúng cùng chúng tôi vây quanh Phạm vương, tùy thuận, không trái lời Phạm vương chăng?

Bấy giờ, Đức Thế Tôn suy niệm: Hiện tại ma ác đã đến đây để gây trở ngại cho Ta. Ta biết rõ sự việc này. Liền nói với ma: Ông không phải là Phạm vương, cũng không phải là quyến thuộc của Phạm vương. Mà chính là ma ác đến đây nhằm gây trở ngại cho Ta. Ma Ba Tuần nghĩ ngợi: Sa-môn Cù-đàm hiện đã biết được những gì ta suy nghĩ! Tức tâm lo sợ, sinh ý chán lìa, bèn ngồi qua một bên, cũng không thể trở lại chốn cũ. Phạm vương liền dùng sức của thần túc, khiến ma Ba Tuần trở lại cung của mình.

Thế nên, Kinh kia tức là duyên gốc của Luận này.

Cũng bị triền trói buộc, nơi cõi sắc mạng chung, sinh trung ấm của cõi dục. Người phàm phu, mạng chung ở cõi sắc, tức sinh nơi cõi dục. Trung ấm của cõi dục ở trong cõi sắc hiện ra trước. Vì sao? Vì pháp nên như thế. Xứ của tử ấm diệt, tức sinh trung ấm. Cũng như xứ của hạt giống diệt mất, tất sinh ra mầm. Tử ấm, trung ấm kia cũng như thế. Lúc từ tử ấm đến trung ấm, trong ba mươi sáu sử của cõi dục, nếu một sử hiện ở trước, tức khiến sự sinh nối tiếp. Đấy gọi kiết là cõi dục, kiết ấy không ở nơi cõi dục.

Trong đây: Là là là của cõi. Ở nơi là trừ ở nơi tự thể, là ba ở nơi còn lại.

Thế nào là kiết ở nơi cõi dục kiết ấy không là cõi dục? Vì bị triền trói buộc, mạng chung ở cõi dục sinh trung ấm của cõi sắc. Phàm phu, Thánh nhân ở cõi dục mạng chung, sinh trong cõi sắc, là trung ấm của cõi sắc ở trong cõi dục. Vì sao? Vì pháp nên như thế. Xứ của tử ấm diệt, tức sinh trung ấm. Cũng như xứ của hạt giống diệt mất, tức sinh mầm. Tử ấm, trung ấm kia cũng như thế. Người phàm phu, lúc từ tử ấm đến trung ấm, ba mươi mốt sử của cõi sắc, nếu một sử hiện ở trước, tức khiến sự sinh nối tiếp. Thánh nhân lúc từ tử ấm đến trung ấm, ba sử nơi cõi sắc do tu đạo đoạn, nếu một sử hiện ở trước, tức khiến sự sinh nối tiếp.

Cũng kiết là cõi sắc, vô sắc, trụ nơi cõi dục, hiện ở trước. Trụ nơi cõi dục, không chết, không mạng chung, kiết của cõi sắc, vô sắc hiện ở trước. Ba mươi mốt sử của phàm phu, nếu một sử hiện ở trước. Hoặc ba sử của Thánh nhân, do tu đạo đoạn, nếu một sử hiện ở trước.

Các thuyết như thế, đều nói nhân nơi ái hành thiền, nhân nơi mạn hành thiền, nhân nơi kiến hành thiền, nhân nơi nghi hành thiền.

Đấy gọi là kiết ở nơi cõi dục, kiết ấy không là cõi dục.

Ở nơi là ba ở nơi. Là là là của cõi.

Thế nào là kiết là cõi dục cũng ở nơi cõi dục? Vì bị triền trói buộc, phàm phu, Thánh nhân mạng chung ở cõi dục, trở lại sinh trung ấm của cõi dục. Người phàm phu sinh năm nẻo không trở ngại, Thánh nhân sinh hai nẻo không trở ngại. Hoặc sinh trong nẻo trời. Hoặc sinh trong nẻo người, thì người phàm phu lúc từ tử ấm đến trung ấm, có ba mươi sáu sử, nếu một sử hiện ở trước, tức khiến sự sinh nối tiếp. Thánh nhân lúc từ tử ấm đến trung ấm, bốn sử nơi cõi dục do tu đạo đoạn trừ, nếu một sử hiện ở trước, tức khiến sự sinh nối tiếp. Như từ tử ấm đến trung ấm, thì từ trung ấm đến sinh ấm, nói cũng như thế.

Cũng kiết là cõi dục, trụ nơi cõi dục hiện ở trước, ở cõi dục không chết, không mạng chung, khởi kiết của cõi dục hiện ở trước.

Ba mươi sáu sử của người phàm phu, nếu một sử hiện ở trước. Thánh nhân có bốn sử nơi cõi dục do tu đạo đoạn trừ, nếu một sử hiện ở trước. Đấy gọi là kiết là cõi dục cũng ở nơi cõi dục.

Trong đây: Là là là của cõi. Ở nơi là ở bốn nơi.

Thế nào là kiết không là cõi dục cũng không ở nơi cõi dục? Vì bị triền trói buộc, mạng chung ở cõi sắc, sinh trong trung ấm, sinh ấm của cõi sắc.

Người mạng chung ở cõi sắc, sinh trong cõi sắc, là phàm phu, Thánh nhân. Người phàm phu cũng sinh lên trên, cũng sinh xuống dưới. Mỗi mỗi xứ có nhiều phần sinh. Thánh nhân sinh lên trên, không sinh xuống dưới, mỗi mỗi xứ có một phần sinh. Người phàm phu lúc từ tử ấm đến trung ấm, có ba mươi mốt sử, nếu một sử hiện ở trước, tức khiến sự sinh nối tiếp. Ba sử của Thánh nhân do tu đạo đoạn, nếu một sử hiện ở trước, tức khiến sự sinh nối tiếp. Từ trung ấm đến sinh ấm, nói cũng như thế.

Mạng chung ở cõi sắc, sinh trong cõi vô sắc, cũng là phàm phu, Thánh nhân. Người phàm phu nơi mỗi mỗi xứ có nhiều phần sinh. Thánh nhân nơi mỗi mỗi xứ có một phần sinh. Người phàm phu, lúc từ tử ấm đến sinh ấm, cõi vô sắc có ba mươi mốt sử, nếu một sử hiện ở trước, tức khiến sự sinh nối tiếp.

Ba sử của Thánh nhân nói cũng như trên. Mạng chung ở cõi vô sắc, sinh trở lại cõi vô sắc, cũng là phàm phu, Thánh nhân. Người phàm phu cũng sinh lên trên, cũng sinh xuống dưới, mỗi mỗi xứ có nhiều phần sinh. Thánh nhân sinh lên trên, không sinh xuống dưới, mỗi một xứ có một phần sinh. Người phàm phu, lúc từ tử ấm đến sinh ấm có ba mươi mốt sử, nếu một sử hiện ở trước, tức khiến sự sinh nối tiếp.

Ba sử của Thánh nhân nói cũng như trước. Người phàm phu mạng chung ở cõi vô sắc, sinh trong cõi sắc. Lúc từ tử ấm đến trung ấm, cõi sắc có ba mươi mốt sử, nếu một sử hiện ở trước, tức khiến sự sinh nối tiếp.

Cũng kiết là cõi sắc, vô sắc, trụ nơi cõi sắc hiện ở trước, ở nơi cõi sắc không chết, không mạng chung, cũng là phàm phu, Thánh nhân. Người phàm phu có ba mươi mốt sử hiện ở trước. Thánh nhân có ba sử hiện ở trước.

Như thế, đều nói là nhân nơi ái hành thiền, nhân nơi mạn hành thiền, nhân nơi kiến hành thiền, nhân nơi nghi hành thiền. Trụ nơi cõi vô sắc, không chết, không mạng chung, khởi ba mươi mốt sử của cõi vô sắc hiện ở trước, cũng là phàm phu, Thánh nhân. Người phàm phu khởi ba mươi mốt sử hiện ở trước. Thánh nhân khởi ba sử. Đấy gọi là kiết không là cõi dục cũng không ở nơi cõi dục. Vì sao? Vì ở nơi cõi sắc, vô sắc: Là là là của cõi. Ở nơi là bốn ở nơi.

Các kiết là cõi sắc, các kiết ấy ở nơi cõi sắc chăng? Cho đến nói rộng làm bốn trường hợp:

Trường hợp thứ nhất của bốn trường hợp trước làm trường hợp thứ hai ở đây.

Trường hợp thứ hai trước làm trường hợp thứ nhất ở đây.

Trường hợp thứ ba trước làm trường hợp thứ tư ở đây.

Trường hợp thứ tư trước làm trường hợp thứ ba ở đây.

Các kiết là cõi vô sắc, các kiết ấy ở nơi cõi vô sắc chăng?

Đáp: Các kiết ở nơi cõi vô sắc, kiết ấy cũng là cõi vô sắc. Vì sao? Vì cõi vô sắc chỉ có kiết hệ thuộc cõi vô sắc.

Từng có kiết là cõi vô sắc, không ở nơi cõi vô sắc chăng?

Đáp: Có. Là kiết của cõi vô sắc, trụ nơi cõi dục, cõi sắc, hiện ở trước, không chết, không mạng chung.

Kiết của cõi vô sắc hiện ở trước, cũng là phàm phu, Thánh nhân. Người phàm phu khởi ba mươi mốt sử của cõi vô sắc hiện ở trước. Ba sử của Thánh nhân nói như trước. Như thế, đều là nhân nơi ái, nhân nơi mạn, nhân nơi kiến, nhân nơi nghi hành thiền. Đấy gọi là kiết là cõi vô sắc không ở nơi cõi vô sắc. Vì sao? Vì ở nơi cõi dục, cõi sắc.

Là là là của cõi. Ở nơi: Trừ ở nơi tự thể, là ba ở nơi còn lại.

Các kiết không phải là cõi dục, kiết ấy cũng không phải ở nơi cõi dục chăng? Cho đến nói rộng làm bốn trường hợp:

Trường hợp thứ nhất của bốn trường hợp trước làm trường hợp thứ hai này.

Trường hợp thứ hai trước làm trường hợp thứ nhất này.

Trường hợp thứ ba trước làm trường hợp thứ tư này.

Trường hợp thứ tư trước làm trường hợp thứ ba này.

Các kiết không phải là cõi sắc, kiết ấy cũng không phải ở nơi cõi sắc chăng? Cho đến nói rộng làm bốn trường hợp: Như nói về cõi dục.

Các kiết không phải là cõi vô sắc, kiết ấy cũng không phải ở nơi cõi vô sắc chăng?

Đáp: Các kiết không phải là cõi vô sắc, kiết ấy cũng không phải ở nơi cõi vô sắc.

Từng có kiết không phải ở nơi cõi vô sắc, kiết ấy chẳng phải chẳng là cõi vô sắc chăng?

Đáp: Có. Các kiết chẳng phải chẳng là cõi vô sắc, trụ nơi cõi dục, cõi sắc, hiện ở trước. Trụ nơi cõi dục, cõi sắc, không chết, không mạng chung, khởi kiết của cõi vô sắc hiện ở trước, cũng là phàm phu, cũng là Thánh nhân. Người phàm phu khởi ba mươi mốt sử hiện ở trước, Thánh nhân khởi ba sử. Kiết này không phải ở trong cõi vô sắc. Vì sao? Vì trụ nơi cõi dục, cõi sắc.

Ở nơi là ba ở nơi, trừ ở nơi tự thể. Chẳng phải chẳng là cõi vô sắc. Vì sao? Vì là kiết của cõi vô sắc. Là là là của cõi.

Hỏi: Vì sao Tôn giả kia lập phi luận cứ (Trường hợp không phải là) để tạo ra phần Luận này?

Đáp: Vì ý của người tạo luận muốn như thế, cho đến nói rộng.

Lại nữa, vì muốn hiện bày ngôn luận tự tại. Nếu người đối với ngôn luận tự tại, thì có thể dùng phi luận cứ (Trường hợp không phải là) tạo luận. Nếu người đối với ngôn luận không tự tại, thì ở nơi luận cứ chánh cũng không thể tạo tác, huống chi là phi luận cứ.

Lại nữa, vì muốn sinh khởi giác ý của đệ tử. Nếu dùng phi luận cứ để tạo luận, tức sinh giác ý của đệ tử nêu bày về pháp tướng. Đây cũng có thể như thế. Kia cũng có thể như thế.

Lại nữa, hoặc có người tạo ra phi luận cứ mà được nuôi lớn: Như trong phẩm Người đã tạo ra luận cứ chánh. Người kia có bốn, người kia có ba, người kia có hai, tạo phi luận cứ. Người kia có năm, người kia có sáu, người kia có bốn.

Do sự việc này, nên Tôn giả kia đã dùng phi luận cứ để tạo luận.

* Đệ tử của Đức Thế Tôn kiến đế đầy đủ, nếu sắc không đoạn trừ thì bị sắc trói buộc chăng? Nếu như bị sắc trói buộc là do sắc không đoạn trừ chăng? Cho đến thức cũng như thế.

Hỏi: Vì lý do gì tạo ra phần Luận này?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Đoạn trừ sắc có đoạn trừ theo thứ lớp, đoạn trừ theo sai biệt, đoạn trừ từng mỗi mỗi đoạn. Như pháp sư nước ngoài tạo ra thuyết này: Như tâm tâm số pháp nhiễm ô, chín thứ đoạn trừ sắc cũng như vậy. Vì nhằm ngăn dứt ý của thuyết như thế, cùng nêu rõ tâm tâm số pháp nhiễm ô, chín thứ đoạn trừ sắc, tâm tâm số pháp hữu lậu thiện, vô ký không ẩn mất, đối với đạo vô ngại sau cùng là đoạn trừ trong một lúc, nên tạo ra phần Luận này.

Hỏi: Vì sao tâm tâm số pháp nhiễm ô, chín thứ đoạn trừ sắc, tâm tâm số pháp hữu lậu thiện, vô ký không ẩn mất, đến đạo vô ngại sau cùng đoạn trừ trong một lúc?

Đáp: Do minh, vô minh thường cùng tạo trở ngại: Minh phẩm hạ hạ đoạn trừ vô minh phẩm thượng thượng. Phẩm hạ trung đoạn trừ phẩm thượng trung. Phẩm hạ thượng đoạn trừ phẩm thượng hạ. Phẩm trung hạ đoạn trừ phẩm trung thượng. Phẩm trung trung đoạn trừ phẩm trung trung. Phẩm trung thượng đoạn trừ phẩm trung hạ. Phẩm thượng hạ đoạn trừ phẩm hạ thượng. Phẩm thượng trung đoạn trừ phẩm hạ trung. Phẩm thượng thượng đoạn trừ phẩm hạ hạ. Pháp sắc hữu lậu thiện, vô ký không ẩn mất, không trở ngại minh và vô minh, chỉ cùng với minh, vô minh tạo ra xứ nương dựa, xứ lập đủ. Như ánh sáng của ngọn đèn không cùng với tim, dầu, bình đèn tạo trở ngại, chỉ tạo trở ngại đối với bóng tối, vì tim đèn, bình đựng dầu, đối với ánh sáng của đèn tạo ra xứ nương dựa, xứ lập đủ.

Như thế, pháp sắc hữu lậu thiện, vô ký không ẩn mất, không gây trở ngại đối với minh, vô minh, lại còn tạo ra xứ nương dựa, xứ lập đủ.

Lại nữa, tâm tâm số pháp nhiễm ô, tùy theo bao nhiêu thứ đoạn, thì thứ kia không thành tựu cũng như thế.

Sắc là nhiễm ô: Là lúc ở tại đạo phương tiện, tức không thành tựu, đạo vô ngại sau cùng đoạn trừ.

Sắc là thiện, vô ký không ẩn mất (vô ký vô phú) và pháp hữu vi, hữu lậu thiện, vô ký không ẩn mất khác, đều được đoạn trừ cùng một lúc nơi đạo vô ngại sau cùng.

Các pháp này tuy đã nhận biết, đã đoạn trừ, lìa dục của ba cõi, cũng nên thành tựu.

Thế nên, vì nhằm ngăn trừ nghĩa của người khác, làm sáng tỏ nghĩa của mình, cho đến nói rộng, nên tạo ra phần Luận này.

Đệ tử của Đức Thế Tôn kiến đế đầy đủ, sắc ái chưa đoạn trừ, cho đến nói rộng.

Hỏi: Vì tránh sự việc gì, nên nói kiến đế đầy đủ? Vì chế phục sự việc gì nên nói đệ tử của Đức Thế Tôn?

Đáp: Kiến đế đầy đủ, là tránh người kiên tín, kiên pháp. Nói đệ tử của Đức Thế Tôn là vì chế phục hàng phàm phu ngu nhỏ.

Hỏi: Vì sao người kiên tín, kiên pháp không gọi là kiến đế đầy đủ?

Đáp: Nếu kiến đầy đủ bốn chân đế, thì đoạn trừ vĩnh viễn tà kiến. Đó gọi là kiến đế đầy đủ. Người kiên tín, kiên pháp kiến đế chưa đầy đủ, nhưng sẽ đầy đủ, chưa đoạn trừ vĩnh viễn tà kiến, nhưng sẽ đoạn trừ vĩnh viễn.

Lại nữa, nếu trong thân không có bốn thứ vô minh ngu tối, có bốn thứ trí, thì gọi là kiến đế đầy đủ. Người kiên tín, kiên pháp chưa trừ bỏ bốn thứ vô minh ngu tối, chưa gồm đủ bốn thứ trí.

Lại nữa, nếu phá trừ bốn thứ lưới nghi do dự, sinh bốn thứ quyết định, là kiến đế đầy đủ. Người kiên tín, kiên pháp chưa phá trừ bốn thứ lưới nghi do dự, cũng chưa có đủ bốn thứ quyết định.

Lại nữa, nếu trong thân không có tà kiến điên đảo, phiền não dày đặc như sương mù và các hành ác, thì gọi là kiến đế đầy đủ. Người kiên tín, kiên pháp không có sự việc này, nên không gọi là kiến đế đầy đủ. Cũng như lúa mạ không có các sương mù, mưa đá làm hại gọi là đầy đủ. Pháp kia cũng như thế.

Lại nữa, nếu có thể hàng phục phương, chốn của bốn đế, thì gọi là kiến đế đầy đủ. Người kiên tín, kiên pháp chưa thể hàng phục được phương, chốn của bốn đế, nên gọi là không đầy đủ.

Hỏi: Vì sao người phàm phu không gọi là đệ tử của Đức Thế Tôn?

Đáp: Nếu nghe lời Đức Phật giảng nói, đối với Tam bảo, bốn đế, tâm không có khác biệt. Phàm phu thì không như vậy: Hoặc tin lời Phật giảng nói, hoặc tin lời của ngoại đạo nói.

Lại nữa, nếu không thờ vị trời khác, chỉ thờ Đức Phật, đó gọi là đệ tử của Đức Thế Tôn. Người phàm phu hoặc thờ Phật, hoặc thờ trời Tự Tại, nên không gọi là đệ tử của Đức Thế Tôn.

Lại nữa, nếu đối với Đức Phật có niềm tin không hoại, đó gọi là đệ tử của Đức Thế Tôn. Người phàm phu đối với Đức Phật không có niềm tin không hoại, nên không gọi là đệ tử của Đức Thế Tôn.

Lại nữa, nếu đối với pháp Phật, tâm không dời đổi, lay động, cũng như cổng thành, thì gọi là đệ tử của Đức Thế Tôn. Người phàm phu khinh xuất, xao động cũng như hoa của cây.

Lại nữa, nếu đã được nghe, không bị hủy hoại do nghe điều tà vạy, thì gọi là đệ tử của Đức Thế Tôn. Người phàm phu nếu đã được nghe, thường bị nghe pháp tà vạy làm hư hoại.

Hỏi: Ở đây, ai là đệ tử của Đức Thế Tôn kiến đế đầy đủ?

Đáp: Các bậc Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán là đệ tử của Đức Thế Tôn kiến đế đầy đủ.

Nếu sắc không đoạn trừ là bị sắc trói buộc. Nếu sắc được đoạn trừ là tức thì được giải thoát. Nếu giải thoát tức thì đoạn trừ. Nếu trước đoạn trừ, sau được giải thoát, thì không có sự việc này.

Tâm tâm số pháp nhiễm ô, hoặc có trường hợp trước đoạn trừ, sau được giải thoát. Hoặc có trường hợp cùng đoạn trừ cũng được giải thoát.

Tâm nhiễm ô có chín phẩm: Từ phẩm hạ hạ cho đến phẩm thượng thượng. Tám phẩm trước, trước đoạn trừ, sau được giải thoát. Một phẩm sau cũng đoạn, cũng được giải thoát. Nếu như phẩm thượng thượng đoạn trừ, tám phẩm còn lại có duyên trói buộc. Cho đến phẩm thứ tám đoạn trừ, thì phẩm hạ hạ duyên nơi tám phẩm trói buộc. Vì sao? Vì đều là một sử lần lượt cùng sai khiến.

Các thuyết v.v… như thế là lược nói về Tỳ-bà-sa.

Đệ tử của Đức Thế Tôn kiến đế đầy đủ, nếu sắc không đoạn trừ thì bị sắc trói buộc chăng?

Đáp: Đúng vậy.

Nếu như bị sắc trói buộc là do sắc không đoạn trừ chăng?

Đáp: Như thế. Vì sao? Vì trước đã nêu: Nếu sắc được đoạn trừ, tức thì giải thoát. Nếu giải thoát tức thì đoạn trừ. Nếu trước đoạn trừ, sau giải thoát, thì không có sự việc này.

Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, sắc của năm địa không đoạn, là bị sắc trói buộc. Chưa lìa dục của thiền thứ nhất, sắc nơi bốn địa của A-nahàm không đoạn, là bị sắc trói buộc. Cho đến lìa dục của thiền thứ ba, A-na-hàm chưa lìa dục của thiền thứ tư, sắc của một địa không đoạn trừ, là bị sắc trói buộc.

Đệ tử của Đức Thế Tôn kiến đế đầy đủ, nếu thọ không đoạn trừ thì bị thọ trói buộc chăng?

Đáp: Nếu bị thọ trói buộc, thì thọ đó là không đoạn trừ.

Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, thọ nơi ba cõi do tu đạo đoạn trừ, nếu không đoạn trừ là bị thọ trói buộc. Chưa lìa dục của thiền thứ nhất, A-na-hàm nơi tám địa, nếu thọ không đoạn trừ, là bị thọ trói buộc. Cho đến lìa dục của xứ vô sở hữu, A-na-hàm nơi một địa, nếu thọ không đoạn trừ, là bị thọ trói buộc.

Hỏi: Từng có bị thọ trói buộc, thọ kia chẳng phải là không đoạn chăng?

Đáp: Có. Một chủng tử của Gia gia, Tư-đà-hàm. Kiết phẩm thượng trung nơi cõi dục do tu đạo đoạn, kiết kia tương ưng với thọ, là bị trói buộc do kiết phẩm hạ hạ. Nếu Gia gia đoạn trừ ba phẩm, hoặc đoạn bốn phẩm, như kiết kia đoạn, thì kiết tương ưng với thọ cũng đoạn. Thọ tương ưng kia bị hoặc năm hoặc sáu phẩm kiết trói buộc. Tư-đà-hàm đã đoạn sáu phẩm kiết, như kiết kia đoạn, thì thọ tương ưng cũng đoạn. Thọ tương ưng kia bị ba phẩm kiết trói buộc. Một chủng tử nếu đoạn bảy phẩm tám phẩm kiết, như kiết kia đoạn, thì thọ tương ưng kia cũng đoạn. Thọ tương ưng kia bị một phẩm, hoặc hai phẩm kiết trói buộc.

Như thọ, thì tưởng, hành, thức nói cũng như thế.

Đệ tử của Đức Thế Tôn kiến đế đầy đủ, nếu sắc đã đoạn trừ, thì sắc kia không trói buộc chăng?

Đáp: Đúng vậy.

Nếu sắc không trói buộc thì sắc kia được đoạn trừ chăng?

Đáp: Đúng vậy. Vì sao? Vì trước đã nêu bày: Nếu sắc đoạn trừ, tức thì giải thoát. Nếu sắc được giải thoát, tức thì đoạn trừ. Nếu trước đoạn trừ, sau giải thoát, thì không có sự việc này. Thánh nhân lìa sắc ái, đoạn trừ sắc của năm địa, sắc kia không trói buộc, lìa dục của ba thiền, chưa lìa dục của thiền thứ tư.

Sắc nơi bốn địa của A-na-hàm đã đoạn, sắc kia không trói buộc, cho đến chưa lìa dục của thiền thứ nhất.

Sắc nơi một địa của A-na-hàm đã đoạn, sắc kia không trói buộc.

Đệ tử của Đức Thế Tôn kiến đế đầy đủ, nếu thọ đã đoạn trừ thì thọ đó không trói buộc chăng?

Đáp: Nếu thọ không trói buộc, thì thọ kia đã đoạn. Thọ nơi ba cõi của A-la-hán do kiến đạo, tu đạo đoạn, đã đoạn trừ, là không trói buộc. Lìa dục của xứ vô sở hữu, thọ nơi ba cõi của A-na-hàm do kiến đạo đoạn, thọ nơi tám địa của A-na-hàm do tu đạo đoạn, đã đoạn trừ, cũng không trói buộc. Cho đến chưa lìa dục của thiền thứ nhất, thọ nơi ba cõi của A-na-hàm do kiến đạo đoạn, thọ nơi một địa của A-nahàm do tu đạo đoạn, đã đoạn trừ, là cũng không trói buộc. Thọ nơi ba cõi của Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm do kiến đạo đoạn, đã đoạn trừ, là cũng không trói buộc.

Từng có đoạn trừ không phải là không trói buộc chăng?

Đáp: Có. Một chủng tử của Gia gia, Tư-đà-hàm, kiết phẩm thượng trung hệ thuộc cõi dục do tu đạo đoạn, đã được đoạn trừ. Kiết đã đoạn kia tương ưng với thọ, bị kiết phẩm hạ trói buộc. Nếu Gia gia đoạn trừ ba phẩm, hoặc đoạn trừ bốn phẩm kiết, như kiết kia đã đoạn, thì thọ cũng đoạn, vì thọ tương ưng với kiết kia. Nếu bị năm phẩm, hoặc sáu phẩm kiết trói buộc, Tư-đà-hàm đoạn sáu phẩm kiết, như kiết kia đoạn, thì thọ cũng đoạn, vì thọ tương ưng với kiết kia. Bị ba phẩm kiết trói buộc, một chủng tử, nếu đoạn bảy phẩm hoặc tám phẩm kiết, như kiết kia đoạn, thì thọ cũng đoạn, vì thọ tương ưng với kiết kia, hoặc bị một phẩm hoặc hai phẩm kiết trói buộc.

Như thọ, thì tưởng, hành, thức nói cũng như thế.

Hỏi: Gia gia, Tu-đà-hoàn không gồm thâu Tu-đà-hoàn, đoạn trừ kiết phẩm thượng thượng, thượng trung, bị hoặc bảy hoặc tám phẩm kiết bậc hạ trói buộc. Vì sao trong đây không nói?

Đáp: Nên nói nhưng không nói, phải biết là nghĩa này nêu bày chưa trọn vẹn.

Lại nữa, đây là tướng hư hoại, bất định, nên không nói. Nếu là tướng không hư hoại, tướng quyết định, thì trong đây tức nói.

Hỏi: Như kiết của cõi sắc, cõi vô sắc cũng có thể như thế. Như lìa kiết thượng thượng của thiền thứ nhất, là bị tám phẩm kiết trói buộc, cho đến tám phẩm kiết đã đoạn, là bị một phẩm kiết trói buộc, cho đến đoạn trừ kiết của xứ phi tưởng phi phi tưởng cũng như thế. Vì sao chỉ nói kiết của cõi dục, không nói kiết của cõi sắc, vô sắc?

Đáp: Tức nên nói nhưng không nói, nên biết là nghĩa này nêu bày chưa trọn vẹn.

Lại nữa, đây là hiện bày nghĩa ban đầu. Nếu nói cõi dục, nên biết là nói cõi sắc, vô sắc cũng như thế.

Lại nữa, vì khi kiết của cõi dục đã đoạn trừ, tức sinh vô số thứ tên người. Nếu đoạn trừ ba phẩm, bốn phẩm, gọi là Gia gia. Nếu đoạn trừ sáu phẩm gọi là Tư-đà-hàm. Nếu đoạn trừ bảy phẩm, tám phẩm, gọi là một chủng tử. Nếu lìa kiết của cõi sắc, vô sắc, lại không có tên người khác như thế, do đó nên không nói.

Hỏi: Kiết phẩm hạ đã đoạn trừ cũng có thể như vậy. Như phiền não của phẩm hạ thượng đã đoạn, vì bị kiết hạ trung, hạ hạ trói buộc. Nếu kiết hạ thượng, hạ trung đã đoạn trừ, vì bị kiết hạ hạ trói buộc, vì sao chỉ nói thượng trung, không nói hạ?

Đáp: Nên nói nhưng không nói, phải biết là nghĩa này nêu bày chưa trọn vẹn.

Như kiết phẩm thượng thượng đoạn, vì bị trói buộc do tám thứ kiết phẩm hạ. Nếu đoạn hai thứ, thì bị bảy thứ trói buộc.

Như thế, mỗi mỗi thứ được đoạn, đều bị phẩm hạ trói buộc, song không thể mỗi mỗi trường hợp đều tạo văn, thế nên nói tóm lược.

Gia gia là sự sai biệt của Tu-đà-hoàn. Một chủng tử là sự sai biệt của Tư-đà-hàm. Gia gia: Hoặc ở hai nhà. Hoặc ở ba nhà. Hai nhà: Nghĩa là đoạn trừ bốn thứ kiết, số còn lại có hai, có chủng tử. Ba nhà: Nghĩa là đoạn trừ ba thứ kiết, số còn lại có ba, có chủng tử. Gia gia không có đoạn trừ năm thứ kiết. Vì sao? Vì nếu có thể đoạn trừ năm thứ, tất đoạn kiết thứ sáu, được quả Tư-đà-hàm. Vì sao? Vì loại kiết thứ sáu, tánh yếu kém, không thể gây chướng ngại, khó khăn cho quả Tư-đà-hàm. Cũng như một sợi chỉ khâu không thể chế ngự được voi. Sự việc kia cũng như thế.

Một chủng tử đoạn, hoặc bảy, hoặc tám thứ kiết, số còn lại có một chủng tử.

Hỏi: Số còn lại có hai thứ kiết hiện có, vì sao nói một thứ có chủng tử?

Đáp: Không do một thứ kiết hiện có gọi là một chủng tử, vì có một thứ có chủng tử, nên gọi là một chủng tử.

Lại có thuyết nói: Không có hết thảy tám thứ kiết đều có một chủng tử. Vì sao? Vì nếu đoạn trừ tám thứ kiết, tất được lìa chín thứ kiết của cõi dục, không thể gây chướng ngại, khó khăn cho pháp lìa dục.

Lại có thuyết cho: Có trường hợp một chủng tử đoạn tám thứ kiết, không có thuyết nói Gia gia, Tu-đà-hoàn đoạn trừ năm thứ. Vì sao? Vì nếu đoạn trừ năm thứ, tất đoạn sáu thứ, được quả Tư-đà-hàm. Loại kiết thứ sáu, tánh yếu kém, nên không thể gây chướng ngại, khó khăn cho quả Tư-đà-hàm.

Hỏi: Loại kiết thứ chín, tánh cũng yếu kém, nên không thể gây chướng ngại, khó khăn. Nếu một chủng tử có thể đoạn trừ loại thứ tám, tất cũng có thể đoạn trừ loại thứ chín để được lìa dục chăng?

Đáp: Gia gia, Tu-đà-hoàn nếu đoạn trừ sáu thứ kiết, cũng sinh trong cõi dục, nghiệp hiện có quyết định đã thành thục, ứng hợp với cõi dục thọ nhận báo, không thể gây chướng ngại, khó khăn cho quả Tư-đà-hàm.

Một chủng tử đoạn chín thứ kiết, lại không có phần sinh nơi cõi dục, nghiệp hiện có quyết định đã thành thục, nên ở nơi cõi dục thọ báo, có thể gây chướng ngại khó khăn khiến không được lìa dục.

Có người tạo ra thuyết này: Chúng sinh có ba thời, ở đấy nghiệp phiền não có thể gây tạo chướng ngại khó khăn hết mực: (1) Thời Đảnh hướng đến Nhẫn. (2) Thời Thánh nhân lìa dục của cõi dục. (3) Thời đắc quả A-la-hán.

Thời Đảnh hướng đến Nhẫn: Là nghiệp quyết định của các nẻo ác tạo chướng ngại, khó khăn hết sức. Nếu người khởi nhẫn sẽ nói: Chúng ta ở trong thân nào thọ nhận báo?

Thời Thánh nhân lìa dục của cõi dục: Là các nghiệp quyết định của cõi dục nên thọ nhận báo, tạo rất nhiều chướng ngại, khó khăn. Nếu là người lìa dục sẽ nói: Chúng ta ở trong thân nào để thọ nhận báo?

Thời đắc quả A-la-hán: Là nghiệp quyết định nên thọ nhận hữu vị lai, tạo ra chướng ngại, khó khăn hết sức. Nếu chứng đắc quả A-lahán, chúng ta ở trong thân nào thọ nhận báo? Thế nên có trường hợp đoạn trừ tám thứ kiết, là một chủng tử, không có trường hợp Gia gia, Tu-đà-hoàn đoạn trừ năm thứ.

Gia gia có hai thứ: (1) Gia gia trong hàng trời. (2) Gia gia trong hàng người.

Gia gia trong hàng trời: Sinh trên cõi trời, hoặc hai đời, hoặc ba đời, trong một cảnh trời, hoặc trong hai cảnh trời, hoặc trong ba cảnh trời. Hoặc một nhà, hai nhà, ba nhà trong một cảnh trời.

Gia gia trong hàng người: Hoặc hai đời nơi phần của ba đời. Hoặc nơi một thiên hạ, hoặc nơi hai thiên hạ, hoặc nơi ba thiên hạ.

Nếu nơi một thiên hạ, hoặc sinh trong một nhà, hai nhà, ba nhà.

Một chủng tử: Một chủng tử trong hàng trời là trong hàng trời có phần của một đời. Một chủng tử trong hàng người là trong hàng người có một phần của một đời.

Do ba sự việc nên gọi là Gia gia: (1) Do nghiệp. (2) Do căn. (3) Do đoạn trừ kiết.

Do nghiệp: Hoặc tạo nghiệp báo của hai đời. Hoặc tạo nghiệp báo của ba đời.

Do căn: Là được căn vô lậu.

Do đoạn trừ kiết: Hoặc đoạn ba phẩm kiết, hoặc đoạn bốn phẩm kiết.

Đối với ba sự việc này, nếu không đủ một, thì không gọi là Gia gia.

Do ba sự việc nên gọi là Một chủng tử: (1) Do nghiệp. (2) Do căn. (3) Do đoạn trừ kiết.

Do nghiệp: Là tạo nghiệp báo của một đời.

Do căn: Là được căn vô lậu.

Do đoạn trừ kiết: Hoặc đoạn bảy phẩm kiết, hoặc đoạn tám phẩm kiết.

Đối với ba sự việc này, nếu không đủ thì không gọi là Một chủng tử.

Hỏi: Thánh nhân trụ nơi cõi dục, có thọ thân, tạo nghiệp không?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Không tạo nghiệp. Vì sao? Vì nơi cõi dục có nhiều lỗi lầm tai hại. Tuy không tạo nghiệp tạo thọ thân, nhưng vẫn tạo nghiệp mãn thọ thân.

Hỏi: Nếu Thánh nhân không tạo nghiệp tạo thọ thân của cõi dục, thì đối với điều này làm sao thông? Như nói: Bấy giờ, Đức Thế Tôn tán thán nói về sự việc của thời kỳ Đức Di Lặc thành Phật, trong chúng hội có người hữu học chưa lìa dục, nghe Đức Thế Tôn nói lời này xong, đều cùng lập nguyện: Khiến cho con được nghe thấy sự việc tốt đẹp ấy xong, sau đấy mới vào Niết-bàn?

Đáp: Trong thời gian rất ngắn ấy, đối với vật cần dùng, không có thiếu thốn, không bị bức bách do thọ khổ nên có điều nguyện cầu. Nếu bị thọ khổ bức bách, thì đối với tất cả xứ sinh, lại không có nguyện cầu. Nếu ta có thể như chim bay trên không, tức nơi ngày hôm nay Bát Niết-bàn. Nếu nói như thế này: Thánh nhân không hành tác nghiệp tạo thọ thân nơi cõi dục, nghĩa là người kia tạo ra thuyết: Gia gia kia, hoặc tạo nghiệp hai đời, ba đời, thì khi ở phàm phu là tạo. Nếu đoạn trừ ba phẩm, bốn p;p; kiết, hoặc lúc phàm phu đoạn kiết, hoặc khi Thánh nhân nơi một chủng tử đoạn, có phần nghiệp của một đời, cũng là lúc phàm phu tạo nghiệp. Nếu người kia đã đoạn trừ bảy phẩm, tám phẩm kiết, hoặc là khi phàm phu đoạn, hoặc là lúc Thánh nhân đoạn.

Lại có thuyết cho: Thánh nhân trụ nơi cõi dục ở xứ thọ thân tạo nghiệp, nghiệp do Thánh nhân đã tạo là nghiệp thanh tịnh, tốt đẹp, tùy thuận pháp thiện không có các khổ hoạn.

Nếu tạo ra thuyết này: Thánh nhân ở tại cõi dục nơi xứ thọ thân tạo nghiệp: Gia gia, Tu-đà-hoàn tạo hai đời, hoặc ba đời, tất thọ nhận nghiệp báo. Nghiệp này hoặc là khi phàm phu tạo, hoặc là lúc Thánh nhân tạo. Nếu đoạn trừ ba, hoặc bốn phẩm kiết, hoặc là lúc phàm phu đoạn trừ, hoặc là lúc Thánh nhân đoạn trừ. Một chủng tử tạo một đời, tất thọ nhận nghiệp báo. Nghiệp này hoặc là lúc phàm phu tạo, hoặc là lúc Thánh nhân tạo. Nếu đoạn trừ bảy phẩm, nếu tám phẩm kiết, có lúc phàm phu đoạn trừ, có lúc Thánh nhân đoạn trừ.

Hỏi: Nếu trong nẻo người được quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, mạng chung sinh trong cảnh trời thuộc cõi dục, được quả A-na-hàm. Vị ấy sau khi mạng chung có được sinh trong cõi sắc, vô sắc không?

Nếu được sinh, thì như nơi Kinh Tăng Nhất nói làm sao thông? Như nói: Có năm người, là chủng tử trong khoảng này, là cứu cánh trong khoảng này. Năm người đó là: (1) Người thọ nhận bảy hữu. (2) Người gia gia. (3) Người Tư-đà-hàm. (4) Người một chủng tử. (5) Người hiện pháp Bát Niết-bàn.

Chủng tử trong khoảng này: Là trong ấy được chánh quyết định. Cứu cánh trong khoảng này: Là ở trong ấy dứt hết lậu.

Lại có năm người, chủng tử trong khoảng đây, cứu cánh trong khoảng kia: (1) Trung Bát Niết-bàn. (2) Sinh Bát Niết-bàn. (3) Hữu hành Bát Niết-bàn. (4) Vô hành Bát Niết-bàn. (5) Thượng lưu Bát Niết-bàn.

Chủng tử trong khoảng đây: Là ở trong đây được chánh quyết định. Cứu cánh trong khoảng kia: Là ở trong kia được dứt hết lậu.

Còn nếu không sinh, thì như nơi Kinh Đế Thích Sở Vấn đã nói làm sao thông? Như kệ nói:

Nếu biết nơi pháp này

Cùng sinh trong Phạm thế

Ở trong các Phạm hơn

Oai đức hiện trước hết.

Tức như kinh này nói lại làm sao thông? Như Đế thích bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Như con đã hành chánh hạnh, nếu có người vì con giải nói lần nữa, tức con sẽ thắng tấn được quả A-la-hán, có thể dứt hết biên vực khổ. Con đã hành chánh hạnh, nếu không có người vì con giảng nói, thì con tất sinh trong trời Ma-nậu-ma diệu sắc kia, các căn đầy đủ, không có thiếu giảm, cũng không thấp kém, xấu xí, có sắc thanh tịnh, dùng ái lạc làm thức ăn, thân phát ra hào quang, bay đi trong hư không, mạng sống dài xa. Ở đấy mạng chung nên sinh trong cảnh trời như thế?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Như Thánh nhân này không sinh trong cõi sắc, vô sắc.

Hỏi: Nếu như vậy thì nơi Kinh Tăng Nhất là khéo thông. Như nói: Có năm hạng người: Chủng tử trong khoảng đây, cứu cánh trong khoảng đây. Nhưng nơi Kinh Đế Thích Sở Vấn làm sao thông? Như kệ nói: Nếu biết nơi pháp này… cho đến nói rộng?

Đáp: Các thuyết này đã nói là không nói chết, cũng không nói sinh. Vì sao nhận biết được? Từng nghe có người nữ họ Thích tên Cù Di. Khi ấy có ba vị Tỳ-kheo hay lui tới nhà nàng, dùng âm thanh thanh tịnh, vì nàng đọc kệ chúc tụng, cũng thường xuyên giảng nói pháp yếu cho nàng nghe. Bấy giờ, Cù Di vì được nghe pháp, nên tâm sinh hân hoan, vui thích, nhàm chán thân nữ, mong được làm thân nam. Sau khi mạng chung, sinh lên cảnh trời Ba Ba Mươi, làm con của Đế thích. Chư thiên nơi trời đó liền đặt tự cho nàng là Thiên tử Cù Di.

Ba vị Tỳ-kheo kia, vì tự yêu thích âm thanh của mình, nên bị sinh trong loài Càn-thát-bà, là chốn thấp kém. Càn-thát-bà là thần tấu nhạc của chư thiên. Buổi sáng, buổi chiều, thường vì chư thiên tấu nhạc.

Lúc này, Thiên tử Cù Di vừa trông thấy các nhạc thần liền nhận biết ngay, nói với họ: Tôi nhờ các ông nên sinh tâm tin ưa, nhàm chán thân nữ, mong thành thân nam, sau khi mạng chung, được sinh ở chốn này, làm con của Đế thích. Các ông tịnh tu phạm hạnh vô thượng, vì duyên gì lại sinh trong hàng Càn-thát-bà thấp kém này?

Nghe thiên tử nói vậy, các Càn-thát-bà tâm sinh chán lìa, tức lìa được ái dục. Hai người dùng sức của thần túc đi đến trong cõi Phạm thiên, một người cũng trụ ở đây.

Do sự việc này, nên biết được họ không chết, cũng lại không sinh.

Lại có thuyết cho: Hai người kia chết trong cõi ấy, sinh trong cõi kia, vốn ở trong nẻo người, đã được căn thiện của phần đạt, nghe Thiên tử Cù Di nói, tâm khởi nhàm chán, được chánh quyết định.

Về sau, lìa ái dục, đắc quả A-na-hàm, mạng chung, sinh trong trời Phạm thế.

Tuy chết tuy sinh, nhưng không phải vốn ở trong nẻo người được quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm.

Hỏi: Nếu như vậy Kinh Đế Thích Sở Vấn, lần thứ hai nói làm sao thông? Như nói: Con đã hành chánh hạnh… cho đến nói rộng?

Đáp: Tuy Đế thích sẽ được đạo quả, nhưng do không nhận biết nghĩa tướng của A-tỳ-đàm, nên mới nói như thế.

Hỏi:… Tức ở trước Đức Phật nói như thế. Vì sao Đức Phật không quở trách?

Đáp: Đức Phật nhận biết lời nói này không thể gây chướng ngại cho đạo, về sau khi nhập pháp, tự sẽ nhận biết ngay.

Lại có thuyết cho: Như Thánh nhân ấy sinh lên cõi sắc, vô sắc.

Hỏi: Nếu như vậy, Kinh Đế Thích Sở Vấn là khéo thông, còn như nơi Kinh Tăng Nhất làm sao thông?

Đáp: Thánh nhân không nhất định, hoặc có chuyển hành, hoặc không chuyển hành. Nếu chuyển hành, thì như Kinh Đế Thích Sở Vấn đã nói. Nếu không chuyển hành, thì như Kinh Tăng Nhất đã nói. Vậy cả hai kinh đều cùng thông hợp.

Lời bình: Như Thánh nhân này thì không sinh nơi cõi sắc, vô sắc. Vì sao? Vì Thánh nhân chuyển đời tất có ba sự việc: (1) Không thoái chuyển. (2) Không chuyển căn. (3) Không sinh nơi cõi sắc, vô sắc.

Vì sao? Vì Thánh đạo ở trong thân phàm phu kia là chỗ trụ xứ cũ.

HẾT – QUYỂN 29