LUẬN A TỲ ĐÀM BÁT KIỀN ĐỘ
Tác giả: Tôn giả Ca Chiên Diên Tử
Hán dịch: Đời Phù Tần, Sa môn Tăng Già Đề Ba và Trúc Phật Niệm
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 21

Kiền độ thứ 6: CĂN

* Tụng nêu chung:

Hai mươi hai căn hữu

Cánh lạc (xúc) tâm ở đầu

Mới phát, ngư, nhân duyên.

***

Phẩm 1: BÀN VỀ CĂN

Hai mươi hai căn: Nhãn căn, nhĩ căn, tỷ căn, thiệt căn, thân căn, ý căn, nam căn, nữ căn, mạng căn, lạc căn, khổ căn, hỷ căn, ưu căn, hộ (xả) căn, tín căn, tinh tấn căn, niệm căn, định căn, tuệ căn, vị tri căn, dĩ tri căn, vô tri căn.

Hai mươi hai căn nầy: Có bao nhiêu thứ là học, vô học, phi học phi vô học? Các căn học, chúng là căn của người học chăng? Nếu như là căn của người học thì đó là căn học chăng? Các căn vô học, chúng là căn của người vô học chăng? Nếu như là căn của người vô học thì đó là căn vô học chăng? Các căn phi học phi vô học, chúng là căn của người phi học phi vô học chăng? Nếu như là căn của người phi học phi vô học thì đó là căn phi học phi vô học chăng?

Hai mươi hai căn nầy: Có bao nhiêu thứ là thiện, bất thiện, vô ký? Bao nhiêu thứ là có báo, không báo? Bao nhiêu thứ do kiến đế đoạn, do tư duy đoạn và không đoạn? Bao nhiêu thứ do kiến khổ, kiến tập, kiến tận, kiến đạo đoạn, do tư duy đoạn, không đoạn? Bao nhiêu thứ là kiến, không kiến? Bao nhiêu thứ là có giác có quán, không giác có quán, không giác không quán? Bao nhiêu thứ tương ưng với lạc căn, khổ căn, hỷ căn, ưu căn, hộ căn? Bao nhiêu thứ hệ thuộc cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc, không hệ thuộc?

Hai mươi hai căn nầy: Có bao nhiêu thứ tương ưng với nhân, bao nhiêu thứ không tương ưng với nhân? Bao nhiêu thứ không phải tương ưng với nhân, không phải không tương ưng với nhân? Bao nhiêu thứ cùng duyên duyên nhau? Bao nhiêu thứ không cùng duyên duyên nhau? Bao nhiêu thứ cùng duyên duyên nhau, không cùng duyên duyên nhau? Bao nhiêu thứ không cùng duyên duyên nhau, không phải không cùng duyên duyên nhau?

Pháp nầy của các căn, căn đó là người phàm phu chăng? Nếu như căn là người phàm phu, căn đó là của pháp nầy chăng?

Sắc ấm gồm thâu bao nhiêu căn? Thống (thọ), tưởng, hành, thức ấm gồm thâu bao nhiêu căn?

Căn thiện gồm thâu bao nhiêu trì (giới), bao nhiêu nhập (xứ), bao nhiêu ấm (uẩn)? Căn bất thiện gồm thâu bao nhiêu trì, bao nhiêu nhập, bao nhiêu ấm? Căn ẩn một vô ký (hữu phú vô ký) gồm thâu bao nhiêu trì, bao nhiêu nhập, bao nhiêu ấm? Căn không ẩn một vô ký (vô phú vô ký) gồm thâu bao nhiêu trì, bao nhiêu nhập, bao nhiêu ấm?

Pháp căn gồm thâu bao nhiêu trì, bao nhiêu nhập, bao nhiêu ấm? Pháp không căn gồm thâu bao nhiêu trì, bao nhiêu nhập, bao nhiêu ấm? Pháp căn không căn gồm thâu bao nhiêu trì, bao nhiêu nhập, bao nhiêu ấm?

Từng có duyên căn sinh căn chăng? Từng có duyên căn sinh không phải căn chăng? Từng có duyên căn sinh căn không phải căn chăng? Từng có duyên không phải căn sinh không phải căn chăng? Từng có duyên không phải căn sinh căn chăng? Từng có duyên không phải căn sinh căn không phải căn chăng? Từng có duyên căn không phải căn sinh căn chăng? Từng có duyên căn không phải căn sinh không phải căn chăng? Từng có duyên căn không phải căn sinh căn không phải căn chăng?

Từng có duyên nhãn căn sinh nhãn căn chăng? Từng có duyên nhãn căn cho đến sinh vô tri căn chăng? Từng có duyên vô tri căn sinh vô tri căn chăng? Từng có duyên vô tri căn sinh nhãn căn cho đến dĩ tri căn chăng?

Nhãn căn cùng nhãn căn có bao nhiêu duyên? Nhãn căn cho đến vô tri căn có bao nhiêu duyên? Vô tri căn cùng vô tri căn có bao nhiêu duyên? Vô tri căn cùng nhãn căn, cho đến dĩ tri căn có bao nhiêu duyên?

Về các nghĩa trên, chương nầy xin diễn nói đầy đủ.

*

Hai mươi hai căn: Nhãn căn, nhĩ căn, tỷ căn, thiệt căn, thân căn, ý căn, nam căn, nữ căn, mạng căn, lạc căn, khổ căn, hỷ căn, ưu căn, hộ căn, tín căn, tinh tấn căn, niệm căn, định căn, tuệ căn, vị tri căn, dĩ tri căn, vô tri căn.

Hỏi: Hai mươi hai căn nầy: Có bao nhiêu thứ là học, vô học, phi học phi vô học?

Đáp: Hai học, một vô học, mười phi học phi vô học, chín cần phân biệt:

Ý căn, hoặc là học, hoặc là vô học, hoặc là phi học phi vô học.

Thế nào là học? Là các ý căn ý sở niệm (tác ý) tương ưng với học. Đây gọi là học.

Thế nào là vô học? Là các ý căn tác ý tương ưng với vô học. Đây gọi là vô học.

Thế nào là phi học phi vô học? Là các ý căn tác ý tương ưng với hữu lậu. Đây gọi là phi học phi vô học.

Như ý căn, lạc căn, hỷ căn, hộ căn, tín căn, tinh tấn căn, niệm căn, định căn, tuệ căn cũng như vậy.

Hỏi: Các căn học, chúng là căn của người học chăng?

Đáp: Hoặc có căn học, căn đó không phải là căn của người học.

Thế nào là căn học, căn đó không phải là căn của người học? Là các căn học, người học không thành tựu. Đây gọi là căn học, căn đó không phải là của người học.

Thế nào là căn của người học, căn đó không phải là căn học? Là các căn phi học phi vô học người học đã thành tựu. Đây gọi là căn của người học, căn đó không phải là căn học.

Thế nào là căn học, căn đó là căn của người học? Là các căn học, người học đã thành tựu. Đây gọi là căn học, căn đó là căn của người học.

Thế nào là căn không phải học, căn đó không phải là căn của người học? Là căn vô học, các căn phi học phi vô học, người học không thành tựu. Đây gọi là căn không phải học, căn đó không phải là căn của người học.

Hỏi: Các căn vô học, chúng là của người vô học chăng?

Đáp: Hoặc có căn vô học, căn đó không phải là căn của người vô học.

Thế nào là căn vô học, căn đó không phải là căn của người vô học? Là các căn vô học, người vô học không thành tựu. Đây gọi là căn vô học, căn đó không phải là căn của người vô học.

Thế nào là căn của người vô học, căn đó không phải là căn vô học? Là các căn phi học phi vô học, người vô học đã thành tựu. Đây gọi là căn của người vô học, căn đó không phải là căn vô học.

Thế nào là căn vô học, căn đó là căn của người vô học? Là các căn vô học, người vô học đã thành tựu. Đây gọi là căn vô học, căn đó là căn của người vô học.

Thế nào là căn không phải vô học, căn đó không phải là căn của người vô học? Là căn học, các căn phi học phi vô học, người vô học không thành tựu. Đây gọi là căn không phải vô học, căn đó không phải là căn của người vô học.

Hỏi: Các căn phi học phi vô học, chúng là căn của người phi học phi vô học chăng?

Đáp: Đúng vậy. Các căn của người phi học phi vô học, chúng là căn người phi học phi vô học

Hỏi: Từng có căn phi học phi học phi vô học, căn đó không phải của người phi học phi vô học chăng?

Đáp: Có. Là các căn phi học phi vô học và người phi học phi vô học không thành tựu.

Hỏi: Hai mươi hai căn nầy: Có bao nhiêu thứ là thiện, bất thiện, vô ký?

Đáp: Tám thiện, tám vô ký, sáu cần phân biệt:

Ý căn hoặc là thiện, hoặc là bất thiện, hoặc là vô ký. Thế nào là thiện? Là các ý căn tác ý tương ưng với thiện. Đây gọi là thiện. Thế nào là bất thiện? Là các ý căn tác ý tương ưng với bất thiện. Đây gọi là bất thiện. Thế nào là vô ký? Là các ý căn tác ý tương ưng với vô ký. Đây gọi là vô ký.

Như ý căn, lạc căn, khổ căn, hỷ căn, hộ căn cũng như vậy.

Ưu căn hoặc là thiện, hoặc là bất thiện. Thế nào là thiện? Là ưu căn tác ý tương ưng với thiện. Đây gọi là thiện. Thế nào là bất thiện? Là ưu căn tác ý tương ưng với bất thiện. Đây gọi là bất thiện.

Hỏi: Hai mươi hai căn nầy: Có bao nhiêu thứ là có báo, không báo?

Đáp: Một có báo, mười một không báo, mười cần phân biệt:

Ý căn hoặc có báo, hoặc không báo. Thế nào là có báo? Là ý căn hữu lậu thiện, bất thiện. Đây gọi là có báo. Thế nào là không có báo? Là ý căn vô lậu, vô ký. Đây gọi là không báo.

Như ý căn, lạc căn, hỷ căn, hộ căn cũng như vậy.

Khổ căn hoặc có báo, hoặc không báo. Thế nào là có báo? Là khổ căn thiện, bất thiện. Đây gọi là có báo. Thế nào là không báo? Là khổ căn vô ký. Đây gọi là không báo.

Tín căn, tinh tấn căn, niệm căn, định căn, tuệ căn, nếu hữu lậu là có báo, nếu vô lậu là không báo.

Hỏi: Hai mươi hai căn nầy: Có bao nhiêu thứ do kiến đế đoạn, do tư duy đoạn và không đoạn?

Đáp: Chín do tư duy đoạn, ba không đoạn, mười cần phân biệt: Ý căn hoặc do kiến đế đoạn, hoặc do tư duy đoạn, hoặc không đoạn.

Thế nào là do kiến đế đoạn? Là ý căn nơi các bậc kiên tín (Tùy tín hành) kiên pháp (Tùy pháp hành) hành nhẫn đoạn. Sự việc nầy là thế nào? Là kiến đế đoạn tám mươi tám sử tương ưng với ý căn. Đây gọi là do kiến đế đoạn.

Thế nào là do tư duy đoạn? Là các bậc học kiến tích do tư duy đoạn. Sự việc nầy là thế nào? Là tư duy đoạn trừ mười sử tương ưng với ý căn, cùng ý căn hữu lậu không nhiễm. Đây gọi là do tư duy đoạn.

Thế nào là không đoạn? Là ý căn vô lậu. Đây gọi là không đoạn.

Như ý căn, hộ căn cũng như vậy.

Lạc căn hoặc do kiến đế đoạn, hoặc do tư duy đoạn, hoặc không đoạn.

Thế nào là do kiến đế đoạn? Là lạc căn nơi các bậc kiên tín, kiên pháp hành nhẫn đoạn. Sự việc nầy là thế nào? Là kiến đế đoạn hai mươi tám sử tương ưng với lạc căn. Đây gọi là do kiến đế đoạn.

Thế nào là do tư duy đoạn? Là các bậc học kiến tích do tư duy đoạn. Sự việc nầy là thế nào? Là tư duy đoạn trừ năm sử tương ưng với lạc căn, cùng lạc căn hữu lậu không nhiễm. Đây gọi là do tư duy đoạn.

Thế nào là không đoạn? Là lạc căn vô lậu. Đây gọi là không đoạn

Hỷ căn hoặc do kiến đế đoạn, hoặc do tư duy đoạn, hoặc không đoạn.

Thế nào là do kiến đế đoạn? Là hỷ căn nơi các bậc kiên tín, kiên pháp hành nhẫn đoạn. Sự việc nầy là thế nào? Là kiến đế đoạn năm mươi hai sử tương ưng với hỷ căn. Đây gọi là do kiến đế đoạn.

Thế nào là do tư duy đoạn? Là các bậc học kiến tích do tư duy đoạn. Sự việc nầy là thế nào? Là tư duy đoạn trừ sáu sử tương ưng với hỷ căn, cùng hỷ căn hữu lậu không nhiễm. Đây gọi là do tư duy đoạn. Thế nào là không đoạn? Là hỷ căn vô lậu. Đây gọi là không đoạn Ưu căn hoặc do kiến đế đoạn, hoặc do tư duy đoạn.

Thế nào là do kiến đế đoạn? Là ưu căn nơi các bậc kiên tín, kiên pháp hành nhẫn đoạn. Sự việc nầy là thế nào? Là kiến đế đoạn mười sáu sử tương ưng với ưu căn. Đây gọi là do kiến đế đoạn.

Thế nào là do tư duy đoạn? Là các bậc học kiến tích do tư duy đoạn. Sự việc nầy là thế nào? Là tư duy đoạn trừ hai sử tương ưng với ưu căn, cùng ưu căn hữu lậu không nhiễm. Đây gọi là do tư duy đoạn.

Tín căn, tinh tấn căn, niệm căn, định căn, tuệ căn, nếu hữu lậu là do tư duy đoạn, nếu vô lậu là không đoạn.

Hỏi: Hai mươi hai căn nầy: Có bao nhiêu thứ do kiến khổ, kiến tập, kiến tận, kiến đạo đoạn, do tư duy đoạn, không đoạn?

Đáp: Chín do tư duy đoạn, ba không đoạn, mười cần phân biệt:

Ý căn hoặc do kiến khổ đoạn, hoặc do kiến tập, kiến tận, kiến đạo, tư duy đoạn, hoặc không đoạn.

Thế nào là do kiến khổ đoạn? Là ý căn nơi các bậc kiên tín, kiên pháp hành nhẫn đoạn. Sự việc nầy là thế nào? Là do kiến khổ đoạn hai mươi tám sử tương ưng với ý căn, do kiến tập đoạn mười chín sử, do kiến tận đoạn mười chín sử, do kiến đạo đoạn hai mươi hai sử tương ưng với ý căn. Đây gọi là do kiến đế đoạn.

Thế nào là do tư duy đoạn? Là ý căn nơi các bậc học kiến tích do tư duy đoạn. Sự việc nầy là thế nào? Là do tư duy đoạn mười sử tương ưng với ý căn, cũng là ý căn hữu lậu không nhiễm. Đây gọi là do tư duy đoạn.

Thế nào là không đoạn? Là ý căn vô lậu. Đây gọi là không đoạn.

Như ý căn, hộ căn cũng như vậy.

Lạc căn hoặc do kiến khổ đoạn, hoặc do kiến tập, kiến tận, kiến đạo, tư duy đoạn, hoặc không đoạn.

Thế nào là do kiến khổ đoạn? Là lạc căn nơi các bậc kiên tín, kiên pháp hành nhẫn đoạn. Sự việc nầy là thế nào? Là do kiến khổ đoạn chín sử tương ưng với lạc căn, do kiến tập đoạn sáu sử, do kiến tận đoạn sáu sử, do kiến đạo đoạn bảy sử tương ưng với lạc căn. Đây gọi là do kiến đế đoạn.

Thế nào là do tư duy đoạn? Là các bậc học kiến tích do tư duy đoạn. Sự việc nầy là thế nào? Là do tư duy đoạn năm sử tương ưng với lạc căn, cũng là lạc căn hữu lậu không nhiễm. Đây gọi là do tư duy đoạn.

Thế nào là không đoạn? Là lạc căn vô lậu. Đây gọi là không đoạn

Hỷ căn hoặc do kiến khổ đoạn, hoặc do kiến tập, kiến tận, kiến đạo, tư duy đoạn, hoặc không đoạn.

Thế nào là do kiến khổ đoạn? Là hỷ căn nơi các bậc kiên tín, kiên pháp hành nhẫn đoạn. Sự việc nầy là thế nào? Là do kiến khổ đoạn mười bảy sử tương ưng với hỷ căn, do kiến tập tận đoạn mười một sử, do kiến tận đoạn mười một sử, do kiến đạo đoạn mười ba sử tương ưng với hỷ căn. Đây gọi là do kiến đế đoạn.

Thế nào là do tư duy đoạn? Là các bậc học kiến tích do tư duy đoạn. Sự việc nầy là thế nào? Là do tư duy đoạn sáu sử tương ưng với hỷ căn, cũng là hỷ căn hữu lậu không nhiễm. Đây gọi là do tư duy đoạn.

Thế nào là không đoạn? Là hỷ căn vô lậu. Đây gọi là không đoạn

Ưu căn hoặc do kiến khổ đoạn, hoặc do kiến tập, kiến tận, kiến đạo, tư duy đoạn.

Thế nào là do kiến đế đoạn? Là ưu căn nơi các bậc kiên tín, kiên pháp, hành nhẫn đoạn. Sự việc nầy là thế nào? Là do kiến khổ đoạn bốn sử tương ưng với ưu căn, do kiến tập đoạn bốn sử, kiến tận đoạn bốn sử, kiến đạo đoạn bốn sử tương ưng với ưu căn. Đây gọi là do kiến đế đoạn.

Thế nào là do tư duy đoạn? Là các bậc học kiến tích do tư duy đoạn. Sự việc nầy là thế nào? Là do tư duy đoạn hai sử tương ưng với ưu căn, cũng là ưu căn hữu lậu không nhiễm. Đây gọi là do tư duy đoạn.

Tín căn, tinh tấn căn, niệm căn, định căn, tuệ căn, nếu hữu lậu là do tư duy đoạn, nếu vô lậu là không đoạn.

Hỏi: Hai mươi hai căn nầy: Có bao nhiêu thứ là kiến, không kiến?

Đáp: Một kiến, mười bảy không kiến, bốn cần phân biệt:

Tuệ căn hoặc là kiến, hoặc là không kiến.

Thế nào là kiến? Là tận trí, vô sinh trí không gồm thâu tuệ thiện tương ưng với ý thức thân. Đây gọi là kiến.

Thế nào là không kiến? Là tận trí, vô sinh trí gồm thâu tuệ thiện tương ưng với năm thức thân. Đây gọi là không kiến.

Vị tri căn hoặc là kiến, hoặc là không kiến.

Thế nào là kiến? Là vị tri căn gồm thâu tuệ căn. Đây gọi là kiến.

Thế nào là không kiến? Là vị tri căn gồm thâu tám căn. Đây gọi là không kiến.

Như vị tri căn, dĩ tri căn cũng như vậy.

Vô tri căn hoặc là kiến, hoặc là không kiến.

Thế nào là kiến? Là tận trí, vô sinh trí không gồm thâu tuệ căn thuộc vô tri căn. Đây gọi là kiến.

Thế nào là không kiến? Là vô tri căn gồm thâu tám căn và tận trí, vô sinh trí. Đây gọi là không kiến.

Hỏi: Hai mươi hai căn nầy: Có bao nhiêu thứ là có giác có quán, không giác có quán, không giác không quán?

Đáp: Hai có giác có quán, tám không giác không quán, mười hai cần phân biệt:

Ý căn hoặc có giác có quán, hoặc không giác có quán, hoặc không giác không quán.

Thế nào là có giác có quán? Là các ý căn tâm sở niệm (tác ý) tương ưng với có giác có quán. Đây gọi là có giác có quán.

Thế nào là không giác có quán? là các ý căn tác ý tương ưng với không giác có quán. Đây gọi là không giác có quán.

Thế nào là không giác không quán? Là các ý căn tác ý tương ưng với không giác không quán . Đây gọi là không giác không quán.

Như ý căn, hộ, tín, tinh tấn, niệm, định, tuệ căn, vị tri căn, dĩ tri căn, vô tri căn cũng như vậy.

Lạc căn hoặc có giác có quán, hoặc không giác không quán.

Thế nào là có giác có quán? Là các lạc căn tác ý tương ưng với có giác có quán. Đây gọi là có giác có quán.

Thế nào là không giác không quán? là các lạc căn tác ý tương ưng với không giác không quán. Đây gọi là không giác không quán.

Như lạc căn, hỷ căn cũng như vậy.

Hỏi: Hai mươi hai căn nầy: Có bao nhiêu thứ tương ưng với lạc căn, khổ căn, hỷ căn, ưu căn, hộ căn?

Lạc căn, hỷ căn, hộ căn có phần ít của chín căn tương ưng. Khổ căn, ưu căn có phần ít của sáu căn tương ưng.

Hỏi: Hai mươi hai căn nầy: Có bao nhiêu thứ hệ thuộc cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc, không hệ thuộc?

Đáp: Bốn hệ thuộc cõi Dục, ba không hệ thuộc, mười lăm cần phân biệt:

Nhãn căn hoặc hệ thuộc cõi Dục, hoặc hệ thuộc cõi Sắc.

Thế nào là hệ thuộc cõi Dục? Là nhãn căn do bốn đại tạo hệ thuộc cõi Dục. Đây gọi là hệ thuộc cõi Dục.

Thế nào là hệ thuộc cõi Sắc? Là nhãn căn do bốn đại tạo hệ thuộc cõi Sắc. Đây gọi là hệ thuộc cõi Sắc.

Như nhãn căn, nhĩ căn, tỷ căn, thiệt căn, thân căn cũng như vậy.

Ý căn hoặc hệ thuộc cõi Dục, hoặc hệ thuộc cõi Sắc, hoặc hệ thuộc cõi Vô sắc, hoặc không hệ thuộc.

Thế nào là hệ thuộc cõi Dục? Là các ý căn tác ý tương ưng với hệ thuộc cõi Dục. Đây gọi là hệ thuộc cõi Dục.

Thế nào là hệ thuộc cõi Sắc? Là các ý căn tác ý tương ưng với hệ thuộc cõi Sắc. Đây gọi là hệ thuộc cõi Sắc.

Thế nào là hệ thuộc cõi Vô sắc? Là các ý căn tác ý tương ưng với hệ thuộc cõi Vô sắc. Đây gọi là hệ thuộc cõi Vô sắc.

Thế nào là không hệ thuộc? Là các ý căn tác ý tương ưng với vô lậu. Đây gọi là không hệ thuộc.

Như ý căn, hộ căn, tín căn, tinh tấn căn, niệm căn, định căn, tuệ căn cũng như vậy.

Mạng căn hoặc hệ thuộc cõi Dục, hoặc hệ thuộc cõi Sắc, hoặc hệ thuộc cõi Vô sắc.

Thế nào là hệ thuộc cõi Dục? Là thọ mạng hệ thuộc cõi Dục. Đây gọi là hệ thuộc cõi Dục.

Thế nào là hệ thuộc cõi Sắc? Là thọ mạng hệ thuộc cõi Sắc. Đây gọi là hệ thuộc cõi Sắc.

Thế nào là hệ thuộc cõi Vô sắc? Là thọ mạng hệ thuộc cõi Vô sắc. Đây gọi là hệ thuộc cõi Vô sắc.

Lạc căn hoặc hệ thuộc cõi Dục, hoặc hệ thuộc cõi Sắc, hoặc không hệ thuộc.

Thế nào là hệ thuộc cõi Dục? Là các lạc căn tác ý tương ưng với hệ thuộc cõi Dục. Đây gọi là hệ thuộc cõi Dục.

Thế nào là hệ thuộc cõi Sắc? Là các lạc căn tác ý tương ưng với hệ thuộc cõi Sắc. Đây gọi là hệ thuộc cõi Sắc.

Thế nào là không hệ thuộc? Là các lạc căn tác ý tương ưng với vô lậu. Đây gọi là không hệ thuộc.

Như lạc căn, hỷ căn cũng như vậy.

Hỏi: Hai mươi hai căn nầy: Có bao nhiêu thứ tương ưng với nhân, bao nhiêu thứ không tương ưng với nhân?

Đáp: Là mười bốn tương ưng với nhân, tám không tương ưng với nhân.

Bao nhiêu thứ tương ưng với nhân? Bao nhiêu thứ không tương ưng với nhân? Đáp: Là trong mười bốn căn kia có phần ít tương ưng với nhân, phần ít không tương ưng với nhân.

Bao nhiêu thứ không phải tương ưng với nhân, không phải không tương ưng với nhân? Đáp: Là trong mười bốn căn kia, có phần ít không phải tương ưng với nhân, phần ít không phải không tương ưng với nhân.

Hỏi: Hai mươi hai căn nầy: Có bao nhiêu thứ cùng duyên duyên nhau?

Đáp: Có phần ít của mười ba.

Có bao nhiêu thứ không cùng duyên duyên nhau? Đáp: Có phần ít của một, mười ba.

Có bao nhiêu thứ cùng duyên duyên nhau, không cùng duyên duyên nhau? Đáp: Mười ba.

Có bao nhiêu thứ không cùng duyên duyên nhau, không phải không cùng duyên duyên nhau? Đáp: Tám.

Pháp nầy của các căn, căn đó không phải là phàm phu. Các căn là người phàm phu, căn đó không phải là pháp nầy.

Sắc ấm gồm thâu bảy căn. Thống (thọ) ấm gồm thâu phần ít của năm căn, ba căn. Tưởng ấm không gồm thâu căn. Hành ấm gồm thâu phần ít của sáu căn, ba căn. Thức ấm gồm thâu phần ít của một căn, ba căn.

Căn thiện gồm thâu tám trì (giới), hai nhập (xứ), ba ấm (uẩn). Căn bất thiện gồm thâu tám trì, hai nhập, hai ấm. Căn ẩn một vô ký gồm thâu sáu trì, hai nhập, hai ấm. Căn không ẩn một vô ký gồm thâu mười ba trì, bảy nhập, bốn ấm.

Pháp căn gồm thâu mười ba trì, bảy nhập, bốn ấm. Pháp không căn gồm thâu sáu trì, sáu nhập, ba ấm. Pháp căn – không căn gồm thâu mười tám trì, mười hai nhập, năm ấm.

Hỏi: Từng có duyên căn sinh căn chăng?

Đáp: Có sinh.

Hỏi: Từng có duyên căn sinh không phải căn chăng?

Đáp: Có sinh.

Hỏi: Từng có duyên căn sinh căn không phải căn chăng?

Đáp: Có sinh.

Hỏi: Từng có duyên không phải căn sinh không phải căn chăng?

Đáp: Có sinh.

Hỏi: Từng có duyên không phải căn sinh căn chăng?

Đáp: Có sinh.

Hỏi: Từng có duyên không phải căn sinh căn không phải căn chăng?

Đáp: Có sinh.

Hỏi: Từng có duyên căn không phải căn sinh căn chăng?

Đáp: Có sinh.

Hỏi: Từng có duyên căn không phải căn sinh không phải căn chăng?

Đáp: Có sinh.

Hỏi: Từng có duyên căn không phải căn sinh căn không phải căn chăng?

Đáp: Có sinh.

Hỏi: Từng có duyên nhãn căn sinh nhãn căn chăng?

Đáp: Có sinh.

Hỏi: Từng có duyên nhãn căn cho đến sinh vô tri căn chăng?

Đáp: Có sinh.

Hỏi: Từng có duyên vô tri căn sinh vô tri căn chăng?

Đáp: Có sinh.

Hỏi: Từng có duyên vô tri căn sinh nhãn căn cho đến dĩ tri căn chăng?

Đáp: Có sinh.

Nhãn căn cùng nhãn căn làm hai duyên là Nhân, Tăng thượng. Cùng với các căn nhĩ, tỷ, thiệt, thân, nam căn, nữ căn, mạng căn, khổ căn làm một duyên là Tăng thượng. Cùng với các căn còn lại làm hai duyên là Duyên duyên, Tăng thượng.

Như nhãn căn, các căn nhĩ, tỷ, thiệt cũng như vậy.

Thân căn cùng thân căn làm hai duyên là Nhân, Tăng thượng. Cùng với nam căn, nữ căn cũng làm hai duyên là Nhân, Tăng thượng. Cùng với mạng căn, khổ căn, nhãn căn, nhĩ căn, tỷ căn, thiệt căn làm một duyên là Tăng thượng. Cùng với các căn còn lại làm hai duyên là Duyên duyên, Tăng thượng.

Ý căn cùng ý căn làm bốn duyên là Nhân, Thứ đệ, Duyên duyên, Tăng thượng. Cùng với bảy sắc căn (nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, nam, nữ) và mạng căn làm hai duyên là Nhân, Tăng thượng. Cùng với khổ căn làm ba duyên là Nhân, Thứ đệ, Tăng thượng, không có Duyên duyên. Cùng với các căn còn lại làm duyên là Nhân, Thứ đệ, Duyên duyên, Tăng thượng.

Như ý căn, lạc căn, hỷ căn, hộ căn, năm căn như tín v.v… cũng như vậy.

Nữ căn cùng nữ căn làm hai duyên là Nhân, Tăng thượng. Cùng với nam căn, mạng căn, khổ căn, nhãn căn, nhĩ căn, tỷ căn, thiệt căn làm một duyên là Tăng thượng. Cùng với thân căn làm hai duyên là Nhân, Tăng thượng. Cùng với các căn còn lại làm hai duyên là Duyên duyên, Tăng thượng.

Như nữ căn, nam căn cũng như vậy.

Mạng căn cùng mạng căn làm hai duyên là Nhân, Tăng thượng. Cùng với khổ căn, nhãn căn, nhĩ căn, tỷ căn, thiệt căn, thân căn, nam căn, nữ căn làm một duyên là Tăng thượng. Cùng với các căn còn lại làm hai duyên là Duyên duyên, Tăng thượng.

Khổ căn cùng khổ căn làm ba duyên là Nhân, Thứ đệ, Tăng thượng, không có Duyên duyên. Cùng với bảy sắc căn và mạng căn làm hai duyên là Nhân, Tăng thượng. Cùng với ba căn vô lậu làm hai duyên là Duyên duyên, Tăng thượng. Cùng với lạc căn làm ba duyên là Nhân, Duyên duyên, Tăng thượng, không có Thứ đệ. Cùng với các căn còn lại làm bốn duyên là Nhân, Thứ đệ, Duyên duyên, Tăng thượng.

Ưu căn cùng ưu căn làm bốn duyên là Nhân, Thứ đệ, Duyên duyên, Tăng thượng. Cùng với bảy sắc căn và mạng căn làm hai duyên là Nhân, Tăng thượng. Cùng với khổ căn làm ba duyên là Nhân, Thứ đệ, Tăng thượng, không có Duyên duyên. Cùng với ba căn vô lậu làm hai duyên là Duyên duyên, Tăng thượng. Cùng với các căn còn lại làm bốn duyên là Nhân, Thứ đệ, Duyên duyên, Tăng thượng.

Vị tri căn cùng vị tri căn làm bốn duyên là Nhân, Thứ đệ, Duyên duyên, Tăng thượng. Cùng với dĩ tri căn cũng làm bốn duyên. Cùng với vô tri căn làm ba duyên, không có Thứ đệ. Cùng với bảy sắc căn và mạng căn, khổ căn làm một duyên là Tăng thượng. Cùng với ưu căn làm hai duyên là Duyên duyên, Tăng thượng. Cùng với các căn còn lại làm bốn duyên.

Dĩ tri căn cùng dĩ tri căn làm bốn duyên. Cùng với vô tri căn cũng làm bốn duyên. Cùng với bảy sắc căn và mạng căn, khổ căn làm một duyên là Tăng thượng. Cùng với ưu căn, vị tri căn làm hai duyên là Duyên duyên, Tăng thượng. Cùng với các căn còn lại làm bốn duyên.

Vô tri căn cùng vô tri căn làm bốn duyên. Cùng với bảy sắc căn và mạng căn, khổ căn làm một duyên là Tăng thượng. Cùng với ưu căn, vị tri căn, dĩ tri căn làm hai duyên là Duyên duyên, Tăng thượng. Cùng với các căn còn lại làm bốn duyên là Nhân, Thứ đệ, Duyên duyên, Tăng thượng.

***

Phẩm 2: BÀN VỀ HỮU

Nhận hữu nơi cõi Dục, đầu tiên được bao nhiêu căn do hành (nghiệp) sinh? Nhận hữu nơi cõi Sắc, cõi Vô sắc, đầu tiên được bao nhiêu căn do nghiệp sinh?

Từng có tư duy về các pháp hệ thuộc cõi Dục là hiểu rõ về cõi Dục chăng? Là hiểu rõ về cõi Sắc, cõi Vô sắc chăng? Từng có tư duy về các pháp hệ thuộc cõi Sắc là hiểu rõ về cõi Sắc chăng? Là hiểu rõ về cõi Dục, cõi Vô sắc chăng? Từng có tư duy về các pháp hệ thuộc cõi Vô sắc là hiểu rõ về cõi Vô sắc chăng? Là hiểu rõ về cõi Dục, cõi Sắc chăng?

Hiểu rõ về cõi Dục là hiểu rõ bao nhiêu căn? Hiểu rõ về cõi Sắc là hiểu rõ bao nhiêu căn? Hiểu rõ về cõi Vô sắc là hiểu rõ bao nhiêu căn?

Có bao nhiêu căn hiểu rõ về cõi Dục? Có bao nhiêu căn hiểu rõ về cõi Sắc? Có bao nhiêu căn hiểu rõ về cõi Vô sắc?

Có bao nhiêu căn nhận lấy quả Tu-đà-hoàn? Có bao nhiêu căn nhận lấy quả Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán?

Các căn nhận lấy quả Tu-đà-hoàn, đã được quả Tu-đà-hoàn, căn nầy nên nói là thành tựu hay không thành tựu? Các căn nhận lấy quả Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, đã được quả Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, các căn nầy nên nói là thành tựu hay không thành tựu?

Các căn nhận lấy quả Tu-đà-hoàn, căn nầy diệt trừ kiết thuộc cõi nào? Căn nầy thuộc về quả nào? Các căn nhận lấy quả Tư-đàhàm, A-na-hàm, A-la-hán, căn nầy diệt trừ kiết thuộc cõi nào? Căn nầy thuộc về quả nào?

Nhận lấy quả Tu-đà-hoàn, xả bỏ các căn, căn nầy diệt trừ kiết thuộc cõi nào? Căn nầy thuộc về quả nào? Nhận lấy quả Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, xả bỏ các căn, căn nầy diệt trừ kiết thuộc cõi nào? Căn nầy thuộc về quả nào?

Nhận lấy quả Tu-đà-hoàn, đạt được các căn, căn nầy diệt trừ kiết thuộc cõi nào? Căn nầy thuộc về quả nào? Nhận lấy quả Tưđà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, đạt được các căn, căn nầy diệt trừ kiết thuộc cõi nào? Căn nầy thuộc về quả nào?

Người Tu-đà-hoàn đã thành tựu các căn, căn nầy diệt trừ kiết thuộc cõi nào? Căn nầy thuộc về quả nào? Các người Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán đã thành tựu các căn, căn nầy diệt trừ kiết thuộc cõi nào? Căn nầy thuộc về quả nào?

Các người Tu-đà-hoàn do các căn diệt kiết, căn nầy diệt trừ kiết thuộc cõi nào? Căn nầy thuộc về quả nào? Các người Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán do các căn diệt kiết, căn nầy diệt trừ kiết thuộc cõi nào? Căn nầy thuộc về quả nào?

Các căn thuộc về quả Tu-đà-hoàn, căn nầy diệt trừ kiết thuộc cõi nào? Các căn thuộc về quả Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, căn nầy diệt trừ kiết thuộc cõi nào?

Các khổ trí, trí đó là trí vô lậu đối với khổ chăng? Nếu là trí vô lậu đối với khổ, trí đó là khổ trí chăng? Các tập trí, trí đó là trí vô lậu đối với tập chăng? Nếu là trí vô lậu đối với tập, trí đó là tập trí chăng? Các tận trí, trí đó là trí vô lậu đối với tận chăng? Nếu là trí vô lậu đối với tận, trí đó là tận trí chăng? Các đạo trí, trí đó là trí vô lậu đối với đạo chăng? Nếu là trí vô lậu đối với đạo, trí đó là đạo trí chăng?

Các căn vô lậu duyên hệ thuộc cõi Dục thì căn đó tương ưng với pháp trí chăng? Nếu là căn vô lậu tương ưng với pháp trí, thì căn đó duyên hệ thuộc cõi Dục chăng? Các căn vô lậu duyên hệ thuộc cõi Sắc, cõi Vô sắc, thì căn đó tương ưng với vị tri trí chăng? Nếu là căn vô lậu tương ưng với vị tri trí, thì căn đó duyên hệ thuộc cõi Sắc, cõi Vô sắc chăng?

Pháp trí nên nói là pháp trí chăng? Nên nói là vị tri trí, tha tâm trí, đẳng trí, khổ trí, tập trí, tận trí, đạo trí chăng? Nên nói là có giác có quán, không giác có quán, không giác không quán chăng? Nên nói là tương ưng với lạc căn, hỷ căn, hộ căn, không, vô tướng, vô nguyện chăng? Nên nói là duyên hệ thuộc cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc, duyên không hệ thuộc chăng?

Như pháp trí, vị tri trí cũng như vậy.

Đẳng ý giải thoát nên nói là do căn học đạt được hay căn vô học đạt được? Vô nghi ý giải thoát nên nói là do căn học đạt được hay căn vô học đạt được? Tất cả kiết tận nên nói là do căn học đạt được hay căn vô học đạt được?

Dùng đạo vô ngại thủ chứng quả Tu-đà-hoàn, đạo nầy nên nói là tương ưng với pháp trí, tương ưng với vị tri trí, tha tâm trí, đẳng trí, khổ trí, tập trí, tận trí, đạo trí chăng? Nên nói là có giác có quán, không giác có quán, không giác không quán chăng? Nên nói là tương ưng với lạc căn, hỷ căn, hộ căn, không, vô tướng, vô nguyện chăng? Nên nói là duyên hệ thuộc cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc, duyên không hệ thuộc chăng?

Dùng đạo vô ngại thủ chứng quả Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-lahán, đạo nầy nên nói là tương ưng với pháp trí, tương ưng với vị tri trí, tha tâm trí, đẳng trí, khổ trí, tập trí, tận trí, đạo trí chăng? Nên nói là có giác có quán, không giác có quán, không giác không quán chăng? Nên nói là tương ưng với lạc căn, hỷ căn, hộ căn, không, vô tướng, vô nguyện chăng? Nên nói là duyên hệ thuộc cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc, duyên không hệ thuộc chăng?

Có bao nhiêu căn đoạn, tận, khởi, khi đạt được quả Tu-đà-hoàn? Có bao nhiêu căn đoạn tận khởi khi đạt được quả Tư-đà-hàm, A-nahàm, A-la-hán?

Về các nghĩa trên, chương nầy xin diễn nói đầy đủ.

*

Hỏi: Nhận hữu nơi cõi Dục, đầu tiên được bao nhiêu căn do hành (nghiệp) sinh?

Đáp: Noãn sinh, thai sinh, hợp sinh (thấp sinh) được hai là thân căn và mạng căn. Hóa sinh được hoặc sáu, bảy, tám. Vô hình sáu, một hình bảy, hai hình tám.

Hỏi: Nhận hữu nơi cõi Sắc, đầu tiên được bao nhiêu căn do nghiệp sinh?

Đáp: Sáu căn.

Hỏi: Nhận hữu nơi cõi Vô sắc, đầu tiên được bao nhiêu căn do nghiệp sinh?

Đáp: Một căn.

Hỏi: Từng có tư duy về các pháp hệ thuộc cõi Dục là hiểu rõ (nhận biết khắp) về cõi Dục chăng? Là hiểu rõ về cõi Sắc, cõi Vô sắc chăng?

Đáp: Hiểu rõ về cõi Dục. Không hiểu rõ về cõi Sắc, cõi Vô sắc.

Hỏi: Từng có tư duy về các pháp hệ thuộc cõi Sắc là hiểu rõ về cõi Sắc chăng? Là hiểu rõ về cõi Dục, cõi Vô sắc chăng?

Đáp: Hiểu rõ về cõi Sắc, cõi Dục. Không hiểu rõ về cõi Vô sắc.

Hỏi: Từng có tư duy về các pháp hệ thuộc cõi Vô sắc là hiểu rõ về cõi Vô sắc chăng? Là hiểu rõ về cõi Dục, cõi Sắc chăng?

Đáp: Hiểu rõ về cõi Vô sắc, cõi Sắc. Không hiểu rõ về cõi Dục.

Hỏi: Hiểu rõ về cõi Dục là hiểu rõ bao nhiêu căn?

Đáp: Bốn căn (Nam, nữ, ưu, khổ).

Hỏi: Hiểu rõ về cõi Sắc là hiểu rõ bao nhiêu căn?

Đáp: Năm căn (Năm sắc căn).

Hỏi: Hiểu rõ về cõi Vô sắc là hiểu rõ bao nhiêu căn?

Đáp: Tám căn (Năm sắc căn cùng ý căn, mạng căn, hộ căn).

Hỏi: Có bao nhiêu căn hiểu rõ về cõi Dục?

Đáp: Người phàm phu có bảy (Năm sắc căn và ý căn, hộ căn). Người vô cấu (Thánh giả) có tám (thêm dĩ tri căn).

Hỏi: Có bao nhiêu căn hiểu rõ về cõi Sắc?

Người phàm phu có bảy. Người vô cấu có mười (thêm lạc

căn, hỷ căn).

Hỏi: Có bao nhiêu căn hiểu rõ về cõi Vô sắc?

Đáp: Có mười một (thêm vô tri căn).

Hỏi: Có bao nhiêu căn nhận lấy quả Tu-đà-hoàn?

Đáp: Có chín (Năm sắc căn cùng ý căn, hộ căn, vị tri căn, dĩ tri căn).

Hỏi: Có bao nhiêu căn nhận lấy quả Tư-đà-hàm?

Đáp: Nếu bội tăng việc dứt hết ái dục, vượt thứ lớp thủ chứng (Đẳng vô gián, nhập chánh tánh ly sinh) có chín. Nếu được quả Tuđà-hoàn, dùng đạo thế tục nhận lấy quả Tư-đà-hàm có bảy, dùng đạo vô lậu có tám.

Hỏi: Có bao nhiêu căn nhận lấy quả A-na-hàm?

Đáp: Nếu ái dục dứt hết, vượt thứ lớp thủ chứng có chín. Nếu được quả Tư-đà-hàm, dùng đạo thế tục nhận lấy quả A-na-hàm có bảy, dùng đạo vô lậu có tám.

Hỏi: Có bao nhiêu căn nhận lấy quả A-la-hán?

Đáp: Mười một căn.

Hỏi: Các căn nhận lấy quả Tu-đà-hoàn, đã được quả Tu-đàhoàn, căn nầy nên nói là thành tựu hay không thành tựu?

Đáp: Thuộc đạo vô ngại (đạo vô gián) thì không thành tựu, thuộc đạo giải thoát thì thành tựu.

Hỏi: Các căn nhận lấy quả Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, đã được quả Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, các căn nầy nên nói là thành tựu hay không thành tựu?

Đáp: Thuộc đạo vô ngại thì không thành tựu, thuộc đạo giải thoát thì thành tựu.

Hỏi: Các căn nhận lấy quả Tu-đà-hoàn, căn nầy diệt trừ kiết thuộc cõi nào?

Đáp: Hoặc thuộc cõi Sắc, hoặc thuộc cõi Vô sắc, hoặc không xứ sở.

Hỏi: Các căn nhận lấy quả Tư-đà-hàm, A-na-hàm, căn nầy diệt trừ kiết thuộc cõi nào?

Đáp: Hoặc thuộc cõi Dục, hoặc thuộc cõi Sắc, hoặc thuộc cõi Vô sắc, hoặc không xứ sở.

Hỏi: Các căn nhận lấy quả A-la-hán, căn nầy diệt trừ kiết thuộc cõi nào?

Đáp: Hoặc thuộc cõi Vô sắc, hoặc không xứ sở.

Hỏi: Các căn nhận lấy quả Tu-đà-hoàn, căn nầy thuộc về quả nào?

Đáp: Thuộc về quả Tu-đà-hoàn, hoặc không xứ sở.

Hỏi: Các căn nhận lấy quả Tư-đà-hàm, căn nầy thuộc về quả nào?

Đáp: Thuộc về quả Tư-đà-hàm, hoặc không xứ sở.

Hỏi: Các căn nhận lấy quả A-na-hàm, căn nầy thuộc về quả nào?

Đáp: Thuộc về quả A-na-hàm, hoặc không xứ sở.

Hỏi: Các căn nhận lấy quả A-la-hán, căn nầy thuộc về quả nào?

Đáp: Thuộc về quả A-la hán, hoặc không xứ sở.

Hỏi: Nhận lấy quả Tu-đà-hoàn, xả bỏ các căn, căn nầy diệt trừ kiết thuộc cõi nào?

Đáp: Hoặc thuộc cõi Dục, hoặc thuộc cõi Sắc, hoặc thuộc cõi Vô sắc, hoặc không xứ sở.

Hỏi: Nhận lấy quả Tư-đà-hàm, A-na-hàm, xả bỏ các căn, căn nầy diệt trừ kiết thuộc cõi nào?

Hoặc thuộc cõi Dục, hoặc thuộc cõi Sắc, hoặc thuộc cõi Vô sắc, hoặc không xứ sở.

Hỏi: Nhận lấy quả A-la-hán, xả bỏ các căn, căn nầy diệt trừ kiết thuộc cõi nào?

Đáp: Hoặc thuộc cõi Sắc, hoặc thuộc cõi Vô sắc, hoặc không xứ sở.

Hỏi: Nhận lấy quả Tu-đà-hoàn, xả bỏ các căn, căn nầy thuộc về quả nào?

Đáp: Không xứ sở.

Hỏi: Nhận lấy quả Tư-đà-hàm, xả bỏ các căn, căn nầy thuộc về quả nào?

Đáp: Thuộc về quả Tu-đà-hoàn, hoặc không xứ sở.

Hỏi: Nhận lấy quả A-na-hàm, xả bỏ các căn, căn nầy thuộc về quả nào?

Đáp: Thuộc về quả Tư-đà-hàm, hoặc không xứ sở.

Hỏi: Nhận lấy quả A-la-hán, xả bỏ các căn, căn nầy thuộc về quả nào?

Đáp: Thuộc về quả A-na-hàm, hoặc không xứ sở.

Hỏi: Nhận lấy quả Tu-đà-hoàn, đạt được các căn, căn nầy diệt trừ kiết thuộc cõi nào?

Đáp: Không xứ sở.

Hỏi: Nhận lấy quả Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, đạt được các căn, căn nầy diệt trừ kiết thuộc cõi nào?

Đáp: Không xứ sở.

Hỏi: Nhận lấy quả Tu-đà-hoàn, đạt được các căn, căn nầy thuộc về quả nào?

Đáp: Thuộc quả Tu-đà-hoàn.

Hỏi: Nhận lấy quả Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, đạt được các căn, căn nầy thuộc về quả nào?

Đáp: Thuộc quả Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán.

Hỏi: Người Tu-đà-hoàn đã thành tựu các căn, căn nầy diệt trừ kiết thuộc cõi nào?

Đáp: Hoặc thuộc cõi Dục, hoặc không xứ sở.

Hỏi: Người Tư-đà-hàm đã thành tựu các căn, căn nầy diệt trừ kiết thuộc cõi nào?

Đáp: Hoặc thuộc cõi Dục, hoặc không xứ sở.

Hỏi: Người A-na-hàm đã thành tựu các căn, căn nầy diệt trừ kiết thuộc cõi nào?

Đáp: Hoặc thuộc cõi Sắc, hoặc thuộc cõi Vô sắc, hoặc không xứ sở.

Hỏi: Người A-la-hán đã thành tựu các căn, căn nầy diệt trừ kiết thuộc cõi nào?

Đáp: Không xứ sở.

Hỏi: Người Tu-đà-hoàn đã thành tựu các căn, căn nầy thuộc về quả nào?

Đáp: Hoặc quả Tu-đà-hoàn, hoặc không xứ sở.

Hỏi: Các người Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán đã thành tựu các căn, căn nầy thuộc về quả nào?

Đáp: Hoặc quả Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, hoặc không xứ sở.

Hỏi: Các người Tu-đà-hoàn do các căn diệt kiết, căn nầy diệt trừ kiết thuộc cõi nào?

Thuộc cõi Dục.

Hỏi: Các người Tư-đà-hàm do các căn diệt kiết, căn nầy diệt trừ kiết thuộc cõi nào?

Đáp: Thuộc cõi Dục.

Hỏi: Các người A-na-hàm do các căn diệt kiết, căn nầy diệt trừ kiết thuộc cõi nào?

Đáp: Thuộc cõi Sắc, cõi Vô sắc.

Hỏi: Các người Tu-đà-hoàn do các căn diệt kiết, căn nầy thuộc về quả nào?

Đáp: Không xứ sở.

Hỏi: Các người Tư-đà-hàm, A-na-hàm do các căn diệt kiết, căn nầy thuộc về quả nào?

Đáp: không xứ sở.

Hỏi: Các căn thuộc về quả Tu-đà-hoàn, căn nầy diệt trừ kiết thuộc cõi nào?

Đáp: Không xứ sở.

Hỏi: Các căn thuộc về quả Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, căn nầy diệt trừ kiết thuộc cõi nào?

Đáp: Không xứ sở.

Hỏi: Các khổ trí, trí đó là trí vô lậu đối với khổ chăng?

Đáp: Đúng vậy.

Hỏi: Từng có trí vô lậu đối với khổ, trí đó không phải là khổ trí chăng?

Đáp: Có. Là các khổ tập trí.

Hỏi: Các tập trí, trí đó là trí vô lậu đối với tập chăng?

Đáp: Đúng vậy.

Hỏi: Từng có trí vô lậu đối với tập, trí đó không phải là tập trí chăng?

Đáp: Có. Là các tập khổ trí.

Hỏi: Các tận trí, trí đó là trí vô lậu đối với tận chăng?

Đáp: Đúng vậy.

Hỏi: Nếu là trí vô lậu đối với tận, trí đó là tận trí chăng?

Đáp: Đúng vậy.

Hỏi: Các đạo trí, trí đó là trí vô lậu đối với đạo chăng?

Đáp: Đúng vậy.

Hỏi: Nếu là trí vô lậu đối với đạo, trí đó là đạo trí chăng?

Đáp: Đúng vậy.

Hỏi: Các căn vô lậu duyên hệ thuộc cõi Dục thì căn đó tương ưng với pháp trí chăng?

Đáp: Hoặc có căn vô lậu duyên hệ thuộc cõi Dục, căn đó không phải tương ưng với pháp trí.

Thế nào là căn vô lậu duyên hệ thuộc cõi Dục, căn đó không phải tương ưng với pháp trí? Là khổ pháp nhẫn tương ưng với khổ pháp trí căn. Tập pháp nhẫn tương ưng với tập pháp trí căn. Đây gọi là căn vô lậu duyên hệ thuộc cõi Dục, căn đó không phải tương ưng với pháp trí.

Thế nào là căn vô lậu tương ưng với pháp trí, căn đó không phải duyên hệ thuộc cõi Dục? Là các căn tương ưng với pháp trí duyên tận, duyên đạo. Đây gọi là căn vô lậu tương ưng với pháp trí, căn đó không phải duyên hệ thuộc cõi Dục.

Thế nào là căn vô lậu duyên hệ thuộc cõi Dục, căn đó tương ưng với pháp trí? Là các căn tương ưng với pháp trí duyên khổ, duyên tập. Đây gọi là căn vô lậu duyên hệ thuộc cõi Dục, căn đó tương ưng với pháp trí.

Thế nào là căn vô lậu không phải duyên hệ thuộc cõi Dục, căn đó cũng không phải tương ưng với pháp trí? Là căn tương ưng với khổ vị tri nhẫn, khổ vị tri trí. Căn tương ưng với tập vị tri nhẫn, tập vị tri trí. Căn tương ưng với tận pháp nhẫn. Căn tương ưng với tận pháp trí, tận vị tri nhẫn, tận vị tri trí. Căn tương ưng với đạo pháp nhẫn. Căn tương ưng với đạo pháp trí, đạo vị tri nhẫn, đạo vị tri trí. Đây gọi là căn vô lậu không phải duyên hệ thuộc cõi Dục, căn đó cũng không phải tương ưng với pháp trí.

Hỏi: Các căn vô lậu duyên hệ thuộc cõi Sắc, cõi Vô sắc, căn đó tương ưng với vị tri trí chăng?

Đáp: Hoặc có căn vô lậu duyên hệ thuộc cõi Sắc, cõi Vô sắc, căn đó không phải tương ưng với vị tri trí.

Thế nào là căn vô lậu duyên hệ thuộc cõi Sắc, cõi Vô sắc, căn đó không phải tương ưng với vị tri trí? Là khổ vị tri nhẫn cùng căn tương ưng với khổ vị tri trí. Tập vị tri nhẫn cùng căn tương ưng với tập vị tri trí. Đây gọi là căn vô lậu duyên hệ thuộc cõi Sắc, Vô sắc, căn đó không phải tương ưng với vị tri trí.

Thế nào là căn vô lậu tương ưng với vị tri trí, căn đó không phải duyên hệ thuộc cõi Sắc, cõi Vô sắc? Là các căn tương ưng với vị tri trí duyên tận, duyên đạo. Đây gọi là căn vô lậu tương ưng với vị tri trí, căn đó không phải duyên hệ thuộc cõi Sắc, cõi Vô sắc.

Thế nào là căn vô lậu duyên hệ thuộc cõi Sắc, cõi Vô sắc, căn đó tương ưng với vị tri trí? Là các căn tương ưng với vị tri trí duyên khổ, duyên tập. Đây gọi là căn vô lậu duyên hệ thuộc cõi Sắc, cõi Vô sắc, căn đó tương ưng với vị tri trí.

Thế nào là căn vô lậu không phải duyên hệ thuộc cõi Sắc, cõi Vô sắc, căn đó cũng không phải tương ưng với vị tri trí? Là căn tương ưng với khổ pháp nhẫn, khổ pháp trí. Căn tương ưng với tập pháp nhẫn, tập pháp trí. Căn tương ưng với tận pháp nhẫn, tận pháp trí, tận vị tri nhẫn. Căn tương ưng với tận vị tri trí, đạo pháp nhẫn, đạo pháp trí. Căn tương ưng với đạo vị tri nhẫn, đạo vị tri trí. Đây gọi là căn vô lậu không phải duyên hệ thuộc cõi Sắc, cõi Vô sắc, căn đó cũng không phải tương ưng với vị tri trí.

Hỏi: Pháp trí nên nói là pháp trí chăng?

Đáp: Pháp trí nên nói là pháp trí, hoặc tha tâm trí, khổ trí, tập trí, tận trí, đạo trí. Hoặc có giác có quán, hoặc không giác có quán, hoặc không giác không quán. Hoặc tương ưng với lạc căn, hỷ căn, hộ căn, hoặc tương ưng với không, vô tướng, vô nguyện. Hoặc duyên hệ thuộc cõi Dục, hoặc duyên không hệ thuộc.

Hỏi: Vị tri trí nên nói là vị tri trí chăng?

Đáp: Vị tri trí nên nói là vị tri trí, hoặc tha tâm trí, khổ trí, tập trí, tận trí, đạo trí. Hoặc có giác có quán, hoặc không giác có quán, hoặc không giác không quán. Hoặc tương ưng với lạc căn, hỷ căn, hộ căn, hoặc tương ưng với không, vô tướng, vô nguyện. Hoặc duyên hệ thuộc cõi Sắc, cõi Vô sắc, hoặc duyên không hệ thuộc.

Hỏi: Đẳng ý giải thoát nên nói là do căn học đạt được hay do căn vô học đạt được?

Đáp: Đẳng ý giải thoát nên nói là do căn học và căn vô học đạt được.

Hỏi: Vô nghi ý giải thoát nên nói là do căn học đạt được hay căn vô học đạt được?

Đáp: Nếu bắt đầu được không nghi, nên nói là do căn học và căn vô học đạt được. Nếu A-la-hán đẳng ý giải thoát đạt được không nghi (bất động), nên nói là do căn vô học đạt được.

Hỏi: Tất cả kiết tận nên nói là do căn học đạt được hay căn vô học đạt được?

Đáp: Tất cả kiết tận nên nói là do căn học và căn vô học đạt được.

Dùng đạo vô ngại (đạo vô gián) thủ chứng quả Tu-đà-hoàn, đạo nầy nên nói là tương ưng với nhẫn, nên nói là có giác có quán, nên nói là tương ưng với hộ căn, tương ưng với vô nguyện, nên nói là duyên không hệ thuộc.

Dùng đạo vô ngại thủ chứng quả Tư-đà-hàm, nếu bội tăng việc dứt ái dục, vượt thứ lớp thủ chứng (đẳng vô gián, nhập chánh tánh ly sinh), đạo nầy nên nói là tương ưng với nhẫn, nên nói là có giác có quán, nên nói là tương ưng với hộ căn, tương ưng với vô nguyện, nên nói là duyên không hệ thuộc.

Nếu được quả Tu-đà-hoàn, dùng đạo thế tục nhận lấy quả Tưđà-hàm, đạo nầy nên nói là tương ưng với đẳng trí, nên nói là có giác có quán, nên nói là tương ưng với hộ căn, nên nói là duyên hệ thuộc cõi Dục.

Nếu được quả Tu-đà-hoàn, dùng đạo vô lậu nhận lấy quả Tưđà-hàm, đạo nầy nên nói là tương ưng với pháp trí, hoặc khổ trí, tập trí, tận trí, đạo trí, nên nói là có giác có quán, nên nói là tương ưng với hộ căn, hoặc tương ưng với không, vô tướng, vô nguyện, nên nói là duyên hệ thuộc cõi Dục, hoặc duyên không hệ thuộc.

Dùng đạo vô ngại thủ chứng quả A-na-hàm, nếu ái dục tận, vượt thứ lớp thủ chứng, đạo nầy nên nói là tương ưng với nhẫn, nên nói là có giác có quán, hoặc không giác có quán, hoặc không giác không quán, nên nói là tương ưng với hộ căn, lạc căn, hỷ căn, tương ưng với vô nguyện.

Nếu được quả Tư-đà-hàm, dùng đạo thế tục nhận lấy quả A-nahàm, đạo nầy nên nói là tương ưng với đẳng trí, nên nói là có giác có quán, nên nói là tương ưng với hộ căn, nên nói là duyên hệ thuộc cõi Dục.

Nếu được quả Tư-đà-hàm, dùng đạo vô lậu nhận lấy quả A-nahàm, đạo nầy nên nói là tương ưng với pháp trí, hoặc khổ trí, tập trí, tận trí, đạo trí, nên nói là có giác có quán, nên nói là tương ưng với hộ căn, hoặc tương ưng với không, vô tướng, vô nguyện, nên nói là duyên hệ thuộc cõi Dục, hoặc duyên không hệ thuộc.

Dùng đạo vô ngại thủ chứng quả A-la-hán, nếu dựa vào Tam muội vị lai có giác có quán nhận lấy quả A-la-hán, đạo nầy nên nói là tương ưng với pháp trí, hoặc vị tri trí, khổ trí, tập trí, tận trí, đạo trí, nên nói là có giác có quán, nên nói là tương ưng với hộ căn, hoặc tương ưng với không, vô tướng, vô nguyện, nên nói là duyên hệ thuộc cõi Vô sắc, hoặc duyên không hệ thuộc.

Nếu dựa vào thiền thứ nhất nhận lấy quả A-la-hán, đạo nầy nên nói là tương ưng với pháp trí, hoặc vị tri trí, khổ trí, tập trí, tận trí, đạo trí, nên nói là có giác có quán, nên nói là tương ưng với hỷ căn, hoặc tương ưng với không, vô tướng, vô nguyện, nên nói là duyên hệ thuộc cõi Vô sắc, hoặc duyên không hệ thuộc.

Nếu dựa vào thiền trung gian nhận lấy quả A-la-hán, đạo nầy nên nói là tương ưng với pháp trí, hoặc vị tri trí, khổ trí, tập trí, tận trí, đạo trí, nên nói là không giác có quán, nên nói là tương ưng với hộ căn, hoặc tương ưng với không, vô tướng, vô nguyện, nên nói là duyên hệ thuộc cõi Vô sắc, hoặc duyên không hệ thuộc.

Nếu dựa vào thiền thứ hai nhận lấy quả A-la-hán, đạo nầy nên nói là tương ưng với pháp trí, hoặc vị tri trí, khổ trí, tập trí, tận trí, đạo trí, nên nói là không giác không quán, nên nói là tương ưng với hỷ căn, hoặc tương ưng với không, vô tướng, vô nguyện, nên nói là duyên hệ thuộc cõi Vô sắc, hoặc duyên không hệ thuộc.

Nếu dựa vào thiền thứ ba nhận lấy quả A-la-hán, đạo nầy nên nói là tương ưng với pháp trí, hoặc vị tri trí, khổ trí, tập trí, tận trí, đạo trí, nên nói là không giác không quán, nên nói là tương ưng với lạc căn, hoặc tương ưng với không, vô tướng, vô nguyện, nên nói là duyên hệ thuộc cõi Vô sắc, hoặc duyên không hệ thuộc.

Nếu dựa vào thiền thứ tư nhận lấy quả A-la-hán, đạo nầy nên nói là tương ưng với pháp trí, hoặc vị tri trí, khổ trí, tập trí, tận trí, đạo trí, nên nói là không giác không quán, nên nói là tương ưng với hộ căn, hoặc tương ưng với không, vô tướng, vô nguyện, nên nói là duyên hệ thuộc cõi Vô sắc, hoặc duyên không hệ thuộc.

Nếu dựa vào định vô sắc nhận lấy quả A-la-hán, đạo nầy nên nói là tương ưng với vị tri trí, hoặc khổ trí, tập trí, tận trí, đạo trí, nên nói là không giác không quán, nên nói là tương ưng với hộ căn, hoặc tương ưng với không, vô tướng, vô nguyện, nên nói là duyên hệ thuộc cõi Vô sắc, hoặc duyên không hệ thuộc.

Hỏi: Có bao nhiêu căn diệt tận khởi khi đạt được quả Tu-đà-hoàn?

Đáp: Căn không diệt hẳn bảy tận khởi, một diệt không khởi, một khởi không tận, khi đạt được quả Tu-đà-hoàn.

Hỏi: Có bao nhiêu căn diệt tận khởi khi đạt được quả Tưđà-hàm?

Đáp: Nếu bội tăng việc dứt ái dục, vượt thứ lớp thủ chứng, căn không diệt hẳn bảy tận khởi, một diệt không khởi, một khởi không tận, khi đạt được quả Tư-đà-hàm.

Nếu được quả Tu-đà-hoàn, dùng đạo thế tục nhận lấy quả Tư-đà-hàm, căn không diệt hẳn bảy tận khởi khi đạt được quả Tư-đà-hàm.

Nếu được quả Tu-đà-hoàn, dùng đạo vô lậu nhận lấy quả Tư-đà-hàm, căn không diệt hẳn tám tận khởi khi đạt được quả Tư-đà-hàm.

Hỏi: Có bao nhiêu căn diệt tận khởi khi đạt được quả A-na-hàm?

Đáp: Nếu ái dục tận, vượt thứ lớp thủ chứng, căn không diệt hẳn bảy tận khởi, một diệt không khởi, một khởi không tận, khi đạt được quả A-na-hàm.

Nếu được quả Tư-đà-hàm, dùng đạo thế tục nhận lấy quả A-nahàm, thiền không hiện ở trước, bốn căn diệt hẳn bảy tận khởi khi đạt được quả A-na-hàm. Nếu thiền hiện ở trước, bốn căn diệt hẳn sáu tận khởi, một diệt không khởi, một khởi không tận, khi đạt được quả A-na-hàm.

Nếu được quả Tư-đà-hàm, dùng đạo vô lậu nhận lấy quả A-nahàm, thiền không hiện ở trước, bốn căn diệt hẳn tám tận khởi, khi đạt được quả A-na-hàm. Nếu thiền hiện ở trước, bốn căn diệt hẳn bảy tận khởi, một diệt không khởi, một khởi không tận, khi đạt được quả A-na-hàm.

Hỏi: Có bao nhiêu căn diệt tận khởi khi đạt được quả A-la-hán?

Đáp: Nếu dựa vào Tam muội vị lai có giác có quán nhận lấy quả A-la-hán, một căn diệt hẳn bảy diệt tận khởi, một diệt không khởi, một khởi không tận, khi đạt được quả A-la-hán.

Thiền thứ nhất, thiền trung gian, thiền thứ tư, định vô sắc cũng lại như vậy.

Nếu dựa vào thiền thứ nhất nhận lấy quả A-la-hán, hai căn diệt hẳn sáu diệt tận khởi, một diệt không khởi, một khởi không tận, một tận khởi, khi đạt được quả A-la-hán.

Thiền thứ hai, thiền thứ ba cũng lại như vậy.

***

Phẩm 3: BÀN VỀ CÁNH LẠC (Xúc trong 12 nhân duyên)

Gồm có 16 Cánh lạc (Xúc): Cánh lạc có đối, cánh lạc tăng ngữ, cánh lạc minh, cánh lạc vô minh, cánh lạc phi minh phi vô minh, cánh lạc ái, cánh lạc giận dữ, cánh lạc thuận lạc thống (thọ), cánh lạc thuận khổ thống, cánh lạc thuận bất khổ bất lạc thống, nhãn cánh lạc, nhĩ cánh lạc, tỷ cánh lạc, thiệt cánh lạc, thân cánh lạc, ý cánh lạc.

Thế nào là cánh lạc có đối (Xúc có đối)? Cho đến thế nào là ý cánh lạc (ý xúc)?

Cánh lạc có đối gồm thâu bao nhiêu cánh lạc? Cho đến ý cánh lạc gồm thâu bao nhiêu cánh lạc?

Cánh lạc có đối tương ưng với bao nhiêu căn? Cho đến ý cánh lạc tương ưng với bao nhiêu căn?

Các căn nhân nơi cánh lạc có đối, căn đó tương ưng với cánh lạc có đối chăng? Nếu như căn tương ưng với cánh lạc có đối, căn đó nhân nơi cánh lạc có đối chăng? Cho đến ý cánh lạc cũng như vậy.

Thành tựu loại nhãn căn nầy, Hành giả kia thành tựu loại thân căn nầy chăng? Nếu như thành tựu loại thân căn nầy, Hành giả kia thành tựu loại nhãn căn nầy chăng? Nhĩ, tỷ, thiệt, thân căn cũng lại như vậy.

Địa ngục có bao nhiêu căn được tạo thành? Súc sinh, ngạ quỷ, đoạn căn thiện, tà định, đẳng định, bất định, cõi Diêm-phù-đề, Câuda-ni, Phất-vu-đãi, Uất-đơn-viết, Tứ thiên vương thân, trời Ba mươi ba, Diệm-ma, Đâu thuật, Hóa tự tại, Tha hóa tự tại, trời Phạm ca di, Quang âm, Biến tịnh, Quả thuật, trung ấm, vô sắc, bậc Kiên tín, Kiên pháp, Tín giải thoát, Kiến đáo, Thân chứng, Tuệ giải thoát, Câu giải thoát có bao nhiêu căn được thành tựu?

Nhãn căn khi được trí đoạn (nhận biết khắp), có bao nhiêu căn được trí đoạn? Cho đến tuệ căn khi được trí đoạn có bao nhiêu căn được trí đoạn?

Nhãn căn khi tận tác chứng (diệt tác chứng), có bao nhiêu căn tận tác chứng? Cho đến tuệ căn khi tận tác chứng, có bao nhiêu căn tận tác chứng?

Về các nghĩa trên, chương nầy xin diễn nói đầy đủ.

*

Mười sáu Cánh lạc (Xúc trong 12 nhân duyên): Cánh lạc có đối, cánh lạc tăng ngữ, cánh lạc minh, cánh lạc vô minh, cánh lạc phi minh phi vô minh, cánh lạc ái, cánh lạc giận dữ, cánh lạc thuận lạc thống (lạc thọ), cánh lạc thuận khổ thống (khổ thọ), cánh lạc thuận bất khổ bất lạc thống, nhãn cánh lạc, nhĩ cánh lạc, tỷ cánh lạc, thiệt cánh lạc, thân cánh lạc, ý cánh lạc.

Hỏi: Thế nào là cánh lạc có đối (Xúc có đối)?

Đáp: Là cánh lạc tương ưng với năm thức thân.

Hỏi: Thế nào là cánh lạc tăng ngữ?

Đáp: Là cánh lạc tương ưng với ý thức thân.

Hỏi: Thế nào là cánh lạc minh?

Đáp: Là cánh lạc vô lậu.

Hỏi: Thế nào là cánh lạc vô minh?

Đáp: Là cánh lạc nhiễm ô.

Hỏi: Thế nào là cánh lạc phi minh phi vô minh?

Đáp: Là cánh lạc hữu lậu, không nhiễm ô.

Hỏi: Thế nào là cánh lạc ái?

Đáp: Là cánh lạc tương ưng với dục.

Hỏi: Thế nào là cánh lạc giận dữ?

Đáp: Là cánh lạc tương ưng với giận dữ.

Hỏi: Thế nào là cánh lạc thuận lạc thống (lạc thọ)?

Đáp: Là cánh lạc tương ưng với lạc thống.

Hỏi: Thế nào là cánh lạc thuận khổ thống (khổ thọ)?

Đáp: Là cánh lạc tương ưng với khổ thống.

Hỏi: Thế nào là cánh lạc thuận bất khổ bất lạc thống (bất khổ bất lạc thọ)?

Đáp: Là cánh lạc tương ưng với bất khổ bất lạc thống.

Hỏi: Thế nào là nhãn cánh lạc (nhãn xúc)?

Đáp: Là cánh lạc tương ưng với nhãn thức thân. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân cánh lạc cũng như vậy.

Hỏi: Thế nào là ý cánh lạc (ý xúc)?

Đáp: Là cánh lạc tương ưng với ý thức thân.

Cánh lạc có đối gồm thâu sáu cánh lạc và phần ít của bảy cánh lạc. Cánh lạc tăng ngữ gồm thâu ba cánh lạc và phần ít của bảy cánh lạc. Cánh lạc minh gồm thâu cánh lạc minh và phần ít của bốn cánh lạc. Cánh lạc vô minh gồm thâu ba cánh lạc và phần ít của mười một cánh lạc. Cánh lạc phi minh phi vô minh gồm thâu cánh lạc phi minh phi vô minh và phần ít của mười một cánh lạc. Cánh lạc ái gồm thâu cánh lạc ái và phần ít của mười một cánh lạc. Cánh lạc giận dữ gồm thâu cánh lạc giận dữ và phần ít của mười một cánh lạc. Cánh lạc thuận lạc thống gồm thâu cánh lạc thuận lạc thống và phần ít của mười hai cánh lạc. Cánh lạc thuận khổ thống gồm thâu cánh lạc thuận khổ thống và phần ít của mười một cánh lạc. Cánh lạc thuận bất khổ bất lạc thống gồm thâu cánh lạc thuận bất khổ bất lạc thống và phần ít của mười ba cánh lạc. Nhãn cánh lạc gồm thâu nhãn cánh lạc và phần ít của tám cánh lạc. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân cánh lạc cũng như vậy. Ý cánh lạc gồm thâu ba cánh lạc và phần ít của bảy cánh lạc.

Cánh lạc có đối tương ưng với một căn và phần ít của tám căn. Cánh lạc tăng ngữ tương ưng với năm căn và phần ít của tám căn. Cánh lạc minh tương ưng với ba căn và phần ít của chín căn. Cánh lạc vô minh tương ưng với phần ít của sáu căn. Cánh lạc phi minh phi vô minh tương ưng với phần ít của mười một căn. Cánh lạc ái tương ưng với phần ít của bốn căn. Cánh lạc giận dữ tương ưng với phần ít của bốn căn. Cánh lạc thuận lạc thống tương ưng với hai căn và phần ít của chín căn. Cánh lạc thuận khổ thống tương ưng với hai căn và phần ít của sáu căn. Cánh lạc thuận bất khổ bất lạc thống tương ưng với một căn và phần ít của chín căn. Nhãn cánh lạc tương ưng với phần ít của chín căn. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân cánh lạc cũng như vậy. Ý cánh lạc tương ưng với năm căn và phần ít của tám căn.

Hỏi: Các căn nhân nơi cánh lạc có đối, căn đó tương ưng với cánh lạc có đối chăng?

Đáp: Đúng vậy. Các căn tương ưng với cánh lạc có đối, căn đó nhân nơi cánh lạc có đối

Hỏi: Từng có các căn nhân nơi cánh lạc có đối, căn đó không phải tương ưng với cánh lạc có đối chăng?

Đáp: Có. Là các căn nhân nơi cánh lạc có đối, tương ưng với các cánh lạc khác.

Nếu căn nhân nơi cánh lạc có đối, có báo sinh không duyên, cho đến nhân nơi ý cánh lạc cũng như vậy (Trừ hai cánh lạc).

Hỏi: Các căn nhân nơi cánh lạc minh, căn đó tương ưng với cánh lạc minh chăng?

Đáp: Đúng vậy.

Hỏi: Nếu như các căn tương ưng với cánh lạc minh, căn đó nhân nơi cánh lạc minh chăng?

Đáp: Đúng vậy.

Hỏi: Các căn nhân nơi cánh lạc phi minh phi vô minh, căn đó tương ưng với cánh lạc phi minh phi vô minh chăng?

Đáp: Đúng vậy. Các căn tương ưng với cánh lạc phi minh phi vô minh, căn đó nhân nơi cánh lạc phi minh phi vô minh.

Hỏi: Từng có các căn nhân nơi cánh lạc phi minh phi vô minh, căn đó tương ưng với cánh lạc phi minh phi vô minh chăng?

Đáp: Có. Là các căn nhân nơi cánh lạc phi minh phi vô minh có báo sinh không có duyên.

Hỏi: Thành tựu loại nhãn căn nầy, Hành giả kia thành tựu loại thân căn nầy chăng?

Đáp: Hoặc có thành tựu loại nhãn căn nầy không phải là thành tựu loại thân căn nầy.

Thế nào là thành tựu loại nhãn căn nầy không phải là thành tựu loại thân căn nầy? Là sinh nơi cõi Dục, không được nhãn căn, giả như được liền mất, được nhãn căn nơi cõi Sắc. Đây gọi là thành tựu loại nhãn căn nầy không phải là thành tựu loại thân căn nầy.

Thế nào là thành tựu loại thân căn nầy không phải là thành tựu loại nhãn căn nầy? Là sinh nơi cõi Dục, không được nhãn căn, nếu như được liền mất, không được nhãn căn nơi cõi Sắc. Đây gọi là thành tựu loại thân căn nầy không phải là thành tựu loại nhãn căn nầy.

Thế nào là thành tựu loại nhãn căn nầy cũng thành tựu loại thân căn nầy? Là sinh nơi cõi Dục, được nhãn căn không mất, hoặc sinh nơi cõi Sắc. Đây gọi là thành tựu loại nhãn căn nầy cũng thành tựu loại thân căn nầy.

Thế nào là không thành tựu loại nhãn căn nầy cũng không thành tựu loại thân căn nầy? Là sinh nơi cõi Vô sắc. Đây gọi là không thành tựu loại nhãn căn nầy cũng không thành tựu loại thân căn nầy.

Như nhãn căn, nhĩ căn cũng như vậy.

Hỏi: Thành tựu loại tỷ căn nầy, Hành giả kia thành tựu loại thân căn nầy chăng?

Đáp: Đúng vậy.

Hỏi: Từng có thành tựu loại thân căn nầy không phải là thành tựu loại tỷ căn nầy chăng?

Đáp: Có. Là người sinh nơi cõi Dục, không được tỷ căn, nếu như được rồi mất.

Như tỷ căn, thiệt căn cũng như vậy.

Hỏi: Địa ngục có bao nhiêu căn được tạo thành?

Đáp: Nhiều nhất là mười chín căn, ít nhất là tám căn.

Hỏi: Súc sinh có bao nhiêu căn được tạo thành?

Đáp: Nhiều nhất là mười chín căn, ít nhất là mười ba căn.

Như súc sinh, ngạ quỷ cũng như vậy.

Hỏi: Đoạn căn thiện có bao nhiêu căn được tạo thành?

Đáp: Nhiều nhất là mười ba căn, ít nhất là tám căn.

Hỏi: Tà định có bao nhiêu căn được tạo thành?

Đáp: Nhiều nhất là mười chín căn, ít nhất là tám căn.

Hỏi: Đẳng định có bao nhiêu căn thành tựu?

Đáp: Nhiều nhất là mười chín căn, ít nhất là mười một căn.

Hỏi: Bất định có bao nhiêu căn thành tựu?

Đáp: Nhiều nhất là mười chín căn, ít nhất là tám căn.

Các cõi Diêm-phù-đề, Câu-da-ni, Phất-vu-đãi cũng như vậy.

Cõi Uất-đơn-viết nhiều nhất là thành tựu mười tám căn, ít nhất là mười ba căn.

Trời Tứ thiên vương thân nhiều nhất là thành tựu mười chín căn, ít nhất là mười bảy căn.

Trời Ba mươi ba, trời Diệm-ma, trời Đâu thuật, trời Hóa tự tại, trời Tha hóa tự tại cũng như vậy.

Trời Phạm ca di nhiều nhất là thành tựu mười sáu căn, ít nhất là mười lăm căn.

Trời Quang âm cũng như vậy.

Trời Biến tịnh nhiều nhất là thành tựu mười sáu căn, ít nhất là mười bốn căn

Trời Quả thuật nhiều nhất là thành tựu mười sáu căn, ít nhất là mười ba căn

Trung ấm nhiều nhất là thành tựu mười chín căn, ít nhất là mười ba căn

Vô sắc nhiều nhất là thành tựu mười một căn, ít nhất là tám căn

Bậc Kiên tín, Kiên pháp nhiều nhất là thành tựu mười chín căn, ít nhất là mười ba căn

Bậc Tín giải thoát, Kiến đáo nhiều nhất là thành tựu mười chín căn, ít nhất là mười một căn

Bậc Thân chứng, Tuệ giải thoát, Câu giải thoát nhiều nhất là thành tựu mười tám căn, ít nhất là mười một căn.

Nhãn căn khi được trí đoạn (nhận biết khắp), cho đến ái sắc tận, có năm căn được trí đoạn.

Như nhãn căn, các căn nhĩ, tỷ, thiệt, thân cũng như vậy.

Ý căn khi được trí đoạn, cho đến ái vô sắc tận, có tám căn được trí đoạn.

Như ý căn, mạng căn, hộ căn, tín căn, tinh tấn căn, niệm căn, định căn, tuệ căn cũng như vậy.

Nam căn, nữ căn khi được trí đoạn, cho đến ái dục tận, có bốn căn được trí đoạn.

Như nam căn, nữ căn, khổ căn, ưu căn cũng như vậy.

Lạc căn khi được trí đoạn, cho đến ái nơi cõi trời Biến tịnh tận, tức lạc căn kia được trí đoạn.

Hỷ căn khi được trí đoạn, cho đến ái nơi cõi trời Quang âm tận, tức hỷ căn kia được trí đoạn.

Nhãn căn khi tận tác chứng (diệt tác chứng), cho đến ái sắc tận, có năm căn tận tác chứng, được A-la-hán có mười chín căn tận tác chứng.

Như nhãn căn, các căn nhĩ, tỷ, thiệt, thân cũng lại như vậy.

Ý căn khi tận tác chứng, được A-la-hán có mười chín căn tận tác chứng.

Mạng căn, hộ căn, tín, tinh tấn, niệm, định, tuệ căn cũng như vậy.

Nam căn, nữ căn khi tận tác chứng, cho đến ái dục tận, có bốn căn tận tác chứng, được A-la-hán có mười chín căn tận tác chứng.

Khổ căn, ưu căn cũng như vậy.

Lạc căn khi tận tác chứng, cho đến ái nơi cõi trời Biến tịnh tận, tức lạc căn kia tận tác chứng, được A-la-hán có mười chín căn tận tác chứng.

Hỷ căn khi tận tác chứng, cho đến ái nơi cõi trời Quang âm tận, tức hỷ căn kia tận tác chứng, được A-la-hán có mười chín căn tận tác chứng.

HẾT – QUYỂN 21