LUẬN A TỲ ĐÀM CAM LỘ VỊ
Tác giả: Tôn giả Cù Sa
Hán dịch: Tam Tạng Đời Tào Ngụy, mất tên người dịch
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản

 

QUYỂN THƯỢNG

Phẩm 1: BỐ THÍ TRÌ GIỚI

Hỏi: Thế nào là bố thí?

Đáp: Tự đem của cải, vật dụng để cho, vì ba thứ, đó là vì mình, vì người, vì cả hai. Cúng dường chùa, tháp, Phật, Bích-chi-Phật và A-lahán, đó là vì mình; Thí cho chúng sinh là vì người, bố thí cho người là vì cả hai. Ý nghĩ, ruộng vườn, tài vật tốt đẹp, được quả báo tốt đẹp.

Hỏi: Thế nào là ý nghĩ tốt đẹp?

Đáp: Cúng dường với đức tin thanh tịnh.

Hỏi: Thế nào là ruộng tốt đẹp?

Đáp: Có ba thứ ruộng:

  1. Người có đức lớn.
  2. Người nghèo khổ.
  3. Người có đức lớn mà nghèo khổ.

Hỏi: Thế nào là đức lớn?

Đáp: Là Phật, Bồ-tát, Bích-chi-Phật, A-la-hán, A-na-hàm, Tư-đàhàm và Tu-đà-hoàn.

Hỏi: Thế nào là nghèo khổ?

Đáp: Là súc sinh, kẻ già bệnh, đui, điếc, câm, ngọng, các thứ nghèo khổ như thế.

Hỏi: Thế nào là có đức lớn mà nghèo khổ? Là Phật, Bồ-tát, Bíchchi-Phật, A-la-hán, A-na-hàm, Tư-đà-hàm, Tu-đà-hàm, người già bịnh, đui điếc câm ngọng nghèo khổ. Đối với người là ruộng phước đức lớn, nếu tâm cung kính thì được phước báo to lớn. Đối với ruộng nghèo khổ, tâm thương xót thì được báo to lớn. Đối với ruộng phước đức lớn và nghèo khổ nếu tâm cung kính thương xót thì được báo to lớn. Đấy là ruộng phước tốt đẹp.

Hỏi: Thế nào là vật tốt đẹp?

Đáp: Là không giết hại người khác, không trộm cắp, không cướp đoạt, không trói buộc, không đánh đập, không khinh thường, không lừa dối, đem vật trong sạch tùy theo nhiều ít bố thí đúng lúc, đấy là vật dụng tốt đẹp.

Hỏi: Tin là sao?

Đáp: Biết quả đời sau, nếu Niết-bàn thì nhất tâm không lay động.

Đấy là niềm tin trong sạch.

Hỏi: Thế nào là tự bỏ sự tham lam, keo kiệt?

Đáp: Cung kính người, đó là cúng dường thanh tịnh.

Hỏi: Thế nào là đón rước, lễ bái?

Đáp: Tự tay thí cho v.v…, đó gọi là cúng dường.

Hỏi: Ruộng khác là sao?

Đáp: Các công đức làm việc thiện, giữ giới, thiền định, trí tuệ, giải thoát, được quả, v.v…, nếu làm những việc đó, đó là ruộng khác. Cứu giúp những nhân duyên tai ách khác thì được không khổ, phát tâm cung cấp, sẽ được quả báo mầu nhiệm. Bố thí cho Phật, thì tất cả đều được phước. Bố thí chúng tăng nếu tăng thọ dụng, sẽ được tất cả phước, nếu chưa thọ dụng sẽ không được tất cả phước. Vì cúng dường pháp nên được báo lớn. Nếu người học thông minh, trí tuệ rộng lớn, vì pháp mà cúng dường thì đó là cúng dường pháp. Bố thí sẽ được giàu có, người nhận lãnh của bố thí rồi thì được các công đức, như niềm vui, sức khỏe, sống lâu v.v… dứt trừ kiết sử được quả báo lớn. Nếu thí cho súc sinh thì sẽ được thọ báo trăm đời. Nếu cho kẻ bất thiện sẽ mắc quả báo ngàn đời, nếu cho người thiện sẽ được thọ quả báo ngàn vạn đời. Nếu cho phàm phu lìa dục sẽ được thọ báo trong ngàn muôn ức đời. Nếu bố thí cho người đắc đạo sẽ thọ báo vô số đời. Nếu cúng dường Phật thì sẽ được thọ báo cho đến đắc quả Niết-bàn.

Bố thí có sáu nạn:

  1. Bố thí với tâm kiêu mạn.
  2. Bố thí vì cầu danh.
  3. Bố thí vì thế lực.
  4. Bố thí vì ép buộc.
  5. Bố thí vì nhân duyên.
  6. Bố thí mong cầu được báo.

Đấy là sáu nạn của việc bố thí.

Hỏi: Thế nào là giữ giới?

Đáp: Có hai thứ luật nghi: Luật nghi bất thiện và luật nghi thiện.

Hỏi: Thế nào là luật nghi bất thiện?

Đáp: Đó là sát sinh, trộm cắp, dâm dục. Đấy là ba luật nghi ác của thân. Nói hai lưỡi, nói hung dữ, nói dối, nói thêu dệt là bốn thứ luật nghi ác của miệng. Tham lam, giận dữ, ác tà là ba thứ luật ác của ý.

Hỏi: Thế nào là sát sinh?

Đáp: Có sự sống của kẻ khác, biết là sự sống mà cố tình cướp đoạt mạng sống, như vậy là sát sinh. Có vật thọ dụng của người khác, biết là vật thọ dụng của người khác mà vẫn cố tâm trộm lấy, cướp đoạt, như vậy là ăn trộm. Có phụ nữ là sở hữu của người khác, biết của người khác mà muốn hành dâm với họ, hoặc đúng là đạo, hoặc không đúng là đạo. Tự có vợ mà quan hệ không đúng đạo, như vậy là dâm dục. Nếu biết mà nói không biết, không biết nói là biết, nếu nghi nói không nghi, không nghi nói nghi, như vậy là nói dối. Nếu có thật ý muốn chia cách mà nói khác đi là nói hai lưỡi. Vì tâm nhiễm ô đối với người khác nói lời không nhã nhặn, đáng yêu là nói lời hung dữ. Nói lời vô nghĩa không phải lúc là nói lời thêu dệt, đối với của cải người khác mà cho là của mình, như thế là tham lam.

Thấy người kia vui mừng, ta muốn cho họ đau đớn, khổ sở đó là tức giận. Tà ác có hai thứ: Vật có thật nói là không có, đấy là thấy nghe điên đảo.

Thế nào là vật có thật mà nói không có, không có tội, không có phước báo, không có đời nay, đời sau, không có cha, mẹ, không có Phật, Bích-chi-Phật, A-la-hán, người đắc đạo khác, v.v… như vậy việc thật mà nói là không.

Điên đảo là sao? Thấy, nghe việc tốt xấu cho là trời làm, không phải là do quả báo. Như vậy là tà ác. Đó là ba thứ nghiệp bất thiện. Ăn năn, chừa bỏ ba nghiệp này, gọi là ba thứ nghiệp thiện. Thường lánh xa ba hạnh ác thực hành ba hạnh thiện, đó là giữ giới vững chắc. Bố thí, giữ giới, thiền định, tư duy chắc chắn sẽ được ba quả báo tốt đẹp: đó là của cải giàu có, được sinh lên cõi trời, được giải thoát. Những thứ ruộng phước thế gian: Như cha mẹ, người già bệnh, người thiện, phàm phu lìa dục, bảy hạng người hữu lậu, bốn đạo hướng, bốn đạo quả, người nhập, xuất định Diệt tận, Bích-chi-Phật, Bồ-tát, Phật, Tỳ-kheo, tăng, người qua lại, người đói khát.

 

Phẩm 2: GIỚI ĐẠO

Ba cõi: Là cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô Sắc. Trong ba cõi này có năm thứ đạo: Địa ngục, Súc sinh, Quỷ thần, Người, Trời và đạo trung ấm.

Thế nào là đạo địa ngục? Địa ngục lớn có tám thứ:

  1. Tăng thời phi.
  2. Hắc thằng.
  3. Hợp hội.
  4. Lỗ lạp.
  5. Ma-ha-lỗ-lạp.
  6. Ban-na.
  7. Ba-đa-ban.
  8. A-tỳ.

Mỗi địa ngục lớn đều có mười sáu địa ngục quyến thuộc.

Thế nào là đường súc sinh? Là các loài không có chân, hai chân, bốn chân, nhiều chân, hoặc đi dưới nước, đi trên đất liền, bay trong hư không.

Thế nào là đường quỷ thần? Quỷ thần có các thứ thân.

Hành bất thiện của cõi Dục có ba thứ: thượng, trung, hạ. Địa ngục thuộc báo thượng, súc sinh là báo trung, ngạ quỷ là báo hạ.

Thế nào là đường người? Có bốn thứ người:

  1. Người ở phía Đông Phất-vu-đãi.
  2. Người ở phía Tây Cù-da-ni.
  3. Người ở phía Nam Diêm-phù-đề.
  4. Người ở phía Bắc Uất-đơn-viết.

Cõi Dục do bốn thứ báo của hạnh thiện sinh ra Thế nào là đường trời? Cõi Dục có sáu tầng trời:

  1. Trời Tứ Thiên vương.
  2. Trời Đao-lợi.
  3. Trời Diêm.
  4. Trời Đâu-thuật.
  5. Trời Ni-ma-la.
  6. Tời Tha hóa tự tại.

Trong cõi Dục có sáu thứ báo thiện sinh ra.

Mười bảy xứ của cõi Sắc là: Phạm-phú-lâu, Phạm-ca-di, Ma phạm, Thiểu quang, Vô lượng quang, Quang diệu, Thiểu tịnh, Vô lượng tịnh, Biến tịnh, Quả thật, Đắc đức, Đại quả, Bất phiền, Bất não, Thiện quán, Khoái kiến, A-ca-nị-trá. Bốn thiền có ba thứ báo thượng, trung, hạ. Mười hai xứ sinh báo lẫn lộn hữu lậu, vô lậu của bốn thiền. Bậc Thánh của năm Tịnh Cư sinh ở ba xứ. Bậc Thánh, phàm phu sinh chung ở chỗ Đại quả, phàm phu được định Vô tưởng, sinh ở trời Vô tưởng.

Không xứ, Thức xứ, Bất dụng xứ, Hữu tưởng Vô tưởng xứ ở cõi Vô Sắc, được định Vô Sắc là theo thứ lớp sinh ở xứ Vô Sắc. Tùy theo sức của định nên được xứ sinh, đấy là đường trời.

Vì muốn thọ hưởng, muốn sử dụng, muốn chứa giữ, do nhân duyên này nên nói là cõi Dục. Không có dục, có sắc, do nhân duyên này nên gọi là cõi Sắc. Cõi Vô Sắc có bốn ấm, do nhân duyên này nên nói là cõi Vô Sắc.

Năm mươi năm trong cõi người bằng một ngày, một đêm ở cõi trời Tứ Vương Thiên. Ba mươi ngày như vậy là một tháng, mười hai tháng là một năm, tuổi thọ của Tứ Thiên Vương trên trời là năm trăm tuổi, tương đương chín vạn tuổi trong loài người. Đây cũng chính là một ngày một đêm trong địa ngục Tăng thời phi. Ba mươi ngày như vậy là một tháng, mười hai tháng là một năm, địa ngục Tăng thời Phi sống lâu năm trăm tuổi.

Lại nữa, một trăm tuổi trong cõi người là một ngày một đêm ở cõi trời Đao-lợi. Như vậy ba mươi ngày là một tháng, mười hai tháng là một năm, trời Đao-lợi sống lâu một ngàn năm trên cõi trời, bằng ba ức sáu vạn năm trong cõi người, cũng là một ngày một đêm trong địa ngục Hắc thằng. Như vậy, ba mươi ngày là một tháng, mười hai tháng là một năm, địa ngục Hắc Thằng sống lâu một ngàn tuổi.

Lại nữa, hai trăm năm trong cõi người là một ngày một đêm ở cõi trời Diêm. Như vậy ba mươi ngày là một tháng, mười hai tháng là một năm, tuổi thọ của trời Diêm là hai ngàn năm, tương đương với số mười bốn ức bốn vạn năm ở nhân gian, cũng là một ngày một đêm trong địa ngục Hợp Hội. Như vậy ba mươi ngày là một tháng, mười hai tháng là một năm, địa ngục Hợp Hội sống lâu đến hai ngàn tuổi.

Lại nữa, bốn trăm năm trong cõi người là một ngày một đêm trên cõi trời Đâu-thuật, ba mươi ngày như vậy, là một tháng, mười hai tháng là một năm trên trời Đâu thuật sống lâu đến bốn ngàn năm, tương đương với số năm mươi bảy ức sáu vạn năm ở nhân gian, cũng là một ngày một đêm trong địa ngục Lỗ-lạp. Ba mươi ngày như vậy, là một tháng, mười hai tháng là một năm, địa ngục Lỗ-lạp sống lâu đến bốn ngàn tuổi.

Lại nữa, tám trăm năm ở nhân gian là một ngày một đêm ở trời Hóa Ứng Thanh. Ba mươi ngày như vậy là một tháng, mười hai tháng là một năm, trên trời Hóa ứng thanh sống lâu tám ngàn năm, tương đương với số hai trăm ba mươi ức bốn vạn năm ở nhân gian, cũng là một ngày một đêm trong địa ngục Ma-ha-lỗ-lạp. Như vậy, ba mươi ngày là một tháng, mười hai tháng là một năm, tại địa ngục Ma-ha-lỗ-lạp sống lâu tám ngàn năm.

Lại nữa, một ngàn sáu trăm năm ở cõi người là một ngày một đêm ở tầng trời Tha hóa tự tại. Ba mươi ngày như vậy là một tháng, mười hai tháng là một năm, trên tầng trời Tha hóa tự tại sống lâu một vạn sáu ngàn tuổi, tương đương với số chín trăm hai mươi mốt ức sáu vạn năm ở nhân gian, cũng chính la một ngày một đêm trong địa ngục Ban-na. Ba mươi ngày như vậy, là một tháng, mười hai tháng là một năm, trong địa ngục Ban-na sống lâu một vạn sáu ngàn năm.

Địa ngục Tăng khát sống lâu nửa kiếp, địa ngục A-tỳ sống lâu một kiếp. Tuổi thọ trong súc sinh có loài chỉ trong khoảng thời gian búng ngón tay, nửa ngày, một ngày, một tháng, một năm, mười năm, một trăm ngàn vạn ức năm, cho đến một kiếp. Trong loài ngạ quỷ tuổi thọ cho đến bảy vạn năm, tuổi thọ của người Nam Diêm-phù-đề thuộc loài người hoặc vô số năm, hoặc đến mười tuổi. Thời đại ngày nay, con người sống lâu trên dưới một trăm tuổi. Người Tây Cù-da-ni sống lâu hai trăm năm mươi tuổi. Người Đông Phất-vu-đãi sống lâu năm trăm tuổi. Người Bắc Uất-đơn-việt sống lâu một ngàn tuổi, không thêm bớt. Chúng sinh ở xứ khác tuổi thọ có tăng giảm. Đấy là tuổi thọ của chúng sinh trong cõi Dục.

Tuổi thọ ở cõi Sắc như thế nào? Trời Phạm ca di sống lâu nửa kiếp. Trời Phạm-phú-la thọ một kiếp, trời Ma-ha-phạm sống lâu một kiếp rưỡi. Đấy là tuổi thọ của Sơ thiền. Trời Thiểu Quang thọ hai kiếp. Trời Vô Lượng Quang thọ bốn kiếp. Trời Quang Diệu thọ tám kiếp. Đấy là số tuổi thọ của Nhị thiền. Trời Ước tịnh thọ mười sáu kiếp. Trời Vô Lượng Tịnh thọ ba mươi hai kiếp. Trời Biến Tịnh thọ sáu mươi bốn kiếp, đấy là số tuổi thọ của Tam thiền. Trời Quả Thật thọ hưởng một trăm hai mươi lăm kiếp. Trời Đắc Đức thọ hai trăm năm mươi kiếp. Trời Đại Quả thọ năm trăm kiếp. Trời Vô Phiền thọ một ngàn kiếp. Trời Vô Não sống lâu hai ngàn kiếp. Trời Thiện Quán thọ bốn ngàn kiếp, trời Khoái Kiến thọ tám ngàn kiếp. Trời A-ca-nị-trá thọ một vạn sáu ngàn kiếp. Đấy là số tuổi thọ của Tứ thiền.

Cõi Không xứ thọ hai vạn kiếp. Cõi Thức xứ thọ một vạn kiếp. Cõi Bất Dụng xứ thọ sáu vạn kiếp. Cõi Hữu tưởng Vô tưởng thọ tám vạn kiếp. Đấy là tuổi thọ của cõi Vô Sắc.

Số tuổi thọ của chúng sinh trong ba cõi là như vậy.

Phẩm 3: TRỤ THỰC SINH

Có bốn thức trụ. Thế nào là bốn? Sắc, thống (thọ), tưởng, hành. trong cõi Dục, cõi Sắc, thức thường duyên với sắc mà trụ. Thức của Không xứ, Thức xứ thường duyên với thống (thọ) mà trụ. Thức của Bất dụng xứ thường duyên với tưởng mà trụ. Thức của Hữu tưởng Vô tưởng xứ thường duyên với hành mà trụ.

Có bốn thứ ăn khiến mạng căn của hữu tình được thêm lớn.

Bốn cách ăn (thực) là:

  1. Đoàn thực.
  2. Lạc thực.
  3. Ý tư thực.
  4. Thức thực

Đoàn thực thuộc về ba nhập là hương, vị, tế hoạt (xúc). Vì sao không thuộc về sắc nhập? Đoàn thực là thức ăn mắt thấy được. Mạng căn của hữu tình có lớn mà không tăng thêm. Đoàn thực có hai thứ là có thô và có tế. Thế nào là thức ăn thô? Cơm, bánh, tất cả như vậy! Thế nào là thức ăn tế? Thức uống, những thứ hương thoa mình.

Thế nào là Lạc thực (Xúc thực)? Mắt cánh lạc (xúc), tai mũi lưỡi thân cùng tiếp xúc. Ý hữu lậu tiếp xúc, có thể nối tiếp đến đời sau không dứt. Lạc thực phần nhiều là ở chim đẻ trứng, ngỗng, nhạn, tất cả như vậy.

Ý tư thực phần nhiều là trùng, cá đẻ trứng trong nước, tất cả như vậy. Thức thực phần nhiều là ở cõi Hữu tưởng, Vô tưởng và chúng sinh trung ấm.

Đoàn thực phần nhiều ở cõi Dục, ba cách ăn còn lại phần nhiều là ở cõi Sắc, Vô Sắc.

Đoàn thực là thô bậc nhất, lạc thực là tế, ý tư thực là tế kế tiếp, thức thực là tế nhất.

Bốn thứ sinh: Thai sinh, noãn sinh, thấp sinh, và hóa sinh. Thân trung ấm, cõi trời, địa ngục, tất cả đều hóa sinh.

Quỷ thần có hai thứ sinh: Thai sinh và hóa sinh.

Chúng sinh khác có bốn thứ sinh. Chúng sinh ở trong hóa sinh cùng lúc được sáu căn. Các thứ sinh kia trước nhất được thân căn, mạng căn. Các căn khác theo thứ lớp được thành.

Bốn hữu: Sinh hữu, tử hữu, bổn hữu và trung hữu. Giữa sự sống chết là năm ấm vi tế, đó là Trung hữu.

Trung hữu và sinh hữu ví như in ra chữ, như cha con giống nhau.

Trừ cõi Vô Sắc, tất cả cõi khác đều thọ thân trung ấm. Qua đời ở cõi Vô Sắc, sinh cõi Dục, Sắc và thọ thân trung ấm. Ví như Trung A-na-hàm có trung ấm. Trung hữu, sinh hữu của đời khác cũng như vậy.

 

Phẩm 4: NGHIỆP

Trong tâm tạp duyên tạp cấu khởi hạnh tạp. Trong hạnh tạp thọ nhận báo tạp.

Thế nào là hạnh tạp? Có ba thứ hành: Hành của thân, hành của miệng và hành của ý. Lại có hành thiện, hành bất thiện và hành vô ký. Hành học, hành vô học và hành phi học phi vô học, hạnh kiến đế dứt trừ, hành tư duy dứt trừ và hạnh không dứt trừ.

Quả báo cũng có nhiều thứ như báo hiện đời, sinh báo, hậu báo, lạc báo, khổ báo, bất lạc bất khổ báo, báo đen, báo trắng, báo tạp.

Hành không báo, không trắng không đen. Lúc hành hết, thì hẳn có quả báo, không hẳn thọ quả báo.

Thế nào là hành của thân? Hành của thân là thân cử động, tác động làm việc.

Thế nào là hành của miệng? Miệng lay động, nói ra.

Thế nào là hành của ý? Là ý hoạt động suy nghĩ.

Thế nào là hành thiện? Thân thiện tạo ra khẩu thiện, tạo ra ý nghĩ thiện.

Thế nào là hành bất thiện? Thân bất thiện tạo ra khẩu bất thiện và ý bất thiện.

Thế nào là hành vô ký? Thân vô ký tạo ra khẩu vô ký, nghĩ ra ý vô ký.

Thế nào là hành hữu học? Thân học vô giáo, khẩu học vô giáo, ý học nghĩ ra.

Thế nào là hành Vô học? Thân vô học vô giáo, khẩu vô học vô giáo, ý vô học nghĩ ra.

Thế nào là hành phi học phi vô học? Thân hữu lậu hành động, khẩu hành động, ý nghĩ ra.

Thế nào là hạnh do kiến đế dứt trừ? Kiên tín, Kiên pháp, kiến nhẫn dứt trừ tám mươi tám kiết, tương ưng với tư.

Thế nào là hành do tư duy dứt trừ? Đó là tín giải thoát, kiến đáo, tư duy dứt trừ mười sử tương ưng với tư. Và hành của thân nhiễm ô, hành của miệng, hành hữu lậu thiện, hành vô ký.

Thế nào là hành không dứt trừ? Đó là các hành vô lậu.

Thế nào là báo hiện đời? Nếu tạo hạnh thiện, ác thì ngay trong đời này sẽ được báo, chứ không phải đến đời sau mới được.

Thế nào là sinh báo? Tùy theo sau khi hành thiện ác, ngay đời thứ nhất là được báo, chẳng phải đến đời khác.

Thế nào là hậu báo? Tùy theo sau khi làm điều thiện, ác, thì đời thứ hai được báo, hoặc đời thứ ba, thứ tư hoặc hơn nữa mới được báo.

Thế nào là lạc báo? Làm việc thiện ở cõi Dục, cõi Sắc cho đến thực hành điều thiện của ba thiền là thọ lạc báo.

Thế nào là khổ báo? Làm điều bất thiện sẽ thọ báo khổ.

Thế nào là bất khổ bất lạc báo? Hành hữu lậu thiện của đệ Tứ thiền và hành hữu lậu thiện của cõi Vô Sắc.

Thế là báo hắc hắc? Đó là hành bất thiện tạo ra báo hắc hắc.

Thế nào là báo bạch bạch? Hành hữu lậu thiện được báo bạch bạch.

Thế nào là tạp báo? Hành thiện ác lẫn lộn của cõi Dục sẽ thọ báo lẫn lộn.

Thế nào là hạnh vô báo không hắc, không bạch? Khi hành hết thì lậu ba cõi hết. Tư duy vô lậu thuộc về đạo vô ngại

Thế nào là hạnh phải thọ báo? Hành năm nghịch tất phải chịu báo ác. Báo hiện đời, sinh báo, hậu báo và tàn dư của báo có duyên, có người, thì phải thọ báo. Không duyên, không người thì không hẳn phải thọ báo. Vì tất cả đều là hành hữu lậu, nên tạo nghiệp thành thục sẽ mắc quả báo. Nếu không cố ý tạo nghiệp không thành thục thì không mắc quả báo.

Ba thứ hành: Thân nghiệp có giáo vô giáo (vô biểu), khẩu nghiệp có giáo, vô giáo, ý nghiệp có giáo.

Thế nào là hành có giáo? Hoặc là thân, miệng, ý tạo ra.

Thế nào là hành vô giáo? Lúc thân, miệng tạo nghiệp xong, ý sinh khởi tâm khác, thường còn không mất sắc vô giáo. Trong tâm thiện bất thiện sinh, tâm vô ký, không sinh sắc vô giáo. Vì sao? Vì sức của tâm vô ký yếu kém. Vô ký có hai thứ: Có ẩn mất và không ẩn mất. Bị kiết sử che lấp là ẩn mất. Không bị che lấp là không ẩn mất.

Thế nào là pháp vô ký ẩn mất? Là thân tà (thân kiến), biên tà (biên kiến) trong cõi Dục. Và pháp vô minh cộng hữu tương ưng với chúng.

Tất cả kiết sử của cõi Sắc, Vô Sắc và hạnh thân, khẩu của cõi Sắc, đấy là pháp vô ký ẩn mất.

Thế nào là pháp vô ký không ẩn mất? Đi, đứng, nằm, ngồi, pháp báo của kỹ xảo, tâm biến hóa và hư không, đều không phải là trí duyên tận. Đấy là pháp vô ký không ẩn mất.

Ba thứ vô giáo là:

  1. Vô lậu.
  2. Định cộng.
  3. Luật nghi giới.

Thế nào là vô lậu giới? Là chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng.

Thế nào là định cộng giới? Đắc thiền, lìa pháp dục ác.

Thế nào là luật nghi giới? Lúc thọ giới, được hạnh thân, miệng thiện hữu lậu.

Thế nào là được ba thứ luật nghi? Tất cả thành tựu được đạo luật nghi vô lậu. Tất cả thành tựu được luật nghi thiền định cộng. Người cõi Dục thọ lãnh giới nên thành tựu giới luật nghi. Người thọ giới luật nghi lúc đầu có giáo tác nên thành tựu vô giáo. Nếu đều không mất thì thành tựu quá khứ. Người đắc thiền thì thành tựu tất cả quá khứ, vị lai, đều thuộc luật nghi định cộng. Nếu nhập định quá khứ, vị lai, hiện tại thành tựu thì luật nghi vô lậu ở vị lai, tất cả đều thành tựu. Nếu nhập đạo hiện ở trước thì thành tựu, nếu đều không mất thì thành tựu người luật nghi quá khứ. Nếu tạo ác bất thiện nặng thì sẽ thành tựu giáo, vô giáo bất thiện. Nếu không tạo điều ác nặng thì thành tựu giáo, vô giáo bất thiện. Nếu ác không nặng thì thành tựu giáo bất thiện, không có vô giáo. Nếu tâm ác diệt thì không thành tựu giáo, vô giáo. Người không có luật nghi, hiện tại thành tựu vô giáo bất thiện. Nếu đều không mất thì thành tựu vô giáo bất thiện quá khứ. Nếu làm điều thiện quan trọng thì thành tựu giáo, vô giáo thiện. Nếu không làm điều thiện quan trọng thì sẽ thành tựu giáo thiện, vô giáo. Nếu không có thiện quan trọng thì thành tựu thiệu giáo, không có vô giáo, nếu tâm thiện diệt thì không thành tựu giáo, vô giáo. Nếu người trung gian hoặc làm việc thiện quan trọng, hoặc bất thiện cũng sẽ thành tựu giáo, vô giáo thiện, bất thiện. Nếu làm việc thiện, bất thiện không quan trọng thì sẽ thành tựu giáo, không có vô giáo. Nếu tâm thiện, bất thiện diệt thì không thành tựu giáo, vô giáo. Nếu được tâm thiện cõi Sắc, thì thành tựu luật nghi thiền. Nếu tâm thối lui, thì không thành tựu luật nghi thiền. Tất cả luật nghi trong tâm thiện của cõi tất cả Sắc đều tương ưng với tâm, trừ tâm của nhãn, tâm của nhĩ, thân tâm của văn tuệ, tâm lúc chết. Sức của tâm vô lậu nơi sáu địa thành tựu luật nghi vô lậu.

Thế nào là sáu địa? Nghĩa là địa thiền vị đáo, Sơ thiền, thiền trung gian, đệ Nhị thiền, đệ Tam thiền, đệ Tứ thiền. Tâm của sáu địa thoái lui sẽ không thành tựu luật nghi vô lậu. Có hai việc làm mất luật nghi vô lậu. Hoặc thối, hoặc được đạo quả. Có hai việc làm mất luật nghi thiền, hoặc thối lui, hoặc qua đời. Có ba việc làm mất luật nghi giới:

  1. Phạm giới.
  2. Xả giới.
  3. Khởi ác tà.

Nếu lúc pháp diệt tận, có người nói là mất luật nghi giới, có người lại nói không mất, thật sự thì không mất. Có bốn việc làm mất bất luật nghi:

  1. Thọ giới.
  2. Không còn tạo nghiệp nữa.
  3. Nhất tâm dứt mong cầu.
  4. Được sắc thiện đắc đạo.

Thế nào là mất? Hoặc dứt căn thiện, hoặc qua đời, pháp tâm sở nhiễm ô còn thừa lại. Lúc dứt trừ kiết, sự dứt trừ có năm thứ quả:

  1. Quả báo.
  2. Quả sở y.
  3. Quả tăng thượng.
  4. Quả thân lực.
  5. Quả giải thoát.

Pháp hữu lậu thiện, hoặc có bốn quả, hoặc năm quả. Có thể dứt trừ kiết sử, đấy là năm quả. Không thể dứt trừ kiết, đấy là bốn quả, trừ quả giải thoát.

Pháp bất thiện có bốn quả, trừ quả giải thoát.

Pháp vô lậu hoặc bốn quả, hoặc ba quả. Nếu dứt trừ kiết, sẽ có bốn quả, trừ báo quả. Nếu không dứt trừ kiết, sẽ có ba quả trừ quả báo và quả giải thoát.

Pháp vô ký có ba quả, trừ quả báo, quả giải thoát.

Thế nào là quả báo? Pháp bất thiện, pháp thiện hữu lậu được quả báo.

Thế nào là quả sở y? Pháp thiện, bất thiện, vô ký, thường hành tăng trưởng, ích lợi mãi cho đến cuối cùng đạt được, đấy là quả sở y.

Thế nào là quả tăng thượng? Hoặc tốt đẹp, hoặc không tốt đẹp, đều lãnh thọ chung, lãnh thọ trên hết, đó gọi là quả tăng thượng.

Thế nào là quả thân lực? Thân hành, tạo tác, v.v… đó là quả thân lực.

Thế nào là quả giải thoát? Trí diệt kiết, đấy là quả giải thoát.

Có ba thứ căn là căn thiện, căn bất thiện và căn vô ký. Ba thứ căn thiện là không tham, không sân, không si.

Căn bất thiện là tham dục, giận dữ và ngu si.

Bốn thứ căn vô ký là ái vô ký, vô minh vô ký, kiến vô ký và mạn vô ký.

Ba thứ pháp: Pháp thiện, pháp bất thiện, pháp vô ký.

Thế nào là pháp thiện? Nghiệp thân, khẩu thiện và tâm thiện. Pháp tương ưng với tâm, tâm bất tương ưng hành và trí duyên tận, đó là pháp thiện.

Thế nào là pháp bất thiện? Nghiệp thân, khẩu bất thiện và tâm bất thiện. Pháp tương ưng với tâm và tâm bất tương ưng hành, đấy là pháp bất thiện.

Thế nào là pháp vô ký? Nghiệp thân, miệng vô ký và tâm vô ký. Pháp tương ưng với tâm và tâm bất tương ưng hành, hư không phi trí duyên tận, đó là pháp vô ký.

Không uống rượu, bố thí, cúng dường, tôn trọng v.v… đó là thuộc về nghiệp thân, miệng thiện.

Uống rượu, đánh đập, kiêu mạn, không tôn trọng, v.v… là thuộc về nghiệp thân, miệng bất thiện.

Đấy là nghiệp thân miệng ở cõi Dục không thuộc về mười nghiệp đạo, mà là bốn đại tạo của cõi Dục,

Như vậy, nghiệp thân, miệng vô lậu của cõi Sắc là bốn đại tạo nào? Nếu dựa vào sáu thứ địa, tức là bốn đại tạo của địa đó. Nếu sinh cõi Vô Sắc, như vậy, vốn đã được nghiệp thân, miệng vô lậu, tức là bốn đại tạo của địa đó.

Ba thứ qua đời: Có khi mạng hết mà phước không hết, có khi phước hết mà mạng không hết và có khi phước hết mạng cũng hết.

 

Phẩm 5: ẤM TRÌ NHẬP

Các pháp hữu lậu có bốn việc phải xa lìa. Bốn việc đó là các lậu phiền não: Vô thường, vô ngã, vô lạc, vô tịnh. Vì sao? Vì hướng về tất cả chỗ sinh, vì tâm hữu lậu rót chảy liên tục, rơi vào thế giới, gọi là hữu lậu.

Ba cõi có một trăm lẻ tám phiền não: chín mươi tám kiết và mười triền là phiền não nẩy sinh ở xứ nào? Là nói pháp hữu lậu, cũng gọi là thọ ấm và xứ phiền não. Từ trong phiền não này có hai thứ năm ấm: Hữu lậu và vô lậu. Thọ ấm, tất cả đều hữu lậu.

Thế nào là sắc ấm? Các bốn đại tạo, mười hai nhập trừ ý nhập. Các nhập khác và sắc vô giáo thuộc về pháp nhập. Đấy là sắc ấm. Sắc ấm này có hai thứ: có thể thấy, không thể thấy.

Thế nào là có thể thấy? Là một nhập thuộc sắc nhập.

Thế nào là không thể thấy? Là chín nhập và sắc vô giáo thuộc về pháp nhập.

Lại có ba thứ sắc: Có sắc có thể thấy, có đối. Có sắc không thể thấy, có đối. Có sắc không thể thấy, không có đối. Sắc nhập có thể thấy, có đối. Chín nhập còn lại là không thể thấy, có đối. Pháp nhập và sắc vô giáo là không thể thấy, không có đối. Đó là sắc ấm.

Thế nào là thống (thọ) ấm? Thọ ấm sinh ra từ sáu cánh lạc (xúc).

Ấm này có hai thứ thọ: thân thọ và tâm thọ.

Ba thứ thọ là thọ khổ, thọ lạc, thọ bất khổ bất lạc.

Bốn thứ thọ: thân hữu ký, vô ký, tâm hữu ký, vô ký.

Năm thứ thọ là năm thọ căn.

Sáu thứ thọ: Nhãn xúc thọ, nhĩ, tỷ, thiệt, thân và ý xúc thọ.

Mười tám thứ thọ: Nhãn v.v… có hỷ, lạc, hộ.

Ba mươi sáu thứ thọ: có thiện, bất thiện trong mười tám thứ thọ.

Một trăm lẻ tám thứ thọ: Mỗi đời quá khứ, vị lai, hiện tại đều có ba mươi sáu thứ thọ. Mỗi chúng sinh trong khoảnh khắc khởi lên vô số thọ, đây gọi là thọ ấm.

Thế nào là tưởng ấm? Ý có các thứ duyên theo tất cả pháp tưởng, là ba thứ này: Nhỏ, lớn vô số thứ loại gồm vào các thứ thuộc về nhập. Do nhân duyên này, tưởng gọi là tưởng ấm.

Thế nào là hành ấm? Hành tạo ra các thứ pháp trong pháp hữu vi, là hành ấm. Hành ấm này có hai thứ: pháp tương ưng với tâm và pháp bất tương ưng với tâm.

Thế nào là pháp tương ưng với tâm? Có ba thứ:

  1. Tư.
  2. Cánh lạc (xúc).
  3. Các pháp như nhớ lại.v.v…

Đây gọi là pháp tương ưng với tâm.

Thế nào là pháp bất tương ưng với tâm? Đó là:

  1. Đắc.
  2. Vô tưởng.
  3. Định Diệt tận đều là những pháp bất tương ưng với tâm. Đó là hành ấm.

Thế nào là thức ấm? Là thức phân biệt các pháp xanh, vàng, đỏ, trắng v.v… Thức này có sáu thứ: Nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức.

Thế nào là nhãn thức? Con người dựa vào sắc của thức, đó gọi là nhãn thức. Như vậy, nhĩ, tỷ, thiện, thân, ý, ý tình dựa vào pháp của thức, đó là ý thức, đó là thức ấm.

Mười hai nhập gồm nhãn nhập, nhĩ nhập, tỷ nhập, thiệt nhập, thân nhập, ý nhập và sắc nhập, thanh nhập, hương nhập, vị nhập, xúc nhập, pháp nhập, sáu thứ nhập này thuộc về nội nhập (thuộc bên trong tâm thức). Còn sáu thứ nhập sau (sắc…) là thuộc về ngoại nhập (pháp trần). Lại nữa, lấy mười hai thứ nhập trên cộng chung với sáu thức, nghĩa là từ nhãn thức cho đến ý thức, chúng ta sẽ thành mười tám nhập, hay còn gọi là mười tám giới nhập.

Do nắm giữ vào bốn đại tịnh tạo ra nhân duyên giữa sắc và thức nên gọi là nhãn. Cũng vậy, do nương vào bốn đại khéo tạo ra nhân duyên hòa hợp giữa thanh hương, vị, xúc, và thức nên gọi là nhĩ, tỷ, thiệt, thân. Tất cả sắc trần của nhãn thức, gồm có mười hai thứ: dài, ngắn, sáng, tối, xanh, vàng, đỏ, trắng, thô, tế, hư không, thân giáo. Tất cả thanh trần của nhĩ thức bao gồm âm thanh của chúng sinh và phi chúng sinh (hữu tình và vô tình chúng sinh).

Tất cả trần hương của tỷ thức: Các mùi hương tốt, mùi hôi hám v.v…

Tất cả trần vị của thiệt thức, gồm ba mươi sáu thứ vị: cay, chua, mặn, đắng, ngọt v.v… Tất cả trần của thân thức: Mịn màng, trơn láng, nhẹ nhàng, cứng, mềm, lạnh, nóng, đói, khát, bốn đại, v.v… Tất cả pháp trần của ý thức, đó là tất cả pháp.

Năm thức không thể phân biệt, chỉ ý thức phân biệt. Tâm, ý, thức, không khác nhau, mà nói có khác nhau. Căn, trần và thức hòa hợp là nảy sinh. Cánh lạc (xúc), cùng sinh ra thống (thọ) v.v…. Mười địa đại, là mười địa đại phiền não, mười địa tiểu phiền não là các pháp cùng với tâm sinh ra và cùng duyên, cùng ở, cùng khởi rồi cùng diệt. Ví như ngọn đèn sáng thì cùng nóng chung cùng cháy, cùng tồn tại, cùng tắt.

Hỏi: Trong mười tám pháp trì, có bao nhiêu thiện, bao nhiêu bất thiện và bao nhiêu vô ký ?

Đáp: Có tám thứ vô ký, mười thứ sẽ phân biệt: Sắc trì, thanh trì, bảy thức trì, pháp trì có thiện, bất thiện, vô ký. Thế nào là sắc thiện? Là thân giáo thiện.

Thế nào là sắc bất thiện? Là thân giáo bất thiện.

Thế nào là sắc vô ký? Trừ thân giáo thiện, bất thiện, các sắc trì khác là vô ký.

Như vậy, thanh trần và nhãn thức có thiện, bất thiện và vô ký.

Thế nào là thiện? Sự ghi nhớ thiện, tương ưng với nhãn thức.

Thế nào là bất thiện? Là sự ghi nhớ bất thiện, tương ưng với nhãn thức.

Thế nào là vô ký? Sự ghi nhớ vô ký, tương ưng với nhãn thức. Cũng vậy tai, mũi, lưỡi, thân, ý, ý thức trì, pháp trì hoặc thiện, bất thiện, vô ký.

Thế nào là thiện? Nghiệp thân, miệng thiện,thuộc về pháp trì thọ, tưởng, hành ấm thiện và trí duyên tận.

Thế nào là bất thiện? Nghiệp thân, miệng bất thiện thuộc về pháp trì thọ, tưởng, hành ấm bất thiện.

Thế nào là vô ký? Thống (thọ) tưởng, hành ấm vô ký thuộc pháp trì và hư không chẳng phải là trí duyên tận.

Hỏi: Trong mười tám pháp trì, có bao nhiêu hữu lậu, bao nhiêu vô lậu?

Đáp: Trong mười tám pháp trì có mười lăm trì hữu lậu, ba thứ sẽ phân biệt. Sao là ba? Đó là ý trì, pháp trì, ý thức trì. Sự ghi nhớ hữu lậu tương ưng với ý trì, nên gọi là hữu lậu. Sự ghi nhớ vô lậu tương ưng với ý trì, nên là vô lậu. Ý thức cũng như vậy

Nghiệp thân, miệng hữu lậu, thọ, tưởng, hành ấm, thuộc trong pháp trì, đó là hữu lậu. Nghiệp thân miệng vô lậu thuộc về pháp trì, thọ, tưởng, hành ấm vô lậu và pháp vô vi, đó gọi là vô lậu.

Hỏi: Trong mười tám trì, có bao nhiêu pháp lệ thuộc cõi Dục, bao nhiêu lệ thuộc cõi Sắc, bao nhiêu lệ thuộc cõi Vô Sắc và bao nhiêu không lệ thuộc?

Đáp: Có bốn thứ trì lệ thuộc cõi Dục là hương, vị, tỷ thức, thiệt thức, do dùng cách ăn vốc. Mười bốn thứ sẽ phân biệt: Nhãn trì lệ thuộc cõi Dục, cõi Sắc.

Thế nào là nhãn trì lệ thuộc cõi Dục? Bốn đại tạo lệ thuộc cõi Dục. Như vậy, pháp trì của tai, mũi, lưỡi, thân, sắc, thanh, tế hoạt (xúc) lệ thuộc cõi Dục, bốn đại tạo lệ thuộc cõi Dục.

Thế nào là nhãn trì lệ thuộc cõi Sắc? Bốn đại tạo lệ thuộc cõi Sắc. Như vậy, pháp trì của tai, mũi, lưỡi, thân, sắc, thanh, xúc lệ thuộc cõi Sắc. Bốn đại tạo lệ thuộc cõi Sắc.

Nhãn thức lệ thuộc cõi Dục và cõi Sắc.

Thế nào là pháp lệ thuộc cõi Dục? Sự ghi nhớ của cõi Dục tương ưng với nhãn thức, nhĩ, thân, thức trì cũng như vậy.

Thế nào là cõi Sắc? Sự ghi nhớ của cõi Sắc tương ưng với nhãn thức, nhĩ và thân cũng vậy.

Ý trì lệ thuộc cõi Dục, cõi Sắc và cõi Vô Sắc, hoặc không lệ thuộc.

Thế nào là sự lệ thuộc cõi Dục? Là sự ghi nhớ của cõi Dục tương ưng với ý trì.

Thế nào là sự lệ thuộc cõi Sắc? Là sự ghi nhớ của cõi Sắc tương ưng với ý trì.

Thế nào là sự lệ thuộc cõi Vô Sắc? Là sự ghi nhớ cõi Vô Sắc tương ưng với ý trì.

Thế nào là không lệ thuộc? Là sự ghi nhớ vô lậu tương ưng với ý trì.

Ý thức trì cũng như vậy

Pháp trì hoặc lệ thuộc cõi Dục, hoặc lệ thuộc cõi Sắc, hoặc lệ thuộc cõi Vô Sắc, hoặc không lệ thuộc.

Thế nào là lệ thuộc cõi Dục? Nghiệp thân, miệng lệ thuộc cõi Dục thuộc về pháp trì và thọ, tưởng, hành ấm, đấy là sự lệ thuộc cõi Dục.

Thế nào là lệ thuộc cõi Sắc? Nghiệp thân, miệng lệ thuộc cõi Sắc, thuộc về pháp trì và thọ, tưởng, hành ấm, đó là sự lệ thuộc cõi Sắc.

Thế nào là lệ thuộc cõi Vô Sắc? Thọ, tưởng, hành ấm của cõi Vô Sắc thuộc về pháp trì, đấy là sự lệ thuộc cõi Vô Sắc.

Thế nào là không lệ thuộc? Là nghiệp thân, miệng vô lậu thuộc về pháp trì, thọ, tưởng, hành ấm vô lậu và pháp vô vi, đó là sự không lệ thuộc.

Hỏi: Trong mười tám thứ trì (nhập), có bao nhiêu thứ thuộc về nội nhập, bao nhiêu thứ thuộc về ngoại nhập?

Đáp: Có mười hai thứ thuộc nội nhập: Là nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý. Nhãn thức trì, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức trì. Sáu trì thuộc về ngoại nhập là sắc trì, thanh, hương, vị, xúc, pháp trì.

Hỏi: Có bao nhiêu thứ trì có giác có quán, bao nhiêu thứ trì có giác vô quán, và bao nhiêu thứ trì vô giác, vô quán?

Đáp: Có mười thứ trì vô giác, vô quán là năm tình (căn), năm trần. Năm thức thì có giác, có quán, ba thứ cần phân biệt, ý trì hoặc có giác có quán, hoặc có giác vô quán, hoặc vô giác vô quán.

Thế nào là có giác có quán? Sơ thiền cõi Dục có giác có quán. Thiền trung gian có giác, vô quán. Địa trên thì vô giác vô quán. Ý thức cũng như vậy. Nghiệp thân, miệng thuộc pháp trì, các hành bất tương ưng, vô vi là vô giác, vô quán. Ngoài ra như ý trì.

Hỏi: Có bao nhiêu thứ duyên chung? Bao nhiêu thứ không duyên chung?

Đáp: Có bảy tâm trì duyên chung. Vì sao? Vì tự trần duyên. Mười trì không duyên chung là năm tình (căn), năm trần (cảnh). Pháp trì sẽ phân biệt. Nghiệp thân, miệng thuộc pháp trì, các tâm bất tương ưng hành, vô vi thì không duyên chung, ngoài ra là duyên chung.

Hỏi: Trong mười tám trì có bao nhiêu thọ, bao nhiêu không thọ?

Đáp: Có chín trì là căn tình hợp. Nếu hiện tại là thọ, trong đó pháp tâm, tâm sở sẽ dừng trụ. Quá khứ, vị lai thì không thọ, vì không phải pháp tâm, tâm sở kia dừng lại. Thanh trì, bảy thức trì, pháp trì là không thọ, vì không phải là sự dừng trụ của pháp tâm, tâm sở kia.

Hỏi: Trong mười tám trì, có bao nhiêu trì là hữu vi, bao nhiêu trì là vô vi?

Đáp: Có mười bảy trì thuộc hữu vi. Pháp trì cần phân biệt, hoặc hữu vi, hoặc vô vi. Thế nào là hữu vi? Các thống (thọ) tưởng, hành ấm của nghiệp thân, miệng thuộc pháp trì, đây gọi là hữu vi. Trí duyên tận, không phải trí duyên tận, hư không, đấy là vô vi.

 

Phẩm 6: HÀNH

Tất cả pháp hữu vi đều không có thế lực tự khởi, phải nhờ sức khác để cùng sinh. Các pháp này có bốn tướng: khởi (sinh), trụ, già, vô thường.

Hỏi: Nếu có bốn tướng, thì bốn tướng này lẽ ra còn có tướng nào nữa chăng?

Đáp: Lại có bốn tướng. Bốn tướng khác trong tướng kia cùng sinh:

Sinh là sinh, trụ là trụ, lão là già, vô thường là vô thường.

Hỏi: Nếu vậy thì sẽ bất tận chăng?

Đáp: Lần lượt tự tướng là các hành pháp có hai thứ, có thứ tương ưng với tâm, có thứ không tương ưng với tâm.

Thế nào là tương ưng với tâm? Thọ, tưởng, tư, cánh lạc (xúc), ức, dục, giải thoát, tín, tinh tiến, niệm, định, tuệ, giác quán, tà hạnh, bất tà hạnh, căn thiện, căn bất thiện, căn vô ký, tất cả sử, não kiết, phược, triền, tất cả trí tuệ, những thứ như vậy là pháp tương ưng với tâm, đó gọi là tâm tương ưng hành.

Thế nào là hành không tương ưng với tâm? Là đắc, sinh, trụ, già, vô thường, định Vô tưởng, định Diệt tận, Vô tưởng xứ, các phương đắc, vật đắc, nhập đắc, danh chúng, cú chúng, vị chúng, tánh phàm phu, các thứ pháp như vậy đều gọi là tâm bất tương ưng hành.

Nhân duyên, duyên thứ đệ, duyên duyên, duyên tăng thượng, tất cả pháp hữu vi đều từ bốn duyên sinh.

Thế nào là nhân duyên? Có năm nhân là nhân tương ưng, nhân cộng hữu, nhân tự nhiên, nhân biến và nhân báo, đó gọi là nhân duyên.

Thế nào là duyên Thứ đệ? Là tâm, tâm sở, trong các pháp pháp diệt, là pháp khởi, đó là duyên thứ đệ.

Thế nào là duyên duyên? Vì duyên với trần nên tâm, tâm sở sinh, đó là duyên duyên.

Thế nào là duyên tăng thượng? Tất cả vạn vật đều không ngăn cách, trở ngại nhau, đó là duyên tăng thượng.

Có sáu nhân: Nhân tương ưng, nhân cộng hữu, nhân tự nhiên, nhân biến, nhân báo và nhân sở tác.

Thế nào là nhân tương ưng? Tâm làm nhân cho các pháp tâm sở, các pháp tâm sở làm nhân cho tâm.

Thế nào là nhân cộng hữu? Các pháp mỗi pháp đều làm bạn với nhau. Tâm là nhân của các pháp tâm sở, các pháp tâm sở là nhân của tâm.

Lại nữa, bốn đại cùng sinh, nhân cộng hữu tạo ra sắc, tâm bất tương ưng hành. Pháp tâm, tâm sở là nhân của tâm bất tương ưng hành.

Thế nào là nhân tự nhiên? Nghĩa là nhân có trước kia sinh thiện, về sau sinh thiện, trước sinh bất thiện, sau sinh bất thiện, trước vô ký, sau vô ký.

Thế nào là nhân biến? Là thân kiến, chấp ngã, ngã có thường. Các thọ ấm có thường, ngã, lạc, tịnh v.v… sinh ra các phiền não.

Thế nào là nhân báo? Là thiện sinh báo vui, bất thiện sinh báo khổ.

Thế nào là nhân sở tác? Tất cả các pháp đều không chướng ngại nhau, không núi giữ, không dừng trụ. Tâm của báo có năm nhân, trừ nhân biến. Pháp tâm sở là như vậy.

Tất cả phiền não có năm nhân, trừ nhân báo. Báo sinh ra sắc và hành bất tương ưng có bốn nhân, trừ nhân tương ưng và nhân biến. Sắc nhiễm ô và hành bất tương ưng có bốn nhân, trừ nhân tương ưng và nhân báo. Pháp tâm, tâm sở còn lại có bốn nhân, trừ nhân báo và nhân biến. Tâm bất tương ưng hành khác, hoặc có hai nhân, hoặc ba nhân, trừ nhân tương ưng, nhân biến và nhân báo, hoặc trừ nhân tự nhiên, hoặc đều là tâm vô lậu ban đầu.

Pháp tương ưng có ba nhân, trừ nhân tự nhiên, nhân báo và nhân biến. Tâm vô lậu này ở trong tâm sinh sắc và tâm bất tương ưng hành có hai nhân: Nhân cọng và nhân sở tác.

Pháp tâm, tâm sở là từ bốn duyên sinh. Định Vô tưởng, định Diệt tận là từ ba duyên sinh, trừ duyên duyên. Tâm bất tương ưng hành và các pháp sắc là từ hai duyên sinh, trừ duyên thứ đệ và duyên duyên. Không có pháp nào chỉ có một duyên sinh, vì phải nhờ vào sức của pháp khác mới sinh. Một pháp có ba sự: hội hợp, tiếp xúc, cộng sinh. Thọ, tưởng, tư, ức dục, giải thoát, tín, tinh tiến, niệm, định, tuệ, hộ, hợp với tâm khởi, đều thành tựu, cộng tâm của các pháp này đều có ba pháp: Hội, cánh lạc (xúc), thân tâm thọ nhận, duyên phân biệt thức, tưởng tác động tư, tâm ghi nhớ mãi không quên, ức dục tác động tâm ham muốn, tín vô ngại giải thoát.

Vô số sự siêng năng, tinh tiến duyên vượt hơn không quên. Niệm tâm bất động định, phân biệt pháp tuệ, tâm không nhiễm chấp, là sự hộ, duyên khởi tương ưng với tâm pháp, được các pháp thành tựu. Thọ, tưởng, tư, cánh lạc (xúc), dục, giải thoát, niệm, định, tuệ là mười pháp đại địa. Vì sao? Vì tất cả tâm là sinh chung.

Thế nào là tương ưng cùng một duyên hành không thêm, không bớt? Đấy là tương ưng với mười đại địa phiền não cùng sinh chung trong tất cả tâm bất thiện là bất tín, biếng nhác, vong tâm, loạn, ám độn, tà ức, tà giải thoát, điệu, vô minh, tà hạnh.

Thế nào là bất tín? Là tâm không nhập pháp.

Thế nào là tâm biếng nhác, là mỏi mệt khi làm việc.

Thế nào là quên? Là không nhớ nghĩ.

Tâm loạn là không nhất tâm. Ám độn là không hiểu biết sự việc.

Tà ức là nhớ nghĩ phi đạo.

Thế nào là tà giải thoát? Là không từ bỏ điên đảo.

Thế nào là điệu (trạo cử)? Là tâm rong ruổi không dừng.

Thế nào là vô minh? Là không hiểu biết trong ba cõi.

Thế nào là tà hạnh? Là không trụ trong pháp thiện.

Mười tiểu phiền não địa: sân, ưu-ba-na, bất ngữ, ba-đà-xá, ma-dạ, xá-sỉ, xan (keo kiệt), tật (ganh tị), mạn, đại mạn.

Thế nào là tâm giận dữ? Là hành động phẫn hận.

Thế nào là ưu ba na? Là tâm chứa chất độc.

Thế nào là bất ngữ (phú)? Là che giấu tội lỗi.

Thế nào là Ba-đà-xá? Là vì gìn giữ gấp rút việc phi pháp không bỏ.

Thế nào là ma-dạ? Là thân, miệng khinh khi người.

Thế nào là xá-sỉ? Là tâm ganh ghét, mưu hại.

Thế nào là xan? Là tiếc nuối, sợ hết của.

Thế nào là tật? Là thấy việc tốt đẹp của người khác thì nổi giận.

Thế nào là mạn? Là đối với kẻ thấp, cho là ta hơn, đối với người trên ta cho là ta bằng.

Thế nào là đại mạn? Là đối với người ngang hàng thì cho là ta to lớn, đối với người lớn hơn thì cho mình lớn hơn.

Mười phiền não địa này tương ưng với ý thức. Vì không phải là năm thức, nên nói là tiểu. Ở trong đó có bảy phiền não lệ thuộc cõi Dục. Xá-sỉ ở cõi Dục, mạn, đại mạn ở Phạm thiên lệ thuộc ba cõi.

Mười đại địa thiện: Là không tham, không sân, tín, ỷ (khinh an), không buông lung, tinh tiến, hộ, bất nhiễu não, tàm, quý.

Không tham là đối với tài sản vật dụng của mình và người không ham muốn không giành lợi.

Không sân là đối với chúng sinh, không phải chúng sinh, tâm không giận dữ.

Tín là nhận biết thật sự với tâm thanh tịnh.

Ỷ (khinh an) là tâm khéo lìa các thứ nặng nề nên được nhẹ nhàng, mát mẻ.

Không buông lung là tâm buộc vào pháp thiện.

Tinh tiến là hành tập gần pháp thiện.

Hộ (xả) là trụ ở chỗ lìa các pháp.

Bất nhiễu não là thân, miệng, ý không phạm điều ác đối với hết thảy chúng sinh.

Tàm là xấu hổ về việc mình làm ác.

Quý là thẹn vì làm việc không nên làm đối với người.

Mười pháp này tương ưng với tất cả tâm thiện, cho nên nói là đại địa.

Có ba xứ: xứ ái, xứ không ái, xứ ở giữa. Xứ ái, là các chỗ phiền não dâm dục, keo kiệt, tham lam, luyến tiếc v.v… phát sinh.

Xứ không ái, là chỗ các phiền não giận dữ, tranh chấp, ganh ghét v.v… phát sinh.

Xứ ở giữa: Nghĩa là chỗ các phiền não ngu si, kiêu mạn v.v… phát sinh. Tất cả phiền não kiết sử thuộc về ba độc. Vì sao? Vì có ba căn bất thiện, tất cả phiền não kiết sử sinh tử , ba độc này làm dứt trừ ba căn thiện, có thể gây não loạn chúng sinh trong ba cõi, thế nên thuộc về ba độc.

 

Phẩm 7: NHÂN DUYÊN CHỦNG

Mười hai nhân duyên: Là vô minh, hành, thức, danh sắc, sáu nhập, cánh lạc (xúc), thống (thọ), ái, thọ (thủ), hữu, sinh, già, chết. Mười hai nhân duyên này có ba thứ:

  1. Phiền não.
  2. Nghiệp.
  3. Khổ.

Ba thứ phiền não là vô minh, ái, thọ.

Hai thứ nghiệp là hành và hữu.

Bảy thứ khổ là thức, danh sắc, sáu nhập, cánh lạc (xúc), thống (thọ), sinh, già, chết.

Hai thứ thuộc quá khứ, hai thứ thuộc vị lai, tám thứ thuộc hiện tại. Nghiệp nhân của các phiền não, nhân của nghiệp khổ, nhân của phiền não khổ, nhân phiền não của phiền não, nhân của nghiệp phiền não, nhân khổ của nghiệp, nhân của khổ khổ. Các nhân đó theo thứ lớp khởi.

Vô minh quá khứ tương ưng với tất cả phiền não. Vô minh ấy duyên theo đây mà tạo nghiệp. Tạo nghiệp là tạo nên quả thế gian, đó gọi là hành. Do nhân duyên của hành đó khiến tâm nhiễm ô, được thức phân biệt của thân căn. Như nghé con biết mẹ là thức, thức này cùng sinh ra bốn ấm Vô Sắc, cũng tiếp nối nhau sinh ra sắc, đó gọi là sắc. Nương vào cảnh giới của căn như nhãn, v.v… là sáu nhập. Căn, trần và tâm hòa hợp là cánh lạc (xúc). Cánh lạc (xúc) sinh ra gọi là thống (thọ). Sự nhiễm chấp của thống (thọ) là ái. Sự khao khát đã gây ra phiền toái, nhọc nhằn là thọ, vất vả tạo nghiệp là hữu. Quả vị lai là sinh, sinh khởi vô lượng nỗi khổ là già, chết.

Lại nữa, vô minh không biết bốn đế, pháp trong, ngoài, quá khứ, hiện tại, vị lai, và các nhân duyên của pháp Phật. Những pháp thật như vậy không biết, đó gọi là vô minh. Người ngu si tạo ra ba thứ hành (nghiệp): hành có đức, hành không đức, và hành không động.

Thế nào là hành có đức? Là được báo tốt đẹp.

Thế nào là hành không đức? Là mắc phải quả báo xấu ác.

Thế nào là hành không động? Là sinh cõi Sắc, Vô Sắc.

Lại nữa, bố thí, giữ giới, tu thiền.

Thế nào là bố thí? Có hai thứ bố thí:

  1. Tài thí.
  2. Pháp thí.

Năm thứ giữ giới: Nếu lãnh thọ giới, cho đến thanh tịnh rốt ráo, tẩy trừ hết vết cấu uế của tâm ác, thường nghĩ đến giữ gìn, không mong cầu quả báo thế gian. Người tu thiền định quán bất tịnh, quán sổ tức, v.v… Tất cả pháp định hữu lậu thiện là hành có đức.

Thế nào là hành không đức? Là các thứ tội của ba căn bất thiện, mười đạo bất thiện, đó là hành không đức.

Thế nào là hành không động? Là từ Sơ thiền cho đến định hữu tưởng Vô tưởng là hành không động.

Ba nhân duyên: Thức hữu lậu thọ nhận hữu, thứ nhất của bảy hữu, đó là thức. Từ thức có danh sắc, thọ, tưởng, hành, thức ấm, đó là danh. Bốn đại và sắc được tạo, đó là sắc. Hai sự này cùng nói là danh sắc, từ danh sắc sinh sáu nhập, sáu nhập sinh cánh lạc (xúc).

Cánh lạc (xúc) có sáu thứ: Hai thứ thân, ý khởi có đối và tăng ngữ. Vì sáu thức phân biệt, nên có sáu thứ cánh lạc (xúc). Cánh lạc (xúc) sinh ái, không ái.

Không ái không không ái có ba thứ thống (thọ) là thọ khổ, thọ vui, thọ không khổ không vui.

Thế nào là khổ thọ? Là bị sử sân hận sai khiến.

Thế nào là lạc thọ? Là bị sử dục sai khiến.

Thế nào là thọ không khổ, không vui? Là bị sử vô minh sai khiến.

Khởi niềm vui, an trụ nơi vui và đều không vui, đó là lạc thọ. Khởi khổ, trụ khổ, đều không khổ, đó là khổ thọ. Niềm vui lúc không trí, trí không vui, đó là thọ không khổ, không vui.

Sinh ra ba thứ khao khát: dục khát, sắc khát, Vô Sắc khát, với tưởng khao khát mong cầu không nhàm chán.

Sinh bốn thứ thọ (thủ): Dục thọ, kiến thọ, giới thọ và ngã thọ. Lệ thuộc cõi Dục, trừ mười hai kiến, các phiền não khác, đó là dục thọ.

Bốn tà kiến, đó là kiến thọ (thủ). Bên ngoài giữ giới, tìm cầu đạo, đấy là giới thọ (thủ) cõi Sắc, Vô Sắc, trừ hai mươi bốn kiến, các phiền não còn lại, đó gọi ngã thọ (thủ). Bốn thọ (thủ) sinh ra chỗ nghiệp của mọi kiết sử.

Ba thứ hữu là dục hữu, sắc hữu, Vô Sắc hữu. Có năm ấm của sinh đắc, đó là sinh. Nỗi khổ của hành suy yếu là già. Có hai thứ già: Cái già tiêu hao dần, tiêu mòn dần và tuổi già chín muồi.

Hai thứ chết: Người tự chết và bị người khác giết chết, bị sầu lo đau buồn khổ não.

Thế nào là tâm sầu? Là tâm nóng bức, không cần dùng, không còn

ham muốn việc gì đến với mình, đó là sầu.

Thế nào là khóc than buồn bã? Các thứ khóc kể là buồn bã.

Thế nào là khổ? Là thân khổ não, đó là khổ.

Thế nào là lo lắng? Tâm sầu não, đó là sự lo lắng.

Thế nào là não? Những chuyện khẩn cấp như: Đến cửa quan, các tai nạn nước, lửa, trộm, giặc v.v… và các việc khác, đó là não.

Với vô lượng khổ như vậy đó, là nhân duyên như vô minh, v.v… Nhân duyên này dứt, các quả báo hết, vô lượng sự khổ như vậy dứt hết.

Sáu thứ hợp được thân người. Sáu thứ đó là: bốn đại và không, thức. Địa thủy hỏa phong, ba đại có sắc, địa thủy hỏa lường tính dài ngắn, to, nhỏ.

Gió, chủng loại gió là một chủng loại. Bốn đại thường kết hợp, không khác nhau. Tướng cứng là đất, tướng ẩm ướt là nước, tướng nóng là lửa, tướng lay động là gió. Bốn đại ngoài thành tựu bốn đại chủng trong. Khoảng không trong sắc. Nhãn thức duyên có trong, ngoài đó là chủng loại không. Năm thức và ý thức hữu lậu, đó là chủng loại thức.

Sự sinh ra đời có sáu thứ: Đất thì cứng chắc. Nước thì thấm ướt. Lửa có tác dụng nấu nướng, loại trừ chất thối rữa, hôi hám, gió có tác dụng làm lay động, động tác đứng, ngồi, sinh trưởng đều trừ hư không. Thức uống ăn tiêu hóa được là nhờ tác dụng của gió duy trì, loại bỏ nhờ sức của thức mà có thân mạng, đó gọi là con người.

 

Phẩm 8: TỊNH CĂN

Tương ưng với tâm dâm dục, sân hận, ngu si, đó là phiền não, là kiết ràng buộc. Người muốn bỏ ba thứ này phải chế ngự, dứt bỏ và dùng trí đoạn trừ.

Thế nào là chế ngự? Nếu chưa được tâm vô lậu thì phải giữ giới, tư duy, nhằm loại trừ tâm tham dâm, phẫn nộ, ngu si, không thọ nhận, đó là chế ngự.

Thế nào là dứt bỏ? Được thiền định là lìa dâm dục và pháp bất thiện xấu ác, đó là dứt bỏ.

Thế nào là dùng trí dứt trừ? Giác ý duyên khổ, tập mà đoạn, đó gọi là đoạn. Hoặc chế ngự, hoặc dứt trừ, hoặc có lúc tịnh, hoặc bất tịnh, trí vô lậu dứt trừ, đó là thanh tịnh.

Hai mươi hai căn: Các mạng, nam, nữ ngoại nhập, khổ, vui, ưu, hỷ, hộ (xả) tín, tinh tiến, niệm, định, tuệ, vị tri, dĩ tri, đại tri căn và sáu căn nội, như trước đã nói. Tướng nam biết là nam, đó là nam căn. Tướng nữ, biết là nữ, đó là nữ căn. Tướng sống trong ba cõi, đó là mạng căn. Lạc thống (thọ) tương ưng với sáu thức, đó là lạc căn. Khổ thống (thọ) tương ưng với năm thức, đó là khổ căn. Lạc thọ tương ưng với ý thức, đó là hỷ căn. Khổ thọ tương ưng với ý thức, đó là ưu căn. Không khổ, không lạc thọ tương ưng với sáu thức, đó là hộ căn (xả căn). Tín trong các pháp thiện, đó là tín căn. Như vậy các căn tinh tiến, niệm, định, tuệ, kiên tín, kiên pháp thuộc về đạo.

Chín căn vô lậu là vị tri căn, thuộc về đạo kiến đáo tín giải thoát. Chín căn vô lậu là dĩ tri căn, thuộc về đạo vô học, chín căn vô lậu là đại tri căn.

Thế nào là nghĩa căn? Có sức, có lợi, đó là căn. Mạng, nam, nữ của sáu tình (căn), có sức, có lợi trong thế giới chín căn. Phiền não của năm thọ căn sinh, có sức, có lợi. Trong pháp thiện của năm căn như tín, v.v… có sức, có lợi. Trong đạo của ba căn vô lậu có sức, có lợi. Vì được đạo, nên các căn đều tự có sức, có lợi.

Hỏi: Trong hai mươi hai căn, có bao nhiêu căn thuộc về cõi Dục, bao nhiêu căn thuộc về cõi Sắc, Vô Sắc, bao nhiêu căn không thuộc cõi nào?

Đáp: Có bốn căn thuộc về cõi Dục: Nam, nữ, ưu, khổ căn. Năm căn thuộc về cõi Dục, cõi Sắc: Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân căn. Hỷ, lạc căn hữu lậu thuộc về cõi Dục, cõi Sắc. Noãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân căn là căn hỷ lạc hữu lậu thuộc cõi Dục, cõi Sắc. Hộ, ý, mạng, căn hữu lậu, năm căn như tín v.v… thuộc về tất cả ba cõi. Ý căn, hộ căn, hỷ căn, lạc căn, năm căn như tín v.v… vô lậu là không lệ thuộc. Chín căn này hợp lại là ba căn vô lậu: vị tri căn, dĩ tri căn và đại tri căn.

Hỏi: Trong hai mươi hai căn có bao nhiêu thọ, bao nhiêu không thọ?

Đáp: Năm căn như lạc, v.v…, năm căn như tín, v.v… tất cả căn vô lậu là không thọ. Các căn còn lại hoặc thọ, hoặc không thọ.

Hỏi: Trong hai mươi hai căn có bao nhiêu thiện, bất thiện, vô ký?

Đáp: Có tám căn là thiện năm căn như tín v.v… là ba vô lậu. Tám căn vô ký, năm căn như nhãn, v.v… và mạng căn, nam căn, nữ căn. Sáu căn nên phân biệt ý là năm thọ căn và lạc căn, v.v… hoặc thiện, hoặc bất thiện, hoặc vô ký.

Hỏi: Trong hai mươi hai căn có bao nhiêu căn là hữu lậu, bao nhiêu căn là vô lậu?

Đáp: Năm căn như tín v.v… lạc, hỷ, hộ, ý căn, hoặc hữu lậu, hoặc vô lậu. Ba căn sau đều là vô lậu, mười căn hữu lậu là nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, nam, nữ, mạng, ưu, khổ.

Ba thứ sinh đầu tiên được hai căn, là thân căn và mạng căn. Hóa sinh hoặc sáu, bảy, tám. Vô hình có sáu, một hình có bảy, hai hình có tám. Năm căn như mắt, v.v… và mạng căn, nam căn, nữ căn, các căn còn lại lần lượt được.

Đầu tiên được trong cõi Sắc sáu căn là năm tình (căn), mạng căn. Đầu tiên ở cõi Vô Sắc được một mạng căn. Trong cõi Dục, tâm vô ký dần dần qua đời có bốn, hoặc tám, chín, mười căn. Nếu tâm thiện chết thì có chín hoặc mười ba, mười bốn, hay mười lăm thứ căn.

Hỏi: Trong hai mươi hai căn có bao nhiêu căn do kiến đế đoạn, bao nhiêu căn do tư duy đoạn và bao nhiêu căn không đoạn?

Đáp: Có bốn căn hoặc kiến đế đoạn, hoặc tư duy đoạn, hoặc không đoạn, là ý căn, lạc căn, hỷ căn, hộ căn. Ưu căn thì hoặc kiến đế đoạn, hoặc tư duy đoạn. Năm căn như tín, v.v… hoặc tư duy đoạn, hoặc không đoạn, ba căn vô lậu thì không đoạn. Căn còn lại là tư duy đoạn.

 

Phẩm 9: KIẾT SỬ THIỀN TRÍ

Hai thứ dứt chín mươi tám sử, là kiến đế đoạn và tư duy đoạn. Hai mươi tám thứ do kiến khổ đoạn, mười chín thứ do kiến tập đoạn. Mười chín thứ do kiến tận đoạn. Hai mươi hai thứ do kiến đạo đoạn. Mười thứ do tư duy đoạn. Kiến đạo đoạn mười sử thuộc cõi Dục, kiến tập đoạn bảy sử, kiến tận đoạn bảy sử, kiến đạo đoạn tám sử, tư duy đoạn bốn sử. Đấy là ba mươi sáu sử thuộc cõi Dục. Trừ sân hận và các kiết sử khác, trong cõi Sắc, Vô Sắc, mỗi cõi đều dứt trừ ba mươi mốt sử.

Nói lược là mười sử thật: thân tà (thân kiến), biên tà (biên kiến), tà kiến, trộm kiến (kiến thủ), trộm giới (giới cấm thủ), nghi, ái, sân, mạn và vô minh.

Thế nào là thân tà (thân kiến)? Chấp ngã trong năm ấm, thấy như vậy là thân tà (thân kiến). Thế giới hữu biên, vô biên như vậy là biên tà (biên kiến). Cho rằng không có quả báo, nhân duyên của bốn đế, thấy như vậy là tà kiến. Chấp thường là bậc nhất trong pháp hữu lậu, là trộm kiến (kiến thủ). Cầu đạo tịnh trong nhân duyên phi tịnh, là trộm giới (giới cấm thủ). Chưa được tâm đạo, si mê không hiểu rõ về phải, không phải, về có, không có, đấy là tâm nghi si. Nhiễm đắm dục trong các pháp, đấy là ái. Trong tâm si, không muốn đối đáp lại, tâm phẫn nộ, chao động, đó là sân. Tâm tự đại, cao ngạo đó là mạn. Không biết được thật tướng các pháp, đó là vô minh.

Các sử này là khổ đế của cõi Dục, tất cả tập đế, bảy tận đế cũng vậy. Đạo đế có tám tà, nghi do kiến đế đoạn. Bốn sử cõi Dục do tư duy đoạn. Sáu sử cõi Sắc, Vô Sắc do tư duy đoạn. Tham, sân, mạn, vô minh, năm thứ hành đoạn. Nghi, tà kiến, trộm đạo do bốn đế đoạn. Thân tà, biên tà do khổ đế đoạn. Trộm giới do khổ đế, đạo đế đoạn. Khổ đế của cõi Dục đoạn sáu sử là năm tà và nghi. Tập đế đoạn ba, là hai tà và nghi. Vô minh có hai thứ do khổ đến đoạn. Vô minh hoặc cùng khắp hoặc không cùng khắp.

Thế nào là cùng khắp? Là vô minh tương ưng với sáu sử, và vô minh bất cộng, đấy là cùng khắp.

Thế nào là không cùng khắp? Là ba sử tương ưng với vô minh, là không cùng khắp. Như vậy, tập tương ưng với ba sử và vô minh bất cộng, đó là hiện khắp, ngoài ra là không hiện khắp.

Các sử, trừ ái, sân, mạn, số còn lại là cùng khắp tất cả. Vì sao? Vì các sử này có năm duyên và hai tà trong tất cả sử cùng khắp và vô minh tương ưng với chúng. Tất cả cùng khắp là ở cõi mình không phải cõi khác. Cõi Sắc cũng như vậy. Cõi Vô Sắc tất cả sử cũng cùng khắp. Tất cả cùng khắp của cõi mình, tất cả sử cùng khắp còn lại, hết thảy sử cùng khắp của cõi mình cũng duyên cõi khác. Vô minh là nhân tương ưng của tất cả sử và vô minh bất cộng. Dứt trừ tà kiến, nghi, vô minh của ba cõi do tận đế, đạo đế dứt trừ tà, tà nghi vô minh là mười tám sử này là duyên vô lậu, sử còn lại là duyên hữu lậu. Các sử duyên hữu lậu và hữu lậu duyên tương ưng với vô minh. Ngoài ra vô minh duyên vô lậu là tất cả kiết sử của ba cõi tương ưng với hộ căn (xả căn). Các sử ở trời Phạm và trời Quang Diệu tương ưng với hộ căn và hỷ căn. Các sử của cõi trời Biến Tịnh tương ưng với hộ căn, lạc căn. Tà kiến vô minh thuộc cõi Dục, tương ưng với ba căn là hỷ căn, ưu căn, hộ căn. Nghi tương ưng với hai căn là ưu căn, hộ căn. Sân tương ưng với ba căn là ưu căn, khổ căn, hộ căn. Các sử còn lại do kiến đế ở cõi Dục đoạn tương ưng với hai căn là hỷ căn và hộ căn. Tư duy dứt trừ trong cõi Dục tương ưng với sáu thức, trừ mạn. Mạn tương ưng với ý thức, tất cả do kiến đế đoạn tương ưng với ý thức.

Mười tiểu phiền não là nói triền:

  1. Sân.
  2. Sợ tội của mình.
  3. Thùy.
  4. Miên.
  5. Điệu.
  6. Hý.
  7. San.
  8. Tật.
  9. Vô tàm.
  10. Vô quý.

Thế nào là sân? Là tâm ác, dao động mạnh.

Thế nào là sợ tội của mình? Sợ người thấy nghe.

Thế nào là thùy? Tâm chìm đắm, thân nặng nề, tâm nặng về tương ưng với tất cả kiết sử.

Thế nào là miên? Tâm hòa hợp với lúc nằm ngủ mới dậy, không tỉnh táo, tương ưng với ý thức, thuộc cõi Dục.

Thế nào là điệu (trạo cử)? Là tâm bất thiện bồng bột không dứt tương ưng với tất cả kiết sử.

Thế nào là hý (ố tác)? Tạo ra việc thiện, bất thiện, về sau lại hối tiếc, tương ưng với ưu căn.

Thế nào là san? Tâm luyến tiếc, keo kiệt.

Thế nào là tật? Là thấy người khác được việc tốt đẹp, mình không vui, muốn cho họ phải đau khổ. Hai kiết này thuộc cõi Dục do tư duy dứt trừ.

Thế nào là vô tàm? Tự làm điều ác không biết xấu hổ.

Thế nào là vô quý? Là làm điều ác, không thẹn với người.

Hai thứ này tương ưng với tất cả pháp bất thiện. Ba kiết: Ái, sân, vô minh, tương ưng với sáu thức. Hai thứ ái, vô minh của cõi Sắc tương ưng với bốn thức. Kiết sử còn lại tương ưng với ý thức, cùng lúc do đạo vô ngại đoạn. Lúc kiết sử, tác chứng lại tác chứng. Dứt trừ kiết cõi Dục, được ba trí đoạn. Dứt trừ kiết sử của khổ đế, tập đế ở cõi Dục được một trí đoạn. Dứt trừ kiết sử của diệt đế được hai trí đoạn. Dứt trừ kiết sử của đạo đế được ba trí đoạn. kiết do bốn đế đoạn ở cõi Sắc, Vô Sắc được ba trí đoạn. Năm kiết sử phần dưới ở cõi Dục được bảy trí đoạn.

Ở cõi Sắc, kiết sử do tư duy dứt hết, được tám trí đoạn, tất cả kiết sử phiền não dứt hết, được chín trí đoạn. Diệt trừ kiết hoàn toàn đó gọi là trí đoạn. Có các kiết sử như vậy, tâm không tương ưng trói buộc tâm, tương ưng với việc này không đúng với tất cả tâm tương ưng. Vì sao? Vì khởi phiền não kiết sử hủy hoại pháp thiện. Lúc thấy kiết sử là pháp thiện nẩy sinh, cho nên, biết tất cả kiết sử đều tương ưng với tâm. Tất cả kiết sử này đều có hai sự đoạn là tâm tương ưng với trí thiền.

Thế nào là thiền dứt trừ tâm nhu hòa ban đầu? Thế nào là trí phân biệt các pháp? Nhất tâm nhập định, tư duy, quán sát các pháp vô thường v.v…, đó là trí. Trí thiền đều cùng hoạt động tư duy, được giải thoát. Ba thời điểm khéo tinh tiến là lúc nhất tâm gìn giữ, ngồi thiền, nếu tâm nhu hòa thì lúc ấy nên tinh tiến tư duy. Nếu tâm điệu (trạo cử), thì khi đó phải nhất tâm tư duy điều thiện. Nếu cả hai việc này đều không nhu hòa, không chế ngự điệu (trạo cử), thì lúc ấy là buông lung. Ví như thợ luyện vàng, đặt thỏi vàng ròng trong lửa, thổi lửa liên tục để nung, thường rưới nuớc lên, và hằng giờ tạm ngưng tôi luyện. Vì sao? Vì nếu thường xuyên thổi lửa thì vàng sẽ chảy ra, còn nếu thường rưới nước thì vàng sẽ nguội lạnh, không nóng. Nếu thường bỏ ra, sẽ không làm khéo được. Việc ngồi thiền cũng như vậy. Thổi lửa như sức tinh tiến, nhúng vàng vào nước như thiền, buông bỏ như xả. Vì sao? Vì thường xuyên tinh tiến, điều phục tâm, thường định nhất tâm, tâm nhu hòa, thường xả, không thọ các tâm. Thế nên, thường siêng năng, tinh tiến, luôn luôn nhất tâm định và thường xả. Tâm hòa hợp, điều phục như vậy, sẽ được giải thoát đối với tất cả kiết sử.

 

Phẩm 10: BA MƯƠI BẢY NGƯỜI VÔ LẬU

Phương pháp ngồi thiền trước là buộc tâm vào một chỗ, hoặc ở đỉnh đầu, hoặc ở trán, hoặc giữa hai đầu chân mày, hoặc ở chót mũi, hoặc ở trong tâm, sao cho tâm trụ một chỗ. Nếu niệm chay đi thì kéo trở lại rồi đặt vào chỗ cũ. Tâm này ví như con vượn, buộc cổ nó vào cây trụ khiến vượn chỉ chạy quanh trụ, không chạy đi chỗ khác được, bắt buộc phải dừng. Tâm chạy rong cũng như vậy. Buộc tâm vào pháp sao cho tâm không đi nữa mà bắt buộc phải trụ lại. Dần dần quán thân, thọ, Ý, pháp là trong người, pháp, ý dừng lại, thuần thục nhất tâm, được trí tuệ thật, quán thật tướng của tất cả hành, vì sinh diệt không dừng nên vô thường, vì chất chứa tai hoạn nên khổ, vì bên trong không có người nên không, vì không tự tại nên phi ngã (vô ngã). Từ đấy, được pháp noãn khởi trong ý. Ví như dùi lửa, lửa sinh từ trong cây. Căn thiện của niềm tin thanh tịnh được phát sinh trong pháp Phật.

Bốn duyên quán quán mười sáu hành. Bốn hành quán khổ đế. Từ nhân duyên sinh, vì không trụ nên vô thường, vì sức của vô thường hủy hoại nên khổ, vì không có người nên không, vì không tự tại nên phi ngã (vô ngã).

Bốn hành quán tập đế: Vì tướng sinh giống như quả nên là nhân. Vì sống, chết không dứt nên là tập. Vì không thể hết nên có, vì không giống nhau mà nối tiếp nhau, nên là duyên.

Bốn hành quán diệt đế: Vì đóng kín cửa tất cả tai hại khổ đau nên là tận. Vì dập tắt tất cả ngọn lửa kiết sử nên là chỉ. Vì hơn tất cả pháp nên là diệu, vì ra khỏi ba cõi nên là độ.

Bốn hành quán đạo đế: Vì có thể dẫn đến Niết-bàn nên là Đạo. Vì không phải là điên đảo nên là ứng. Vì là chỗ hành hóa của bậc Thánh nên là trụ. Vì lìa được phiền não thế gian nên là xuất.

Quán mười sáu hành pháp thiện, thường siêng năng tinh tiến, đấy là pháp Noãn. Từ căn thiện Noãn này tăng trưởng, đấy là căn thiện đảnh.

Tin Tam bảo, hoặc tin tưởng năm thọ ấm là vô thường, hoặc khổ, không, phi ngã (vô ngã). Như vậy, duyên mười sáu hành của bốn đế, vì hơn pháp Noãn, nên nói là Đảnh. Đảnh đã tăng thượng, tùy theo đế nhẫn gọi là căn thiện nhẫn. Nhẫn này có ba thứ: Thượng, trung, hạ. Duyên pháp quán của bốn đế, quán mười sáu hành thuận với căn thiện tăng thượng của đế, đây gọi là pháp bậc nhất thế gian. Pháp tâm, tâm sở lúc nhất tâm, đó gọi là căn thiện bậc nhất thế gian.

Có người nói: Năm căn như tín, v.v… là nghĩa như thật của pháp bậc nhất thế gian. Pháp tâm, tâm sở lúc nhất tâm là căn thiện bậc nhất thế gian, có thể mở cửa Niết-bàn, là duyên bậc nhất trong pháp phàm phu. Quán bốn hành một đế: Vô thường, khổ, không, phi ngã. Vì sao? Vì tâm vô lậu bậc nhất duyên với khổ đế, pháp bậc nhất thế gian cũng như vậy.

Sáu thiền địa: Thiền Vị đáo, thiền Trung gian và Bốn thiền, là các căn thiện Nhẫn, Đảnh, Noãn. Trong sáu địa, có pháp bậc nhất thế gian, theo thứ lớp khởi người vô lậu, đó gọi là khổ pháp nhẫn. Chưa từng thấy, vì mới bắt đầu thấy mà có thể nhẫn, nên nói nhẫn là đạo vô ngại của nhẫn đầu tiên.

Theo thứ lớp, trí của pháp khổ sinh, biết như thật về tướng khổ là đạo giải thoát của khổ pháp trí. Hai tâm này duyên theo khổ cõi Dục. Đạo vô ngại của nhẫn vị tri, đạo giải thoát của trí vị tri, hai tâm này duyên theo khổ thuộc cõi Sắc, Vô Sắc. Khổ Tập, diệt, đạo đế cũng như vậy.

Pháp chánh quán này là mười sáu tâm tịnh. Căn cơ nhạy bén trong mười lăm tâm là nói Tùy pháp hành, căn cơ chậm lụt (độn căn) là nói Tùy tín hành. Hai người này vẫn chưa lìa kiết cõi Dục để hướng đến quả thứ nhất. Sáu thứ kiết sử cõi Dục đã dứt trừ, hướng đến quả thứ hai. Nếu chín thứ kiết đã hết, hướng đến quả thứ ba. Hướng đến quả thứ nhất, nhằm đến với người tu hành, trong mười lăm tâm, cũng lại là người tu hành của quả trung gian, là hai người Tùy pháp hành, Tùy tín hành này, tiến đến được trụ quả trong mười sáu tâm. Hai người ấy trước đây chưa dứt trừ kiết, do viên mãn mười sáu tâm, đều là Tu-đà-hoàn. Nếu dứt trừ sáu thứ kiết, viên mãn mười sáu tâm, thì đều là Tư-đà-hàm. Nếu dứt trừ chín thứ kiết, đầy đủ mười sáu tâm thì đều là A-na-hàm, được quả thứ ba và dứt hết tám mươi tám kiết.

Vì căn thiện nơi giới vô lậu của người ấy thành tựu, nên nói là Tuđà-hoàn. Căn cơ nhạy bén (lợi căn) được quả gọi là kiến đáo. Căn cơ chậm lụt được quả, gọi là Tín giải thoát. Nếu hai người này tư duy dứt trừ kiết lệ thuộc cõi Dục không hết, sẽ phải trải qua bảy lần chết, bảy lần sinh. Nếu trước hết diệt ba phẩm kiết, thì đây gọi là Gia gia, trải qua ba lần chết, ba lần sinh.

Trong dòng nước tám trực đạo dẫn đến Niết-bàn là Tu-đà-hoàn hạnh bậc trung. Sáu thứ kiết đã hết, gọi là Tư-đà-hàm. Tám thứ kiết hết, gọi là Nhất chủng.

Sinh lên các tầng trời cõi Dục, rồi lại sinh xuống cõi người và bát Niết-bàn, đó gọi là Nhất chủng và Tư-đà-hàm.

Năm A-na-hàm là Trung bát Niết-bàn, Sinh bát Niết-bàn, Hành bát Niết-bàn, Vô hành bát Niết-bàn và Thượng lưu A-ca-ni đến A-nahàm. Lại có A-na-hàm sinh ở cõi Vô Sắc. Khổ của cõi Sắc, Vô Sắc dứt hết, được bát Niết-bàn, không sinh cõi dưới là nói A-na-hàm.

Chín thứ kiết sử cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô Sắc cũng như vậy. Các kiết sử này do hai đạo dứt trừ là đạo Vô ngại và đạo Giải thoát. Trước hết là đạo vô ngại dứt trừ, đạo giải thoát thành tựu. Ví như bắt được rắn độc bỏ vào chiếc bình, rồi bịt miệng bình lại. Đạo thế tục, đạo xuất thế gian dứt trừ các kiết sử thuộc về cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô Sắc. Đạo thế tục cũng có thể dứt trừ sử trong thế giới.

Tám địa lìa dục được định Diệt tận, là nói thân chứng A-na-hàm. Nếu pháp A-la-hán câu giải thoát tợ Niết-bàn, thân trụ trong đó dứt được năm kiết phần dưới, sẽ được A-na-hàm. Dứt hết năm kiết phần trên, được A-la-hán. Mọi kiết sử, triền ràng buộc còn lại trong cõi Sắc, Vô Sắc này là nói do tâm điều phục, như định Kim Cương, lần lượt sinh ra diệt trí. Bấy giờ được quả A-la-hán, là đạo vô ngại lìa dục trên hết, cũng là tâm học sau cùng, là thứ lớp của định Kim Cương. Vô học đầu tiên phát sinh diệt trí: Các sinh tử của ta đã hết, ta đã được A-la-hán, tất cả kiết đã dứt hết, đại tiểu phiền não đều diệt hết, gọi là A-la-hán, người xứng đáng nhận sự cúng dường trong tất cả người, trời, đó gọi là A-la-hán.

Vô học này có chín thứ:

  1. Pháp thối.
  2. Pháp không thối.
  3. Pháp tư duy.
  4. Pháp thủ hộ.
  5. Pháp trụ.
  6. Pháp năng tiến.
  7. Pháp không động.
  8. Tuệ giải thoát.
  9. Câu giải thoát.

Thế nào là pháp thối? Là trí kém, tinh tiến yếu, hành đủ cả năm thối, được đạo quả thối, đó là pháp thối.

Thế nào là pháp bất thối? Là trí nhạy bén, siêng năng, tinh tiến, không thực hành trong năm thối, được đạo quả bất thối, đó là pháp bất thối.

Thế nào là pháp tư duy? Trí kém, tinh tiến kém, siêng năng quán

thân bất tịnh, đáng ghét bỏ, tư duy tự diệt thân đó là pháp tư.

Thế nào là pháp thủ hộ? Với trí kém siêng năng, tinh tiến, gìn giữ bản thân, là pháp thủ hộ.

Thế nào là pháp trụ? Trí bậc trung, tinh tiến thuộc phẩm trung, đạo hành bậc trung, không thêm bớt, đó là pháp trụ.

Thế nào là pháp năng tiến? Trí ít nhạy bén, siêng năng, tinh tiến, có thể đạt được điều thiện không động, đó gọi là năng tiến.

Thế nào là pháp không động? Là căn cơ nhạy bén, rất siêng năng, tinh tiến, trước được điều thiện không động, đó là pháp không động.

Thế nào là tuệ giải thoát? Là không được định Diệt tận.

Thế nào là câu giải thoát? Là có thể được định Diệt tận, là câu giải thoát.

Năm hạng A-la-hán Tùy tính hành, gọi là Thời giải thoát. Các vị A-la-hán này có hai trí, là diệt trí và trực kiến vô học (chánh kiến vô học). Một loại A-la-hán là Tùy pháp hành lợi căn gọi là Bất thời giải thoát, A-la-hán này đạt ba trí là diệt trí, trí vô sinh và trực kiến vô học. Tám A-la-hán ái thời giải thoát, thành tựu pháp không động, thành tựu này là tùy tín hành, đạo kiến đế và chín căn vô lậu trong mười lăm tâm. Đây gọi là Vị tri căn. Mười sáu tâm đắc quả là chín căn vô lậu. Đây gọi là dĩ tri căn, chín căn này đều là pháp vô học, đây gọi là đại tri căn. Lúc đắc quả, làm mất hướng đạo, dứt trừ hết kiết sử trong đạo.

Có hai thứ thành tựu là hữu vi, vô vi. Lúc được quả lớn, tất cả đều làm mất hai thứ gốc, được một thứ thành tựu. Chín thứ diệt trừ kiết sử và các pháp ẩn mất. Tâm thứ chín, tất cả đều được dứt trừ.

Pháp năng tiến là A-la-hán được việc thiện không động, chẳng phải pháp nào khác. Tín giải thoát bậc hữu, học đắc, căn cơ nhạy bén gọi là kiến đáo, không phải pháp khác. Các kiết sử trong đạo kiến đế đều khác nhau, pháp vô lậu đều khác nhau. Vì lý do này, nên dần dần kiến đế, không phải kiến đế cùng một lúc, do sức của đạo vô ngại mà chứng được quả. Chính vì lẽ này nên có hai thứ quả: Quả hữu vi và quả vô vi.

LUẬN A TỲ ĐÀM CAM LỘ VỊ

QUYỂN HẠ

Phẩm 11: TRÍ

Mười trí là Pháp trí, trí vị tri (loại trí), đẳng trí, trí tri tha nhân tâm (Trí tha tâm), khổ trí, tập trí, tận trí, đạo trí, diệt trí, và trí vô sinh. Thế nào là pháp trí? Là trí vô lậu trong các hành khổ thuộc cõi Dục. Trí vô lậu trong các hành tập thuộc cõi Dục. Trí vô lậu trong các hành tận thuộc cõi Dục. Vì các hành đạo dứt trừ phiền não thuộc cõi Dục, trí vô lậu trong đạo và trí vô lậu trong địa pháp trí, đó gọi là pháp trí.

Thế nào là trí vị tri? Là trí vô lậu trong các hành khổ thuộc cõi Sắc, Vô Sắc. Trí vô lậu trong các hành tập thuộc cõi Sắc, Vô Sắc, vì các hành đạo dứt trừ phiền não thuộc cõi Sắc, Vô Sắc, trí vô lậu trong đạo và trí vị tri, trí vô lậu trong địa trí vị tri, đó gọi là trí vị tri.

Thế nào là đẳng trí? Tất cả trí tuệ hữu lậu hoặc là thiện, bất thiện, vô ký, đó là đẳng trí.

Thế nào là trí tri tha nhân tâm? Do sức tư duy trong thiền mà biết được pháp tâm, tâm sở của người khác ở cõi Dục, Đó là trí tri tha nhân tâm.

Thế nào là khổ trí? Là trí quán vô lậu về vô thường, khổ, không, phi ngã (vô ngã) trong năm thọ ấm, đó là khổ trí.

Thế nào là tập trí? Là trí quán vô lậu về tập nhân hữu duyên của năm thọ ấm. Đấy là tập trí.

Thế nào là tận trí? Là trí quán vô lậu về tận, chỉ, diệu, xuất, đó là tận trí.

Thế nào là đạo trí? Là trí quán vô lậu về tám trực đạo (bát chánh đạo) nên trụ xuất, đó gọi là Đạo trí.

Thế nào là diệt trí? Là kiến khổ, đoạn tập, chứng diệt, tư duy đạo, là trí quán vô lậu trong bốn pháp, đó gọi là Diệt trí.

Thế nào trí vô sinh? Ta đã thấy khổ, không còn thấy khổ nữa,

ta đã đoạn, không còn đoạn tập nữa. Ta đã tác chứng, không còn tác chứng nữa. Ta đã tư duy đạo, không còn tư duy đạo nữa, là trí quán vô lậu trong bốn pháp. Đây gọi là trí vô sinh, là mười sáu hành của hai trí trong mười trí.

Pháp trí, trí vị tri là mười sáu hành của đẳng trí trong pháp Noãn, Đảnh, Nhẫn, bốn hành của đẳng trí trong pháp bậc nhất thế gian. Ngoài ra, không có hành nào khác. Bốn hành của trí tha tâm vô lậu, như đạo trí. trí tri tha tâm hữu lậu là không hành.

Khổ trí có bốn hành, tập trí có bốn hành, tận trí có bốn hành, đạo trí có bốn hành, diệt trí, trí vô sinh, mỗi trí này đều có mười bốn hành, trừ hành không, vô ngã.

Thiền vị đáo và thiền địa trung gian có chín trí, trừ trí tri tha tâm.

Mười trí trong bốn thiền khác, định Vô Sắc có tám trí, trừ pháp trí và trí tri tha tâm. Tâm vô lậu bậc nhất thành tựu một đẳng trí. Tâm vô lậu thứ hai thành tựu ba trí là đẳng trí, pháp trí và khổ trí. Tâm vô lậu thứ ba vượt qua, tâm vô lậu thứ tư thành tựu bốn trí: Đẳng trí, pháp trí, khổ trí và trí vị tri. Tâm vô lậu thứ năm vượt qua, tâm vô lậu thứ sáu thành tựu năm trí: Đẳng trí, pháp trí, khổ trí, trí vị tri và tập trí. Tâm vô lậu thứ bảy vượt qua. Tâm vô lậu thứ tám cũng vượt qua. Tâm vô lậu thứ chín thành tựu sáu trí: Đẳng trí, pháp trí, khổ trí, trí vị tri, tập trí và tận trí. Tâm vô lậu thứ mười, thứ mười một vượt qua. Tâm vô lậu thứ mười hai thành tựu bảy trí: Đẳng trí, pháp trí, khổ trí, trí vị tri, tập trí, tận trí và đạo trí. Nếu trí đã lìa dục, từng biết được tâm người khác, sẽ có hai thứ tu trí là đắc tu và hành tu, trước chưa được công đức, đến nay mới được, đó là đắc tu. Trước đây đã được công đức, hiện nhập ở trước, đó là hành tu. Tu hiện ở trước trong đạo kiến đế, sự tu đó tức tu ở vị lai.

Như vậy tu các nhẫn hiện ở trước, cũng là tu ở mai sau. Trí khổ vị, tập vị tri, trí tập vị tri, là tu đẳng trí trong ba trí vị tri. Hoặc tu sáu trí, hoặc tu bảy trí trong đạo trí vị tri. Nếu chưa lìa dục tu sáu trí, đã lìa dục tu bảy trí, thì trí tri tha tâm vượt qua quả Tu-đà-hoàn. Tu bảy trí trong mười bảy tâm, trừ diệt trí, trí vô sinh và trí tri tha tâm, là tín giải thoát lúc được căn cơ nhạy bén trong mười bảy tâm. Tu sáu trí trong hai đạo: vô ngại và giải thoát, trừ trí tha tâm, đẳng trí, diệt trí và trí vô sinh được quả A-na-hàm. Tu tám trí trong đạo giải thoát, trừ diệt trí, trí vô sinh.

Như vậy, lúc bảy địa lìa dục, tu tám trí trong đạo giải thoát, trừ diệt trí, trí vô sinh, đó là tu bảy trí trong các đạo vô ngại, trừ trí tri tha tâm, diệt trí và trí vô sinh.

Lúc hữu tưởng Vô tưởng lìa dục, tu bảy trí trong tám đạo giải thoát, trừ đẳng trí, diệt trí, và trí vô sinh. Tu sáu trí trong chín đạo vô ngại, trừ đẳng trí, tri trí tha tâm, diệt trí và trí vô sinh. Tu các căn thiện hữu lậu, vô lậu trong tâm vô học ban đầu. Tâm vô học đầu tiên này tương ưng với trí khổ vị tri. Có người nói là tương ưng với trí tập vị tri. Vì sao? Vì xứ hữu tưởng, Vô tưởng tương ưng với sinh duyên, tâm vô học ban đầu kiến đế. Vì tám nhẫn tìm kiếm, nên gọi là kiến, không phải trí. Diệt trí, trí vô sinh là trí không phải kiến. Ngoài ra, tuệ vô lậu vừa là tuệ, vừa là kiến, vừa là trí, trừ tuệ hữu lậu thiện tương ưng với ý thức và năm tà kiến. Tuệ hữu lậu còn lại vừa là trí, vừa là tuệ, không phải kiến. Pháp trí duyên theo chín trí, trừ trí vị tri. Trí vị tri duyên theo chín trí, trừ pháp trí. Đạo trí duyên theo chín trí, trừ đẳng trí. Khổ trí, tập trí duyên nơi tất cả pháp hữu lậu. Trí còn lại duyên mười trí và đẳng trí, trí tha tâm, diệt trí, và trí vô sinh.

Hai trí: Trí tận pháp và Trí đạo pháp có thể làm dứt trừ kiết của ba cõi, sáu thông, bốn thông, đẳng trí, thân thông, nhĩ thông, nhãn thông, túc mạng thông và tha tâm thông.

Năm trí: Pháp trí, trí vị tri, đạo trí, đẳng trí và trí tha tâm thuộc lậu tận thông. Chín trí vô lậu trừ đẳng trí.

Bốn ý chỉ: Thân ý chỉ có tám trí, trừ trí tha tâm, tận trí. Thống (thọ) ý chỉ, tâm ý chỉ có chín trí, trừ tận trí. Pháp ý chỉ có mười trí. Bốn biện là pháp biện, từ biện, ứng biện, nghĩa biện của đẳng trí đều có mười trí, nguyện trí có bảy trí, trừ trí tha tâm, diệt trí, trí vô sinh.

Lực thứ nhất trong mười lực nhận biết mười trí. Hai lực, ba, bốn, năm, sáu lực có chín trí, trừ tận trí.

Bảy lực có mười trí. Tám lực, chín lực có một trí là đẳng trí. Mười lực có chín trí, trừ đẳng trí.

Pháp vô úy thứ nhất có mười trí nhận biết. Pháp vô úy thứ hai có chín trí nhận biết, trừ đẳng trí. Pháp vô úy thứ ba có tám trí nhận biết, trừ đạo trí, tận trí. Pháp vô úy thứ tư có tám trí, trừ khổ trí và tập trí.

 

Phẩm 12: THIỀN ĐỊNH

Được thiền định nhất tâm, tâm không phân tán, trí tuệ thanh tịnh. Ví như đèn dầu xa nơi có gió thì ánh sáng sẽ tỏa ra sáng tỏ.

Thế nào là thiền định? Tám thứ thiền định là bốn thiền và bốn định Vô Sắc.

Bốn thiền: Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền, là các thiền định. Vị tịnh của ba thiền là vô lậu tương ưng với ái, đây gọi là có vị. Thiền hữu lậu thiện, đó là tịnh. Không có phiền não, đó là vô lậu.

Hai thứ định trong Hữu đảnh: Có vị và tịnh, không có pháp thiện của định vô lậu. Ở chỗ vắng lặng, hoặc ngồi hoặc đứng, hoặc nằm, hoặc bước đi với ý, trí nhất định, tin tưởng thật sâu xa trong tâm khéo léo. Người có tâm như vậy, nên nhập thiền định.

Dục, tinh tiến, niệm, tuệ, nhất tâm (định) tương ưng với thiền. Các pháp thiện này hướng đến định của Sơ thiền, lìa dục, lìa pháp ác bất thiện. Có giác, có quán, lìa dục, sinh đắc hỷ lạc, đó là Sơ thiền.

Nhiễm đắm nơi ngoại nhập, đó là tham dục, sân hận, thùy miên, điệu, hý, nghi, năm cái này là pháp ác, bất thiện. Dứt trừ hai thứ pháp ác trong ngoài ấy, đó gọi là lìa. Tâm duyên chuyển xoay lại, đó gọi là giác. Tâm thọ hành tư duy, đấy là quán. Dứt trừ pháp ác, bất thiện, gắng sức được thiền, đó là lìa dục. Tâm sinh vui vẻ, đó là hỷ. Thân tâm yên ổn, đó là lạc. Buộc tâm trong duyên, đó là nhất tâm. Là năm chi của Sơ thiền. Dâm dục là tội khổ lớn, không vui, do sức lìa dục, nên được yên ổn và xuất ly.

Như thế, tư duy các pháp thiện như dục, v.v…, phải sinh trong tâm, đó gọi là được đạo Sơ thiền. Hỷ, lạc, xả căn tương ưng với ba thọ căn. Lạc căn tương ưng với ba thức thân là nhãn, nhĩ, thân thức. Hỷ căn tương ưng với ý thức, xả căn tương ưng với bốn thức.

Sơ thiền này có thân riêng, tưởng riêng. Có thân riêng một tưởng, bốn tâm ở Sơ thiền là nhãn, nhĩ, thân, ý, đó gọi là các giác quán của Sơ thiền. Nội diệt nhất tâm tịnh, vô giác vô quán, định sinh được tương ưng với hỷ lạc. Đó là giác quán của Nhị thiền, như trước đã nói.

Dứt trừ hẳn, đó gọi là diệt. Niềm tin của các địa không cấu uế, đó gọi là bên trong thanh tịnh. Ý thức buộc nơi duyên không phân tán, đó gọi là nhất tâm. Về chi hỷ, lạc như trước đã nói.

Hỷ căn, xả căn tương ưng với hai thọ căn. Một tưởng của thân riêng tương ưng với hỷ. Địa gần căn bản tương ưng với xả căn, trừ diệt cấu uế giác, quán, trừ diệt công đức tư duy là con đường đi đến hai thiền, vì lìa cấu uế của hỷ.

Xả hành thọ thân ở địa dưới, người lạc vô lậu, là nói lạc, xả, niệm dưới, lạc nhập Tam thiền lìa hỷ như trước đã nói.

Tâm xả, phóng xả và lạc. Hai thứ thọ, lạc không phiền não là ưa hành niệm, nhớ giữ trong thân. Lạc này khó biết được pháp thật, thế nên vô lậu được nói là lạc, cũng thực hành, xả các pháp thiện như dục v.v… là con đường tiến đến ba thiền.

Quán hỷ ghét bỏ tội không hỷ lạc thiền quán, chỉ, lạc, xả, niệm, trí, nhất tâm, đó là năm chi như trước nói, đó gọi là ba thiền dứt trừ lạc, khổ. Trước hết là diệt ưu, hỷ căn, xả niệm tịnh nhập Tứ thiền. Các pháp thiện như dục, v.v… cũng lại quán cấu uế của vui khổ, không khổ, không lạc. Khéo chỉ là đạo đi vào Tứ thiền.

Bốn chi là xả niệm, trí thiện, nhất tâm, sức thiền và diệt hơi thở, đó là Tứ thiền. Tất cả chi thiền thiện, thiền vị đáo có giác, có quán, thiền trung gian không có giác, có quán. Hai địa này tương ưng với xả căn. Hai thứ tịnh vô lậu của địa thiền vị đáo không phải là vị. Ba thứ vị, tịnh, vô lậu trong Tứ thiền gọi là thiền pháp.

Lìa ghi nhớ sắc cũng quán vô lượng không, nhập định không, quán cấu uế của sắc, khéo dừng lại ở Không xứ. Quán này là con đường hướng đến định không.

Ghi nhớ vô lượng thức, nhập thức xứ quán cấu uế của không xứ. Khéo dừng lại ở thức xứ, quán theo cách đó hướng đến định thức.

Vô lượng thức hành, đó là khổ. Ghi nhớ hành bất dụng xứ, nhập định bất dụng. Quán cấu uế của vô lượng thức xứ, khéo dừng lại ở Bất dụng xứ. Quán theo cách ấy hướng đến định Bất dụng, là xứ hữu tưởng bệnh, xứ Vô tưởng si. Tư duy như vậy, nhập định hữu tưởng, Vô tưởng, quán cấu uế của Bất dụng xứ, khéo dừng lại ở hữu tưởng, Vô tưởng. Quán theo cách ấy hướng đến định hữu tưởng, Vô tưởng. Đó là định hữu tưởng, Vô tưởng.

Đạo hướng đến Niết-bàn có hai thứ:

  1. Quán thân bất tịnh.
  2. Đến hơi thở.

Trong phần thứ nhất của thân ý chỉ, hai giải thoát, bốn trừ nhập có nói rõ về pháp bất tịnh. Nhập định sổ tức, từ một, hai cho đến mười niệm, gìn giữ hơi thở ra vào như người giữ cửa quán tất cả pháp khởi, diệt. Hai tướng này là sáu thứ phân biệt của tự tướng, quán thân vô thường, khổ, không, phi ngã (vô ngã).

Như thế, tất cả các pháp quán về sự sợ hãi thế giới, dần dần diệt cấu uế, bắt đầu thực hành pháp thiện, hướng về Niết-bàn.

Địa của thiền vị đáo, địa của thiền trung gian, địa của Tứ thiền, địa của ba Vô Sắc có hai thứ: Hữu lậu, vô lậu. Tất cả hữu lậu của Hữu đảnh là mười tưởng: vô thường, khổ khổ, vô ngã, quán thức ăn, tất cả thế gian không đáng vui, bất tịnh, chết, đoạn, không có dục và tưởng diệt tận.

Nhớ nghĩ đến các hành vô thường, đó là tưởng vô thường.

Nhớ nghĩ nỗi khổ đau của sanh, v.v… đầy khắp thế gian, đó là tưởng khổ.

Nhớ nghĩ trong ngoài đều vô thường, khổ, không tự tại, trống không, đó gọi là tưởng khổ vô ngã.

Lúc nhớ nghĩ đến nhiều sự khổ nhọc mà được thức ăn là bất tịnh, đó là quán tưởng về thức ăn.

Nhớ nghĩ đến những sự sợ hãi về sinh, già, bệnh, chết, v.v…, các thứ phiền não đầy khắp thế giới, đó gọi là tưởng về tất cả thế gian không đáng vui.

Quán những thứ chứa đựng trong tự thân, đó là tưởng bất tịnh.

Nhớ nghĩ hết thảy sự sống đều phải chết, đó là tưởng về chết.

Nhớ nghĩ sự dứt trừ tất cả phiền não, là khéo dừng lại, đó là tưởng dứt trừ.

Nhớ nghĩ đến sự vô thường lìa dục, đó là tưởng vô dục.

Nhớ nghĩ đến năm thọ ấm không còn sinh nữa, là tận chỉ diệu ly nơi Niết-bàn, đó là tưởng tận diệt.

Mười tưởng này thường nhớ nghĩ thì, dứt được bờ mé khổ.

 

Phẩm 13: TẠP ĐỊNH

Tam muội v.v… chung cho tất cả ấm, nhập, trí giải thoát thiền.

Ba tam muội là tam muội Không, tam muội Vô nguyện, và tam muội Vô tướng. Vì buộc tâm nơi duyên vô lậu, nên gọi là tam muội. Nhất tâm quán năm thọ ấm là không, vô thường, phi ngã, đó là tam muội Không. Nhập tam muội này, không mong muốn dâm dục, phẫn nộ, ngu si còn có sinh ra, đó là tam muội Vô nguyện. Tam muội này duyên pháp lìa mười tưởng.

Thế nào là mười tưởng? Là năm trần như sắc, v.v…, nam, nữ, sinh, già, vô thừơng, đó gọi là tam muội Vô tướng.

Hai hành của tam muội Không là hành không và hành vô ngã.

Tam muội Vô nguyện có mười hành: Hành vô thường, khổ, cũng là hành tập, đạo.

Tam muội Vô tướng cùng đủ bốn hành, bốn đẳng (bốn vô lượng) là từ, bi, hỷ, hộ (xả). Tự mình được sự vui sướng, nhớ nghĩ đem cho tất cả chúng sinh, đó là có ba thứ tâm. Trước hết là bà con, thân thuộc. Kế là người trong nhà, sau là các kẻ thù. Nhất tâm tư duy về tất cả thân của chúng sinh trong ba cõi và kẻ thù đều bình đẳng, không khác nhau, trừ sự giận dữ bên trong, là thọ, tưởng, hành, thức tương ưng với từ, v.v… Có thể khởi chánh ngữ, chánh nghiệp, cũng là các hành không tương ưng. Đó là từ đẳng (từ vô lượng). Nhất tâm tư duy về thân tâm của chúng sinh trong ba cõi, đã gieo trồng sự cay đắng, mong muốn được cứu giúp. Tư duy như vậy, có thể tiêu trừ khổ não bên ngoài, là thọ, tưởng, hành, thức tương ưng với bi, v.v… Có thể khởi chánh ngữ, chánh nghiệp, cũng là các hành không tương ưng. Đó gọi là bi đẳng (bi vô lượng). Nhất tâm tư duy chúng sinh trong ba cõi hoan hỷ được vui, có thể dứt trừ lo khổ, là thọ, tưởng, hành, thức tương ưng với hỷ, v.v… Có thể khởi chánh ngữ, chánh nghiệp, cũng là hành không tương ưng. Đó gọi là hỷ đẳng (hỷ vô lượng). Nhất tâm tư duy về vui, khổ, hỷ, phóng, xả của chúng sinh trong ba cõi, có thể dứt trừ dục, sân. Xả đẳng tương ưng với thọ, tưởng, hành, thức, có thể khởi chánh ngữ, chánh nghiệp, cũng là hành không tương ưng. Đó là xả đẳng (xả vô lượng).

Sáu thông là thần túc; thiên nhãn, thiên nhĩ, thức túc mạng, trí tha tâm và lậu tận thông, trừ thông thứ sáu (lậu tận), các thứ kia thì phàm phu cũng đạt được.

Thế nào là thần túc thông? Thần túc thông này có ba thứ:

  1. Bay đi.
  2. Biến hóa.
  3. Thần thông của bậc Thánh. Có ba thứ bay đi:
  4. Tự thân bay đi, ví như chim bay.
  5. Ở cõi này, bỗng nhiên biến mất và hiện đến cõi khác.
  6. Sức của tâm tự tại, như co duỗi cánh tay, đó gọi là thần thông của Chư Phật, không phải là của các đạo khác.

Thường quán thân là không, học cất mình lên một cách nhẹ nhàng, là đáo thú đến thần thông, có thể biến hóa thành lớn, nhỏ, có thể hóa nhiều thành ít, hóa ít ra nhiều, có thể chuyển biến thành các thứ vật dụng, đó gọi là thần thông biến hóa.

Phàm phu biến hóa đến bảy ngày, quá bảy ngày thì diệt. Phật và đệ tử biến hóa tự tại. Lúc biến hóa, quán thế gian tịnh thành bất tịnh, bất tịnh thành tịnh, trừ niệm tịnh, bất tịnh, tâm, niệm, xả. Đó gọi là thần thông của bậc Thánh.

Ba thứ thông này sinh từ diệu lực của bốn thần túc. Tất cả duyên theo sắc, dần dần được cất mình lên hư không một cách nhẹ nhàng. Chư Phật trong một lúc được thiên nhãn thông, từ mắt của mình, bốn đại tạo cõi Sắc tịnh, sinh khởi được thiên nhãn, nhìn thấu suốt cả gần, xa, trên, dưới. Thấy tất cả sắc rất vi tế, ghi nhớ mặt trời, mặt trăng, các vì sao, lửa, ngọc sáng là con đường đạt được thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông. Từ tai mình, bốn đại tạo cõi Sắc thanh tịnh, sinh khởi được thiên nhĩ, nhớ nghĩ, nhận biết các thứ tiếng nói của cõi trời, người, địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Là con đường hướng đến thiên nhĩ thông.

Thức túc mạng thông, nhớ nghĩ các việc đời trước và nơi mình sinh ở đâu. Đó là con đường hướng đến túc mạng thông.

Thần thông nhận biết được tâm địa của người, tức đều biết rõ tâm thanh tịnh và tâm nhiễm ô của người. Tự tâm sinh, diệt, có thể phân biệt nhận biết, là con đường hướng đến tri tha tâm thông.

Tất cả lậu của ba cõi, ta đều dứt hết. Như vậy nhớ nghĩ, nhận biết được năm thọ ấm là vô thường, v.v…, là con đường đạt được lậu tận thông. Túc mạng thông và thiên nhãn thông hoàn toàn là minh. Túc mạng thông nhận biết nhân duyên thứ lớp của thế gian, đó là minh.

Thiên nhãn thông nhận biết nhân duyên như hành nghiệp được quả báo, đó là minh.

Lậu tận thông là lậu của cõi Dục, Sắc, Vô sắc đã hết, “Ta đã dứt hết các lậu”, đó là minh.

Mười Nhất thiết nhập, ghi nhớ tất cả địa, không nhớ nghĩ gì khác, đó là nhất thiết nhập của địa, cho đến nhất thiết nhập của thức cũng như vậy.

Tám giải thoát: Trong có tưởng sắc, ngoài quán sắc, trong không có tưởng sắc, ngoài quán sắc, tịnh giải thoát tác chứng bốn định Vô Sắc, định Diệt tận, đó là tám giải thoát.

Duyên quán chuyển tâm được giải thoát, đó là giải thoát. Quán sắc bên trong bất tịnh và quán sắc bên ngoài, đó là giải thoát ban đầu. Không quán sắc bên trong, quán sắc bên ngoài bất tịnh, là giải thoát thứ hai. Phân biệt quán sắc trong, ngoài, tất cả sắc tịnh là giải thoát thứ ba.

Bốn định Vô Sắc, bốn giải thoát, giải thoát diệt tận.

Trong có tưởng sắc, ngoài quán một ít sắc xấu, tốt, là duyên tri kiến thù thắng, là trừ nhập (thắng xứ) thứ nhất. Bên trong có tưởng sắc, bên ngoài quán vô lượng sắc tốt, xấu, là duyên tri kiến thù thắng, là trừ nhập thứ hai. Trong không có tưởng sắc, ngoài quán một ít sắc tốt, xấu, là duyên tri kiến thù thắng, là trừ nhập thứ ba. Bên trong không có tưởng về sắc, ngoài quán vô lượng sắc tốt, xấu, là duyên tri kiến thù thắng, là trừ nhập thứ tư. Trong không có tưởng sắc, ngoài quán sắc màu xanh, là duyên tri kiến thù thắng, là trừ nhập thứ năm. Các màu vàng, đỏ, trắng, cũng giống như vậy.

Bên trong không loại trừ tưởng về sắc, bên ngoài quán một ít sắc tịnh là:

  1. Duyên vô lượng.
  2. Bên trong trừ tưởng sắc, bên ngoài quán một ít sắc tịnh.
  3. Duyên vô lượng.
  4. Nhớ nghĩ đến các màu xanh, vàng, đỏ, trắng, khác.

Vì duyên thù thắng của bốn thứ trừ nhập tịnh, nên nói là trừ nhập.

Sắc đẹp hình dáng trang nghiêm, vì trừ bỏ cấu uế, nên giải thoát, đó là trừ nhập, gọi riêng là ba giải thoát, bốn trừ nhập.

Tám nhất thiết nhập (biến xứ) thuộc về giải thoát tịnh. Mười trí như trước đã nói. Ba đẳng tâm là từ, bi, xả và năm thông trong bốn thiền căn bản có.

Trong sáu địa: Pháp trí, thiền vị đáo, thiền trung gian, bốn thiền căn bản, hỷ v.v… là giải thoát thứ nhất, giải thoát thứ hai, bốn trừ nhập ban đầu, trong Sơ thiền, hai thiền có. Các trừ nhập còn lại, giải thoát tịnh, tám Nhất thiết nhập (tám biến xứ) có trong đệ Tứ thiền. Các giải thoát còn lại hai nhất thiết nhập thuộc về tên của mình.

Giải thoát diệt tận thuộc về Hữu đảnh. Ba tam muội, bảy trí lậu tận thông thuộc về chín địa, trừ đẳng trí trong Hữu đảnh.

Trong mười địa có ba giải thoát của cõi Vô Sắc, hoặc hữu lậu, hoặc vô lậu, ba giải thoát khác, tám trừ nhập, mười nhất thiết nhập là hữu lậu, tất cả hữu lậu trong Hữu đảnh, do chậm lụt, không nhanh nhẹn, cho nên là hữu lậu. Vì định Diệt tận không có trí tuệ, cho nên hữu lậu. Trong năm thông, thường là tâm vô ký. Bốn đẳng tâm (bốn tâm vô lượng) vì duyên theo chúng sinh, nên là hữu lậu. Ái dục chưa hết, kiết sử của ba cõi đã thành. Ái dục đã hết, kiết sử của cõi Sắc, Vô Sắc thành tựu. Ái cõi Sắc hết, kiết sử của cõi Vô Sắc thành tựu. Ái của cõi Vô Sắc hết, kiết sử của ba cõi không thành. Ái cõi Dục hết, vô lậu tịnh ở Sơ thiền thành tựu, như vậy, vô lậu của bậc Thánh trong tất cả địa đều thành tựu. Bậc Thánh sinh ở địa trên hay địa dưới đều thành tựu vô lậu, cầu được năm thông, bốn đẳng tâm, sự cấu uế của kiết ở địa dưới không thành tựu.

Đạo thế tục dựa vào địa thiền vị đáo, lìa dục của địa dưới. Như vậy, đạo vô lậu của tất cả địa đều dựa vào địa thiền căn bản. Địa mình cũng lìa dục địa trên. Vì tất cả địa đều như vậy, nên phàm phu trong Hữu đảnh không thể lìa dục. Các pháp Noãn, Đảnh, Nhẫn, pháp thế gian đệ nhất đều lìa dục. Người tu thiền định hữu lậu trong hai thời gian hiện tại, vị lai, khổ, tập, tận trong đạo kiến đế, tu trí vô lậu hiện ở trước trong trí vị tri.

Vị lai có hai thứ: trí hữu lậu, và trí vô lậu. Vô lậu của vị lai, vô lậu hiện ở trước trong những tâm khác.

Nếu đệ tử của Đức Thế Tôn lìa ái dục, dựa vào địa của thiền vị đáo, ở hiện tại tu đạo hữu lậu, ở vị lai tu đạo hữu lậu, vô lậu. Đạo giải thoát thứ chín tu đạo hữu lậu trong hiện tại, tu hữu lậu, vô lậu ở vị lai và Sơ thiền tu thiền vị đáo vô lậu. Nếu dựa vào thiền vị đáo để tu đạo vô lậu trong hiện tại, thì ở vị lai sẽ tu đạo hữu lậu, vô lậu. Nếu tu đạo vô lậu ở hiện tại trong đạo giải thoát thứ chín, thì sẽ tu đạo hữu lậu, vô lậu ở vị lai.

Về Sơ thiền, nếu đệ tử Đức Thế Tôn nếu đã lìa ái dục của Sơ thiền, dựa vào địa của Nhị thiền vị đáo hiện ở trước tu đạo vô lậu, vị lai tu đạo hữu lậu vô lậu. Trong đạo giải thoát thứ chín, tu đạo hữu lậu ở hiện tại, tu ba thứ vô lậu ở vị lai.

Sơ thiền và tu tịnh vô lậu ở đệ Nhị thiền, nếu lìa ái của Sơ thiền, dựa vào đạo vô lậu, hướng đến Nhị thiền, tu vô lậu ở địa mình, tu đạo hữu lậu, vô lậu ở địa khác.

Trong đạo giải thoát thứ chín, tu đạo vô lậu ở hiện tại, vị lai tu ba thứ vô lậu. Sơ thiền và vô lậu tịnh ở Nhị thiền, cho đến Bất dụng xứ lìa dục cũng giống như vậy.

Lúc lìa dục trong Hữu đảnh, tu tất cả thiền định vô lậu, hiện tại tu đạo vô lậu trong đạo giải thoát thứ chín, tu vô lậu ở vị lai và tu hai mươi ba thứ định của căn thiện thuộc ba cõi.

Có vị tám, tịnh tám, vô lậu bảy, tất cả vô lậu bảy địa là nhân tự nhiên vô lậu, vô lậu của địa mình, vô lậu của địa mình có ba thứ nhân: nhân tương ưng, nhân cộng hữu và nhân tự nhiên. Vị định của đệ nhất hữu, là nhân của vị định nơi đệ nhất hữu không phải nhân khác. Định tịnh thứ nhất nhân của định tịnh thứ nhất, không phải là nhân khác. Định vô lậu thứ nhất thứ lớp khởi sáu thứ định: Thiền thứ nhất có hai thứ: tịnh, vô lậu. Vô lậu của đệ nhị, đệ Tam thiền cũng như vậy. Vô lậu ở đệ Nhị thiền thứ lớp sinh tám địa: Địa mình có hai thứ, địa trên có bốn thứ, địa dưới có hai thứ. Đệ Tam thiền vô lậu, đệ Tứ thiền, định không xứ thứ lớp sinh mười địa: Trên, bốn địa dưới, bốn thứ và địa mình hai thứ. Thức xứ vô lậu theo thứ lớp sinh chín địa: Địa trên ba thứ, địa dưới bốn thứ, địa mình hai thứ. Định Bất dụng xứ vô lậu thứ lớp sinh bảy địa, địa trên một thứ, địa dưới bốn thứ, địa mình hai thứ.

Định Vô Sắc thứ tư thứ lớp sinh sáu địa: Địa dưới bốn thứ, tự địa hai thứ, thiền tịnh cũng như thế. Hữu vị thứ lớp sinh hai thứ. Hữu vị của tự địa cũng lại tịnh.

Như vậy, các thiền định tịnh, vô lậu của tất cả địa, tất cả duyên, tất cả pháp duyên theo tự địa hữu vị. Hữu vị của tự địa duyên cũng lại tịnh. Duyên theo hữu vị không thể duyên các tịnh vô lậu. Định Vô Sắc vô lậu không duyên địa hữu lậu. Định Vô Sắc hữu vị duyên theo hữu vị của tự địa, duyên tịnh không thể duyên theo vô lậu.

Bốn đẳng, tám trừ nhập, ba giải thoát, tám nhất thiết nhập, tất cả các pháp này đều duyên theo cõi Dục. Năm thông duyên theo cõi Dục, cõi Sắc. Tất cả thiền huân, thiền vô lậu, huân tập thiền hữu lậu được người của Tứ thiền, trước huân tu đệ Tứ thiền, sau huân tu ba thiền dưới, được quả báo của năm Tịnh cư.

A-la-hán Bất động pháp được tất cả thiền định, có thể được Đảnh thiền, có thể trụ thọ, cũng có thể xả thọ. Nguyện trí từ tâm nguyện mong, biết tường tận các pháp quá khứ, vị lai và hiện tại, thường là biết pháp vị lai.

Bốn biện tài: pháp biện, từ biện, ứng biện và nghĩa biện, khiến tâm người khác không nổi cơn giận. Đấy là vô tránh thuộc về Tứ thiền, cũng lại là nguyện trí của đệ Tứ thiền thuộc cõi Dục, cũng lại là pháp biện, từ biện của cõi Dục thuộc cõi Dục và hai biện tài khác trong Phạm thiên thuộc về chín địa.

Bốn thiền của cõi Dục, thiền tịnh của bốn Vô Sắc có hai thời: lúc được lìa dục và lúc phát sinh được thiền. Thiền được hữu vi có hai thời: lúc bị thoái chuyển và lúc được sinh. Được vô lậu thiền đạt có hai thứ được: Được hoặc lúc thoái chuyển, và khi lìa dục được, đều thuộc chín địa. Vô lậu có thể dứt trừ kiết sử.

Sự biến hóa có mười bốn tâm: Mười tâm cõi Sắc, bốn tâm của cõi Dục. Sơ thiền có hai tâm biến hóa: Sơ thiền có một, cõi Dục có một. Nhị thiền có ba tâm biến hóa: Nhị thiền có một, Sơ thiền có một, cõi Dục có một. Tam thiền có bốn tâm biến hóa, Tam thiền có một, Nhị thiền có một, Sơ thiền có một, cõi Dục có một. Tứ thiền có năm tâm biến hóa: Tứ thiền có một, Tam thiền có một, Nhị thiền có một, Sơ thiền có một, cõi Dục có một.

Những thiền nào thành tựu quả này? Tâm biến hóa của địa dưới thành tựu trụ địa của Tam thiền. Thức của Phạm thiên hiện ở , năng có thể thấy nghe bấy giờ thành tựu, liền diệt, bấy giờ không thành tựu.

 

Phẩm 14: TAM THẬP THẤT PHẨM

Ý chỉ, ý đoạn, thần túc, căn, lực, giác, đạo là bảy pháp dẫn đến Niết-bàn. Trong ấy bảy giác ý là vô lậu, sáu thứ còn lại thì phân biệt hoặc hữu lậu, hoặc vô lậu.

Có thuyết nói: Bảy giác ý, tám trực đạo, tất cả đều vô lậu. Những thứ còn lại thì phân biệt. Bốn ý chỉ (bốn niệm xứ) có trong thiền định của tất cả địa, thuộc bốn thứ trí thường niệm giữ, đó là niệm chỉ. Ba thứ: Hành trí tuệ trong niệm thân, đó gọi là thân niệm chỉ. Như vậy, niệm chỉ thọ, tâm, pháp, đấy là bốn niệm chỉ. Vì sao không nói ba niệm chỉ hoặc năm niệm chỉ? Vì muốn phá trừ bốn điên đảo, nên nói bốn niệm chỉ (bốn niệm xứ).

Thế nào là thân niệm chỉ? Vì hủy hoại sự điên đảo của tưởng tịnh, quán tướng thật của thân có ba mươi sáu thứ bất tịnh. Nếu chết thì sâu trùng lúc nhúc bò ra v.v… thân thể hôi tanh, mục nát, còn trơ lại xương v.v… Quán thân như vậy là hủy hoại tưởng tịnh điên đảo.

Thế nào là thọ niệm chỉ? Quán sinh trụ diệt khổ của thọ nơi các hữu. Sử dâm dục trong lạc thọ, sử sân hận trong khổ thọ và sử vô minh trong thọ không khổ, không vui, quán vô thường, khổ, không, vô ngã, đó là thọ niệm chỉ.

Thế nào là tâm niệm chỉ? Là quán tâm nhiễm ô, tâm không nhiễm ô. Nếu nhất tâm, hoặc tâm phân tán, quán khổ, vô thường v.v… đấy là tâm niệm chỉ.

Thế nào là pháp niệm chỉ? Đó là quán pháp bên trong, quán pháp bên ngoài và quán pháp trong lẫn ngoài. Hoặc quán pháp quá khứ, vị lai, hoặc quán các kiết sử, có bao nhiêu pháp dứt trừ, bao nhiêu pháp không dứt trừ? Hoặc quán khổ vô thường, quán nhân duyên của tập, quán sự ngừng dứt, đó là pháp niệm chỉ.

Thế nào là bốn ý đoạn (bốn chánh cần)? Trong tâm đã sinh pháp ác bất thiện, muốn dứt bỏ, nên siêng năng tinh tiến chế ngự tâm, trụ nơi pháp thiện. Lúc chưa sinh pháp ác, bất thiện, chớ khiến cho chúng sinh siêng năng tinh tiến, ngăn giữ tâm, trụ nơi pháp thiện. Pháp thiện chưa phát sinh, muốn cho sinh, nên siêng năng tinh tiến trụ pháp thiện. Pháp thiện đã sinh, nhớ giữ lại đừng để cho mất, càng làm cho lớn thêm, siêng năng tinh tiến trụ pháp thiện, đó là bốn ý đoạn (bốn chánh cần).

Thế nào là bốn thần túc? Dục định, tinh tiến định, tâm định và tuệ định. Từ các định này được tất cả công đức, đó là bốn thần túc.

Dục định dứt trừ các hành, thành tựu thần túc bậc nhất, muốn làm,

đó gọi là dục. Tâm không phân tán, đó là định. Dục, tinh tiến, niệm, tuệ, hỷ, ỷ (khinh an). Đó là các hành kết hợp với dục định. Như vậy, tâm tinh tiến, tuệ dục, đại dục, vì muốn được định, đó là dục định. Tâm tuệ tinh tiến như vậy, đó là bốn thần túc.

Tín, tinh tiến, niệm, định, tuệ, đó là năm căn. Tín, có niềm tin trong bốn đức tin không hư hoại, đó là tín căn. Bốn ý tinh tiến, đó là tinh tiến căn. Niệm không quên trong bốn niệm chỉ, đó là niệm căn. Nhất tâm trong bốn thiền định, đó là định căn. Tuệ trong bốn đế, đó là tuệ căn. Căn cơ nhạy bén, nhanh nhẹn bậc nhất, đó là nghĩa của căn.

Năm lực như tín v.v…, pháp ác, bất thiện không thể hủy hoại được, đó là lực. Nhỏ là căn, lớn là lực.

Niệm, trạch pháp, tinh tiến, hỷ, ỷ (khinh an), định, hộ (xả), đó là bảy giác ý.

Thế nào là Niệm? Là nhớ nghĩ đến các thứ tội sinh, diệt của pháp hữu vi và sự mầu nhiệm cùng cực của Niết-bàn. Đấy là niệm giác. Sự tư duy phân biệt trong đó là trạch pháp giác. Sự tư duy, siêng năng, tinh tiến ở đấy là tinh tiến giác. Trong đấy, được vui vẻ với vị pháp thiện, đó là hỷ giác. Sự tư duy về thân tâm nhẹ nhàng, yên ổn, tùy theo định, đó là ỷ giác (khinh an). Nhân duyên trong đây thâu giữ tâm trụ không loạn, đó là định giác. Ở đây, buông tâm, dừng nghỉ, không nghĩ, không mong muốn, đó là xả giác. Các thứ trí tuệ được sức của thiền định dứt trừ tất cả phiền não, đó là quả của bảy giác. Bảy pháp như niệm v.v… dứt trừ tất cả phiền não, đó gọi là giác.

Thấy ngay thẳng (chánh kiến), tư duy ngay thẳng, lời nói ngay thẳng, nghề nghiệp ngay thẳng, mạng sống ngay thẳng, niệm ngay thẳng, phương tiện ngay thẳng và định ngay thẳng, đó là tám trực đạo (tám chánh đạo).

Trí tuệ chân thật trong bốn đế, đó là sự thấy ngay thẳng (chánh kiến). Trong đây, ba thứ giác, quán là thiện, không giận, không não hại là nói sự tư duy ngay thẳng (chánh tư duy). Dứt trừ bốn thứ nói bất chính, đó là lời nói ngay thẳng (chánh ngữ). Đoạn trừ ba thứ nghiệp tà, đó là trực nghiệp (chánh nghiệp). Dứt bỏ tà mạng bất thiện, đấy là trực mạng (chánh mạng). Trong đây, tư duy siêng năng, tinh tiến là trực phương tiện (chánh tinh tiến). Trong đó, tư duy nhớ nghĩ không quên, là niệm ngay thẳng (chánh niệm). Trong đây, nhất tâm trụ là định ngay thẳng.

Đó là tám đạo ngay thẳng (tám chánh đạo) hướng về Niết-bàn.

Tín, tinh tiến, niệm, định, tuệ, hỷ, ỷ (khinh an), xả, tư, giới, mười

pháp này phân biệt nói là ba mươi bảy pháp tín. Đó là tín căn, tín lực, tinh tiến, tinh tiến căn, tinh tiến lực, bốn ý đoạn, tinh tiến giác ý, phương tiện ngay thẳng, niệm căn, niệm lực, niệm giác ý, trực niệm, hỷ, hỷ giác, tuệ, tuệ căn, tuệ lực, bốn niệm chỉ, trạch pháp giác, trực kiến, ỷ (khinh an), ỷ giác, định, định căn, định lực, bốn thần túc, định giác, trực định, xả, xả giác, tư, trực tư, giới, trực ngữ, trực nghiệp, trực mạng, và nhân duyên ngay thẳng.

Trụ trong bốn thứ trí tuệ, đó là niệm chỉ. Sự tinh tiến ngay thẳng, đó là ý đoạn. Nhất tâm trụ trong duyên không phân tán, đó gọi là bốn thần túc.

Sinh trong tâm của người căn cơ chậm lụt, đó gọi là năm căn. Sinh trong tâm người căn cơ nhạy bén, đó gọi là năm lực. Trong đạo kiến đế, đó gọi là tám trực đạo (tám chánh đạo). Trong đạo tư duy, đó gọi là bảy giác, là ba mươi bảy phẩm thuộc mười pháp.

Địa thiền Vị đáo có ba mươi sáu phẩm trừ hỷ giác, Địa của Nhị thiền cũng có ba mươi sáu phẩm, trừ tư duy ngay thẳng (chánh tư duy). Tam thiền, Tứ thiền, thiền trung gian có ba mươi lăm phẩm trừ hỷ giác, tư duy ngay thẳng(chánh tư duy). Sơ thiền có ba mươi bảy phẩm. Ba định không có ba mươi hai thứ, trừ hỷ giác, tư duy ngay thẳng(chánh tư duy), lời nói ngay thẳng (chánh ngữ), nghề nghiệp ngay thẳng (chánh nghiệp), mạng sống ngay thẳng (chánh mạng). Trong Hữu đảnh có hai mươi hai thứ, trừ bảy giác, tám đạo. Cõi Dục cũng có hai mươi hai thứ, trừ bảy giác, tám đạo.

 

Phẩm 15: BỐN ĐẾ

Bốn đế: Khổ đế, Tập đế, Tận đế (Diệt đế), Đạo đế.

Thế nào là Khổ đế? Một thứ tướng não là khổ. Hai thứ là thân khổ, tâm khổ. Ba thứ là khổ khổ, biệt ly khổ (hoại khổ), hành vô thường khổ (hành khổ). Bốn thứ khổ trong ngoài của thân, nỗi khổ trong ngoài của tâm, năm thứ khổ của năm ấm lừng lẫy. Sáu thứ khổ của ba cõi, nỗi khổ của ba độc. Bảy thứ khổ của bảy thức xứ. Tám thứ khổ: sinh, già, bệnh, chết, oán ghét gặp nhau, ân ái biệt ly, nỗi đau khổ vì mong cầu không được. Tóm lại, tất cả mọi nỗi đau khổ, đó là Khổ đế.

Thế nào là Tập đế? Năm thọ ấm là nhân của các thứ khổ, đó là Tập đế.

Thế nào là Tận đế (Diệt đế)? Khổ, tập, hoàn toàn dứt hết, trí duyên tận, đó là Tận đế. Thực hành tám trực đạo (tám chánh đạo), đó là Đạo đế.

Bốn đế này theo thứ lớp, nên nhận biết dứt trừ, tu chứng. Tự tư duy về thật tướng, người tu tập chắc chắn được quả, không giả dối, đấy là đế. Vì nhận biết về thô, nên theo thứ lớp Khổ đế là thô dễ nhận biết. Vì lý do này, nên trước nói Khổ đế. Biết khổ, suy tìm nhân của khổ, từ trong tập sinh. Vì lẽ đó, nên Tập đế đứng thứ hai. Khổ đế này sẽ diệt hết ở xứ nào để được giải thoát, nên tư duy trong Niết-bàn. Vì lý do này, nên Diệt đế đứng thứ ba. Làm sao được diệt ấy? Phải tư duy thực hành tám trực đạo (tám chánh đạo), dứt hết kiết sử, được Tận đế. Vì lẽ này nên Đạo đế đứng thứ tư.

Lúc năm thọ ấm thọnhận quả báo, đấy là Khổ đế. Lúc năm thọ ấm làm nhân duyên, đó là Tập đế, vừa gọi là Khổ đế. Ví như một người vừa gọi là con, vừa gọi là cha. Tập đế đa số là kiết sử. Những thứ kiết sử nào? Có chín kiết là kiết ái, sân hận, kiêu mạn, vô minh, nghi, kiến, thất nguyện, san, tật đố.

Sự ham muốn của ba cõi là kiết ái, tâm phẫn nộ trong chúng sinh khởi động điều xấu ác, đó là kiết sân. Bảy thứ mạn là kiết mạn. Sự ngu si trói buộc khắp ba cõi là kiết vô minh. Ba kiến là kiết kiến, hai kiến là kiết thất nguyện (kiết thủ). Không quyết định rõ trong bốn đế là kiết nghi. Tâm luyến tiếc, bỏn sẻn là kiết san, ganh ghét người khác, ôm lòng tức giận, là kiết tật.

Tận đế có hai thứ:

  1. Đạo hữu lậu dứt hết kiết sử.
  2. Đạo vô lậu dứt hết kiết sử.

Hai thứ này là các pháp thanh tịnh.

Bốn biện tài: Pháp, từ, ứng, nghĩa. Biết thật tướng của tất cả danh, tự, đó là pháp biện. Trí của tất cả nói năng, bàn luận, đó là từ biện. Biết thật tướng của tất cả pháp, đó là ứng biện. Tất cả trí tuệ, ngôn ngữ, thiền định, thông, trí, đó là nghĩa biện.

Bốn niềm tin không hư hoại của Tu-đà-hoàn: Tin Phật không hư hoại, tin Pháp không hư hoại, tin Tăng không hư hoại, tin tịnh giới không hư hoại.

Các pháp vô học thuộc về quả A-la-hán. Các niềm tin vô lậu trong vô số công đức to lớn của Phật, đó là tin Phật không hư hoại.

Vô lậu trong Niết-bàn và pháp học, vô học trong đế vô lậu là niềm tin tịnh vô lậu trong công đức chân thật của Bồ-tát, đó là tin Pháp không hư hoại.

Tin đạt được đạo quả vô lậu có tất cả công đức của bốn hướng bốn quả (tứ song bát bối), là niềm tin trong chúng đệ tử Phật, chứ không phải tin ở nơi nào khác. Đấy là tin Tăng không hư hoại.

Giới vô lậu vô giáo. Tin vô lậu trong đó là tin giới không hư hoại. Trí tuệ tịnh thật, kết hợp chung với niềm tin. Vì lý do này nên không gì có thể vượt hơn giới vô lậu ấy, cho nên tin không hư hoại. Đây gọi là bốn niềm tin không hư hoại.

Có bốn việc tu định: Tu định được sống yên vui trong hiện pháp, tu định được trí kiến, tu định được tuệ phân biệt, và tu định được các điều thiện, dứt hết lậu. Sơ thiền có thể được sống vui trong hiện tại (hiện pháp lạc trụ). Sinh tử trí thông, đó là trí kiến. Phương tiện cầu công đức là công đức của giới vô giáo, nơi văn, tư, tu ở cõi Dục. Tất cả pháp của cõi Sắc, Vô Sắc, tất cả pháp hữu vi, vô lậu, đó là nói tuệ phân biệt. Bốn thiền của Kim Cương dụ là tâm học sau cùng, tương ưng với lậu tận, đó là tu định được lậu tận thuộc về đệ Tứ thiền. Bốn đạo là khổ khó biết, khổ dễ biết, vui khó biết và vui dễ biết. Tùy tín hành với căn cơ chậm lụt, đối với pháp vô lậu là khổ khó biết. Căn cơ nhạy bén đối với pháp vô lậu của Tùy pháp hành, là khổ dễ biết. Căn cơ nhạy bén trong bốn thiền căn bản và pháp của căn cơ chậm lụt, gọi là lạc đạo. Vì sao? Vì đạo chỉ quán đều song hành, vì trong địa khác chỉ quán hoặc nhiều, ít, nên nói như thế. Hai xứ khổ của thiền vị đáo, thiền trung gian thì đạo chỉ ít, đạo quán nhiều. Trong Vô Sắc thì đạo quán ít, đạo chỉ nhiều, đó gọi là đạo khổ khó được. Có bảy thức trụ:

  1. Chư thiên trong cõi Dục và loài người, trời Phạm chúng của cõi Sắc, trừ trời mới sinh, là thân khác, tưởng khác.
  2. Trời Phạm chúng mới sinh, thân khác, tưởng một.
  3. Sinh lên trời Nhị thiền, thân một, tưởng khác.
  4. Sinh lên trời Tam thiền, một thân, một tưởng.
  5. Sinh lên trời Không xứ.
  6. Sinh lên trời Thức xứ.
  7. Sinh lên trời Bất Dụng xứ (Vô sở hữu xứ).

Đó là bảy thức trụ. Vì sao? Vì thức không hư hoại. Vì khổ thọ làm thức bị hư hoại trong đường ác, nên không được lập thức trụ. Vì đệ Tứ thiền và định Vô tưởng làm thức hư hoại, nên cũng không được lập thức trụ.

Vì Phi tưởng Phi phi tưởng xứ và định Diệt tận, thức bị hư hoại, nên cũng không được lập thức trụ.

Chín chúng sinh ở bảy thức trụ này và chúng sinh Vô tưởng nơi Phi tưởng Phi phi tưởng xứ, đó gọi là nơi cư trú của chín chúng sinh. Vì cư ngụ trong đó, do sức của tư duy duyên về y phục, thức uống ăn, giường nằm, ưa dứt kiết sử mà được đạo, nên nói là bốn Thánh chủng. Hoặc tốt đẹp, hoặc không tốt đẹp, đồng thời y phục, thức uống ăn, giường nằm, đều biết vừa đủ, là ba Thánh chủng.

Khổ của mong cầu, giữ gìn, mất mát, ba khổ này làm mất đạo thiện. Vì không ăn thì thân mạng không sống, do đó nên hướng đến được tri túc, lìa dục, được niềm vui hoan hỷ trong tâm, đó gọi là thứ tư.

Một trăm lẻ tám thứ thọ: Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý sinh ra cánh lạc (xúc), đó là sáu cánh lạc (xúc) có ba thứ: Mắt thấy sắc, ưu, hỷ, xả, cho đến ý niệm pháp, ưu, hỷ, xả. Trong đó có thiện, bất thiện: Thiện có mười tám thứ, bất thiện có mười tám thứ. Đó là ba mươi sáu thứ, nhân với ba thứ thành một trăm lẻ tám thứ. Ba mươi sáu thứ ở quá khứ, ba mươi sáu thứ ở vị lai và ba mươi sáu thứ ở hiện tại. Vì năm thức không thể phân biệt, nên không có ưu (lo), hỷ (mừng). Pháp tâm sở trong ý hành nối tiếp nhau không dứt, thường ghi nhớ, đó là niệm. Nhân duyên của sự ghi nhớ thuận theo pháp này, nhân duyên của pháp thức ghi nhớ lại, với sức nhớ nghĩ rất mạnh mẽ, nên không quên pháp quá khứ. Nhân duyên của pháp tâm, tâm sở nơi người ngủ nằm mộng thấy có, không nhân, không duyên, nơi những gì đã thấy trong mộng. Cảnh mộng này hoặc đời quá khứ, hoặc đời vị lai, hoặc mộng thấy người mọc sừng, là vì trước kia người ấy đã thấy có bò sừng, tư duy rất mạnh mẽ: Vì sao con người không mọc sừng? Nghĩ như vậy rồi, người đó nằm mộng thấy người có mọc sừng.

Tâm phân tán, rối loạn, đó là si. Hoặc vì thân bệnh mà si, hoặc vì

bị quỷ mị mê hoặc nên si, hoặc vì nhân duyên của đời trước, nên si.

Ba chi: chi giới, chi định, chi tuệ.

Thế nào là chi giới? Giới có giáo (hữu biểu), vô giáo (vô biểu)của cõi Dục, giới vô giáo (vô biểu) ở cõi Sắc.

Thế nào là chi định? Là tu mười bốn thứ định.

Thế nào là chi tuệ? Là ba thứ tuệ: văn, tư và tu. Cõi Dục có hai thứ: văn và tu. Cõi Sắc có hai thứ là văn và tư. Cõi Vô Sắc chỉ có một thứ là tu.

Hai thứ luật nghi:

  1. Luật nghi tình.
  2. Luật nghi giới.

Thế nào là luật nghi tình? Không được khởi tưởng dâm với mẹ mình, v.v… hoặc có tưởng dâm với chị, em gái mình. Nhìn thấy người nữ, không nên nhớ, không sinh tưởng nhớ, nghĩ đến nữ căn, vì từ tưởng này gây nên rất nhiều tội lỗi, khổ não. Quán thân tâm xa lìa, đó là luật nghi tình.

Dứt trừ hẳn pháp bất thiện của các thứ dâm dục. Không hủy hoại giới hạnh, không chút tâm nhiễm ô, tuyệt đối tịnh, không có một vết nhơ, trừ khử hẳn bảy thứ dâm dục, đó là luật nghi giới.

Phiền não nghiệp ác và báo của nghiệp ác là có ba chướng, nghiệp trái ngược, phiền não rất nặng và báo của ba đường ác. Nếu có một trong ba việc này thì không được thọ Thánh pháp, cho nên nói là chướng-ngại. Giác, quán bất thiện có ba thứ là dâm dục, giận dữ, phiền não. Ba thứ này phá hoại ba thứ giác quán thiện là không dâm, không giận, không gây phiền não.

Có ba thứ bệnh: dâm, nộ, si. Bệnh này có ba thứ thuốc trị:

  1. Quán thân bất tịnh.
  2. Tâm từ, nghĩ đến chúng sinh
  3. Quán mười hai nhân duyên.

Đấy là ba thứ thuốc.

Tu thân, tu giới, tu tâm, tu tuệ. Pháp này không thọ tất cả quả báo ác, hoặc nhận lãnh một ít báo, hoặc đời này, đời sau thọ một ít báo.

Thế nào là tu thân? Tu thân là quán vô số các thứ là vô thường, v.v…

Thế nào là tu giới? Là giữ giới, không trái phạm, thường thủ hộ.

Thế nào là tu tâm? Tu tâm là trừ bỏ giác quán ác, thực hành giác quán thiện.

Thế nào là tu tuệ? Tu tuệ là phân biệt các thứ pháp thiện, càng ích

lợi thêm cho trí tuệ. Người làm điều thiện sẽ dễ được đạo tốt đẹp, kẻ làm việc bất thiện dễ rơi vào đường ác. Hoặc có người thiện bị đọa vào đường ác, hoặc có kẻ dữ lại sinh vào đường tốt, vì nhân duyên của năng lực lớn đời trước với báo dư chưa hết, hoặc đến khi chết, tâm sau cùng của họ có thiện, bất thiện. Vì thế, nên người thiện bị đọa đường ác, kẻ bất thiện lại được sinh vào đường tốt.

 

Phẩm 16: TẠP

Bốn quả Sa-môn, sáu pháp, năm ấm. Trí duyên tận, đó gọi là phân biệt bốn quả:

Quả A-la-hán thuộc về chín địa, trừ địa trong Hữu đảnh, quả thứ ba thuộc sáu địa, trừ bốn Vô Sắc, vì không có pháp trí. Quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm thuộc về địa thiền Vị đáo, vì thân của người chưa lìa dục.

Có bốn thứ điên đảo:

Vô thường tưởng là thường, là tâm điên đảo, tưởng điên đảo, kiến điên đảo, khổ có tưởng vui, bất tịnh có tưởng tịnh, phi ngã có tưởng ngã. Đó là tâm điên đảo, tưởng điên đảo, kiến điên đảo. Tất cả điên đảo đều do kiến khổ đế mà dứt trừ. Vì sao? Vì hành duyên xứ khổ thuộc về ba kiến: thân kiến, biên kiến và trộm kiến (kiến thủ) điên đảo. Tất cả sáu mươi hai kiến thuộc về năm tà kiến.

Ngã không thật trong năm ấm mà thấy có ngã thật, là thân kiến. Thường, đoạn dựa vào nhân duyên quả báo mà không biết là biên kiến. Đối với pháp chân thật của đế mà cho là không có đời này, đời sau, không có Niết-bàn và bốn đế, v.v… là tà kiến.

Không phải lạc, tịnh chân thật mà quán có lạc tịnh, ví như cây bị chặt gốc vẫn còn đứng, trong đêm trông thấy từ xa, cho là con người, là trộm kiến (kiến thủ). Không phải nhân chấp là nhân, không phải đạo chấp là đạo, đó là trộm giới (giới cấm thủ).

Thân kiến do kiến khổ đế dứt trừ, vì chấp ngã trong năm ấm. Tưởng thường, tưởng đoạn, do khổ đế dứt trừ, vì duyên năm ấm hiện tại. Tà kiến, hoặc chê bai khổ thì kiến khổ dứt trừ. Như vậy, chê bai tập, diệt, đạo thì kiến tập, diệt, đạo dứt trừ. Trộm kiến (kiến thủ) nếu chấp có lạc, tịnh trong khổ đế, thì kiến khổ dứt trừ. Như vậy, chấp có lạc, tịnh v.v… trong tập, diệt, đạo, thì do kiến tập, diệt, đạo dứt trừ.

Trộm giới không phải là đạo cầu Niết-bàn và chẳng phải nhân mà chấp nhân là trộm giới (giới cấm thủ), do kiến khổ, kiến đạo mà dứt trừ.

Sáu tu: tu đắc, tu hành, tu đoạn, tu trừ, tu phân biệt và tu luật nghi.

Thế nào là tu đắc? Chưa từng được công đức của pháp thiện mà được, sau khi được công đức này rồi, các công đức khác cũng được.

Thế nào là tu hành? Đã từng được các công đức, hiện nay đang thực hành.

Thế nào là tu đoạn? Pháp thiện dứt trừ các kiết sử.

Thế nào là tu trừ? Có thể dứt trừ các pháp bất thiện.

Thế nào là tu phân biệt? Quán phân biệt về thật tướng của thân.

Thế nào là tu luật nghi? Duyên vượt hơn đối với sáu căn nhiễm ô duyên cảnh.

Năm căn: Sơ thiền diệt hết ưu căn. Nhị thiền diệt hết khổ căn, không sót; Tam thiền diệt hết hỷ căn, không sót; Tứ thiền diệt hết lạc căn, không sót; Tam muội vô tướng diệt hết xả căn.

Ba cõi không sót là cõi đoạn, cõi vô dục và cõi tận. Trừ kiết ái, còn các phiền não khác đều dứt trừ, đó gọi là cõi đoạn. Kiết ái đã dứt trừ, đó gọi là cõi vô dục.

Các pháp khác được dứt trừ, gọi là cõi tận.

Diệt dâm, dục được tâm giải thoát, diệt ngu si được tuệ giải thoát. Nhập trong ngoài không lệ thuộc nhau. Sự dâm dục là chủ thể trói buộc. Ví như hai con bò bị buộc chặt vào chiếc ách. Vì lý do đó, nên trong trần (cảnh) có ái, không ái, tâm nên xả, không nên có tâm ái, sân hận.

Mười pháp: Là cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô Sắc, vô lậu, tương ưng không tương ưng, thiện, vô vi, vô ký, vô vi. Đó là mười pháp.

Năm pháp: Pháp trí duyên. Năm pháp đó là: Pháp tương ưng, pháp không tương ưng thuộc cõi Dục. Pháp tương ưng, không tương ưng với vô lậu và pháp thiện, vô vi. Đó gọi là năm pháp.

Trí vị tri duyên bảy pháp. Bảy pháp đó là: Pháp tương ưng, không tương ưng thuộc cõi Sắc. Pháp tương ưng, không tương ưng thuộc cõi Vô Sắc, pháp tương ưng, không tương ưng với vô lậu và pháp vô vi thiện.

Trí tha tâm duyên ba pháp: Pháp tương ưng thuộc cõi Dục, pháp tương ưng thuộc cõi Sắc, và pháp tương ưng với vô lậu.

Đẳng trí duyên mười pháp: Pháp tương ưng, không tương ưng thuộc cõi Dục. Pháp tương ưng, không tương ưng thuộc cõi Sắc, pháp tương ưng, không tương ưng thuộc cõi Vô Sắc. Pháp tương ưng, không tương ưng với vô lậu và pháp vô vi thiện, pháp vô vi vô ký.

Khổ trí, tập trí, mỗi trí đều duyên sáu pháp: Pháp tương ưng, không tương ưng thuộc ba cõi, đó là sáu pháp.

Tận trí duyên một pháp, là pháp vô vi thiện. Đạo trí duyên hai pháp là pháp tương ưng, pháp không tương ưng với vô lậu.

Diệt trí, trí vô sinh duyên chín pháp, trừ pháp vô vi, vô ký.

Phiền não của địa mình, sử sai khiến của địa mình, sử nhất thiết biến, nhất thiết biến trong địa mình và địa khác. Ngoài ra, đều bị sử của địa mình sai khiến.

Có hai thứ pháp: Pháp tương ưng và không tương ưng.

Thế nào là pháp tương ưng? Pháp tương ưng là các pháp tâm, tâm sở.

Thế nào là pháp không tương ưng? Đó là mười bảy pháp, như đắc v.v… Mười bảy pháp gồm:

  1. Thành tựu.
  2. Định Vô tưởng.
  3. Định Diệt tận.
  4. Xứ Vô tưởng.
  5. Mạng căn.
  6. Chủng loại. (chúng đồng phần)
  7. Xứ đắc.
  8. Vật đắc.
  9. Nhập đắc.
  10. Sinh.
  11. Già.
  12. Trụ.
  13. Vô thường.
  14. Danh chúng (danh thân).
  15. Tự chúng (Cú thân).
  16. Vị chúng (văn thân).
  17. Tánh phàm phu.

Khi các đắc pháp, pháp không tương ưng với tâm đều đắc, đó gọi là thành tựu.

Tưởng ưa chuộng Niết-bàn, nhàm chán sinh tử. Lúc này lực định nhiều, ít của bốn thiền làm diệt mất pháp tâm, tâm sở, đó là định Vô tưởng.

Chán ngán nỗi vất vả nhọc nhằn, ngừng dứt ý tưởng, do sức của định Hữu tưởng, Vô tưởng làm mất pháp tâm, tâm sở trong thời gian dài, ngắn, đó là định Diệt tận.

Sinh lên cõi trời Vô tưởng, pháp tâm, tâm sở không hoạt động, đó gọi là xứ Vô tưởng.

Các căn v.v… của bốn đại nối tiếp nhau không hư hoại, đó là mạng căn.

Các xứ sinh, thân tâm, lời nói của chúng sinh khác là giống nhau, đó gọi là chủng loại của chúng sinh (chúng đồng phần).

Đến nơi khác mà được, gọi là xứ đắc.

Vật lẫn lộn của các hành, đó là vật đắc.

Đắc các nhập trong ngoài đó là nhập đắc. Các hành khởi là sinh,

hành chín muồi là già, hành này chưa diệt là trụ, hành diệt là vô thường. Kết hợp chữ nghĩa lại, đó gọi là danh chúng (danh thân). Hợp tên để nói tên sự là cú chúng (cú thân). Hợp để nói rộng là ngữ chúng (văn thân). Chưa được đạo Thánh vô lậu là tánh phàm phu. Đó gọi là mười bảy pháp tâm bất tương ưng.

Trong các pháp này có bao nhiêu pháp là thiện, bao nhiêu pháp là bất thiện và bao nhiêu pháp là vô ký? Có hai thiện, bảy vô ký và tám nên phân biệt.

Định Vô tưởng, định Diệt tận, đó là thiện. Xứ Vô tưởng, chủng loại, danh chúng, cú chúng, ngữ chúng, mạng căn, tánh phàm phu, đó là vô ký. Thành tựu, sinh, già, trụ, vô thường là thiện trong thiện, bất thiện trong bất thiện, vô ký trong vô ký. Xứ đắc, vật đắc, nhập đắc, có thiện, bất thiện, vô ký.

Có bao nhiêu pháp thuộc cõi Dục? Bao nhiêu thuộc cõi Sắc? Bao nhiêu pháp thuộc cõi Vô Sắc? Và bao nhiêu pháp không lệ thuộc? Có ba thứ thuộc cõi Dục, có hai thứ thuộc cõi Sắc và có một thuộc cõi Vô Sắc. Có mười một thứ nên phân biệt: hoặc thuộc cõi Dục, hoặc thuộc cõi Sắc, hoặc thuộc cõi Vô Sắc, hoặc không lệ thuộc. Danh chúng, cú chúng, ngữ chúng là thuộc cõi Dục, cõi Sắc. Định Vô tưởng, xứ Vô tưởng là thuộc cõi Sắc. Định Diệt tận là thuộc cõi Vô Sắc.

Thành tựu, mạng căn, chủng loại, xứ đắc, vật đắc, nhập đắc, tánh phàm phu là thuộc ba cõi. Sinh, già, trụ, vô thường thuộc cõi Dục. Trong pháp cõi Dục thì thuộc cõi Dục. Trong pháp cõi Sắc thì thuộc cõi Sắc. Trong pháp cõi Vô Sắc thì thuộc cõi Vô Sắc. Trong pháp không lệ thuộc thì không lệ thuộc.

Mười bảy pháp, trong đó có bao nhiêu pháp là hữu lậu, bao nhiêu pháp là vô lậu? Có mười ba thứ hữu lậu và bốn thứ sẽ phân biệt: Sinh, già, trụ, vô thường là hữu lậu trong hữu lậu, vô lậu trong vô lậu.

Khi được tâm vô lậu đầu tiên, lúc đó xả tánh phàm phu, lúc sinh ở cõi khác, cũng xả tánh phàm phu, được tánh phàm phu của cõi khác.

Khi lìa dục, là được dứt trừ trong đạo giải thoát thứ chín.

Thế nào là ba vô vi? Trí duyên tận, không phải là trí duyên tận hư không.

Thế nào là trí duyên tận? Sức của trí tuệ hữu lậu, vô lậu, dứt trừ mọi kiết sử, được giải thoát, đó là trí duyên tận (trạch diệt).

Thế nào là không phải trí duyên tận? Nhân vị lai lẽ ra sinh lại không sinh, đó gọi là không phải trí duyên tận (phi trạch diệt).

Thế nào là hư không? Xứ Vô Sắc không có đối, không thể thấy, đó là hư không.

Nhân cùng nương, nhân tương ưng và nhân cộng hữu trước sinh tự giống nhân làm nhân cho các pháp sau chưa sinh.

Như vậy, nhân biến cũng là duyên thứ đệ, là nhân báo trong chúng sinh. Tất cả pháp hữu vi, quả của pháp hữu vi cũng chính là quả của Niết-bàn. Vì sao? Vì tất cả nhân duyên của pháp hữu vi sinh ra đạo quả Niết-bàn. Các pháp tương ưng trong một duyên cùng lúc hiện hành, cùng duyên nơi pháp tâm, tâm sở trong tướng khác không phải tự tướng, không có chỗ, không nơi chốn. Vì sao? Vì duyên theo tất cả xứ. Lúc đạo sinh ra, các kiết sử sắp diệt, cho nên, lúc đạo sắp sinh là được giải thoát, lúc đạo không diệt, sắp diệt, đạo vô ngại dứt trừ kiết sử, sắp sinh giải thoát, được giải thoát.

Ba thứ ái: Dục ái, hữu ái, bất hữu ái. Tìm cầu các sự vật, đó là dục ái. Lúc được thì tham tiếc, đó là hữu ái. Do kiến dứt trừ, mong cầu dứt trừ, đó gọi là bất hữu ái. Do tư duy dứt trừ trong ba mươi bảy phẩm trợ đạo, trừ trực tư, trực ngữ, trực nghiệp, trực mạng, ỷ (khinh an), xả, các pháp khác là pháp căn.

Bốn niệm chỉ, mỗi niệm chỉ đều hiện ở trước. Vì sao? Vì lần lượt duyên theo các pháp. Các pháp tương ưng với cái khác, không tương ưng với chính mình, trong duyên theo các pháp, kiết sử nên xa lìa, đó gọi là đoạn, có đoạn mà chưa lìa.

Đoạn mà chưa lìa là sao? Là được khổ trí, chưa được tập trí, do tập đế đã đoạn. Khổ đế đã đoạn. Duyên theo ba đế được hai niềm tin không hư hoại. Niềm tin không hư hoại về pháp, giới của khổ đế, tập đế, tận đế, được bốn niềm tin không hư hoại trong đạo đế. Tất cả pháp tâm sở đều hiện hành tùy theo tâm, vì cùng chung một duyên.

Như vậy, giới vô giáo là sinh, trụ, lão, hư hoại, đều tùy theo tâm hiện hành.

Tất cả pháp hữu lậu nên dứt trừ. Vì sao? Vì tội cấu uế. Tất cả pháp hữu lậu, vô lậu nên nhận biết. Vì sao? Vì trí duyên nơi tất cả pháp. Các pháp quá khứ, vị lai là xa. Vì sao? Vì việc không hoàn thành. Các pháp hiện tại thì gần. Vì sao? Vì công việc hoàn tất. Vô vi cũng gần. Vì sao? Vì nhanh chóng được, vì kiến xứ của tất cả pháp hữu lậu, khi duyên nơi năm kiến thì thành tựu nhiều ít trong mười chín căn tình không hư hoại.

Có hai căn cũng lại là người kiến đế, căn không hư hoại mà chưa lìa dục. Đó gọi là mười chín. Ít nhất là tám căn dứt trừ căn thiện, dần dần qua đời, có thân căn còn lại. Cũng lại là ba việc cánh lạc (xúc) của phàm phu, ở cõi Vô Sắc, hợp tình (căn), duyên thức là năm thứ cánh lạc (xúc) này: Có đối, tăng ngữ, minh, vô minh, phi minh phi vô minh. Tương ưng với năm thức, đó là xúc có đối, tương ưng với ý thức gọi là xúc tăng ngữ. Cánh lạc (xúc) nhiễm ô, gọi là xúc vô minh. Cánh lạc vô lậu gọi là xúc minh. Cánh lạc không nhiễm ô, hữu lậu, gọi là xúc phi minh, phi vô minh.

Có hai đạo được quả:

  1. Dứt trừ kiết sử.
  2. Được giải thoát.

Báo của A-la-hán là tâm bát Niết-bàn, vì tất cả pháp đều buông xả.

Bốn hữu là sinh hữu, tử hữu, bản hữu và trung hữu. Mới sinh được năm ấm, đó là sinh hữu. Năm ấm lúc chết, đó là tử hữu. Trừ năm ấm sinh tử, ở khoảng giữa là bổn hữu. Sau khi chết rồi, năm ấm đến được các cõi khác, đó gọi là Trung hữu.

Trí nhẫn của khổ đế, tập đế duyên các pháp, đó gọi là sự nhàm chán, nhàm chán duyên nơi sự vật. Các trí nhẫn trong bốn đế là lìa dục vì sắp diệt.

Ba hữu lậu: dục, hữu, vô minh. Ở cõi Dục trừ vô minh, các phiền não còn lại, gọi là dục hữu lậu. Cõi Sắc, Vô Sắc, trừ vô minh các phiền não khác, gọi là hữu hữu lậu. Si của ba cõi là vô minh hữu lậu. Tất cả các lậu này đều diệt hết, lúc ấy được dứt hết tất cả khổ, được vị cam lộ của đấng Nhất thiết trí, bậc Thánh đắc đạo tên là Cù-sa soạn.