LUẬN A TỲ ĐÀM TỲ BÀ SA
STác giả: Tôn giả Ca Chiên Diên Tử
Giải thích: Năm trăm A La Hán
Hán dịch: Đời Bắc Lương, Sa môn Phù Đà Bạt Ma, Đạo Thái v.v…
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 24

Chương 1: KIỀN ĐỘ TẠP

Phẩm thứ 8: BÀN VỀ TƯ DUY, phần 2

* Trí nhiều hay là đối tượng nhận biết nhiều? Cho đến nói rộng.

Hỏi: Vì lý do gì tạo ra phần Luận này?

Đáp: Vì muốn nêu rõ về ba pháp bằng nhau trong pháp thuyết giảng về thiện. Nghĩa là đối tượng nhận biết của trí, đối tượng duyên của hành, đối tượng hiểu rõ của giác. Trong pháp giảng nói về ác, ba pháp này không bằng nhau, vì bị điên đảo che lấp. Vì nhằm nêu rõ nơi pháp thuyết giảng thiện, ba pháp như nhau, nên tạo ra phần Luận này.

Hỏi: Trí nhiều hay là đối tượng nhận biết nhiều?

Đáp: Đối tượng nhận biết nhiều, không phải là trí nhiều. Vì sao? Vì đối tượng nhận biết gồm thâu mười bảy giới, phần ít của một giới, mười một nhập, phần ít của một nhập, bốn ấm và phần ít của một ấm. Trí chỉ gồm thâu phần ít của một giới, phần ít của một nhập, phần ít của một ấm.

Lại có thuyết nói: Trí nhiều, không phải là đối tượng nhận biết nhiều. Vì sao? Vì như một thọ của xứ phi tưởng phi phi tưởng là đối tượng duyên của mười thứ trí nơi cõi dục. Nghĩa là năm thứ nơi cõi dục do kiến khổ, kiến tập đoạn. Nơi cảnh giới khác đẳng trí thiện duyên nơi sử do kiến khổ, kiến tập đoạn. Cảnh giới khác là đẳng trí thiện duyên nơi nghi tương ưng với vô minh. Như thế, từ thiền thứ nhất cho đến xứ vô sở hữu đều có mười một. Một trí có chín thứ, mười trí có chín mươi thứ. Tự địa tức có mười một trí biến hành. Bảy trí tương ưng với nghi, vô minh do kiến khổ, kiến tập đoạn. Bốn trí là đẳng trí thiện, vô ký không ẩn mất. Như một thọ, tất cả thọ cũng như thế. Như thọ, thì tất cả tâm tâm số pháp cũng như vậy. Trí tăng trưởng như núi, đối tượng nhận biết thì không tăng trưởng. Thế nên trí nhiều, không phải là đối tượng nhận biết nhiều.

Nên nói như vầy: Đối tượng nhận biết nhiều, không phải là trí nhiều. Vì sao? Vì pháp tương ưng của mười thứ trí nơi cõi dục là đối tượng nhận biết, không phải là trí. Cho đến pháp tương ưng của mười ba thứ trí nơi xứ phi tưởng phi phi tưởng là đối tượng nhận biết, không phải là trí. Mà trí cũng là đối tượng nhận biết. Nếu như khiến trí không phải là đối tượng nhận biết, thì đối tượng nhận biết cũng là nhiều. Vì sao? Vì đối tượng nhận biết gồm thâu mười bảy giới, phần ít của một giới, mười một nhập, phần ít của một nhập, bốn ấm, phần ít của một ấm. Còn trí chỉ gồm thâu phần ít của một giới, phần ít của một nhập, phần ít của một ấm. Huống chi trí cũng là đối tượng nhận biết?

Thế nên, đối tượng nhận biết gồm thâu mười tám giới, mười hai nhập, năm ấm. Trí chỉ gồm thâu phần ít của một giới, phần ít của một nhập, phần ít của một ấm. Do đó, đối tượng nhận biết là nhiều, không phải là trí nhiều.

* Trí là nhiều hay thức là nhiều? Cho đến nói rộng.

Hỏi: Vì lý do gì tạo ra phần Luận này?

Đáp: Vì muốn quyết định nêu rõ lần nữa về đối tượng nhận biết là nhiều, không phải là trí nhiều. Vì sao? Vì tất cả xứ của trí đều có thức, không phải tất cả xứ của thức đều có trí. Xứ nào không có trí? Nghĩa là thức tương ưng với nhẫn, nên tất cả xứ của thức không hẳn là có trí. Thế nên thức nhiều, không phải là trí nhiều. Tận trí cùng với thức tương ưng. Thức không hẳn cùng với trí tương ưng.

Xứ nào không tương ưng? Đó là nhẫn. Vì sao? Vì nhẫn không phải là trí.

Hỏi: Vì sao nhẫn không phải trí?

Đáp: Do không quyết định, nên nhẫn không phải là trí. Vì nhẫn chỉ có thể thấy, không thể nhận biết. Vì nhẫn là quán ban đầu, không phải là rốt ráo. Vì nhẫn là tìm kiếm, không phải là chuyển hoàn. Vì đối tượng tạo tác của nhẫn không bỏ phương tiện, nên nhẫn tuy là đối trị nghi, nhưng cũng cùng với nghi có thể kết hợp, không phải là quyết định, nên không phải là trí. Đạo vô ngại giải thoát tuy đồng với đối tượng tạo tác, nhưng không thể cùng hiện có trong một sát-na.

Tôn giả Hòa-tu-mật nói: Muốn có thể nhận lấy sự việc này, gọi là nhẫn. Lúc không thể chấp nhận sự việc ấy, gọi là trí.

Tôn giả Phật-đà-đề-bà nói: Đối tượng nhận thấy rốt ráo là trí. Lúc nhẫn, đối tượng nhận thấy không phải là rốt ráo, nên không phải là trí.

Lại có thuyết cho: Do nơi ấm, giới, nhập, nên thức nhiều, không phải là trí nhiều. Vì sao? Vì thức gồm thâu bảy thức giới, trí chỉ gồm thâu phần ít của một giới. Thức gồm thâu một nhập, một ấm, trí chỉ gồm thâu phần ít của một nhập, một ấm. Thế nên, thức nhiều, không phải là trí nhiều.

* Hành hữu lậu nhiều hay là hành vô lậu nhiều? Cho đến nói rộng.

Hỏi: Vì lý do gì tạo ra phần Luận này?

Đáp: Vì nhằm ngăn chận tông chỉ của người khác, nêu rõ về nghĩa chánh. Như Bộ Ma-ha-tăng-kỳ nói: Sinh thân của Đức Phật là vô lậu.

Hỏi: Vì lý do gì Bộ kia nói như thế?

Đáp: Vì Bộ kia đã dựa vào kinh Phật. Kinh Phật nói: Tỳ-kheo nên biết! Như Lai sinh ra đời, trụ nơi thế gian, xuất hiện ở thế gian, hoàn toàn không bị pháp thế gian cấu nhiễm. Vì nghĩa này, nên biết sinh thân của Đức Như Lai là vô lậu.

Vì nhằm ngăn chận ý của thuyết như thế, cùng làm rõ sinh thân của Đức Như Lai là hữu lậu, nên tạo ra Luận này.

Nếu sinh thân của Đức Như Lai là vô lậu, thì đối với sinh thân ấy, người nữ Vô Tỳ không nên sinh tâm nhiều. Ương-quật-ma-la không nên sinh giận dữ. Bà-la-môn kiêu mạn không nên sinh khởi mạn. Ưu-lâu-tần-loa không nên sinh ngu tối. Vì sinh thân của Đức Như Lai đã khiến kẻ khác sinh ái, giận, hoặc sinh mạn, nghi. Thế nên biết sinh thân của Đức Như Lai không phải là vô lậu.

Hỏi: Nếu sinh thân của Đức Như Lai là hữu lậu, không phải là vô lậu, thì như Bộ Ma-ha-tăng-kỳ đã nêu dẫn kinh nói như thế làm sao thông?

Đáp: Kinh kia nói về pháp thân của Đức Như Lai. Vì sao? Vì nếu nói Đức Như Lai sinh ra đời, trụ nơi đời, tức nói về sinh thân của Như Lai. Nếu nói Đức Như Lai xuất hiện ở thế gian, không bị pháp thế gian làm nhiễm ô, tức là nói về pháp thân của Như Lai.

Lại nữa, không bị pháp thế gian làm nhiễm ô, nghĩa là Đức Như Lai không bị tám pháp của thế gian làm nhiễm ô. Người đời thuận theo tám pháp của thế gian. Tám pháp ấy cũng thuận theo người đời. Tám pháp ấy cũng thuận theo Đức Như Lai, nhưng Đức Như Lai không thuận theo chúng, do đã giải thoát pháp thế gian, nên nói là không nhiễm pháp ấy.

Hỏi: Đức Như Lai cũng có tám pháp của thế gian.

Có lợi: Như trưởng giả Ưu Già, trong một ngày đã dâng cúng cho Đức Phật ba trăm vạn lượng của cải.

Không lợi: Như Đức Phật đi đến thôn của Bà-la-môn Sa La để khất thực, đã mang bát không trở về.

Có tiếng tốt: Lúc đản sinh, danh tiếng thấu đến trời Tha hóa tự tại. Khi thành đạo, danh tiếng truyền tới trời A-ca-nị-trá. Lúc chuyển pháp luân, danh tiếng truyền đến cõi Phạm thiên.

Không tiếng tốt: Người nữ Chiên-già, Tôn-đà-lợi đã hủy báng Đức Như Lai, không phải tiếng tốt đã truyền khắp mười sáu nước lớn.

Chê: Như Bà-la-môn ác khẩu Bà La Bà Xà, đã dùng năm trăm kệ hiện tiền mạ lỵ Đức Phật.

Khen: Như Bà-la-môn kia đã trở lại dùng năm trăm kệ để ca ngợi Phật. Như Bà kỳ xa, Ưu ba ly, đã dùng các thứ kệ để tán thán Tôn giả Xá-lợi-phất, tán dương pháp vô thượng của Phật. Tôn giả A-nan tán dương pháp hy hữu của Phật.

Vui: Là an vui khinh an cùng được tất cả an lạc thù thắng của thế gian.

Khổ: Như Khư-đà-la đã dùng vật nhọn đâm vào chân Phật. Cũng dùng gạch đá gây tổn thương nơi ngón chân Phật. Hoặc Đức Phật bị đau đầu, đau lưng v.v…

Như Lai cũng có các pháp của thế gian v.v… như thế, vì sao nói là không bị pháp thế gian làm nhiễm ô?

Đáp: Đức Thế Tôn tuy gặp bốn pháp như có lợi v.v…, nhưng tâm không cho là cao. Tuy gặp bốn pháp như không lợi v.v…, nhưng tâm không cho là thấp. Tuy gặp bốn pháp như có lợi v.v…, nhưng tâm không sinh khởi ái. Tuy gặp bốn pháp như không lợi v.v…, nhưng tâm không sinh khởi giận. Như ái, giận, thì vui buồn, lo mừng, nói cũng như thế. Ví như núi chúa Tu-di đứng yên trên Kim luân, gió mạnh từ bốn phương thổi đến vẫn không thể lay động. Đức Phật cũng như thế, an lập trên luân giới, tám pháp của thế gian đều không thể lay động.

Thế nên, vì nhằm ngăn chận các nghĩa khác, cùng muốn bày tỏ nghĩa của mình, nên tạo ra phần Luận này.

Hỏi: Hành hữu lậu nhiều hay là hành vô lậu nhiều?

Đáp: Hành hữu lậu nhiều, không phải là hành vô lậu nhiều. Vì sao? Vì hành hữu lậu gồm thâu mười nhập, phần ít của hai nhập. Hành vô lậu chỉ gồm thâu phần ít của hai nhập.

Lại có thuyết cho: Hành vô lậu nhiều, không phải là hành hữu lậu nhiều. Vì sao? Vì như một pháp hệ thuộc cõi dục duyên nơi bốn pháp vô lậu là khổ pháp nhẫn, khổ pháp trí, tập pháp nhẫn, tập pháp trí. Như một pháp của cõi dục, thì pháp của cõi dục còn lại cũng như thế. Như một pháp hệ thuộc cõi sắc duyên nơi bốn pháp vô lậu là khổ tỷ nhẫn, khổ tỷ trí, tập tỷ nhẫn, tập tỷ trí. Như một pháp của cõi sắc, thì pháp của cõi sắc còn lại cũng như thế. Cõi vô sắc nói cũng như vậy, cũng có pháp vô lậu khác. Thế nên hành vô lậu nhiều, không phải là hành hữu lậu nhiều.

Lại có thuyết nêu: Hành hữu lậu nhiều, không phải là hành vô lậu nhiều. Vì sao? Vì như một pháp vô lậu là đối tượng duyên của bốn thứ pháp hữu lậu, là tà kiến, nghi, vô minh và đẳng trí thiện. Như một pháp vô lậu, thì tất cả pháp vô lậu cũng như thế. Pháp hữu lậu khác cũng nhiều. Thế nên hành hữu lậu nhiều, không phải là hành vô lậu nhiều.

Hỏi: Pháp hữu vi nhiều hay là pháp vô vi nhiều?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Pháp hữu vi nhiều, không phải là pháp vô vi nhiều. Vì sao? Vì pháp hữu vi gồm thâu mười một nhập, phần ít của một nhập. Pháp vô vi chỉ gồm thâu phần ít của một nhập.

Lại có thuyết cho: Pháp vô vi nhiều, không phải là pháp hữu vi nhiều. Vì sao? Vì tùy pháp hữu lậu hiện có đã có từng ấy pháp của số diệt. Tùy đạo vô lậu hiện có đã có từng ấy pháp của phi số diệt. Pháp vô vi khác còn có hư không phi số diệt của pháp hữu lậu. Thế nên, pháp vô vi nhiều, không phải là pháp hữu vi nhiều.

* Thế nào là hành đầy đủ? Thế nào là giữ gìn đầy đủ? Cho đến nói rộng.

Hỏi: Vì lý do gì tạo ra phần Luận này?

Đáp: Đây là kinh Phật. Kinh Phật nói: Đệ tử Thánh của Ta, giới đầy đủ, giữ gìn đầy đủ, cho đến hành đầy đủ, giữ gìn đầy đủ. Kinh Phật tuy nói như thế nhưng không phân biệt thế nào là hành đầy đủ, thế nào là giữ gìn đầy đủ. Những điều trong kinh không nói, nay vì muốn nêu bày, nên tạo ra phần Luận này.

Hỏi: Thế nào là hành đầy đủ?

Đáp: Là giới thân, giới khẩu vô học, mạng thanh tịnh.

Hỏi: Như người học, người phi học phi vô học cũng có pháp này, vì sao chỉ nói người vô học?

Đáp: Vì người vô học là vượt hơn, nên nói rộng về người vô học là vượt hơn. Nên như người giới đầy đủ trong phẩm thứ ba nêu trên.

Giới đầy đủ: Giới nói là Thi la, cũng nói là người đi, cũng nói thủ tín, cũng nói là vật chứa đựng. Thi la: Gọi là mát mẻ, vì không có nóng bức của sự phá giới. Kẻ phá giới, thân tâm nóng bức. Người giữ giới, thân tâm mát mẻ. Kẻ phá giới, luôn bị nóng bức trong ba nẻo ác. Người giữ giới, luôn được mát mẻ trong nẻo người trời.

Lại, Thi la nói là mộng. Người giữ giới, thân tâm không nóng bức, thường được giấc mộng tốt.

Lại, Thi la nói là tập. Người giữ giới khéo hành tập giới pháp.

Lại, Thi la nói là định. Người trụ nơi giới tâm dễ đạt định.

Lại, Thi la nói là ao nước. Như Đức Phật nói kệ:

Suối pháp, ao nước giới

Thanh tịnh không chút nhơ

Thánh tắm thân không ướt

Tất đến nơi bờ kia.

Lại, Thi la như chuỗi anh lạc. Có chuỗi anh lạc trang điểm nơi thân. Có người lúc thiếu niên thì đẹp, trung niên, tuổi già thì không đẹp. Có người vào thời trung niên thì đẹp, thiếu niên, tuổi già thì không đẹp. Có người lúc tuổi già thì đẹp, thiếu niên, trung niên thì không đẹp. Còn chuỗi anh lạc giới trang nghiêm nơi thân, thì cả ba thời luôn tốt đẹp. Như Đức Phật nói kệ:

Giới trọn già an

Tín, thiện, an dừng

Tuệ là báu người

Phước không thể trộm.

Lại, Thi la như tấm gương soi. Như tấm gương soi sáng sạch, mọi cảnh tượng ảnh hiện trong đó. Người giữ giới thanh tịnh, hình tượng vô ngã hiện rõ. Như nói nương nơi giới lập giới, bước lên ngôi nhà tuệ vô thượng.

Lại, Thi la nói là oai thế. Đức Như Lai sở dĩ đối với tam thiên đại thiên thế giới là bậc có oai thế, là đều do uy lực của Thi la: Từng nghe, ở nước Kế Tân có rồng tên là A-lợi-na, bẩm tánh bạo ác. Cách chỗ ở không xa, có Tăng-già-lam, rồng ấy thường gây hại rất dữ. Bấy giờ, có năm trăm A-la-hán đều cùng tập họp, nhập thiền định, dùng sức của thần túc muốn đuổi rồng đi, nhưng vì rồng này có oai đức lớn, nên không thể trừ bỏ được. Lúc này, có một vị Lahán đến sau, các La-hán liền đem sự việc này thuật lại đầy đủ cho vị mới đến nghe. Vị A-la-hán đến sau không nhập thiền định, chỉ búng ngón tay nói thẳng với rồng: Hiền thiện! Nên tránh xa xứ này đi! Rồng này vừa nghe tiếng búng ngón tay, lập tức bỏ đi thật xa. Các A-la-hán cùng nói với vị đến sau: Ông đã dùng sức thiền định nào để khiến rồng ấy bỏ đi? Vị A-la-hán đến sau đáp: Tôi không dùng sức của thiền định, chỉ do trực tiếp cẩn thận về giới. Tôi đã giữ gìn giới khinh cũng như giới trọng, chính tôi đã dùng oai lực của giới nên khiến rồng này phải bỏ đi. Thế nên Thi la gọi là có oai thế.

Lại, Thi la nói là đầu. Như người có đầu tức có thể thấy sắc, nghe tiếng, ngửi mùi, nếm vị, giác xúc chạm, nhận biết pháp. Như thế, người đi có đầu Thi la, có thể thấy sắc như khổ đế v.v…, nghe các nghĩa như danh thân v.v…, ngửi mùi hương của hoa giác ý, nếm vị xuất ly, tịch tĩnh vô sự nơi Tam Bồ-đề, giác xúc chạm như thiền định, giải thoát v.v… Như tướng chung, tướng riêng của các pháp như sắc ấm v.v…, thế nên Thi la nói là đầu.

Vì sao Thi la gọi là thủ tín? Đây là pháp ngôn thuyết của thế tục. Nếu người khéo giữ gìn Thi la, thì nói là người thủ tín (giữ sự tin). Không thể khéo giữ gìn Thi la, thì nói là người không thủ tín. Thế nên, theo ngôn thuyết của thế tục, Thi la gọi là thủ tín.

Thi la nói là người đi. Như người có chân, có thể đi đến phương khác. Như thế, người đi là người có chân Thi la, tức có thể đi đến đường thiện và đến Niết-bàn.

Lại, Thi la nói là vật chứa đựng. Do là nơi chốn nương dựa của tất cả công đức, thế nên Thi la được nói là vật chứa đựng.

Tôn giả Cù-sa nói: Nghĩa không phá bỏ là nghĩa của Thi la. Như người không phá bỏ nơi chân, thì có thể có nơi chốn đến. Như thế, người đi không phá bỏ Thi la nên có thể đến Niết-bàn.

Hỏi: Thế nào là giữ gìn đầy đủ?

Đáp: Là giới nơi các căn của A-la-hán. Các căn này cũng nói là giữ gìn, cũng nói là căn, cũng nói là sinh, cũng nói là dòng suối, cũng nói là trắng sạch, cũng nói là đối tượng tạo tác. Giữ gìn là giữ gìn cảnh giới, nên nói là giữ gìn.

Lại có thuyết cho: Vì dùng các căn như niệm, tuệ v.v… để giữ gìn cảnh giới, nên nói là giữ gìn. Như lưỡi hái có thể cắt cỏ, lúa, nên gọi là dụng cụ cắt. Sự giữ gìn cảnh giới kia cũng như thế. Về căn v.v…, nơi phần khác sẽ nói rộng, ở đây vì tóm lược nên không nói.

Hỏi: Căn là giới, căn không phải là giới, thể tánh là gì?

Đáp: Là niệm, tuệ. Vì sao biết được? Như kinh nói: Thiên thần nói với Tỳ-kheo: Chớ bày ra chỗ mụt nhọt ghẻ lở! Tỳ-kheo đáp: Tôi sẽ che đậy lại. Thiên thần lại hỏi: Mụt nhọt, bướu to, lấy gì để che nó? Tỳ-kheo đáp: Dùng niệm, tuệ để che đậy nó lại.

Như kệ khác nói:

Dòng chảy các đời có

Chánh niệm hay dứt trừ

Cũng nhân sức niệm tuệ

Dừng trụ lại không hành.

Thế nên, niệm, tuệ là thể tánh của căn giới (căn luật nghi). Niệm loạn, tuệ ác là căn, không phải là thể tánh của giới.

Hỏi: Nếu niệm, tuệ là thể tánh của căn giới, thì như nơi kinh này nói làm sao thông? Như nói: Niệm, tuệ đầy đủ, nên có thể đầy đủ căn giới, vì sao dùng tự thể làm đầy đủ tự thể?

Đáp: Không phải. Vì sao? Vì niệm tuệ có tánh của nhân, cũng có tánh của quả. Tánh của nhân nói là niệm, tuệ. Tánh của quả gọi là căn giới.

Lại có thuyết nói: Không phóng dật là căn giới. Phóng dật là căn, không phải là giới.

Lại có thuyết cho: Sáu pháp thường trụ là căn giới. Các phiền não dựa vào sáu môn này sinh khởi, là căn, không phải là giới.

Lại có thuyết nêu: Năm căn hoặc đoạn dứt, hoặc nhận biết, nếu được, thành tựu là căn giới. Nếu năm căn không đoạn, không nhận biết, không được, không thành tựu, là căn, không phải là giới. Nếu tạo thuyết này, tức nêu rõ về thành tựu, không thành tựu, là căn giới, không phải là căn giới.

Lại có thuyết nói: Nếu thành tựu duyên nơi phiền não của năm căn, không thành tựu đối trị đoạn duyên nơi phiền não của năm căn, đó gọi là căn, không phải là giới. Nếu không thành tựu duyên nơi phiền não của năm căn, mà thành tựu đối trị đoạn duyên nơi phiền não của năm căn, thì đó gọi là căn giới. Nếu tạo thuyết này, tức là làm rõ về thành tựu, không thành tựu là căn giới, là căn không phải là giới.

Lại có thuyết cho: Tánh nhiễm ô là căn, không phải là giới. Tánh không nhiễm ô là căn giới.

Lại có thuyết nêu: Nếu năm căn có thể sinh ra phiền não của hành ác, tức là căn, không phải là giới. Nếu năm căn có thể sinh ra hành thiện của căn thiện, tức là căn giới. Đức Thế Tôn cũng nói: Căn giới, căn không phải là giới. Nếu tạo thuyết này, tức là biện minh về căn giới, căn không phải là giới, tánh là năm ấm.

Lại có thuyết nói: Ở nước Kế tân có hai vị A-la-hán đã tạo ra thuyết này: Căn giới tánh là vô ký không ẩn mất. Vì sao? Vì không nhất định, nên không nói là ở trong thiện, không nói là ở trong bất thiện.

Hỏi: Nếu thể tánh không nhất định thì vì sao nói đây là căn giới, đây là căn không phải giới?

Đáp: Thể vô ký không ẩn mất là một hành, hoặc có lúc tùy thuận thiện, hoặc có lúc tùy thuận bất thiện. Nếu lúc tùy thuận thiện, thì đó gọi là giới. Nếu lúc tùy thuận bất thiện, thì đó gọi là không phải giới.

Hỏi: Đã nói căn giới, căn không phải là giới. Vậy giới đoạn là thế nào?

Đáp: Là nếu dùng đạo thế tục đoạn trừ kiết nơi cõi dục, thì đối trị đoạn của chín đạo vô ngại thuộc về thiền vị chí. Nếu dựa vào biên của thiền thứ hai đoạn trừ kiết của thiền thứ nhất, tức chín đạo vô ngại thuộc về biên của thiền thứ hai. Như thế, cho đến biên của xứ phi tưởng phi phi tưởng, đoạn trừ kiết của xứ vô sở hữu, tức chín đạo vô ngại thuộc về biên của xứ phi tưởng phi phi tưởng. Nếu dùng đạo vô lậu đoạn trừ kiết của cõi dục, tức chín đạo vô ngại thuộc về thiền vị chí. Đoạn trừ kiết của thiền thứ nhất thì chín đạo vô ngại thuộc về ba địa. Như thế, theo thứ lớp, thiền thứ hai là bốn địa, thiền thứ ba là năm địa. Đoạn trừ kiết của thiền thứ tư và kiết nơi cõi vô sắc do kiến đạo đoạn là sáu địa. Kiết nơi xứ không do tu đạo đoạn là bảy địa. Xứ thức là tám địa. Kiết nơi xứ vô sở hữu và xứ phi tưởng phi phi tưởng do tu đạo đoạn là chín đạo. Đạo vô ngại thuộc về chín địa là giới đoạn.

* Thế nào là tánh phàm phu? Cho đến nói rộng.

Hỏi: Vì lý do gì tạo ra phần Luận này?

Đáp: Vì nhằm ngăn trừ ý tưởng của nghĩa khác, như Bộ Độc Tử nói: “Mười thứ phiền não nơi cõi dục do kiến khổ đoạn trừ là tánh phàm phu”. Bộ ấy nói tánh phàm phu nhất định là hệ thuộc cõi dục, là nhiễm ô, là do kiến đạo dứt trừ, là pháp tương ưng. Vì nhằm ngăn chận ý tưởng của thuyết như thế, cùng nêu rõ về tánh phàm phu là hệ thuộc nơi ba cõi, là không nhiễm ô, là do tu đạo đoạn, là pháp không tương ưng, nên tạo ra phần Luận này.

Hỏi: Thế nào là tánh phàm phu?

Đáp: Là nếu không được pháp Thánh, cho đến nói rộng.

Hỏi: Vì không được tất cả pháp Thánh là tánh phàm phu, hay là không được khổ pháp nhẫn là tánh phàm phu? Nếu không được tất cả pháp Thánh là tánh phàm phu, thì không có Thánh nhân được tất cả pháp Thánh, tức không có ai không phải là người của tánh phàm phu. Đức Phật Thế Tôn tức không phải đã thành tựu tất cả pháp vô lậu, nghĩa là pháp vô lậu của Thanh văn, Phật-bích-chi, là pháp học của tự thân. Nếu không được khổ pháp nhẫn là tánh phàm phu, thì đạo tỷ trí đã sinh, bỏ khổ pháp nhẫn, nên là tánh phàm phu chăng?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Nên tạo ra thuyết này: Không được khổ pháp nhẫn là tánh phàm phu.

Hỏi: Nếu như vậy thì đạo tỷ trí sinh, bỏ khổ pháp nhẫn, là tánh phàm phu chăng?

Đáp: Lúc khổ pháp nhẫn sinh là đã phá bỏ tánh phàm phu, vĩnh viễn không còn sinh khổ pháp nhẫn nữa. Không được nói là được. Không được nói là không được. Như không được nhãn căn của vị lai, được hiện tại. Vì được nhãn căn của hiện tại, nên đã phá bỏ nhãn căn của vị lai. Vì không được nhãn căn của vị lai, nên không gọi là được, không gọi là không được. Tánh phàm phu kia cũng như thế.

Lại có thuyết cho: Đạo tỷ trí sinh là đã bỏ khổ pháp nhẫn, thể tánh là không được. Như không được nhãn căn của vị lai, được nhãn căn của hiện tại, cũng không được nhãn căn của quá khứ. Như thế, được đạo tỷ trí thì không được khổ pháp nhẫn.

Hỏi: Nếu như vậy thì vì sao không phải là tánh phàm phu?

Đáp: Vì thành tựu quả y (quả đẳng lưu), nên trong thân của Thánh nhân không có không thành tựu khổ pháp nhẫn. Lúc có quả đẳng lưu, tuy không thành tựu khổ pháp nhẫn, nhưng không phải là phàm phu mà luôn là Thánh nhân.

Hỏi: Nếu không được pháp Thánh là tánh phàm phu. Như nói: Thế nào là tánh phàm phu? Là hành bất tương ưng hành của tâm không nhiễm ô nơi ba cõi. Nghĩa ấy là thế nào?

Đáp: Nếu nói không được pháp Thánh là tánh phàm phu, tức là nêu rõ về nghĩa của hành bất tương ưng thuộc tâm không nhiễm ô nơi ba cõi. Vì sao? Vì không được tánh của pháp Thánh, tức là hành bất tương ưng của tâm không nhiễm ô nơi ba cõi.

Lại có thuyết nói: Trước là nói về pháp đối trị. Sau là nói về thể tánh.

Lại có thuyết cho: Thể tánh của phàm phu là một pháp, cũng như mạng căn, không phải là không được tánh của Thánh pháp là hành bất tương ưng của tâm không nhiễm ô do tu đạo đoạn trừ.

Lời bình: Không nên tạo ra thuyết ấy. Thể tánh của phàm phu là không được pháp Thánh, nói như thế là tốt.

Lại có thuyết nêu: Không được tất cả pháp vô lậu là tánh phàm phu.

Hỏi: Nếu như vậy thì không có Thánh nhân đều thành tựu tất cả pháp vô lậu, tức đều là tánh phàm phu chăng?

Đáp: Tuy không có Thánh nhân đều thành tựu tất cả pháp vô lậu, nhưng không phải là phàm phu. Vì sao? Vì cũng có người được Thánh đạo, cũng có người không được Thánh đạo.

Lại có thuyết nói: Nếu không được Thánh đạo là không chung, là tánh phàm phu. Nếu không được Thánh đạo là chung, thì không phải là tánh phàm phu.

Lại có thuyết cho: Nếu không được không phá bỏ là tánh phàm phu. Nếu không được phá bỏ là không phải tánh phàm phu.

Lại nữa, cũng không được noãn Thánh, kiến Thánh, nhẫn Thánh, dục Thánh, tuệ Thánh, cho đến nói rộng.

Hỏi: Đây lại là hiển hiện về nghĩa gì?

Đáp: Trước là nói tóm lược, nay là nói rộng. Trước là không phân biệt, nay là phân biệt.

Lại có thuyết nói: Đây là nói phàm phu rất thấp, người không được căn thiện của phần đạt. Noãn Thánh là pháp Noãn. Kiến Thánh là pháp Đảnh. Nhẫn Thánh là nhẫn phẩm hạ trung. Dục Thánh là nhẫn phẩm thượng. Tuệ Thánh là pháp thế đệ nhất. Thế nên, ở đây là nói về phàm phu phẩm thấp nhất.

Lại có thuyết cho: Trong đây chỉ phân biệt khổ pháp nhẫn. Vì sao? Vì khổ pháp nhẫn cũng gọi là noãn kiến, nhẫn dục, tuệ. Khiến có chủng tử nóng nên gọi là noãn. Chuyển hành nên gọi là kiến. Gắng nhẫn nên gọi là nhẫn. Vì có thể đạt đế nên gọi là dục. Do phân biệt nên gọi là tuệ.

Lại có thuyết nêu: Khiến có chủng tử nóng ấm nên gọi là noãn. Chuyển hành nên gọi là kiến. Hành nhẫn nên gọi là nhẫn. Vì muốn giải thoát nên gọi là dục. Vì giác biết nên gọi là tuệ. Do đấy trong đây chỉ phân biệt khổ pháp nhẫn.

Tánh phàm phu nên nói là thiện chăng? Cho đến nói rộng.

Đáp: Tánh phàm phu nên nói là vô ký. Vì sao? Vì pháp thiện là do thiện phương tiện mà được, cũng do pháp thiện khác nên được. Do phương tiện: Là phương tiện nơi căn thiện. Do căn thiện này cũng khiến cho pháp thiện khác được tu ở đời vị lai. Như biên của tận trí, đẳng trí, biên của kiến đạo đã được căn thiện của ba cõi.

Hỏi: Trong đây vì sao không nói thiện sinh đắc?

Đáp: Tức nên nói nhưng không nói, phải biết là nghĩa này nêu bày chưa trọn vẹn, cho đến nói rộng.

Lại có thuyết nói: Nếu là thiện tốt hơn thì trong đây nói đến. Vì pháp thiện kia là thấp kém, thế nên không nói.

Lại có thuyết cho: Thiện của phương tiện đắc là nói căn thiện của phương tiện. Thiện do người khác đạt được là nói thiện của lìa dục đắc.

Lại có thuyết nêu: Thiện do phương tiện sinh là nói căn thiện của phần đạt, phần thắng tấn. Thiện do người khác đạt được là nói căn thiện của phần thoái, phần trụ.

Lại có thuyết nói: Văn trên đây nên nói như thế này: Pháp thiện nếu là phương tiện đắc, hoặc là người được phương tiện, là phương tiện đắc. Đắc là sinh đắc.

Lại có thuyết cho: Pháp thiện được, hoặc do phương tiện, hoặc do lìa dục, hoặc được, hoặc thoái lui.

Lại có thuyết nêu: Phương tiện đắc nghĩa là phương tiện sinh. Nếu đắc, nghĩa là căn thiện vừa đoạn lúc sinh trở lại, là được căn thiện.

Không có tạo phương tiện mong cầu làm phàm phu. Vì sao? Vì không có người vốn không phải là phàm phu. Đây là vì pháp thấp kém, nên không có người mong cầu. Nếu tánh phàm phu là thiện tức có lỗi lớn, vì khi dứt bỏ căn thiện, thì vĩnh viễn diệt trừ pháp thiện không thành tựu được. Bấy giờ, tức nên không phải là phàm phu.

Nếu rất ác, thấp kém, không phải là phàm phu, thì sự việc này không đúng. Vì muốn khiến không có lỗi như thế, nên tánh phàm phu không nên nói là thiện.

Vì sao tánh phàm phu không phải là bất thiện?

Đáp: Vì phàm phu đã lìa dục của cõi dục, không tạo thành pháp bất thiện, cõi lìa dục tức không phải là phàm phu. Do nói như thế, tức ngăn chận ý tưởng cho tánh phàm phu là bất thiện. Nếu tánh phàm phu là bất thiện, thì hàng phàm phu đã lìa dục của cõi dục tức không nên sinh trở lại nơi cõi dục. Nhưng vì còn sinh trở lại nơi cõi dục, thế nên tánh phàm phu không được nói là bất thiện.

Tánh phàm phu nên nói là hệ thuộc cõi dục chăng? Cho đến nói rộng.

Đáp: Tánh phàm phu, hoặc hệ thuộc nơi cõi dục, hoặc hệ thuộc nơi cõi sắc, vô sắc.

Hỏi: Vì sao tánh phàm phu không nên nói nhất định là hệ thuộc cõi dục?

Đáp: Vì ở cõi dục mất, sinh nơi cõi vô sắc, cho đến nói rộng.

Hỏi: Vì sao không nói ở cõi dục mất, sinh nơi cõi sắc?

Đáp: Do mất ở cõi dục, sinh nơi cõi sắc, tuy đã bỏ pháp cõi dục nhưng không cần bỏ. Còn sinh nơi cõi vô sắc thì đều bỏ. Vì sao? Vì sinh nơi cõi sắc cũng thành tựu pháp cõi dục. Nghĩa là tâm biến hóa của cõi dục. Còn sinh nơi cõi vô sắc thì không thành tựu pháp cõi dục. Do sự việc này, tức không nên nói nhất định hệ thuộc cõi dục.

Hỏi: Vì sao không nên nói tánh phàm phu nhất định hệ thuộc cõi sắc?

Đáp: Vì mất ở cõi sắc, sinh trong cõi vô sắc, đều không thành tựu pháp thuộc cõi sắc.

Hỏi: Mất ở cõi sắc, sinh trong cõi dục, cũng bỏ pháp cõi sắc. Vì sao trong đây không nói?

Đáp: Tuy đã bỏ pháp cõi sắc, nhưng không đều bỏ hết. Còn sinh nơi cõi vô sắc thì đều bỏ. Thế nên nói mất ở cõi sắc, sinh nơi cõi vô sắc, cho đến nói rộng.

Nếu như nhất định tánh phàm phu là hệ thuộc cõi sắc, thì A-tưđà, A-la-đồ, Uất-đà-ca v.v… tức không nên sinh trở lại.

Lại nữa, sở dĩ không nói mất ở cõi sắc, sinh nơi cõi dục, là vì mất ở cõi sắc, sinh trong cõi dục, tức thành tựu pháp cõi sắc. Còn sinh nơi cõi vô sắc thì đều không thành tựu pháp cõi sắc. Do đó, nên không nói.

Hỏi: Vì sao tánh phàm phu không nên nói nhất định hệ thuộc cõi vô sắc?

Đáp: Vì khi được chánh quyết định, cho đến nói rộng. Pháp tức nên như thế. Nếu thành tựu tánh phàm phu của địa vô sắc kia, trước hết phải kiến khổ của địa vô sắc kia. Thế nhưng Thánh đạo sinh là vì làm đối trị cho tánh phàm phu, nên nếu khi Thánh đạo sinh, thì trước phải thấy khổ của phàm phu nơi cõi vô sắc, tánh phàm phu tức nên nói nhất định là hệ thuộc cõi vô sắc, song không như vậy.

Hỏi: Nếu vì Thánh đạo mới sinh, thì tánh phàm phu nên nói là nhất định hệ thuộc cõi dục chăng?

Đáp: Không nên dùng điều ấy để vấn nạn, vì thuyết kia không nên nói nhất định tánh phàm phu hệ thuộc cõi dục, vì trước đã nói.

Hỏi: Tánh phàm phu nên nói là do kiến đạo đoạn chăng? Cho đến nói rộng.

Đáp: Tánh phàm phu nên nói là do tu đạo đoạn, không nên nói là do kiến đạo đoạn. Vì sao? Vì pháp do kiến đạo đoạn đều là nhiễm ô, còn tánh phàm phu không phải là nhiễm ô. Nếu là pháp do kiến đạo đoạn trừ tức là nhiễm ô, nhưng tánh phàm phu không phải là nhiễm ô. Sự việc ấy là thế nào? Nếu là kiến đạo, như pháp thế đệ nhất diệt, cho đến nói rộng. Pháp nhiễm ô cần được dứt bỏ để không tạo thành. Tùy theo việc dứt trừ bao nhiêu thứ pháp nhiễm ô, thì được không tạo thành từng ấy thứ pháp nhiễm ô kia, cho đến nói rộng. Thời gian này chưa dứt trừ một thứ pháp nhiễm ô, nhưng không thành tựu tánh phàm phu. Nếu tánh phàm phu là pháp nhiễm ô, thì hành giả cũng là phàm phu, cũng là Thánh nhân. Vì sao? Vì lúc trụ nơi khổ pháp nhẫn, đã tạo thành năm thứ pháp nhiễm ô và nơi thời gian này cũng là bị trói buộc đủ, cũng là Thánh nhân.

Hỏi: Không có thành tựu tánh phàm phu của cõi sắc, vô sắc, vì sao nói là vào thời gian này, phàm phu của ba cõi được không thành tựu?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Đoạn văn ấy tức nên nói như thế này: Phàm phu trong ba cõi được không thành tựu. Nhưng không nói là có ý gì? Đáp: Vì muốn khiến cho ba số đầy đủ, nên nói như thế này: Thành tựu tánh phàm phu nơi cõi dục, không thành tựu tánh phàm phu của cõi sắc, vô sắc. Nếu không thành tựu tánh phàm phu nơi cõi dục, thì người này không được gọi là thành tựu tánh phàm phu của ba cõi. Thế nên, vì muốn khiến cho ba số được đầy đủ nên nói như thế.

Lại có thuyết cho: Vì dứt bỏ xứ có thể sinh, nên nêu bày như thế. Vì phàm phu còn có xứ sinh, nên khiến đều đoạn dứt, nay pháp phàm phu kia tức không còn có thể sinh.

Lại có thuyết nêu: Muốn khiến cho pháp không thành tựu, lại không thành tựu nữa.

Hỏi: Vì sao pháp không thành tựu, lại không thành tựu nữa?

Đáp: Vì muốn khiến cách rất xa.

Lại có thuyết cho: Tánh phàm phu của ba cõi, vì được phi số diệt, nên nói ba cõi.

Hỏi: Tánh phàm phu là những pháp nào?

Đáp: Là tâm bất tương ưng hành không nhiễm ô của ba cõi.

Hỏi: Vì sao lại tạo ra phần Luận này?

Đáp: Vì nhằm ngăn chận ý tưởng của thuyết nói tánh phàm phu nhất định hệ thuộc cõi dục, là nhiễm ô, là do kiến đạo đoạn, là pháp tương ưng, nên tạo rao phần Luận này. Nói ba cõi tức ngăn chận ý cho tánh phàm phu nhất định ở cõi dục. Nói không nhiễm ô là ngăn chận ý cho là nhiễm ô. Nói tu đạo đoạn là ngăn chận ý tưởng cho là do kiến đạo đoạn. Nói không tương ưng là ngăn chận cho là pháp tương ưng.

Hỏi: Thể tánh của tánh phàm phu là gì?

Đáp: Như Luận này nói: Thể tánh của tánh phàm phu là không được Thánh đạo, cho đến nói rộng. Trong đây nói tánh phàm phu là tâm bất tương ưng hành vô ký không ẩn mất không thành tựu thuộc về hành ấm.

Hỏi: Tánh phàm phu không phải thuộc về hành ấm. Vì sao? Vì trong pháp của tâm bất tương ưng hành không nói pháp này.

Đáp: Cũng nói các pháp như thế v.v…, gọi là ở trong tâm bất tương ưng hành. Đây là thể tánh của tánh phàm phu, cho đến nói rộng.

Đã nói về thể tánh của tánh phàm phu, về lý do nay sẽ nói.

Tánh phàm phu là nghĩa gì?

Người A-tỳ-đàm nói: Phần phàm phu, tánh phàm phu, thân phàm phu, thể phàm phu là nghĩa của tánh phàm phu.

Tôn giả Cù-sa nêu bày: Nghĩa cùng với phàm phu tương tợ là nghĩa của tánh phàm phu. Như bò giống với bò, nên gọi là tánh của bò. Các loài cầm thú khác cũng như thế.

Tôn giả Hòa-tu-mật cho: Nghĩa nhiều xứ thọ nhận thân là nghĩa của tánh phàm phu. Nghĩa sinh cõi khác là nghĩa của tánh phàm phu. Nghĩa hướng đến nẻo khác là nghĩa của tánh phàm phu. Nghĩa thọ nhận các loài là nghĩa của tánh phàm phu. Nghĩa tạo tác nghiệp khác là nghĩa của tánh phàm phu. Nghĩa tin nơi sự khác là nghĩa của tánh phàm phu. Nghĩa hành khác loại là nghĩa của tánh phàm phu.

Tôn giả Phật-đà-đề-bà nói: Nghĩa thọ nhận cõi khác, nẻo khác, loài khác, tăng trưởng sinh tử là nghĩa của tánh phàm phu. Nghĩa hành khác loại là nghĩa của tánh phàm phu.

Hỏi: Vì sao gọi là phàm phu?

Đáp: Tôn giả Hòa-tu-mật nói: Vì các pháp như thọ nhận khác, sự sinh khác, cõi khác, xứ sinh khác, tạo nghiệp khác, hành phiền não khác, tin nơi sự khác, hành loại khác v.v…, nên gọi là phàm phu.

Tôn giả Phật-đà-đề-bà nói: Vì khác với pháp Thánh, nên gọi là phàm phu.

Hỏi: Vì sao nói là pháp phàm phu?

Đáp: Vì pháp này là pháp của phàm phu hiện có, nên gọi là pháp phàm phu. Cũng như pháp hiện có của Thánh nhân, nên gọi là pháp Thánh.

Lại nữa, phàm phu đều được pháp này, thành tựu ở trong thân, nên gọi là pháp phàm phu.

Lại nữa, phàm phu vì bị pháp này che lấp, trói buộc, nên gọi là pháp phàm phu.

Lại có thuyết cho: Người phàm phu tạo tác pháp này, hành nơi pháp này, theo đuổi pháp này, nên gọi là pháp phàm phu.

Tôn giả Phật-đà-đề-bà nói: Pháp này là pháp của người phàm phu, vì sinh khởi làm tăng trưởng tánh phàm phu, nên gọi là pháp phàm phu.

Hỏi: Pháp phàm phu và tánh phàm phu có gì khác biệt?

Đáp: Nhân là tánh phàm phu. Quả là pháp phàm phu. Như nhân quả thì tạo tác, đã tạo tác nói rộng cũng như thế.

Lại nữa, vô ký là tánh phàm phu. Thiện, bất thiện, vô ký là pháp phàm phu. Không có báo là tánh phàm phu. Có báo, không có báo là pháp phàm phu. Như có báo, không có báo thì sinh một quả, hai quả, tương ưng với không hổ không thẹn, không tương ưng với không hổ không thẹn, nói cũng như thế.

Lại nữa, tánh phàm phu gồm thâu phần ít của một ấm. Pháp phàm phu gồm thâu năm ấm.

Lại nữa, tánh phàm phu là không tương ưng. Pháp phàm phu là tương ưng, không tương ưng. Như tương ưng, không tương ưng, có nương dựa, không nương dựa, nói cũng như thế.

Lại nữa, tánh phàm phu là không nhiễm ô. Pháp phàm phu là nhiễm ô, không nhiễm ô.

Tôn giả Phật-đà-đề-bà nói: Đối tượng hành của nẻo khác là tánh phàm phu. Đối tượng đạt được các pháp ấm giới nhập của nẻo khác là pháp phàm phu. Như đối tượng hành của bò dê, cầm thú, là tánh của bò dê, cầm thú. Pháp đã đạt được của bò dê, cầm thú là pháp của bò dê, cầm thú.

Các tướng như thế, đó gọi là khác biệt.

Nếu tánh phàm phu không đoạn dứt là cũng thành tựu tánh phàm phu chăng? Nếu thành tựu tánh phàm phu thì tánh phàm phu kia không đoạn dứt chăng? Cho đến nói rộng làm bốn trường hợp:

1. Tánh phàm phu không đoạn dứt, không thành tựu tánh phàm phu: Là người phàm phu sinh nơi cõi dục, chưa lìa dục của thiền thứ nhất. Từ thiền thứ nhất cho đến xứ phi tưởng phi phi tưởng, tánh phàm phu không đoạn dứt, cũng không thành tựu. Đã lìa dục của thiền thứ nhất, chưa lìa dục của thiền thứ hai. Từ thiền thứ hai cho đến xứ phi tưởng phi phi tưởng, tánh phàm phu không đoạn dứt, cũng không thành tựu. Cho đến lìa dục của xứ vô sở hữu, xứ phi tưởng phi phi tưởng, tánh phàm phu không đoạn dứt, cũng không thành tựu.

Người phàm phu sinh nơi thiền thứ nhất, chưa lìa dục của thiền thứ hai. Từ thiền thứ hai cho đến xứ phi tưởng phi phi tưởng, tánh phàm phu không đoạn dứt, cũng không thành tựu. Đã lìa dục của thiền thứ hai, chưa lìa dục của thiền thứ ba. Từ thiền thứ ba cho đến xứ phi tưởng phi phi tưởng, tánh phàm phu không đoạn dứt, cũng không thành tựu. Cho đến lìa dục của xứ vô sở hữu, xứ phi tưởng phi phi tưởng, tánh phàm phu không đoạn dứt, cũng không thành tựu. Như người phàm phu sinh nơi thiền thứ nhất, cho đến sinh nơi xứ thức cũng nói như thế. Người phàm phu sinh nơi xứ vô sở hữu, xứ phi tưởng phi phi tưởng, tánh phàm phu không đoạn dứt, cũng không thành tựu.

Người phàm phu thì như vậy, còn Thánh nhân thì thế nào? Thánh nhân chưa lìa dục của cõi dục, từ cõi dục cho đến xứ phi tưởng phi phi tưởng, tánh phàm phu không đoạn dứt, cũng không thành tựu.

Đã lìa dục của cõi dục, chưa lìa dục của thiền thứ nhất. Từ thiền thứ nhất cho đến xứ phi tưởng phi phi tưởng, tánh phàm phu không đoạn dứt, cũng không thành tựu. Cho đến lìa dục của xứ vô sở hữu, chưa lìa dục của xứ phi tưởng phi phi tưởng, tánh phàm phu của xứ phi tưởng phi phi tưởng không đoạn dứt, cũng không thành tựu. Đây gọi là không đoạn dứt cũng không thành tựu.

2. Thành tựu chẳng phải là không đoạn: Là người phàm phu sinh nơi cõi dục, lìa dục của cõi dục, thành tựu tánh phàm phu của cõi dục, chẳng phải là không đoạn. Sinh nơi thiền thứ nhất, lìa dục của thiền thứ nhất, cho đến sinh nơi xứ vô sở hữu, lìa dục của xứ vô sở hữu, thành tựu tánh phàm phu của xứ vô sở hữu, chẳng phải là không đoạn. Đây gọi là thành tựu chẳng phải là không đoạn.

3. Không đoạn chẳng phải là không thành tựu: Là người phàm phu sinh trong cõi dục, chưa lìa dục của cõi dục, tánh phàm phu của cõi dục không đoạn, chẳng phải là không thành tựu. Sinh nơi thiền thứ nhất, chưa lìa dục của thiền thứ nhất, cho đến sinh nơi xứ vô sở hữu, chưa lìa dục của xứ vô sở hữu nói cũng như thế. Sinh nơi xứ phi tưởng phi phi tưởng, tánh phàm phu kia không đoạn, chẳng phải là không thành tựu. Đây gọi là không đoạn chẳng phải là không thành tựu.

4. Chẳng phải là không đoạn cũng không thành tựu: Là người phàm phu sinh trong cõi dục, cho đến lìa dục của xứ vô sở hữu. Từ địa thiền thứ nhất cho đến xứ vô sở hữu, tánh phàm phu chẳng phải là không đoạn cũng không thành tựu.

Sinh nơi thiền thứ nhất, lìa dục của xứ vô sở hữu, từ thiền thứ hai cho đến xứ vô sở hữu, tánh phàm phu chẳng phải là không đoạn cũng không thành tựu. Cho đến sinh nơi xứ thức, lìa dục của xứ vô sở hữu, tánh phàm phu của xứ vô sở hữu chẳng phải là không đoạn cũng không thành tựu. Từ xứ không cho đến cõi dục, tánh phàm phu chẳng phải là không đoạn cũng không thành tựu.

Người phàm phu sinh nơi xứ vô sở hữu, xứ thức, cho đến cõi dục, tánh phàm phu chẳng phải là không đoạn cũng không thành tựu. Sinh nơi xứ phi tưởng phi phi tưởng, xứ vô sở hữu, cho đến cõi dục, tánh phàm phu chẳng phải là không đoạn cũng không thành tựu. Hết thảy A-la-hán, tánh phàm phu của ba cõi, chẳng phải là không đoạn cũng không thành tựu.

A-na-hàm đã lìa dục của xứ vô sở hữu, từ cõi dục cho đến xứ vô sở hữu, tánh phàm phu chẳng phải là không đoạn cũng không thành tựu. Cho đến Thánh nhân đã lìa dục của cõi dục, chưa lìa dục của thiền thứ nhất, tánh phàm phu của cõi dục chẳng phải là không đoạn cũng không thành tựu. Đây gọi là chẳng phải là không đoạn cũng không thành tựu.

Nếu tánh phàm phu đã đoạn thì cũng không thành tựu chăng? Nếu tánh phàm phu không thành tựu thì tánh phàm phu đã đoạn chăng? Cho đến nói rộng làm bốn trường hợp: Trường hợp thứ nhất kia làm trường hợp thứ hai ở đây. Trường hợp thứ hai kia làm trường hợp thứ nhất ở đây. Trường hợp thứ tư kia làm trường hợp thứ ba ở đây. Trường hợp thứ ba kia làm trường hợp thứ tư ở đây.

Tánh phàm phu nếu là số diệt lại là phi số diệt chăng? Nếu là phi số diệt lại là số diệt chăng? Cho đến nói rộng làm bốn trường hợp:

1. Là số diệt chẳng phải là phi số diệt: Là người phàm phu đã lìa dục của cõi dục, cho đến lìa dục của xứ vô sở hữu.

2. Là phi số diệt chẳng phải là số diệt: Là Thánh nhân chưa lìa dục của cõi dục.

3. Là số diệt cũng là phi số diệt: Là Thánh nhân đã lìa dục của cõi dục. Các địa nói cũng như thế. Cho đến A-la-hán, tánh phàm phu của ba cõi, được số diệt cũng được phi số diệt.

4. Chẳng phải là số diệt cũng chẳng phải là phi số diệt: Là người phàm phu chưa lìa dục.

Hỏi: Từng có pháp vào lúc một thứ xả là lúc chín thứ đoạn chăng?

Đáp: Có. Đó là tánh phàm phu. Lúc một thứ xả là khổ pháp nhẫn. Lúc chín thứ đoạn là lúc lìa dục của cõi dục, cho đến lúc lìa dục của xứ phi tưởng phi phi tưởng.

Các pháp cùng với tà kiến tương ưng lại cùng với tà giác tương ưng chăng? Cho đến nói rộng.

Hỏi: Vì sao nói tánh phàm phu, tiếp theo nói về tám chi tà?

Đáp: Do hai pháp này lần lượt cùng hỗ trợ nhau: Tánh phàm phu hỗ trợ tám chi tà. Tám chi tà lại hỗ trợ cho tánh phàm phu.

Lại nữa, hành giả ghét bỏ tám pháp tà này nên dốc tu đạo.

Các pháp cùng với tà kiến tương ưng lại cùng với tà giác tương ưng chăng? Cho đến nói rộng làm bốn trường hợp:

Tà kiến có thể có được trong tất cả địa, không phải có thể có được trong tất cả tâm nhiễm ô.

Tà giác có thể có được trong tất cả tâm nhiễm ô, không phải có thể có được trong tất cả địa.

Ở đây, nói tà kiến hủy báng nhân quả, không nói hết về năm tà kiến, nên tạo ra bốn trường hợp:

1. Cùng với tà kiến tương ưng không phải là tà giác: Là tà giác tương ưng với tà kiến, tà kiến của cõi dục thiền vị chí địa thiền thứ nhất tương ưng với thể của tà giác trong tụ, là cùng với tà kiến tương ưng, không phải là tà giác. Vì sao? Vì do ba sự nên tự thể không tương ưng với tự thể: (1) Không có hai tà giác trong một sát-na. (2) Sát-na trước sau không cùng kết hợp. (3) Trừ tự thể của chúng, cùng với tất cả pháp khác làm duyên.

Tà giác khác không tương ưng với pháp tương ưng của tà kiến. Pháp kia là gì? Là tâm thùy quán của thiền trung gian, cho đến chín phiền não đại địa, chín đại địa pháp của cõi vô sắc. Các pháp v.v… như thế cùng với tà kiến tương ưng không phải là tà giác. Vì sao? Vì địa vô sắc kia không có tà giác.

2. Cùng với tà giác tương ưng không phải là tà kiến: Là tà giác tương ưng với tà kiến, là thể của tà kiến nơi cõi dục thiền vị chí, thiền thứ nhất, tương ưng với tà giác. Vì sao? Vì do ba sự nên tự thể không tương ưng với tự thể, như trước đã nói.

Tà kiến khác không tương ưng với pháp tương ưng của tà giác. Pháp kia là gì? Là trừ pháp tương ưng của tà kiến nơi cõi dục thiền vị chí, thiền thứ nhất, các pháp tương ưng của tà giác nơi tụ nhiễm ô khác, nghĩa là tụ tương ưng với thân kiến, biên kiến, giới thủ, kiến thủ, nghi, ái, giận, mạn và vô minh không chung.

Các pháp v.v… như thế là cùng với tà giác tương ưng không phải là tà kiến. Vì sao? Vì trong tụ kia không có tà kiến.

3. Cùng với tà kiến tương ưng cũng cùng với tà giác tương ưng: Là trừ tà kiến tương ưng với tà giác, trừ tà giác tương ưng với tà kiến, còn lại là pháp tương ưng của tà kiến, tà giác. Pháp ấy là gì? Là tụ tương ưng của tà giác, tà kiến nơi cõi dục thiền vị chí, thiền thứ nhất, trừ tự thể của chúng. Trừ tuệ, còn lại có chín đại địa, tuệ ác, chín phiền não đại địa, tâm quán lúc thùy, lúc miên. Các pháp v.v… như thế là cùng với tà kiến tương ưng cũng tương ưng với tà giác.

4. Không cùng với tà kiến tà giác tương ưng: Là tà giác không tương ưng với tà kiến. Pháp ấy là thế nào? Là trừ tụ tà giác tương ưng với tà kiến của cõi dục thiền vị chí, thiền thứ nhất, còn lại là thể của tà giác nơi các tụ nhiễm ô, không tương ưng với tà kiến. Vì sao? Vì mỗi tụ đều khác nhau. Cũng không tương với tà giác. Vì sao? Vì tự thể không tương ưng với tự thể. Do ba sự cũng nói như trên.

Tà kiến không tương ưng với tà giác. Pháp ấy là gì? Là tà kiến của thiền trung gian, cho đến tà kiến của cõi vô sắc không tương ưng với tà giác, không tương ưng với tà kiến. Vì sao? Vì ba sự nên tự thể không tương ưng với tự thể, như trên đã nói. Cũng không cùng với tà giác tương ưng, vì địa kia không có giác. Các tâm tâm số pháp khác. Nghĩa là trừ thiền trung gian, cho đến pháp tương ưng của tà kiến nơi cõi vô sắc, các tụ nhiễm ô khác không cùng với tà kiến tương ưng, vì trong tụ nhiễm ô đó không có tà kiến. Không cùng với tà giác tương ưng, do trong địa vô sắc kia không có tà giác. Các tâm thiện, tâm vô ký không ẩn mất, sắc, vô vi, tâm bất tương hành. Tâm thiện, tâm vô ký không tương ưng, vì không phải là nhiễm ô. Sắc, vô vi, tâm bất tương ưng hành không tương ưng vì không phải là pháp duyên.

Các pháp cùng với tà kiến tương ưng lại cùng với tà phương tiện tương ưng chăng? Nếu cùng với tà phương tiện tương ưng tức lại cùng với tà kiến tương ưng chăng? Cho đến nói rộng làm bốn trường hợp:

Tà kiến có thể được nơi tất cả địa, không phải có thể được trong tất cả tâm nhiễm ô. Tà phương tiện thì có thể được trong tất cả địa, trong tất cả tâm nhiễm ô. Nên tạo ra bốn trường hợp:

1. Tương ưng với tà kiến không phải là tà phương tiện: Là tà kiến tương ưng với tà phương tiện, thể của tà phương tiện tương ưng với tà kiến. Là tương ưng với tà kiến không phải là tà phương tiện. Do ba sự nên tự thể không tương ưng với tự thể, như trên đã nói.

2. Tương ưng với tà phương tiện không phải là tà kiến: Là thể của tà kiến trong tụ tà phương tiện, tà kiến là tương ưng với tà phương tiện không phải là tà kiến. Vì sao? Vì ba sự nên tự thể không tương ưng với tự thể, như trên đã nói.

Pháp bất tương ưng của tà kiến, pháp tương ưng của tà phương tiện khác. Pháp kia là gì? Nghĩa là trừ tụ tương ưng của tà kiến, các tụ nhiễm ô còn lại cùng với tà phương tiện tương ưng không phải là tà kiến.

Các pháp v.v… như thế là cùng với tà phương tiện tương ưng không phải là tà kiến. Vì sao? Vì trong tụ kia không có tà kiến.

3. Cùng với tà kiến tương ưng cũng cùng với tà phương tiện tương ưng: Là trừ tà kiến tương ưng với tà phương tiện, còn lại là pháp tương ưng của các tà kiến. Trừ tà phương tiện, do tà phương tiện nhiều, nên trừ thể của tà phương tiện nơi tụ tương ưng của tà kiến. Tà phương tiện kia là đối tượng trừ bỏ, còn lại là các pháp tương ưng của tà kiến. Cũng loại trừ thể của tà kiến. Đây là ở trong tụ tà kiến kia đã loại trừ thể của tà phương tiện. Cũng loại trừ thể của tà kiến. Các tâm tâm số pháp khác chúng là những gì? Nghĩa là trừ tuệ, còn lại là chín đại địa. Trừ tuệ ác, còn lại là chín phiền não đại địa. Tâm, giác, quán, thùy, không hổ, không thẹn, miên, nên tùy theo tướng để nêu bày.

4. Không cùng với tà kiến tương ưng cũng không cùng với tà phương tiện tương ưng: Là tà phương tiện không tương ưng với tà kiến. Pháp ấy là gì? Nghĩa là trừ tụ tương ưng của tà kiến, các tụ nhiễm ô còn lại, là thể của tà phương tiện trong tụ nhiễm ô kia không tương ưng với tà kiến. Vì sao? Vì trong tụ kia không có tà kiến. Cũng không tương ưng với tà phương tiện, do ba sự nên tự thể không tương ưng với tự thể, cũng như trên đã nói. Còn lại là các tâm tâm số pháp. Nghĩa là tâm thiện, vô ký không ẩn mất, sắc, vô vi, tâm bất tương ưng hành. Tâm thiện, tâm vô ký không ẩn mất vì không phải là nhiễm ô. Sắc, vô vi, tâm bất tương ưng hành, vì không phải là pháp duyên nên đều không tương ưng.

Như tà kiến, tà phương tiện, thì tà niệm, tà định, nói cũng như thế. Tà giác đối với tà phương tiện, thì tà niệm, tà định cũng như vậy.

Các pháp cùng với tà phương tiện tương ưng lại cùng với tà niệm chăng? Cho đến nói rộng làm bốn trường hợp. Hai pháp này trong tất cả địa, tất cả tâm nhiễm ô đều có thể có được. Thế nên tạo ra bốn trường hợp nhỏ:

1. Cùng với tà phương tiện tương ưng không phải là tà niệm: Nghĩa là tà niệm. Thể của tà niệm tương ưng với tà phương tiện, không phải là tà niệm. Vì sao? Vì ba sự việc nên thể không tự tương ưng, như trên đã nói.

2. Cùng với tà niệm tương ưng không phải là tà phương tiện: Là tà phương tiện. Phần còn lại nói như trên.

3. Cũng cùng với tà phương tiện, tà niệm tương ưng: Là trừ thể của tà phương tiện, tà niệm, còn lại là các tâm tâm số pháp nhiễm ô. Chúng là những pháp gì? trừ niệm, còn lại là chín đại địa, tám phiền não đại địa: Thùy, giác, quán, miên, thời gian, tâm, không hổ, không thẹn, nên theo tướng mà nói.

4. Chẳng phải tà phương tiện cũng chẳng phải là tà niệm tương ưng: Là các tâm tâm số pháp còn lại, tức tâm thiện, tâm vô ký không ẩn mất, sắc, vô vi, tâm bất tương hành. Đều nói như trước.

Như tà phương tiện đối với tà niệm, thì đối với tà định cũng như thế. Tà niệm đối với tà định cũng như vậy.

Hỏi: Tám chi tà này, có bao nhiêu thứ ở cõi dục, bao nhiêu thứ ở cõi sắc, vô sắc?

Đáp: Cõi dục có tám. Cõi sắc có tám. Cõi vô sắc có bốn, trừ tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, tà giác.

Hỏi: Có bao nhiêu thứ do kiến đạo đoạn? Bao nhiêu thứ do tu đạo đoạn?

Đáp: Một thứ là do kiến đạo đoạn, là tà kiến. Ba thứ là do tu đạo đoạn, là tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng. Bốn thứ là do kiến đạo, tu đạo đoạn, là tà giác (tà tư duy), tà phương tiện (tà tinh tấn), tà niệm, tà định.

Hỏi: Ở đây vì sao sau cùng nói các chi tà?

Đáp: Vì muốn hiển bày công dụng của pháp thế đệ nhất, nên ở Kiền độ thứ nhất này, biện minh về pháp thiện xuất yếu. Như pháp thế đệ nhất có thể nhập kiến đạo, có thể sinh Thánh đạo. Kiến đạo của Thánh đạo có thể hủy hoại tà kiến. Thế nên, đầu tiên là biện minh về Thánh đạo, sau cùng là nêu rõ về tà đạo:

Thế đệ nhất cùng trí

Phẩm người với ái, kính

Không hổ, sắc, vô nghĩa

Phẩm tư ở sau cùng.

HẾT – QUYỂN 24