LUẬN A TỲ ĐÀM TÂM
Tác giả: Tôn giả Pháp Thắng
Hán dịch: Đại sư Tăng Già Đề Bà và Huệ Viễn Đời Đông Tấn
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản

 

QUYỂN 3

Phẩm 6: TRÍ

Tánh trí tuệ, hiểu rõ

Quán sát tất cả hữu

Có và không Niết-bàn

Tướng ấy nay sẽ nói.

Nghĩa là ở phẩm Hiền Thánh đã nói lược về trí, nay sẽ nói về cảnh giới của trí có, không có:

Ba trí Phật đã nói

Ý bậc nhất hơn hết

Pháp trí-Vị tri trí

Và thế tục đẳng trí.

Ba trí này, gồm thâu tất cả trí. Trong ba trí, Pháp trí gọi là cảnh giới. Cảnh giới của trí vô lậu là khổ, tập, diệt, đạo đối với cõi Dục, là đầu tiên thọ lãnh pháp tướng, nên nói là Pháp trí.

Từ căn của Pháp trí hiện thấy rồi, không phải căn hiện cũng thấy là Vị tri trí, Vị tri trí được gọi là cảnh giới, cảnh giới của trí vô lậu về khổ, tập, diệt, đạo ở cõi Sắc, cõi Vô Sắc. Do về sau, trí này tiếp nhận pháp tướng, nên nói là Vị tri trí (chưa biết). Đẳng trí được gọi là trí hữu lậu. Trí này chủ yếu phần nhiều nhận lấy sự hiểu biết về các đế, nam, nữ, dài, ngắn …

Khổ, Tập, Ngưng dứt, Đạo

Hai trí có thể được

Đây gọi cùng bốn trí

Bậc thầy giải thoát nói.

Hai trí là Pháp trí, Vị tri trí này nếu hành ở đế, thì tương tợ như tên gọi đã nói, tức là cảnh giới khổ đế được nói là Khổ trí, cảnh giới của tập đế gọi là Tập trí, cảnh giới diệt đế gọi là Diệt trí, cảnh giới của đạo đế, nói là Đạo trí và thầy của giải thoát đã nói như vậy.

Nếu trí quán tâm người

Là nói từ trong ba

Tận trí, Vô sinh trí

Cảnh giới ở bốn môn.

Nếu trí quán tâm của người, là nói từ trong ba, nghĩa là Tha tâm trí là cảnh giới hữu lậu, là cảnh giới của đẳng trí. Cõi Dục thì nói là cảnh giới của Pháp trí, cõi Sắc, thì nói là Vị tri trí.

Hai thứ Tận trí, Vô sinh trí, nghĩa là hai trí của bậc Vô học: Tận trí, Vô sinh trí, trong đó, việc phải làm đã làm xong, thọ nhận trí vô học, là Tận trí. Không còn làm nữa, thọ nhận trí vô học, là Vô sinh trí, cũng vừa là Pháp trí và Vị tri trí.

Hỏi: Tận trí, Vô sinh trí là cảnh giới của đế nào?

Đáp: Là cảnh giới ở bốn môn, hai trí này là cảnh giới của bốn đế: khổ, tập, diệt, đạo.

Đã nói mười trí, nay sẽ nói về hành.

Hai trí, mười sáu hành

Pháp trí, Vị tri trí

Hành như vậy, hoặc không

Ấy gọi là đẳng trí.

Hai trí, mười sáu hành, Pháp trí, Vị tri trí, nghĩa là tánh của pháp trí là mười sáu hành, thọ (Sự nhận lãnh) bốn hành, khổ có bốn hành, tập có bốn hành, diệt có bốn hành đạo. Còn Vị tri trí ở cõi Sắc và cõi Vô Sắc cũng vậy.

Hành như vậy, hoặc không, ấy gọi là đẳng trí, nghĩa là hành của đẳng trí được gồm nhiếp trong Noãn, Đảnh, Nhẫn, và pháp Thế đệ nhất. Hành vô lậu, thuộc về hai đế. Trong mười sáu hành, pháp thứ nhất gồm nhiếp bốn hành: Nghe, suy nghĩ và mười sáu hành của tư duy đẳng trí khác, ngoài đẳng trí này, đẳng trí khác không phải là mười sáu hành, nghĩa là thí, giới, từ, so sánh như vậy.

Bốn trí có bốn hành

Hành quyết định đã nói

Chánh quán tha tâm trí

Hoặc phải, hoặc không phải.

Bốn trí có bốn hành, hành quyết định như đã nói. Nghĩa là Khổ trí có bốn hành như trên đã nói. Trí tập, diệt, đạo cũng như vậy.

Chánh quán tha tâm trí, trí này hoặc phải hoặc không phải. Nghĩa là Tha tâm trí vô lậu có bốn hành, như Đạo trí hữu lậu là không phải.

Tận, Vô sinh trí

Lìa hành không, vô ngã

Nói có mười bốn hành

Thọ tướng là hơn hết.

Tận trí, Vô sinh trí, lìa hành không, vô ngã, nghĩa là có mười bốn hành. Mười bốn hành của Tận trí, Vô sinh trí, trừ hành không và hành vô ngã. Vì sao? Vì kia hành các đế ta đã làm, không còn làm nữa. Không, vô ngã là không do hành này.

Thọ tướng là hơn hết, nghĩa là không phải hết thảy trí vô lậu, đều ở mười sáu hành, mười sáu hành là hành chung, lại còn có trí vô lậu thọ nhận mười sáu tướng, như thân, ý dừng lại là trí tự tướng, không ở mười sáu hành, mà là trước đã thọ nhận mười sáu hành.

Vì hành của tự tướng này đã thọ nhận trí vô lậu trước hết, cho nên là hơn.

Đã nói mười sáu hành, nay sẽ nói sở đắc của trí.

Thứ nhất,tâm vô lậu

Hoặc có thành tựu một

Hai, hoặc thành tựu ba

Ở trên tăng ích một.

Thứ nhất tâm vô lậu, hoặc có thành tựu một, nghĩa là tâm vô lậu thứ nhất tương ưng với khổ pháp nhẫn. Chưa ly dục thì thành tựu một đẳng trí, đã lìa dục thì thành tựu Tha tâm trí.

Hai, hoặc thành tựu ba, nghĩa là tâm vô lậu thứ hai tương ưng với khổ pháp trí. Chưa lìa dục thì thành tựu ba: Pháp trí, Khổ trí và đẳng trí. Đã lìa dục thì thành tựu Tha tâm trí.

Ở trên tăng ích một, nghĩa là khi ở bốn địa trên, nói thêm một. Khi ơở bốn địa trên, được khổ Vị tri trí thì được Vị tri trí; Tập pháp trí thìd được Tập trí, Diệt pháp trí thì được Diệt trí, Đạo pháp trí thì được Đạo trí. Trong Nhẫn không được trí. Hỏi: Trí này thuộc về địa nào?

Đáp:

Chín trí Thánh đã nói

Nương dựa ở địa trên

Trong thiền có mười trí

Tám trong địa Vô Sắc.

Chín trí bậc Thánh đã nói, nương vào hai địa trên, nghĩa là thiền vị lai, thiền trung gian không có Tha tâm trí vì thuộc về thiền căn bản.

Trong thiền có mười trí, nghĩa là trong bốn thiền căn bản có mười trí, trong địa Vô Sắc có tám, nghĩa là trong địa Vô Sắc có tám trí, trừ Pháp trí và tha tâm trí. Cảnh giới của Pháp trí là cõi Dục không dùng cảnh giới Vô sắc. Hành của Tha tâm trí ở cõi Dục nương vào Sắc; trong địa Vô sắc, thì không có sắc.

Đã nói địa xong, nay sẽ nói:về tu.

Tu có hai thứ: Đắc tu và Hành tu. Đắc tu là công đức chưa từng được mà được. Được rồi thì các công đức khác sẽ nương tựa, cũng có khi được rồi, thời gian về sau không cầu mong mà vẫn sinh ra. Hành tu là đã từng được công đức, nay hành ở hiện tại.

Hỏi: Các trí này tu thế nào?

Đáp:

Nếu trí do Đắc tu

Tức là các Thánh thấy

Cũng tức tu đương lai

Các nhẫn cũng như vậy.

Nếu trí do Đắc tu, tức là các Thánh thấy,cũng tức là tu ở vị lai: Hiện trong Đạo kiến đế gọi là trí tri hiện tiền cũng chính là tu Pháp trí ở vị lai, cho đến Đạo trí.

Các nhẫn cũng như vậy, nghĩa là nhẫn thì cũng như vậy, cũng tu khổ pháp nhẫn hiện ở trước mặt, Là tu khổ pháp nhẫn ở đương lai, không phải trí, không phải nhẫn nào khác,mà tất cả là như vậy.

Là ở trong ba tâm

Được tu ở Đẳng trí

Hoặc tu bảy, hoặc sáu

Tâm sau cùng đã nói.

Đắc tu trong ba tâm này là đối với đẳng trí, nghĩa là ba tâm trong đạo kiến đế là tu đẳng trí ở đương lai: Khổ Vị tri trí, Tập vị tri trí và Diệt vị tri trí. Lúc thực hành ba đế này là Đẳng trí của Đắc tu. Vì sao? Vì ba đế ấy từng đã quán, không phải Đạo đế. nNghĩa là kiến đạo của địa, chính là Đẳng trí của địa đó và cõi Dục.

Hoặc tu bảy hoặc sáu, tâm sau cùng đã nói, nghĩa là Đạo vị tri trí, lìa dục, tu bảy trí, gọi là thuộc về quả A-na-hàm. Chưa lìa bỏ dục thì tu sáu trí, trừ Tha tâm trí. Trong đó Phi tưởng Phi phi tưởng nói là được quả Sa-môn, là do không tu Đẳng trí.

Mười bảy tâm vô lậu

Ở trên, tư duy đạo

Phải biết tu bảy trí

Lợi ích căn tu sáu.

Mười bảy tâm vô lậu, ở trên tư duy đạo, phải biết tu bảy trí, nghĩa là đạo tư duy đạo trên quả Tu-đà-hoàn, trong khoảng mười bảy tâm tu bảy trí. Đạo này thuộc về thiền vị lai, là do không có tha tâm, trí còn Tận trí, Vô sinh trí là trí Vô học. Vì thế cho nên không có gì ngoài bảy trí cần phải tu. Vì sao? Vì ý vô lậu kia và công đức này là thường chẳng không. Nếu người không tu từng được, đã xả mà không được lại. Khoảng trung gian, lẽ ra là không mà chẳng không vì phải tu.

Tru sáu, lợi ích căn gọi là Tín giải thoát, lợi ích các căn, sẽ đạt được kiến đáo. Căn tăng ích, có chín đạo vô ngại, chín đạo giải thoát, là hết thảy đạo vô ngại, hết thảy đạo giải thoát đều tu sáu trí. Đây nói là chưa lìa dục, là do không có tha tâm trí. Bấy giờ, học đạo mà chẳng học, đoạn phiền não. Hành giả kia, chưa từng được tu công đức, không phải đã từng được, là do không tu đẳng trí.

Lúc được quả Bất hoàn

Xa lìa cả bảy địa

Tư học các thần thông

Giải thoát tu tập tám.

Lúc được quả Bất hoàn, nghĩa là nếu tu tám trí, sẽ được quả Bất hoàn, trong quả đó cốt yếu là được thiền căn bản do tu tha tâm trí, còn các trí khác, như trước đã nói.

Xa lìa cả bảy địa, tức là lúc ba Vô sắc và bốn thiền lìa bỏ dục, tất cả chín đạo giải thoát đều tu tám trí, trong số đó, tất cả đều tu thiền của địa dưới. Tư học các đạo thần thông, đạo giải thoát, tu tập tám. Nghĩa là ba thần thông: Như ý túc, thiên nhãn, thiên nhĩ. Tất cả chín đạo giải thoát đều tu tám trí. Vì sao? Vì gồm nhiếp thiền căn bản.

Trong đạo vô ngại này

Diệt mất hữu bậc nhất

Tám đạo giải thoát kia

Nói là tu tập bảy.

Lúc bảy địa lìa dục, trong tất cả đạo vô ngại thì tu bảy trí, trừ tha tâm trí. Vì sao? Vì đạo vô ngại này tu diệt kiết, tập tha tâm trí chẳng phải diệt kiết. Vì thế nên không tu hữu bậc nhất là Phi tưởng Phi phi tưởng xứ. Khi hành giả kia lìa dục thì, tu bảy trí trong tám đạo giải thoát, trừ đẳng trí. Vì sao? Vì đẳng trí, chuyển biến Phi tưởng Phi phi tưởng xứ chuyển trở lại, chứ chẳng phải lìa bỏ.

Lìa bỏ hữu bậc nhất

Tu sáu đạo vô ngại

Phải biết nương địa trên

Mà tu tập địa dưới.

Lìa bỏ hữu bậc nhất, tu sáu trí trong đạo vô ngại. Nghĩa là lúc đạo

thứ nhất lìa dục trong chín đạo vô ngại thì tu sáu trí, trừ tha tâm trí và đẳng trí. Nên biết nương địa trên tu tập địa dưới, nghĩa là tu tất cả địa này phải biết là tu các trí của địa mình và thuộc về địa dưới, gọi là căn cứ sự lìa dục ở Sơ thiền, tu công đức của hai địa kia, thuộc về địa mình và thiền vị lai, như vậy cho đến Vô sở hữu xứ.

Tất cả lậu, vô lậu

Các địa tu công đức

Trong tâm vô học đầu

Là ý vị tri trí.

Tất cả các địa, lậu, vô lậu, tu công đức, trong tâm vô học lúc ban đầu, nghĩa là chín địa và địa mình, lúc được quả vô trước, cũng đều tu trong tất cả các địa. Vì sao? Vì trái nghịch với phiền não của địa Phi tưởng Phi phi tưởng. Tất cả địa, có phiền não ý, không trong sạch, không có phiền não, ý sáng suốt, thanh tịnh, đó là do sự lìa bỏ phiền não, tu tất cả địa ấy.

Hỏi: Tâm ban đầu của Vô học này tương ưng với trí nào?

Đáp: Ý của vì tri trí ấy là tâm của Vô học ban đầu, tương ưng với vị tri trí Vô học đó, nghĩ rằng: Sanh tử của ta đã hết, là sanh duyên của Phi tưởng Phi phi tưởng xứ. Vì sao? Vì sự tận diệt sau cùng, là do tương ưng với khổ vị tri trí.

Hỏi: Đức Thế Tôn có nói: Kiến, trí, tuệ, ba thứ này là một thứ hay là nhiều thứ?

Đáp: Ba thứ này là sự khác nhau của tuệ, là tánh sở hữu của tuệ, nhưng vì sự nên Đức Thế Tôn đôi khi nói là kiến, hoặc có lúc nói là trí.

Hỏi: Nghĩa này thế nào?

Đáp:

Là quyết định biết được

Các nhẫn phi tánh trí

Tận trí không phải kiến

Vô sinh trí cũng vậy.

Quyết định mà biết được, các nhẫn không phải tánh của trí, nghĩa là vì tu hành tám nhẫn, nên có khả năng mong cầu, vì thấy nên có khả năng quán sát, gọi là tuệ, nhưng không phải trí, không quyết định. Vì sao? Vì tác dụng duyên ngay từ đầu. Trí tận thì không phải kiến, Vô sinh trí cũng vậy, nghĩa là Tận trí, Vô sinh trí vì quán sát, vì do tuệ quyết định nên là trí, chỉ không phải kiến, vì không mong cầu, nên không có làm gì. Ngoài ra, ba tánh của loại tuệ vô lậu vốn có kiến, trí và tuệ.

Tục thiện, trí hữu lậu

Ở ý và các kiến

Nên biết đây là Kiến

Nói tất cả là tuệ.

Thế tục thiện, trí hữu lậu là ở ý và các kiến, phải biết trí này là kiến. Nghĩa là thiện trong địa của ý thức là hữu lậu tuệ ba tánh: Kiến, trí và tuệ, là tánh phiền não của năm kiến, vì kiến này mà có quán sát, nhưng cũng không ngoài trí và tuệ. Chủng loại tuệ hữu lậu khác, không phải tánh kiến vốn có. Vì sao? Vì chủng loại tuệ tương ưng với ý thức vô ký, không phải những tánh kiến vốn có không quán sát. Chủng loại tuệ cấu uế, cũng không phải là tánh kiến vốn có phiền não làm hư hoại, chủng loại tuệ tương ưng với năm thức, cũng không phải là tánh kiến vốn có không quán sát, và cũng không ngoài tánh của trí.

Nói tất cả là tuệ, nghĩa là như trước đã nói lìa như lìa trí trong nhẫn. Tận trí, Vô sinh trí lìa kiến, trừ địa của ý thức thiện và năm kiến rồi, ngoài ra, tuệ hữu lậu và tuệ lìa kiến đều không như vậy. Vì sao? Vì tất cả chủng loại trí, tất cả chủng loại kiến, tức là chủng loại tuệ.

Hỏi: Mỗi trí có bao nhiêu duyên của trí?

Đáp:

Pháp trí, Vị tri trí

Hiểu rõ về chín trí

Nhân trí và quả trí

Là cảnh giới hai trí.

Pháp trí, Vị tri trí hiểu rất rõ về chín trí. Nghĩa là Pháp trí quán chín trí, duyên với chín trí, trừ Vị tri trí. Vì sao? Vì Vị tri trí là không phải quả của cõi Dục, không phải nhân của cõi Dục, không phải diệt của cõi Dục, không phải đạo của cõi Dục. Vị tri trí cũng duyên với chín trí như vậy, trừ pháp trí.

Nhân trí và quả trí là hai cảnh giới của trí: Tập trí là nhân trí, Tha tâm hữu lậu trí và đẳng trí, đồng duyên với tập. Ngoài ra, không duyên với vô lậu, Khổ trí cũng như vậy, đây tức là quả trí.

Đạo trí là chín trí

Giải thoát trí không duyên

Tất cả cảnh giới khác

Trí quyết định đã nói.

Đạo trí là chín trí, nghĩa là chín trí, tức cảnh giới của Đạo trí. Chín trí không duyên với đẳng trí, vì hữu lậu. Ngoài ra đều duyên lấy, vì đồng là đạo đế.

Giải thoát trí không duyên: Giải thoát trí là Diệt trí. Không duyên với trí, mà duyên với vô vi. Ngoài ra, tất cả cảnh giới khác mà trí quyết định đã nói, nghĩa là còn có bốn trí duyên với tất cả mười trí. Đẳng trí duyên với tất cả pháp của cảnh giới mười trí. Tha tâm trí cũng duyên với mười trí, vì hội đủ cảnh giới của tha tâm. Tận trí, Vô sinh trí cũng duyên với tất cả cảnh giới hữu vi của mười trí.

Hỏi: Đức Thế Tôn có nói: Vị tri trí, như lìa Phi tưởng Phi phi tưởng xứ, được quả Vô trước. Vị tri trí là đạo kia, không phải do trí này mà có thể biết. Vị tri trí là đạo kia, không phải cái gì khác chăng?

Đáp: Cũng có pháp trí là đạo của cõi Sắc, cõi Vô Sắc.

Hỏi: Vậy là sao?

Đáp:

Nếu ngừng dứt và đạo

Chỗ hành của pháp trí

Là diệt trừ ba cõi

Không phải dục vị tri (trí).

Nếu ngừng dứt và đạo, chỗ hành của pháp trí thì dứt mất ba cõi, nghĩa là diệt pháp trí và đạo pháp trí đang trong tư duy đạo là diệt kiết của ba cõi. Hoặc có pháp trí, lìa sự ham muốn của cõi Sắc, cõi Vô Sắc, gọi là thấy lại mà chán ghét tức là tư duy diệt và đạo của cõi Dục, lìa bỏ sự ham muốn của cõi Sắc, Vô Sắc, không phải khổ trí, không phải tập trí. Vì sao? Vì không đồng với khổ, tập mà đồng với diệt, đạo.

Hỏi: Từng có Vị tri trí làm diệt mất cõi Dục không?

Đáp: Không phải Vị tri trí của cõi Dục vì không có Vị tri trí có khả năng diệt ở cõi Dục. Vì sao? Vì không có Vị tri trí thấy lại, chán ghét, mà không phải cõi Dục này.

Hỏi: Tánh của trí thần thông vốn có Vị tri trí, cũng phải nói mỗi thần thông có bao nhiêu trí?

Đáp:

Như ý túc, đẳng trí

Thiên nhãn, nhĩ cũng vậy

Sáu trí trong túc mạng

Năm, gọi trí tha tâm.

Như ý túc, đẳng trí, thiên nhãn, nhĩ cũng vậy: nghĩa là như ý túc gọi là đẳng trí, thiên nhãn, thiên nhĩ cũng vậy. Trí vô lậu không do hành này.

Sáu trí trong túc mạng, nghĩa là túc mạng gồm có sáu trí. Pháp trí ghi nhớ phần pháp trí, vị tri trí ghi nhớ phần vị tri trí, đẳng trí ghi nhớ thế tục, khổ trí ghi nhớ khổ quá khứ, tập trí ghi nhớ tập quá khứ, đạo trí ghi nhớ đạo quá khứ.

Năm, là nói tha tâm trí, nghĩa là tha tâm trí chung thành năm trí. Pháp trí biết pháp trí trong tâm người khác và tâm, tâm số pháp tương ưng với pháp trí đó. Vị tri trí chưa biết cũng như thế, đẳng trí biết tâm, tâm số pháp thế tục của người khác. Đạo trí biết tâm, tâm số pháp vô lậu của người khác. Và tha tâm trí là năm.

Chín trí, lậu tận thông

Do bậc Thánh nói ra

Tám cảnh giới ở thân

Pháp mười, chín trí hai.

Chín trí, lậu tận thông, do bậc Thánh nói ra, nghĩa là lậu tận thông thì có chín trí vô lậu, đều trái với tất cả lậu.

Hỏi: Đức Thế Tôn có nói: Ý chỉ quán quán thân thân, với tuệ, ý chỉ này trí nào có?

Đáp: Tám cảnh giới đối với tám trí của thân. Quán sắc thân giả gọi là thân, là đối tượng của tám trí, trừ tha tâm trí và diệt trí. Nếu trí duyên với sắc thì là ý chỉ của thân. Hai trí này không duyên với sắc.

Pháp có mười, nghĩa là ý chỉ của pháp có mười trí, lìa sắc, tâm, còn thọ pháp. Gọi pháp là cảnh giới, có mười trí; cảnh giới tự tướng và tất cả trí, là ý chỉ của pháp. Chín trí có hai, là thọ và tâm, chín trí trừ diệt trí, gọi là trí duyên với thọ là ý chỉ của thọ, trí duyên với tâm là ý chỉ của tâm.

Hỏi: Các Như Lai có Trí lực, sao lực của Như Lai mà thiết lập trí? Và bốn pháp Vô sở úy thuộc tánh trí của Như lai vốn có như đã nói: “Ta, Bậc đẳng chánh giác”

Các pháp này, khi chưa thành Đẳng chánh giác thì không thấy tướng pháp này. Như vậy, hết thảy pháp này cũng cần phải phân biệt, mỗi pháp có bao nhiêu tất cả trí tánh?

Đáp:

Thị xứ, phi xứ lực

Và Vô úy thứ nhất

Đây là mười trí Phật

Ngoài ra, khác mười trí.

Thị xứ, phi xứ lực và vô úy thứ nhất, đấy là mười trí của Phật. Nghĩa là Đức Phật có mười trí, thị xứ, phi xứ lực. Thị xứ trí gọi là sự thọ nhận tướng chân thật, hành chân thật của các pháp. Thọ biết pháp này có tướng như vậy, hành như vậy. đó gọi là trí thị xứ, trí Phi xứ trí là tướng khác, hành khác của các pháp, đều không thể nắm bắt, tức biết không phải là pháp này có tướng như vậy, hành như vậy. Pháp vô úy là đầu tiên trong mười trí của Phật, cũng gọi là mười trí cùng chánh thọ.

Ngoài ra còn có khác biệt trong mười trí, nghĩa là sự khác nhau của Thị xứ, phi xứ, lực có mười lực. Sự khác nhau của pháp Vô úy đầu tiên có bốn pháp Vô úy.Thị xứ, phi xứ trí là sự khác nhau của cảnh giới, nên có mười thứ phân biệt. Vì pháp không sợ hãi ban đầu cũng là sự khác nhau của cảnh giới, nên có bốn thứ phân biệt.

Hỏi: Bốn biện tài cũng là tánh trí vốn có, điều này cũng nên phân biệt, mỗi biện tài cần bao nhiêu trí?

Đáp:

Pháp biện, Từ biện, một

Ứng, Nghĩa nói đều mười

Nguyện trí là bảy trí

Trí hơn hết đã nói.

Pháp biện, Từ biện một: Pháp biện gọi là biết rõ tên gọi, các pháp là đẳng trí, không phải do trí vô lậu. Tiếp nhận tên gọi trong thế tục là giả hiệu, trí vô lậu không dùng hành này. Từ biện gọi là biết rõ nói đúng, việc ấy đều là trí giả trong thế tục. Ứng nghĩa nói đều mười, nghĩa là ứng biện tên gọi quán và hiện trí phương tiện không có trở ngại là mười trí. Nghĩa biện là biết rõ các pháp chân thật. Nó cũng do mười trí mà tiếp nhận tướng chân thật. (Kinh sư nói: Từ, Ứng biệt tài tương ưng một Đẳng trí. Pháp, Nghĩa biện tài tương ưng mưới trí).

Hỏi: Nguyện trí có bao nhiêu trí?

Đáp: Nguyện trí là bảy trí sự hơn hết của trí đã nói. Nguyện trí có bảy trí, trừ Tha tâm trí, Tận trí và Vô sinh trí. Nguyện trí là cảnh giới nhạy bén, nhanh chóng, thọ nhận hết thảy các pháp của ba đời, là tánh của bảy trí vốn có (Kinh sư nói: Một đẳng trí).

 

Phẩm 7: ĐỊNH

Hỏi: Biết các trí như vậy, trí đó phải như thế nào?

Đáp:

Trí nương dựa các định

Hành hạnh không ngăn ngại

Cho nên tư duy định

Mong cầu chỗ chân thật.

Trí dựa vào các định, thực hành hạnh không trở ngại, nghĩa là ví như đèn thì phải dựa vào dầu, tránh chỗ có gió thì ánh sáng đèn sẽ rất sáng. Cũng vậy, trí dựa vào định, ở đó ý lìa bỏ mọi tán loạn, ánh sáng của trí thật sáng suốt, nhất định không có hoài nghi ở hành động đối với cảnh được duyên, đó là do tư duy định, muốn mong cầu sự chân thật của định đó.

Quyết định nói bốn thiền

Cùng với định Vô Sắc

Trong mỗi thiền này nói

Vị tạp, tịnh vô lậu.

Quyết định nói bốn thiền cùng với định Vô Sắc, là có tám định, bốn thiền và bốn định Vô Sắc. Trong định này, mỗi mỗi đều nói vị tạp, tịnh vô lậu, nghĩa là Sơ thiền có ba thứ vị, tương ưng với tịnh vô lậu. Tất cả các môn định đều như vậy.

Hỏi: Thế nào là vị tương ưng? Thế nào là tịnh? Thế nào là vô lậu?

Đáp:

Thiện hữu lậu là tịnh

Không nóng là vô lậu

 Khí vị tương ưng ái

Trên hết không vô lậu.

Thiện hữu lậu là tịnh: Nghĩa là vì thiện là tịnh, nên nói là tịnh. Không nóng bức là nói vô lậu, nghĩa là phiền não giả gọi là nóng, chắc chắn không có phiền não là vô lậu.

Khí vị tương ưng với ái, nghĩa là thiền của định Vô Sắc tương ưng với ái, là do có đầy đủ sự tương ưng chung, thực hành chung, là nói sự tương ưng với vị.

Trên hết không vô lậu, nghĩa là trên hết thì không có vô lậu, ở trong cái trên hết của Phi tưởng phi phi tưởng xứ đó không có vô lậu. Vì hành động không nhanh nhẹn nên có hai thứ. Ngoài ra, đều có ba thứ.

Hỏi: Thiền sở hữu tánh gì?

Đáp:

Năm chi có giác quán

Cũng lại có ba thống (thọ)

Ngần ấy thứ bốn tâm

Gọi đó là Sơ thiền.

Năm chi, nghĩa là năm chi thu nhiếp Sơ thiền, khiến cho vững chắc. Cũng từ ý nghĩa này mà được gọi là giác-quán hỷ-lạc-nhất tâm. Giác là khi đang nhập định, bắt đầu sinh công đức thiện, thì tâm thô bắt đầu tư duy. Quán là khiến cho tâm vi tế nối tiếp liên tục. Hỷ là sự vui vẻ ở trong định. Lạc tức đã vui ở thân còn an ổn, hoan hỷ trong tâm. Nhất tâm là tâm chuyên chú không tán loạn trong các cảnh duyên. Chủng loại này lúc trụ nơi định là chi và khi nhận, khi xả, nên gọi là năm chi.

Sơ thiền có giác, có quán, nghĩa là có giác, có quán tức là Sơ thiền.

Hỏi: Do thọ nhận năm chi, nay giác quán có công dụng gì?

Đáp: Chi có nghĩa là thiện. Còn nói sự uế tạp và vô ký trong năm chi, cũng có giác, có quán mà không phải thiện.

Cũng lại có ba thọ, là Sơ thiền có ba thọ: Lạc căn, Hỷ căn và Hộ căn. Ở trong thọ, Lạc căn là thọ của thân. Hỷ căn là giới của ý; Hộ (xả) căn, ở bốn thức. Ngần ấy thứ cũng là ngần ấy thứ trong Phạm thế, có trên có dưới, nên nói là đầy đủ nơi sinh.

Bốn tâm nghĩa là Sơ thiền thì có bốn tâm: Nhãn thức, nhĩ thức, thân thức và ý thức. Gọi đó là Sơ thiền, nghĩa là tất cả các pháp này được gọi là Sơ thiền.

Đã nói Sơ thiền, nay sẽ nói: thiền thứ hai.

Hai thọ ngần ấy thứ

Nhị thiền có bốn chi

Năm chi là thứ ba

Thiền này gọi hai thọ.

Hai thọ, nghĩa là thiền thứ hai có hai thọ, đó là Hỷ căn và Hộ căn

Ngần ấy thứ, nghĩa là bên trong thân, có ngần ấy thứ, đã lìa giác, quán thì có ngần ấy tâm, có lúc thể nhập Hỷ căn hoặc đôi khi thể nhập Hộ căn Nhưng Hỷ là căn bản, bên cạnh có Hộ căn.

Nhị thiền có bốn chi, nghĩa là thiền thứ hai có bốn chi: Nội tịnh, hỷ, lạc, nhất tâm. Nội tịnh được gọi là tín. Trong sự chia lìa nảy sinh ra tín. Đã được lìa Sơ thiền bèn nghĩ: Tất cả có thể lìa bỏ, các chi còn lại như trước đã nói. Chủng loại này, ở Nhị thiền là chi.

Năm chi là Tam thiền, nghĩa là thiền thứ ba có năm chi: Lạc, Hộ, Niệm, Trí và Nhất tâm. Lạc là lạc căn trong địa ý thức. Hộ là đã vui trong ý thức, mà còn vui không cầu mong gì nữa. (Có thuyết nói: Hộ tuy có nghĩa nhưng không nên nói đó là chi). Niệm là phương tiện hộ trì không bỏ. Trí là không làm cho ưa thích. Nhất tâm tức là định. Những loại này ở trong thiền thứ ba là chi. Thiền này được nói là hai thọ, nghĩa là thiền thứ ba có hai thứ thọ, là Lạc căn và Hộ căn. Lạc căn là căn bản; Hộ căn là bên.

Lìa hơi thở vào, ra

Tứ thiền có bốn chi

Chi này gọi là thiện

Cũng lại phân biệt loại.

Lìa hơi thở ra vào, nghĩa là hít vào là đến, thở ra là đi, là việc không có trong thiền thứ tư. Vì sao? Vì do sức của định, nên các lỗ chân lông khép lại.

Tứ thiền có bốn chi: Không khổ, không vui, Hộ-Tỉnh-Niệm-Nhất tâm. Vĩnh viễn lìa bỏ khổ vui là không khổ, không vui. Ngoài ra như trước đã nói.

Hỏi: Sao thiền là chi tương ưng?

Đáp: Chi này được gọi là thiện, thiện là chi tương ưng với chi thiền, không phải sự cấu uế, cũng không phải vô ký.

Cũng lại phân biệt, loại nghĩa là tùy theo chỗ như đã nói. Phải biết là chỗ khác thì không nên có. Như Sơ thiền có giác, có quán; bốn tâm thì nói ở Sơ thiền này, hết thảy địa khác không có.

Thiền thứ tư đã lìa hơi thở ra vào là việc không có trong thiền thứ ba, nên không nói.

Đã nói bốn thiền; bốn định Vô Sắc, nay sẽ nói: Về vấn đề khác.

Hỏi: Đức Thế Tôn nói: Có căn bản y, nếu chưa lìa dục thì chưa có được căn bản y mà vẫn có công đức vô lậu. Vậy công đức vô lậu này thuộc về địa nào?

Đáp: Thuộc về thiền vị lai.

Hơn nữa, Đức Thế Tôn nói: Có ba định: Có giác, có quán, không có giác và một ít quán không có giác, không có quán.

Trong Sơ thiền là có giác, có quán. Thiền hai là không có giác, không có quán. Còn nói không có giác, một ít quán, thì định thuộc về địa nào?

Đáp: Là thuộc về thiền trung gian.

Về tướng của thiền vị lai, và thiền trung gian, nay sẽ nói:

Tương ưng có giác, quán

Đều ở Vị lai thiền

Quán tương ưng: Trung gian

Người trí sáng đã nói.

Tương ưng có giác, có quán, đều tồn tại trong thiền vị lai, nghĩa là có giác có quán trong thiền vị lai. Thiền trung gian tương ưng với quán, là lời người có trí sáng suốt đã nói. Nghĩa là thiền trung gian chỉ có một ít quán mà không có giác. Do tâm của hành giả dần dần tạm nghỉ ngơi.

Không dựa mà hai thứ

Trừ tương ưng với vị

Thiền trung gian: ba thứ

 Đều là nói một thọ.

Không có chỗ dựa mà có hai thứ, trừ tương ưng với vị, nghĩa là thiền vị lai hoàn toàn là thiện hữu lậu và vô lậu. Hữu lậu là tịnh, vô lậu tức vô lậu.

Thiền trung gian có ba thứ: thiền trung gian có ba thứ là: có vị, tịnh, vô lậu ở trong sinh tử.

Đều là nói một thọ, nghĩa là thiền vị lai và thiền trung gian đều có chung một thọ, vì là hộ căn (xả) chứ không phải là địa căn bản.

Đã nói các định. còn công đức được gồm thâu trong định nay sẽ nói.

Tam-ma-đề có thông

Vô lượng, tu nhất thiết

Trừ nhập và các trí

Giải thoát khởi trong đó.

Tam-ma-đề là ba Tam-ma-đề Không-Vô nguyện-Vô tướng, bị tâm vô lậu ràng buộc.

Có thông là có sáu thông: Như ý túc trí, thiên nhĩ trí, tha tâm thông trí, ức túc mạng trí, sinh tử trí và lậu tận thông trí.

Vô lượng là bốn vô lượng: Từ, bi, hỷ, (hộ) xả. Vì cảnh giới của chúng sinh là vô lượng, nên nói là vô lượng.

Tu nhất thiết, nghĩa là Mười nhất thiết nhập: Đất nhất thiết nhập, nước, lửa, gió, các màu sắc xanh, vàng, đỏ, trắng nhất thiết nhập, vô lượng không xứ nhất thiết nhập, vô lượng thức xứ nhất thiết nhập, vì đầy đủ giải thoát nên tất cả nhập.

Trừ nhập, là tám trừ nhập: Bên trong chưa trừ sự tưởng tượng về sắc, một ít cảnh giới của quán bất tịnh là một. Vô lượng cảnh giới là hai. Trừ bỏ một ít cảnh giới của tưởng về sắclà ba. Vô lượng cảnh giới là bốn. Lại bỏ tưởng về màu sắc xanh, vàng, đỏ, trắng.

Quán trừ nhập: Trừ cảnh giới tịnh, nên nói là trừ nhập. Và các trí, là các trí có mười, như trước đã nói. Giải thoát là tám giải thoát:

Chưa loại bỏ tưởng về sắc, tư duy bất tịnh là một.

Dứt trừ tưởng về sắc, tư duy bất tịnh là hai.

Tư duy tịnh là ba.

Bốn Vô Sắc và định Diệt tận, vì trái với cảnh giới, không hướng theo nên nói là giải thoát. Khởi sự trong đó là các công đức này, có thể được trong chín địa và khởi sự trong chín địa đó (Kinh Sư nói: Nên nói mười địa).

Đã nói về các công đức, thuận theo địa có thể được, nay sẽ nói:

Một tuệ Bi-Hộ-Từ

Cũng đều có năm thông

Nói khắp trong bốn thiền

Trong sáu có hiện trí.

Một tuệ bi-hộ-từ cũng đều có năm thông, nói khắp trong bốn thiền: Một tuệ là Tha tâm trí. Bi-Từ-Hộ (xả) là ba Vô lượng tâm. Và đều có năm thông tất cả công đức trong bốn thiền căn bản, chẳng phải thiền nào khác.

Trong sáu có hiện trí: Hiện trí là Pháp trí. Trong sáu địa có bốn thiền căn bản, thiền vị lai và thiền trung gian.

Trong trừ nhập nói bốn

Trong đó cũng có hỷ

Giải thoát đầu và hai

Công đức sơ-nhị thiền.

Bốn trừ nhập ở trước và Hỷ, v.v… là giải thoát Sơ thiền, Nhị thiền.

Công đức đó trong Sơ thiền, Nhị thiền, không phải thiền nào khác.

Bốn trừ nhập còn lại

Cùng với một giải thoát

Cũng tám, nhất thiết nhập

Phật nói thiền trên hết.

Tịnh giải thoát của bốn trừ nhập sau, tám nhất thiết nhập trước, là công đức trong Tứ thiền, không phải thiền nào khác.

Thoát khác tức tên gọi

Hai, nhất thiết cũng vậy

Diệt tận ở sau cùng

Chín khác nói vô lậu.

Sự giải thoát khác tức là danh từ được gọi là hai tất cả cũng vậy, nghĩa là bốn giải thoát còn lại tự gọi tên mình mà nói và hai, tất cả nhập cũng như vậy.

Vô lượng không xứ, giải thoát vô lượng không xứ, tất cả nhập, thuộc về vô lượng không xứ. Như vậy, cho đến Phi tưởng Phi phi tưởng xứ.

Diệt tận ở sau cùng, nghĩa là định Diệt tận, thuộc về Phi tưởng Phi phi tưởng xứ. Vì sao? Vì chưa lìa sự dục kia cũng nhập.

Chín địa khác gọi là vô lậu, nghĩa là pháp vô lậu khác, thuộc về chín địa, như ba Tam-ma-đề, bảy trí, lậu tận thông là thuộc về chín địa. Vị lai và trung gian đẳng trí bốn thiền ba Vô Sắc là thuộc về mười địa. Đẳng trí này ở Phi tưởng phi phi tưởng xứ cũng có thể có được, vì là số nhất định.

Hỏi: Công đức này có bao nhiêu hữu lậu, vô lậu?

Đáp:

Ba giải thoát, phải biết

Hữu lậu và vô lậu

Trí định đã phân biệt

Cái khác đều hữu lậu.

Ba giải thoát, phải biết là hữu lậu và vô lậu, nghĩa là giải thoát vô lượng không xứ, vô lượng thức xứ, vô sở hữu xứ đều là hữu lậu, vô lậu.

Trí định đã phân biệt: Định như phẩm trong Khế kinh nói, trí vô lậu và các thần thông như phẩm Trí đã nói.

Cái khác đều hữu lậu: Nghĩa là tất cả công đức khác đều hoàn toàn hữu lậu, và như ba pháp thần thông oai nghi, vì sắc, tiếng được tướng, vì vô lượng chúng sinh đều duyên, vì tất cả nhập ý giải hy vọng.

Ba giải thoát cũng giống như vậy, vì Phi tưởng Phi phi tưởng xứ không phải là sự hoạt động nhanh chóng, vì tưởng trí, là sự tắt mất, lìa bỏ giác quán, trừ nhập, cũng là ý giải, hy vọng.

Đã nói tướng thành tựu công đức, nay sẽ nói:

Chưa thể vượt qua dục

Thành tựu vị tương ưng

Vượt dưới, chưa đến trên

Thành tựu các định tịnh.

Chưa có khả năng vượt qua sự ham muốn, thành tựu vị tương ưng. Nghĩa là nếu địa nào chưa lìa bỏ sự ham muốn, thì địa đó, sẽ thành tựu sự vượt qua tương ưng với vị. Dưới là vị chí, trên là thành tựu các thanh tịnh định. Nghĩa là xa rời sự ham muốn của cõi Dục, nếu chưa sinh lên địa trên của Phạm thế, người đó sẽ thành tựu tịnh Sơ thiền và công đức hữu lậu của địa Sơ thiền. Tất cả đều phải biết như vậy.

Phải biết trụ địa trên

Vô lậu thành tựu thiền

Cầu được các công đức

Biết là còn ham muốn.

Trụ địa trên phải biết vô lậu thành tựu thiền, là lìa sự ham muốn của địa dưới, người đó trụ địa trên cũng thành tựu vô lậu của địa dưới. Như kiến đế lìa bỏ sự ham muốn, an trụ địa trên của Phạm thế, thành tựu Sơ thiền vô lậu và địa định của Sơ thiền, đều là các công đức vô lậu, tất cả đều phải biết như vậy.

Công đức thế tục trói buộc, ở chỗ thuận theo thì phát sinh, vô lậu thì tồn tại trong đoạn, vì rời bỏ nơi sinh, xả công đức hữu lậu, không xả vô lậu, mong cầu được các công đức, biết chẳng phải không có trong sự ham muốn.

Đã nói là lìa bỏ sự ham muốn của địa dưới, thì thành tựu công đức của địa trên, phải biết, không phải tất cả mọi công đức thu tóm được là lúc lìa bỏ sự ham muốn. Như trí như ý túc, trí thiên nhãn, trí thiên nhĩ, vì tánh của vô ký mà nên tất cả dục và định diệt tận, ở đây mong cầu được công đức này, không phải đợi đến lúc rời bỏ sự ham muốn của địa dưới, mới có được.

Đã nói thành tựu, nay sẽ nói:Về nhân duyên.

Có hai mươi ba chủng loại, định, pháp tương ưng với vị có tám, tám tịnh, bảy vô lậu.

Hỏi: Những pháp này mỗi thứ như vậy có bao nhiêu nhân?

Đáp:

Diệu vô lậu không nhiễm

Bảy thứ gọi là nhân

Thiền tịnh, vị tương ưng

Nên biết có một nhân.

Vô lậu mầu nhiệm, không nhiễm, bảy thứ được gọi là nhân, nghĩa là Mỗi vô lậu có bảy thứ nhân tự nhiên. Nhân tương ưng với địa mình, là nhân chung. Tứ thiền tương ưng với vị tịnh, phải biết chỉ có một nhân, nghĩa là Sơ Tứ thiền tương ưng với vị. Nhân của Sơ Tứ thiền tương ưng với vị, không phải nhân, không phải nhân thiện, vì không giống nhau, không phải là nhân cấu uế của địa khác, vì trái với hành. Tịnh Sơ thiền là nhân của tịnh Sơ thiền, không phải là nhân cấu uế, vì không giống nhau. Không phải là nhân vô lậu, vì cũng không giống nhau. Không phải là nhân của địa tịnh khác, vì là quả báo của địa mình, vì sự ràng buộc của địa mình, Tất cả như vậy, đều nên biết.

Đã nói về nhân duyên, nay sẽ nói: Về tuần tự duyên.

Hỏi: Mỗi thứ lớp sinh có bao nhiêu thứ?

Đáp:

Thứ lớp thiền vô lậu

Hưng khởi sáu thứ thiền

Bảy, tám, chín, có mười

Khởi thiền, cũng Không định.

Sơ thiền là vô lậu, theo thứ lớp, sinh ra sáu thứ tịnh của địa mình và vô lậu. Như vậy, theo thứ lớp của thiền thứ hai thiền thứ ba, vô lậu, Vô sở hữu xứ thứ lớp phát sinh bảy thứ thiền: Địa của mình hai, địa dưới bốn và địa trên một.

Trình tự của thiền thứ ba vô lậu phát sinh tám: Địa mình hai, địa dưới hai và địa trên có bốn.

Theo thứ lớp của vô lậu vô lượng Thức xứ, sinh ra chín: Địa mình hai, địa dưới bốn và địa trên ba. Thứ lớp của vô lậu khác, sinh ra mười: Địa mình hai, địa dưới bốn và địa trên bốn. Tịnh sáu, có bảy, tám

Chín mười sinh mười một

Các thiền tương ưng vị

Phát sinh hai đến mười.

Tịnh sáu có bảy, tám, chín, mười, phát sinh mười một, nghĩa là theo thứ lớp của tịnh Phi tưởng Phi phi tưởng xứ phát sinh sáu: Địa mình tương ưng với vị và tịnh địa dưới có bốn, vô lậu tịnh Vô sở hữu xứ, vô lượng thức xứ, không phải lìa ham muốn tương ưng với vị. Tất cả đều như vậy, cần phải biết.

Tất cả địa mình đều tương ưng với vị. Các Tứ thiềnơng ưng với vị, đều phát sinh hai cho đến mười thứ, nghĩa là theo thứ lớp của Tứ thiềnơng ưng với vị, phát sinh hai vị tương ưng với địa mình và tịnh, không sinh ra thứ thiền khác, vì mỗi thứ thiền đều trái nhau.

Như vậy, tất cả địa của mình có hai, địa dưới có một tịnh (Kinh Sư nói: Không nên có địa dưới một tịnh) tất cả đều tương ưng với vị, phát sinh lúc chết.

Đã nói duyên thứ lớp, nay sẽ nói: Về duyên duyên.

Hỏi: Mỗi thứ có bao nhiêu thứ duyên?

Đáp:

Thiền tịnh đến vô lậu

Phải duyên tất cả địa

Thiền tương ưng uế nhiễm

Chỉ duyên lấy địa mình.

Thiền tịnh đến vô lậu, phải duyên tất cả địa, nghĩa là tịnh và tất cả địa của Sơ thiền vô lậu, tất cả địa duyên với tất cả các thứ thiền.

Thiền tương ưng với sự cấu uế, vì chỉ duyên với địa mình. Nghĩa là Thiền tương ưng với vị, duyên lấy thiền tịnh tương ưng với vị của địa mình, không phải ái, vô lậu, không có vô lậu duyên, cũng không ưa thích địa của người khác.

Vô Sắc không có sức

Duyên địa hữu lậu dưới

Thiện có địa căn bản

Cấu uế như thiền vị.

Vô Sắc không có sức, duyên với địa hữu lậu dưới, nghĩa là định Vô Sắc không có khả năng duyên với pháp hữu lậu của địa dưới, vì rất vắng lặng.

Hỏi: Tại sao nói là Vô Sắc không có khả năng duyên với pháp hữu lậu của địa dưới?

Đáp: Thiện, có tịnh địa căn bản và Vô Sắc của căn bản vô lậu là sự duyên của địa mình và địa trên, không phải địa dưới duyên lấy sự cấu uế như thiền vị, nghĩa là như Tứ thiền tương ưng với vị, nói Vô Sắc cũng vậy.

Nói thứ khác cõi Sắc

Công đức như Vô lượng v.v…

Là phải duyên cõi Dục

Là lời Thế Tôn nói.

Nói công đức khác của cõi Sắc, như vô lượng đẳng. Tất cả nhập, trừ nhập và giải thoát, chỉ duyên với cõi Dục, duyên với các sắc xanh, v.v… của vô lượng chúng sinh đau khổ. Đấy là cõi Dục. Vì sao? Vì thần thông duyên với hai cõi.

Hỏi: Đức Thế Tôn nói: Thế nào là huân tu thiền?

Đáp: Là huân tu tất cả bốn thiền vô lậu, nghĩa là huân tập hữu lậu là vì sức của vô lậu, thọ nhận quả báo của Tịnh Cư.

Hỏi: Nếu tất cả bốn thiền đều huân tu, thì vì sao, không có quả của Tịnh Cư trong ba thiền dưới?

Đáp:

Nếu huân tu các thiền

Là nương thiền thứ tư

Ái ba địa đã dứt

Quả Tịnh Cư chắc thật.

Nếu được thiền thứ tư, là có khả năng huân tu thiền, thì niệm của thiền thứ tư trước phải huân tu, về sau mới tu thiền khác. Nghĩa là được thiền thứ tư thì lìa sự ham muốn của thiền thứ ba. Vì lý do này, nên ở địa dưới không có quả chắc thật của Tịnh cư.

Có người hỏi: Đức Thế Tôn nói có nguyện trí là thế nào?

Đáp:

Tánh vô trước, bất động

Đã được tất cả định

Đó là do sức định

Năng khởi đảnh Tứ thiền.

Ở trong định, nếu ý của người tu định kia sinh ra công đức, thì Nguyện trí, Vô tránh, và biện tài, đó là các công đức hàng đầu. Nguyện trí, là như điều mình đã mong muốn, mà nhập định, hoặc trong quá khứ, hiện tại, vị lai, hoặc hữu vi, hoặc vô vi, tất cả đều biết.

Vô tránh, là muốn cho ý của người khác không khởi tranh chấp, tức là không khởi biện luận. Mọ pháp nghĩa và vị quyết định, không chướng ngại, không sợ hãi.

Hỏi: Nguyện trí, Vô tránh và Biện tài này, thuộc về địa nào?

Đáp:

Ba địa có Nguyện trí

Vô tránh nương năm địa

Pháp Từ biện nương hai

Hai biện nương vào chín.

Ba địa có Nguyện trí. Nguyện trí thuộc về ba địa: Thiền thứ tư, Sơ thiền và cõi Dục. Nhập Tứ thiền biết Sơ thiền và cõi Dục.

Nói Vô tránh dựa vào năm địa, nghĩa là năm địa có Vô tránh, là bốn Thiền căn bản và cõi Dục. Muốn cho tất cả không tranh chấp.

Pháp Từ biện nương vào hai: Nghĩa là biện luận về pháp, được gọi là duyên với vị, là cõi Dục và trời Phạm thế, không phải địa trên vì lìa giác quán. Từ biện gọi là trí của sự lựa chọn vị. Trí đó, cũng có thể được trong hai địa: Cõi Dục và trời Phạm Thế.

Hai biện tài nương vào chín địa: Nghĩa biện và ứng biện trong chín địa: Bốn thiền, bốn Vô Sắc và cõi Dục.

Đã nói Sơ thiền, phải biết đã nói thiền vị lai và thiền trung gian, vì hai thiền này là quyến thuộc của Sơ thiền.

Hỏi: Làm thế nào được định này?

Đáp:

Dứt dục, cũng lại sinh

Vẫn được ở thiền tịnh

Ô uế thối lại sinh

Vô lậu chỉ dứt dục.

Dứt sự ham muốn, cũng lại sinh, mà vẫn được ở thiền tịnh, nghĩa là tịnh Sơ thiền có hai thời mà được, là lúc lìa cõi dục và mất ở địa trên, sinh lên trời Phạm Thế. Như vậy, tất cả đều phải biết rõ.

Cấu uế vui và sinh, nghĩa là sự cấu uế, tương ưng với vị, có được là lúc thối lui. Nếu thối lui bị ràng buộc của cõi Dục và đời Phạm thiên, bấy giờ mới được. Sơ thiền tương ưng với vị lúc sinh thì mới được, nghĩa là nếu địa trên chết, sinh cõi Dục và trời Phạm thế, bấy giờ mới được, Sơ thiền tương ưng với vị. Tất cả đều phải biết như vậy.

Vô lậu chỉ dứt dục, nghĩa là vô lậu chỉ có được lúc dứt trừ sự ham muốn, mới được gọi là Thánh được lìa sự ham muốn, và lúc ấy mới được Sơ thiền vô lậu. Như vậy, tất cả đều phải biết.

Hỏi: Công đức gì mà có khả năng dứt trừ phiền não?

Đáp:

Vô lậu dứt phiền não

Cũng là định trung gian

Tất cả định trung gian

Đều tương ưng xả căn.

Vô lậu trừ phiền não: Nghĩa là tám địa của Sơ thiền vô lậu sẽ dứt trừ phiền não. Như vậy, tất cả đều phải biết.

Cũng lại là định trung gian. Định trung gian còn gọi là sự dứt trừ ham muốn của địa dưới. Vì dùng đạo phương tiện, nên chung quy không được căn bản, đến nỗi chưa lìa bỏ được sự ham muốn. Ngoài ra, không có khả năng dứt trừ.

Trung gian của tất cả định đều tương ưng với Hộ căn. Nghĩa là tất cả định trung gian tương ưng với Hộ căn, rốt cuộc không được hỷ cho đến không được nghĩa.

Hỏi: Có bao nhiêu tâm biến hóa? Nghĩa là có như ý túc, có khả năng biến hóa?

Đáp: Có tám: Quả của bốn thiền Cõi Dục và quả của bốn thiền của địa Sơ thiền.

Hỏi: Địa nào thành tựu tâm biến hóa đó?

Đáp:

Ý, biến hóa địa dưới

Thành tựu quả loại kia

Nếu hợp ba thứ tâm

Địa trên cần phải nói.

Ý biến hóa của địa dưới, thành tựu quả của thiền kia, nghĩa là nếu thành tựu thiền là thành tựu quả của thiền đó, là tâm biến hóa của địa dưới.

Hỏi: Nói Sơ thiền có bốn tâm, trụ ở địa trên, muốn nghe, muốn thấy. Địa đó làm sao thấy, nghe?

Đáp: Thức của địa Phạm thế hiện ở trước mặt.

Hỏi: Tâm của địa kia được thành tựu vào lúc nào?

Đáp: Nếu hòa hợp ba thứ tâm, thì địa trên phải nên nói: Nếu vào lúc, mà thức của địa Phạm thế kia, hiện ra ở trước mặt, hoặc là nhãn thức, hoặc là nhĩ thức, nếu là thân thức, bấy giờ sẽ thành tựu thức của địa đó. Nếu thức của địa Phạm thế kia, không hiện ở trước mặt, tức là diệt mất, thì bấy giờ sẽ không thành tựu.

Pages: 1 2 3 4