LUẬN A TỲ ĐÀM BÁT KIỀN ĐỘ
Tác giả: Tôn giả Ca Chiên Diên Tử
Hán dịch: Đời Phù Tần, Sa môn Tăng Già Đề Ba và Trúc Phật Niệm
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 2

Kiền độ thứ 1: TẠP Phẩm 3: BÀN VỀ NGƯỜI

Một người nơi mười hai thứ duyên (mười hai chi duyên khởi) được sinh ấy: Có bao nhiêu thứ là quá khứ? Bao nhiêu thứ là vị lai? Bao nhiêu thứ là hiện tại?

Lại như Đức Thế Tôn nói: “Vô minh duyên hành, thọ (thủ) duyên hữu”. Thế nào là vô minh duyên hành? Thế nào là thọ (thủ) duyên hữu? Vô minh duyên hành, thọ (thủ) duyên hữu có những sai biệt gì? Từng có hành duyên vô minh không duyên minh chăng? Từng có hành duyên minh không duyên vô minh chăng? Từng có hành không duyên minh không duyên vô minh chăng?

Hơi thở ra, hơi thở vào, nên nói là dựa vào thân xoay chuyển hay nên nói là dựa vào tâm xoay chuyển? Như chúng sinh ở cõi Sắc tâm dựa vào thân xoay chuyển, như thế chúng sinh ở cõi Vô sắc tâm dựa vào gì để xoay chuyển?

Tâm bất tương ưng hành không có ái, nên nói là do kiến đế đoạn (kiến đạo đoạn) hay nên nói là do tư duy đoạn (tu đạo đoạn)?

Không, có gọi là pháp gì?

Lại như Đức Thế Tôn nói: “Giải thoát tâm tham dục, tâm giận dữ, tâm ngu si”. Thế nào là tâm được giải thoát? Có dâm, giận, si (tham sân si) hay không có dâm, giận, si? Những gì là tâm được giải thoát? Quá khứ, vị lai hay hiện tại? Tâm chưa giải thoát nên nói là giải thoát hay tâm đã giải thoát nên nói là giải thoát?

Lại như Đức Thế Tôn nói: “Dựa nơi nhàm chán để không dâm

(lìa nhiễm), dựa nơi không dâm đạt giải thoát, dựa nơi giải thoát đạt Nê hoàn (Niết-bàn)”. Thế nào là nhàm chán? Thế nào là không dâm? Thế nào là giải thoát? Thế nào là Nê hoàn?

Lại như Đức Thế Tôn nói: “Có cảnh giới đoạn, cảnh giới không dâm (cảnh giới lìa), cảnh giới tận (cảnh giới diệt)”. Thế nào là cảnh giới đoạn? Thế nào là cảnh giới không dâm? Thế nào là cảnh giới tận? Nếu là cảnh giới đoạn thì cảnh giới ấy là cảnh giới không dâm chăng? Nếu như là cảnh giới không dâm thì cảnh giới ấy là cảnh giới đoạn chăng? Nếu là cảnh giới đoạn thì cảnh giới ấy là cảnh giới tận chăng? Nếu như là cảnh giới tận thì cảnh giới ấy là cảnh giới đoạn chăng? Nếu là cảnh giới không dâm thì cảnh giới ấy là cảnh giới tận chăng? Nếu như là cảnh giới tận thì cảnh giới ấy là cảnh giới không dâm chăng?

Lại như Đức Thế Tôn nói: “Có tưởng đoạn, tưởng không dâm (tưởng lìa), tưởng tận”. Thế nào là tưởng đoạn? Thế nào là tưởng không dâm (tưởng lìa)? Thế nào là tưởng tận (tưởng diệt)?

Về các nghĩa trên, chương nầy xin diễn nói đầy đủ.

*

Một người nơi mười hai thứ duyên được sinh ấy:

Hỏi: Có bao nhiêu thứ là quá khứ? Bao nhiêu thứ là vị lai? Bao nhiêu thứ là hiện tại?

Đáp: Có hai thứ quá khứ là vô minh, hành. Hai thứ vị lai là sinh, tử (lão tử). Tám thứ ở hiện tại: thức, danh sắc, sáu nhập (sáu xứ), cánh lạc (xúc), thống (thọ), ái, thọ (thủ), hữu.

Lại như Đức Thế Tôn nói: “Vô minh duyên hành, thọ (Thủ) duyên hữu”.

Hỏi: Thế nào là vô minh duyên hành? Thế nào là thọ (Thủ) duyên hữu?

Đáp: Vô minh duyên hành: Là hành hiện có ở đây là hành đã tạo tác từ đời trước, quả báo của hành kia nên trong đời nầy được hữu. Đây gọi là vô minh duyên hành.

Thọ (Thủ) duyên hữu: Là hành hiện có ở đây là hành được tạo tác ngay trong đời nầy, các hành thọ nhận báo sẽ được hữu ở vị lai. Đây gọi là thọ duyên hữu.

Hỏi: Vô minh duyên hành, thọ (Thủ) duyên hữu có những sai biệt gì?

Đáp: Vô minh duyên hành: Là hành hiện có ở đây là hành đã tạo tác từ đời trước, quả báo của hành kia nên trong đời nầy được hữu. Duyên với hành kia là một kiết (phiền não) tức vô minh. Thọ (Thủ) duyên hữu: Là hành hiện có ở đây là hành được tạo tác ngay trong đời nầy, quả báo của hành ấy sẽ được hữu nơi đời vị lai. Duyên với hành ấy là tất cả kiết. Vô minh duyên hành, thọ duyên hữu, sự sai biệt là như thế.

Hỏi: Từng có hành duyên vô minh không duyên minh chăng?

Đáp: Không có.

Hỏi: Từng có hành duyên minh không duyên vô minh chăng?

Đáp: Điều nầy cũng không có.

Hỏi: Từng có hành không duyên minh không duyên vô minh chăng?

Đáp: Điều nầy cũng không có.

Vì sao không có? Vì chúng sinh nầy đã từ lâu xa lìa đạo, nói là không phải đạo. Thời gian sau ở trong cõi người tạo tác làm Túc tán tiểu vương, hoặc làm Biên vương chuyển làm Đại vương, cho đến Già-ca-việt, mọi mong muốn được tự tại, lần lượt cùng nhân vào nhau, không nơi chốn nào không thống lãnh, được làm chủ nhân nơi cõi người, cõi thần, khiến mọi thứ cỏ thuốc, cây cối lần lượt sinh trưởng.

Đây là bốn duyên của tâm trước, tâm sau chỉ là một tăng thượng duyên.

Lại nữa, nay sẽ nói về nhân duyên.

Hỏi: Từng có hành duyên vô minh không duyên minh chăng?

Đáp: Có. Là hành nhiễm ô, báo là vô minh.

Hỏi: Từng có hành duyên minh không duyên vô minh chăng?

Đáp: Có. Là các hành vô lậu còn lại, trừ minh đầu tiên.

Hỏi: Từng có hành không duyên minh không duyên vô minh chăng?

Đáp: Có. Là các hành vô ký không ẩn mất (vô ký vô phú) còn lại, trừ báo vô minh, các hành hữu lậu thiện của minh đầu tiên.

Hỏi: Hơi thở ra, hơi thở vào, nên nói là dựa vào thân xoay chuyển hay là dựa vào tâm xoay chuyển?

Đáp: Hơi thở ra, hơi thở vào như tùy thuận phương tiện khéo léo, tức cũng tùy thân xoay chuyển, cũng tùy tâm xoay chuyển. Nếu hơi thở ra, hơi thở vào chỉ dựa vào thân xoay chuyển, không dựa vào tâm xoay chuyển, thì đấy tức khi nhập định vô tư tưởng, định diệt tận, hơi thở ra vào vẫn xoay chuyển. Nếu hơi thở ra, hơi thở vào chỉ dựa vào tâm xoay chuyển, không dựa vào thân xoay chuyển, thì đấy tức hơi thở ra, hơi thở vào của người ở cõi Vô sắc cũng xoay chuyển.

Nếu hơi thở ra, hơi thở vào dựa vào thân xoay chuyển, dựa vào tâm xoay chuyển, không như phương tiện khéo léo, thì đấy tức ở nơi bọc trứng, bào thai, các thứ da, mô, chuyển biến dày lên như tô, lạc, các căn ở trong bụng mẹ chưa đủ, chưa thành thục cùng ở thiền thứ tư, hơi thở ra, hơi thở vào cũng phải xoay chuyển.

Song hơi thở ra, hơi thở vào như phương tiện khéo léo, vừa dựa vào thân xoay chuyển, vừa dựa vào tâm xoay chuyển, nên dưới đến đại địa ngục A-tỳ, trên tới cõi trời Tịnh cư, trong ấy các chúng sinh hiện có các căn không thiếu, tất cả chi phần đều hoàn bị, mọi hơi thở ra hơi thở vào như phương tiện khéo léo, đều dựa vào thân xoay chuyển, dựa vào tâm xoay chuyển.

Hỏi: Như chúng sinh ở cõi Sắc tâm dựa vào thân xoay chuyển, như thế chúng sinh ở cõi Vô sắc tâm dựa vào gì để xoay chuyển?

Đáp: Dựa vào xứ sở của mạng căn, cũng lại có các pháp khác cùng loại.

Hỏi: Tâm bất tương ưng hành không có ái, nên nói là do kiến đế đoạn (kiến đạo đoạn) hay nên nói là do tư duy đoạn (tu đạo đoạn)?

Đáp: Không có ái là do tư duy đoạn, không được nói là do kiến đế đoạn.

Hoặc lại có chỗ nói: Không có ái hoặc do kiến đế đoạn, hoặc do tư duy đoạn.

Thế nào là do kiến đế đoạn? Pháp do kiến đế đoạn không có các dâm (các tham). Đấy gọi là do kiến đế đoạn.

Thế nào là do tư duy đoạn? Pháp do tư duy đoạn không có các dâm (các tham). Đấy gọi là do tư duy đoạn.

Như nghĩa ở đây: Không có ái thì do tư duy đoạn. Như thế, không có ái là do tư duy đoạn chăng?

Đáp: Đúng vậy.

Nếu nói như thế, thì Tu-đà-hoàn có thể khởi ái ấy, khiến ngã bị đoạn hoại, cho đến chết chăng?

Đáp: Không phải. Xin nghe những gì tôi đã nói. Giả như sẽ không có ái là do tư duy đoạn.

Như thế nên nói: Tu-đà-hoàn có thể khởi ái nầy đoạn hoại cho đến chết chăng?

Đáp: Tuy có lời nói ấy, nhưng nghĩa nầy không như vậy, nên không được nói lời nầy: Tu-đà-hoàn có thể khởi ái ấy, không có ái do tư duy đoạn, không nên nói không có ái là do tư duy đoạn, vì sự việc nầy không như thế.

Từng có lời nói nầy: Tu-đà-hoàn dâm dục chưa dứt đối với địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ chăng? (Đối chiếu với N0 1544/20, nghĩa ở đây không phải như vậy).

Đáp: Đúng vậy.

Từng có lời nói nầy: Tu-đà-hoàn có thể khởi ái nầy: Ta sẽ làm Long vương Y-la-bàn-na, Ma-na-tư Thiện trụ, hoặc làm vua địa ngục Diêm-phù chăng?

Đáp: Không phải. Xin nghe những điều tôi đã nói: Nếu Tu-đàhoàn ái chưa dứt hết, đối với địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ, tức nên nói lời nầy: Tu-đà-hoàn có thể khởi ái ấy: Ta sẽ làm Long vương Y-labàn-na, Ma-na-tư Thiện trụ, hoặc làm vua địa ngục Diêm-phù.

Như vậy lời nói ấy là thế nào?

Đáp: Tuy có lời nói ấy, nhưng nghĩa nầy không như thế. Không được nói lời nầy: Tu-đà-hoàn có thể khởi ái nầy: Ta sẽ làm Long vương Y-la-bàn-na, Ma-na-tư Thiện trụ, hoặc làm vua địa ngục Diêm-phù. Tu-đà-hoàn ý dục chưa dứt hết đối với địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ. Không được nói lời nầy: Tu-đà-hoàn ái dục chưa hết, đối với địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ. Ái nầy do tư duy đoạn, sự việc ấy không như thế.

Từng có lời nói nầy: Do các triền trói buộc nên giết hại cha, mẹ, triền nầy là do tư duy đoạn, Tu-đà-hoàn chưa dứt hết triền ấy chăng?

Đáp: Đúng vậy.

Từng có lời nói nầy: Tu-đà-hoàn có thể khởi triền ấy, là các triền khiến giết hại cha, mẹ chăng?

Đáp: Không phải. Xin nghe những điều tôi đã nói: Các triền đã trói buộc, nên giết hại cha, mẹ, triền nầy là do tư duy đoạn (do tu đạo đoạn). Tu-đà-hoàn chưa dứt hết triền ấy, nên có lời nói kia chăng: Tu-đà-hoàn có thể khởi triền ấy, là các triền khiến giết hại cha, mẹ.

Đáp: Tuy có lời nói ấy, nhưng sự việc nầy không như thế. Tức không nên nói lời nầy: Tu-đà-hoàn có thể khởi triền ấy, là các triền khiến giết hại cha, mẹ. Các triền trói buộc khiến giết hại cha, mẹ, triền nầy do tư duy đoạn. Tu-đà-hoàn chưa dứt hết triền ấy, nên không được nói lời nói nầy: Các triền đã trói buộc khiến giết hại cha, mẹ, triền nầy do tư duy đoạn. Tu-đà-hoàn chưa dứt hết, sự việc nầy không như thế.

Từng có lời nói nầy: Pháp do tư duy đoạn không có tư duy đoạn chăng?

Đáp: Như thế.

Từng có lời nói nầy: Tu-đà-hoàn có thể khởi duyên nơi ái chăng?

Đáp: Không phải. Xin nghe những điều tôi đã nói: Pháp do tư duy đoạn không có tư duy đoạn.

Người kia nói như thế nầy: Tu-đà-hoàn có thể khởi duyên nơi ái chăng?

Đáp: Tuy có lời nói ấy, nhưng sự việc nầy không như thế, tức không nên nói lời nầy: Tu-đà-hoàn có thể khởi duyên nơi ái. Pháp do tư duy đoạn, không có tư duy đoạn. Không được nói lời nầy: Pháp do tư duy đoạn không có tư duy đoạn. Sự việc nầy không như thế. (Đoạn nầy nên tham khảo phần dịch nơi N0 1544/20 để lãnh hội) Hỏi: Không, có gọi là những pháp gì?

Đáp: Ba cõi là vô thường.

Lại như Đức Thế Tôn nói: “Giải thoát tâm tham dục, tâm giận dữ, tâm ngu si”.

Hỏi: Thế nào là tâm được giải thoát? Có dâm, giận, si (tham sân si) hay không có dâm, giận, si?

Đáp: Không có dâm, giận, si.

Lại có người nói: Tâm tương ưng với dâm, giận, si, tâm đó được giải thoát.

Người kia không nên nói như thế. Vì sao? Vì không phải tâm kia cùng với dâm, giận, si nầy tương hợp, tương ưng, cùng nương dựa nhau, mà vì dâm, giận, si chưa được dứt trừ nên tâm không được giải thoát. Dâm, giận, si được đoạn trừ, như thế là tâm giải thoát.

Đức Thế Tôn cũng nói: Mặt trời, mặt trăng bị năm thứ làm cho âm u là mây, khói, sương mù, bụi, tay của A-tu-luân (Tay của A-tố-lạc Hạt-la-hô) không phải mặt trời, mặt trăng kia cùng với bầu trời âm u nầy tương hợp, tương ưng, nương dựa nhau mà vì bầu trời âm u do bị che lấp chưa dứt hết, như thế mặt trời, mặt trăng kia không sáng, không chiếu, không rộng, không sạch. Khi bầu trời âm u ấy đã dứt hết thì mặt trời, mặt trăng kia sẽ sáng, chiếu, rộng, sạch. Vì thế, không phải tâm kia cùng với dâm, giận, si nầy tương hợp, tương ưng, cùng nương dựa nhau, mà vì dâm, giận, si chưa đoạn trừ, nên tâm không giải thoát. Dâm, giận, si đoạn trừ, tâm liền giải thoát.

Hỏi: Những gì là tâm được giải thoát? Quá khứ, vị lai hay hiện tại?

Đáp: Tâm vị lai (tâm vô học vị lai) khởi, tức thì được giải thoát không còn chướng ngại.

Sự việc nầy là thế nào? Như đạo vô ngại (đạo vô gián) hiện tiền liền diệt, tận trí hiện ở trước tất sinh, nếu đạo vô ngại kia diệt mà sinh tận trí, như thế tâm vị lai sinh, tức thì được giải thoát không còn chướng ngại.

Hỏi: Tâm chưa giải thoát nên nói là giải thoát hay tâm đã giải thoát nên nói là giải thoát?

Đáp: Tâm đã giải thoát nên nói là giải thoát. Nếu đã giải thoát thì không nên nói là sẽ giải thoát. Nếu sẽ giải thoát thì không nên nói là đã giải thoát, vì tâm đã giải thoát nói là sẽ giải thoát, việc nầy không như thế, như vừa nêu.

Đức Thế Tôn khéo nói Khế kinh:

Nếu đoạn dục (ái) hoàn toàn

Như hoa sen trong nước

Tỳ-kheo diệt đây, kia

Như rắn lột da cũ.

Hỏi: Đã diệt là diệt hay không diệt là diệt?

Đáp: Đã diệt là diệt. Nếu đã diệt thì không nên nói là sẽ diệt. Nếu sẽ diệt thì không nên nói là đã diệt. Đã diệt nói sẽ diệt, việc nầy không hợp, như vừa nêu.

Đức Thế Tôn khéo nói Khế kinh:

Mạn dứt tự định ý

Tâm thiện, tất cả thoát

Một tĩnh cư, không loạn

Sợ chết, sang bờ kia.

Hỏi: Đã qua là qua, hay chưa qua là qua?

Đáp: Đã qua nói là qua. Nếu đã qua thì không được nói là sẽ qua. Nếu sẽ qua thì không được nói là đã qua. Đã qua nói sẽ qua, việc nầy không hợp, như vừa nêu.

Thế Tôn khéo nói Khế kinh:

Nai, hươu nương rừng

Chim dựa hư không

Pháp quy phân biệt

Chân nhân (Thánh) quy diệt (Niết-bàn).

Lại như Đức Thế Tôn nói: “Dựa nơi nhàm chán để không dâm (lìa nhiễm), dựa nơi không dâm đạt giải thoát, dựa nơi giải thoát đạt Nê hoàn (Niết-bàn)”. Thế nào là nhàm chán? Thế nào là không dục? Thế nào là giải thoát? Thế nào là Nê hoàn?

Hỏi: Thế nào là nhàm chán?

Đáp: Hành xú uế, xứ bất tịnh, ý thường lẫn tránh nơi đó, hoàn toàn không ưa thấy. Đó gọi là nhàm chán.

Hỏi: Thế nào là không dục?

Đáp: Là sự nhàm chán kia tương ưng với căn thiện không dâm, giận, si (tham sân si). Đó gọi là không dục.

Hỏi: Thế nào là giải thoát?

Đáp: Tâm không dục kia tương ưng với căn thiện không dâm, giận, si, tâm đã giải thoát, sẽ giải thoát, đang giải thoát. Đó gọi là giải thoát.

Hỏi: Thế nào là Nê hoàn?

Đáp: Tức dâm, giận, si đã dứt hết, không còn gì. Đó gọi là Nê hoàn.

Lại như Đức Thế Tôn nói: “Có cảnh giới đoạn, cảnh giới không dâm (cảnh giới lìa), cảnh giới tận (cảnh giới diệt)”.

Hỏi: Thế nào là cảnh giới đoạn?

Đáp: Là trừ kiết ái, các kiết còn lại đều dứt hết. Đó gọi là cảnh giới đoạn.

Hỏi: Thế nào là cảnh giới không dâm?

Đáp: Là kiết ái diệt. Đó gọi là cảnh giới không dâm.

Hỏi: Thế nào là cảnh giới diệt?

Đáp: Là pháp của các kiết diệt. Đó gọi là cảnh giới diệt.

Hỏi: Nếu là cảnh giới đoạn thì cảnh giới ấy là cảnh giới không dâm chăng?

Đáp: Đúng vậy.

Hỏi: Nếu như là cảnh giới không dâm thì cảnh giới ấy là cảnh giới đoạn chăng?

Đáp: Đúng vậy.

Hỏi: Nếu là cảnh giới đoạn thì cảnh giới ấy là cảnh giới diệt chăng?

Đáp: Đúng vậy.

Hỏi: Nếu như là cảnh giới diệt thì cảnh giới ấy là cảnh giới đoạn chăng?

Đáp: Đúng vậy.

Hỏi: Nếu là cảnh giới không dâm thì cảnh giới ấy là cảnh giới diệt chăng?

Đáp: Đúng vậy.

Hỏi: Nếu như là cảnh giới diệt thì cảnh giới ấy là cảnh giới không dâm chăng?

Đáp: Đúng vậy.

Lại như Đức Thế Tôn nói: “Có tưởng đoạn, tưởng không dâm (tưởng lìa), tưởng diệt”. Thế nào là tưởng đoạn? Thế nào là tưởng không dâm (tưởng lìa)? Thế nào là tưởng tận (tưởng diệt)?

Hỏi: Thế nào là tưởng đoạn?

Đáp: Là trừ kiết ái, các kiết còn lại đều diệt, là tánh của các tưởng. Đó gọi là tưởng đoạn.

Hỏi: Thế nào là tưởng không dâm?

Đáp: Là kiết ái diệt, là tánh của các tưởng. Đó gọi là tưởng không dâm.

Hỏi: Thế nào là tưởng diệt?

Đáp: Là pháp của các kiết diệt, là tánh của các tưởng. Đó gọi là tưởng diệt.

***

Phẩm 4: BÀN VỀ ÁI, CUNG KÍNH

Thế nào là ái cung kính? Thế nào là cúng dường cung kính? Thế nào là lực của thân? Lực của thân thuộc về bao nhiêu nhập, bao nhiêu thức nhận biết?

Thế nào là số duyên diệt (Trạch diệt)? Thế nào là phi số duyên diệt (Phi trạch diệt)? Thế nào là vô thường? Vô thường và phi số duyên diệt có gì sai biệt?

Thế nào là cảnh giới Nê hoàn hữu dư? Thế nào là cảnh giới Nê hoàn vô dư? Nê hoàn (Niết-bàn) nên nói là học chăng? Là vô học chăng? Là phi học phi vô học chăng?

Lại như Đức Thế Tôn nói: “Bậc vô học kia đã thành tựu thân giới vô học, thân định vô học, thân tuệ vô học, thân giải thoát vô học, thân giải thoát tri kiến vô học”. Thế nào là thân giới vô học? Thế nào là thân định vô học? Thế nào là thân tuệ vô học? Thế nào là thân giải thoát vô học? Thế nào là thân giải thoát tri kiến vô học?

Lại như Đức Thế Tôn nói: “Chỉ một cứu cánh, không phải có nhiều cứu cánh”. Ở đây những pháp nào gọi là cứu cánh?

Lại như Đức Thế Tôn nói: “Dị học của ngoại đạo thật sự đoạn các thọ (thủ), ở trong hiện pháp không thiết lập việc đoạn các thọ (thủ). Các thọ được thiết lập đoạn là dục thọ, giới thọ, kiến thọ, không phải ngã thọ (dục thủ, giới thủ, kiến thủ, không phải ngã ngữ thủ)”. Các nghĩa nầy là thế nào? Vì lẽ gì ngoại đạo dị học ở trong hiện pháp không thiết lập việc đoạn ngã thọ (ngã ngữ thủ)?

Có hai trí: Trí biết và trí tận. Thế nào là trí biết? Thế nào là trí tận?

Những người quy hướng về Phật là quy hướng về nơi nào? Những người quy hướng về Pháp là quy hướng về chốn nào? Những người quy hướng về Tăng là quy hướng về đâu?

Về các nghĩa trên, chương nầy xin diễn nói đầy đủ.

*

Thế nào là ái cung kính? Thế nào là cúng dường cung kính? Thế nào là lực của thân? Lực của thân thuộc về bao nhiêu nhập, bao nhiêu thức nhận biết?

Trong ái cung kính ấy: Thế nào là ái? Thế nào là cung kính?

Hỏi: Thế nào là ái?

Đáp: Là nếu ái, là cùng ái, tạo ái. Đó gọi là ái.

Hỏi: Thế nào là cung kính?

Đáp: Là nếu cung kính, khéo cung kính, khéo hạ mình. Đó gọi là cung kính.

Hỏi: Thế nào là ái – cung kính?

Đáp: Như có một chúng sinh ái sư với ý thấm nhuần, do pháp cung kính đối với các Tăng, các vị Hòa thượng, A-xà-lê, cùng các vị phạm hạnh đáng tôn trọng khác v.v… Ý ái ấy thấm nhuần đến các vị kia, do pháp cung kính như thế, hoặc yêu mến các vị kia nên tạo sự cung kính. Đó gọi là ái – cung kính.

Trong cúng dường cung kính ấy: Thế nào là cúng dường? Thế nào là cung kính?

Hỏi: Thế nào là cúng dường?

Đáp: Cúng dường có hai thứ: Là cúng dường pháp và cúng dường y phục, thức ăn uống. Đó gọi là cúng dường.

Hỏi: Thế nào là cung kính?

Đáp: Là nếu cung kính, khéo cung kính, khéo hạ mình. Đó gọi là cung kính.

Hỏi: Thế nào là cúng dường cung kính?

Đáp: Như có chúng sinh tạo sự cúng dường cho các vị sư, đem pháp cung kính cúng dường ấy đến các vị Tăng, các vị Hòa thượng, A-xà-lê, cùng với các bậc phạm hạnh đáng tôn trọng khác v.v… tạo sự cúng dường, do cung kính như thế, hoặc cúng dường các vị kia luôn tạo cung kính. Đó gọi là cúng dường cung kính.

Hỏi: Thế nào là lực của thân?

Đáp: Lực của thân là thân tinh tấn, thân cường tráng, thân phương tiện, thân dũng mãnh. Đó gọi là lực của thân.

Hỏi: Lực của thân thuộc về bao nhiêu nhập, bao nhiêu thức nhận biết?

Đáp: Lực của thân thuộc về một nhập là tế hoạt nhập (Xúc nhập), hai thức nhận biết là thân thức và ý thức. Như hai tráng sĩ cùng đấu sức với nhau, một người sức hơn, một người sức kém. Người có sức hơn nắm lấy người sức kém, nhận biết được sức mình hơn người kia: Người kia không bằng sức của ta. Người sức kém khi nắm lấy người sức mạnh lại tự nhận biết người kia khỏe hơn mình, mình không bằng họ. Như sức mạnh nhiều ít kia, cùng thuộc về một nhập là tế hoạt nhập (xúc nhập), hai thức nhận biết thân thức và ý thức.

Thế nào là số duyên tận? Thế nào là phi số duyên tận? Thế nào là vô thường?

Hỏi: Thế nào là số duyên tận (Trạch diệt)?

Đáp: Tận kia là giải thoát. Đó gọi là số duyên tận.

Hỏi: Thế nào là phi số duyên tận (Phi trạch diệt)?

Đáp: Tận kia không phải giải thoát. Đó gọi là phi số duyên tận.

Hỏi: Thế nào là vô thường?

Đáp: Các hành luôn biến đổi, diệt tận, không dừng. Đó gọi là vô thường.

Hỏi: Vô thường và phi số duyên diệt có gì sai biệt?

Đáp: Vô thường: Là các hành biến đổi, diệt tận, không dừng. Phi số duyên tận: Là đã thoát khỏi các khổ, các phiền não lo sầu, không tùy thuộc ý dục, tuy chưa được lìa dục. Vô thường và phi số duyên tận có những sai biệt như vậy.

Hỏi: Thế nào là cảnh giới Nê hoàn hữu dư?

Đáp: Nếu thọ mạng của bậc Vô trước (A-la-hán) vẫn còn bốn đại chưa ẩn mất, năm căn của sắc tạo ra cùng với tâm nối tiếp nhau, đấy gọi là cảnh giới Nê hoàn hữu dư. Nơi cảnh giới Nê hoàn hữu dư, các kiết sử đều diệt, đến được bờ kia nhận lấy quả chứng. Đó gọi là cảnh giới Nê hoàn hữu dư.

Hỏi: Thế nào là cảnh giới Nê hoàn vô dư?

Đáp: Là thọ mạng của bậc Vô trước (A-la-hán) đã bát Nê hoàn, thuộc về quá khứ, bốn đại diệt tận, năm căn của sắc tạo không có tâm để có thể xoay chuyển nối tiếp, đấy là cảnh giới Nê hoàn vô dư. Nơi cảnh giới Nê hoàn vô dư, các kiết sử đều diệt. Đó gọi là cảnh giới Nê hoàn vô dư.

Hỏi: Nê hoàn (Niết-bàn) nên nói là học chăng? Là vô học chăng? Là phi học phi vô học chăng?

Đáp: Nê hoàn nên nói là phi học phi vô học.

Hoặc có thuyết nói: Nê hoàn hoặc là học, hoặc là vô học, hoặc là phi học phi vô học.

Thế nào là học? Là học được các kiết sử diệt tận, đến được bờ kia nhận lấy quả chứng. Đó gọi là học.

Thế nào là vô học? Là vô học được các kiết sử diệt tận, đến được bờ kia nhận lấy quả chứng. Đó gọi là vô học.

Thế nào là phi học phi vô học? Là hữu lậu được các kiết sử diệt tận, đến được bờ kia nhận lấy quả chứng. Đó gọi là phi học phi vô học.

Như nghĩa ở đây: Nê hoàn là phi học phi vô học.

Hỏi: Như thế Nê hoàn là phi học phi vô học chăng?

Đáp: Đúng vậy.

Từng có thuyết nói: Trước kia dùng đạo thế tục đoạn trừ tham dục, giận dữ, vĩnh viễn dứt hết, trọn vẹn, ở đây không tu bốn Thánh đế.

Hỏi: Nếu được bốn Đế mới được bốn Đế (Hiện quán), khi đạt quả A-na-hàm là thành học chăng?

Đáp: Đúng vậy.

Từng có thuyết nói: Trước hết dùng đạo thế tục diệt tận các kiết sử, đến được bờ kia nhận lấy quả chứng, đạt quả A-na-hàm.

Hỏi: Đây là học chăng?

Đáp: Không phải. Nếu như trước hết dùng đạo thế tục được các kiết sử diệt tận, đến được bờ kia nhận lấy quả chứng, đạt quả A-na-hàm, đang là người học. Trước cũng là học nhưng chưa được quả A-na-hàm. Khi chưa được quả mà gọi là học như thế, việc nầy không hợp.

Từng có thuyết nói: Hướng quả A-la-hán, học chứng các kiết dứt hết, đạt được A-la-hán vô học chăng?

Đáp: Đúng vậy.

Từng có thuyết nói: Hướng quả A-la-hán, học chứng các kiết dứt hết, đạt được quả A-la-hán, quả đó là vô học chăng?

Đáp: Không phải. Nếu đang hướng đến quả A-la-hán, học chứng các kiết dứt hết, đạt được A-la-hán, là bậc vô học, gốc là vô học, khi chưa được A-la-hán, lúc không được A-la-hán mà nói là vô học như thế, việc nầy không hợp.

Từng có thuyết nói: Bậc A-la-hán vô học đã dứt hết các kiết khi thoái chuyển quả A-la-hán là học chăng?

Đáp: Đúng vậy.

Từng có thuyết nói: A-la-hán vô học, các kiết đã dứt hết, nếu thoái chuyển quả A-la-hán, quả kia là học chăng?

Đáp: Không phải. Nếu đang là A-la-hán vô học, các kiết dứt hết, thoái chuyển quả A-la-hán, đang là người học thì gốc cũng là học, khi chưa thoái chuyển quả A-la-hán, không được nói là học như thế, việc ấy không hợp. Vì sao? Vì Nê hoàn là phi học phi vô học, không có học, không có vô học. Nếu Nê hoàn đang là phi học phi vô học, lại có học, có vô học, thì hai thứ pháp nầy là pháp loạn, pháp bất định, pháp tất có hủy hoại, cũng không thể nhận biết là pháp trụ. Đức Thế Tôn cũng không nói Nê hoàn phi học phi vô học, là có học, có vô học, chỉ vì Nê hoàn không có học, không có vô học. Vì thế nên thường trong tất cả thời, tất cả trụ, là pháp không hư mục, là pháp không biến đổi, đó là Nê hoàn phi học phi vô học.

Lại như Đức Thế Tôn nói: “Bậc vô học kia đã thành tựu thân giới vô học, thân định vô học, thân tuệ vô học, thân giải thoát vô học, thân giải thoát tri kiến vô học”. Thế nào là thân giới vô học? Thế nào là thân định vô học? Thế nào là thân tuệ vô học? Thế nào là thân giải thoát vô học? Thế nào là thân giải thoát tri kiến vô học?

Hỏi: Thế nào là thân giới vô học (uẩn giới vô học)?

Đáp: Là thân vô học, giữ gìn miệng, giữ gìn thọ mạng thanh tịnh. Đó gọi là thân giới vô học.

Hỏi: Thế nào là thân định vô học (uẩn định vô học)?

Đáp: Là không, vô tướng, vô nguyện vô học. Đó gọi là thân định vô học.

Hỏi: Thế nào là thân tuệ vô học (uẩn tuệ vô học)?

Đáp: Là tư duy vô học, tương ưng với duyên nơi trạch pháp, quán trạch pháp, quán vô số thứ phân biệt. Đó gọi là thân tuệ vô học.

Hỏi: Thế nào là thân giải thoát vô học (uẩn giải thoát vô học)?

Đáp: Là tư duy vô học, tương ưng với ý giải thoát, đã giải thoát, sẽ giải thoát. Đó gọi là thân giải thoát vô học.

Hỏi: Thế nào là thân giải thoát tri kiến vô học (uẩn giải thoát trí kiến vô học)?

Đáp: Là tận trí, vô sinh trí. Đó gọi là thân giải thoát tri kiến vô học.

Lại nữa, khổ trí, tập trí vô học là thân tuệ vô học. Tận trí, đạo trí vô học là thân giải thoát tri kiến vô học.

Lại nữa, khổ trí, tập trí, đạo trí vô học là thân tuệ vô học. Tận trí vô học là thân giải thoát tri kiến vô học.

Lại như Đức Thế Tôn nói: “Chỉ một cứu cánh, không phải có nhiều cứu cánh”.

Hỏi: Ở đây những pháp nào gọi là cứu cánh?

Đáp: Đức Thế Tôn đã nói: Hoặc là đạo cứu cánh, hoặc là Nê hoàn cứu cánh.

Thế nào là đạo? Như đã nói:

Như không biết đạo

Một thông minh, mạn

Chưa đến cứu cánh

Chưa điều phục, chết.

Đó gọi là đạo.

Thế nào là Nê hoàn cứu cánh? Như đã nói:

Cứu cánh đến không sợ

Không buộc, cũng không hối

Đã thoát mũi tên Hữu

Thân nầy là biên sau.

Gọi là cứu cánh trọn

Dứt dấu vết, không trên

Dứt hết tất cả tướng

Luyện dấu vết, không trên.

Đó gọi là Nê hoàn cứu cánh.

Như Bà-la-môn Số Mục-kiền-liên kia đi đến chỗ Đức Phật thưa hỏi sự việc như vầy: “Thưa Đức Thế Tôn! Tất cả đệ tử của Sa-môn Cù-đàm được giáo huấn như thế, nhất định sẽ chứng đắc, cứu cánh là Nê hoàn vô dư chăng?”. Đức Thế Tôn bảo: “Nầy Số Mục-kiền-liên!

Việc ấy không nhất định! Vì hoặc đạt được, hoặc không đạt được Nê hoàn nầy”.

Lại như Đức Thế Tôn nói: “Dị học của ngoại đạo thật sự đoạn các thọ (thủ), ở trong hiện pháp không thiết lập việc đoạn các thọ (thủ). Các thọ được thiết lập đoạn là dục thọ, giới thọ, kiến thọ, không phải ngã thọ (dục thủ, giới thủ, kiến thủ, không phải ngã ngữ thủ)”.

Hỏi: Các nghĩa nầy là thế nào?

Đáp: Có người nói: “Phật, Thế Tôn thuyết pháp còn thiếu”. Người kia không được nói như thế. Vì sao? Vì Đức Phật thuyết pháp không hư vọng.

Lại có thuyết nói: “Vì hiện có một ít diệt”. Kẻ kia không được nói như thế. Vì sao? Vì hàng phàm phu ở trong ngã thọ (ngã ngữ thủ) cũng đã chứng diệt một ít. Tuy nhiên, Đức Phật, Thế Tôn đã rộng vì vô số đại chúng thuyết giảng pháp yếu cho đến hàng trời, người đều vâng làm. Có các Phạm chí dị học đã giữ lấy lời Phật, giảng nói các tên gọi về trì, nhập, ấm, cái, ý chỉ, giác ý (giới, xứ, uẩn, cái, niệm trụ, giác chi) đầy đủ, hoặc không đầy đủ. Các Phạm chí dị học ấy, nếu có nghe tên gọi về dục thọ (dục thủ) bèn nói thế nầy: “Ta cũng thiết lập việc đoạn dứt dục thọ (dục thủ)”. Hoặc có nghe tên gọi về giới thọ, kiến thọ (giới thủ, kiến thủ), bèn nói thế nầy: “Ta cũng thiết lập việc đoạn trừ giới thọ, kiến thọ”. Như phần nhiều các Tỳ-kheo, sau khi ăn xong, tập hợp lên giảng đường, có những Phạm chí dị học bước đến nói thế nầy: “Sa-môn Cù-đàm vì đệ tử giảng nói pháp như vầy: Đối với việc đoạn trừ năm cái che lấp tâm, nếu sức của tuệ yếu kém, nên chuyên vào bốn ý chỉ, tu bảy giác ý”. Chúng tôi cũng sẽ vì các đệ tử thuyết giảng pháp như thế nầy: “Đối với việc đoạn trừ năm cái che lấp tâm, nếu sức của tuệ yếu kém, nên chuyên vào bốn ý chỉ, tu bảy giác ý”. Chúng tôi nói ở đây so với Sa-môn Cù-đàm kia có khác gì đâu!

Các Bà-la-môn nầy không nhận biết về cái, huống hồ là nhận biết được ý chỉ, giác ý. Nhưng Đức Phật, Thế Tôn vẫn rộng vì các chúng sinh thuyết pháp không có giới hạn, cho đến hàng trời, người đều phụng hành.

Các Phạm chí dị học kia, vì nghe được một số tên gọi về các pháp do Đức Phật thuyết giảng, hoặc đầy đủ, hoặc không đầy đủ, nên nói theo như thế.

Như Bà-la-môn Đàn Đề kia, thân mọc mụt nhọt, như con rắn, thật là vô thường, thật là khổ, thật là không, thật là vô ngã, đã đi đến chỗ Phật, dùng hai tay vỗ vào thân nói: “Cù-đàm! Thân nầy không bệnh, đấy là Nê hoàn”. (Nên đối chiếu với phần dịch N0 1544/20 để lãnh hội – Người dịch) Phạm chí Đàn-đề nầy không nhận biết về pháp không bệnh, huống hồ là nhận biết để thấy Nê hoàn. Tuy nhiên, Đức Phật, Thế Tôn vẫn rộng vì các chúng sinh thuyết pháp, cho đến hàng trời người đều phụng hành.

Phạm chí dị học kia, nghe lời Phật giảng nói về tên gọi của các pháp như trì, nhập, ấm, cái, ý chỉ, giác ý (giới, xứ, uẩn, cái, niệm trụ, giác chi) đầy đủ, hoặc không đầy đủ. Những Phạm chí dị học ấy đã nghe các tên gọi về dục thọ, giới thọ, kiến thọ (dục thủ, giới thủ, kiến thủ) bèn nói như thế nầy: “Ta cũng thiết lập việc đoạn trừ dục thọ, giới thọ, kiến thọ”.

Hỏi: Nghĩa nầy thế nào? Vì lẽ gì ngoại đạo dị học ở trong hiện pháp không thiết lập việc đoạn ngã thọ (ngã ngữ thủ)?

Đáp: Vì ngoại đạo dị học kia suốt trong đêm dài sinh tử đã chấp trước nơi thân mình, chấp trước về chúng sinh, về con người, về thọ mạng. Người của ngoại đạo kia, không phải với thời gian như thế, nói ta cũng thiết lập việc đoạn trừ ngã thọ (ngã ngữ thủ).

Có hai trí: Trí biết và trí tận. Thế nào là trí biết? Thế nào là trí tận?

Hỏi: Thế nào là trí biết?

Đáp: Là các trí thấy sáng rõ, hiểu biết về tu hành. Đó gọi là trí biết.

Hỏi: Thế nào là trí tận?

Đáp: Là dâm, nộ, si (tham sân si) dứt hết trọn vẹn, tất cả kiết dứt hết không còn. Đó gọi là trí tận.

Đức Thế Tôn hoặc nói về trí biết, hoặc nói về Nê hoàn.

Hỏi: Thế nào là trí biết?

Đáp: Như đã nói:

Người Hiền trẻ tuổi nầy

Hay hiểu các thế gian

Nếu ái ấy sinh khổ

Nên dùng trí thông sáng.

Nếu dùng hành thì nói

Không dùng tức không nói

Không làm kẻ ca tụng

Người trí nhận biết khắp.

Đó gọi là trí biết.

Hỏi: Thế nào là Nê hoàn?

Đáp: Như đã nói: “Nên nói trí, pháp được nhận biết, người đã nhận biết”. Thế nào là trí? Là dâm, nộ, si đã hoàn toàn dứt hết, tất cả kiết đều đoạn trừ hết không còn. Thế nào là pháp được nhận biết? Là năm thạnh ấm (Năm thủ uẩn). Thế nào là người đã nhận biết? Là A-la-hán đã dứt hết các lậu. Đó gọi là Nê hoàn.

Hỏi: Những người quy hướng về Phật là quy hướng về nơi nào?

Đáp: Là các pháp thật có, luôn tưởng, thiết lập ngôn thuyết chuyển biến. Phật là hạnh giác, quy hướng về pháp vô học.

Những người quy hướng về Pháp là quy hướng về nơi nào?

Đáp: Là ái hết, không dâm (lìa nhiễm), diệt, nói là Nê hoàn, là quy hướng về đấy.

Hỏi: Những người quy hướng về Tăng là quy hướng về nơi nào?

Đáp: Là các pháp thật có, luôn tưởng, thiết lập ngôn thuyết chuyển biến. Tăng là Tăng hành quy hướng về pháp học, pháp vô học.

***

Phẩm 5: BÀN VỀ VÔ TÀM QUÝ (KHÔNG HỔ THẸN)

Thế nào là không hổ? Thế nào là không thẹn? Không hổ, không thẹn có gì sai biệt?

Thế nào là hổ? Thế nào là thẹn? Hổ, thẹn có gì sai biệt?

Thế nào là căn bất thiện tăng trưởng nơi cõi Dục? Thế nào là vi tế? Thế nào là căn thiện tăng trưởng nơi cõi Dục? Thế nào là vi tế?

Các tâm quá khứ, tất cả tâm đó đều là biến hoại chăng? Nếu như tâm biến hoại, tất cả tâm đó là quá khứ chăng? Các tâm nhiễm ô, tất cả tâm đó đều là biến hoại chăng? Nếu như tâm biến hoại, tất cả tâm đó là nhiễm ô chăng?

Hết thảy điệu đều cùng tương ưng với hý chăng? Hết thảy hý đều cùng tương ưng với điệu chăng? Hết thảy thùy đều cùng tương ưng với miên chăng? Hết thảy miên đều cùng tương ưng với thùy chăng? Thùy miên nên nói là thiện, nên nói là bất thiện hay nên nói là vô ký? Khi ngủ nghỉ (miên), phước đã tạo nên nói là biến chuyển chăng? Phi phước đã tạo nên nói là biến chuyển chăng? Phi phước phi phi phước đã tạo nên nói là biến chuyển chăng? Mộng gọi là pháp gì?

Năm cái gồm thâu các cái hay các cái gồm thâu năm cái? Các cái chúng là che lấp chăng? Nếu như có che lấp đấy là các cái chăng?

Các sử vô minh (tùy miên vô minh) hệ thuộc cõi Dục, tất cả sử vô minh đó là bất thiện chăng? Nếu như là bất thiện, tất cả chúng là sử vô minh hệ thuộc cõi Dục chăng? Các sử vô minh của cõi Sắc, cõi Vô sắc, tất cả sử vô minh đó là vô ký chăng? Nếu như là vô ký, tất cả chúng là sử vô minh của cõi Sắc, cõi Vô sắc chăng?

Các sử vô minh do khổ đế, tập đế (kiến khổ, kiến tập) đoạn trừ, tất cả chúng là nhất thiết biến (biến hành) chăng? Nếu như là nhất thiết biến, tất cả chúng là sử vô minh do khổ đế, tập đế đoạn trừ chăng? Các sử vô minh do tận đế, đạo đế (kiến diệt, kiến đạo) đoạn trừ, tất cả chúng không phải là nhất thiết biến (biến hành) chăng? Nếu như không phải là nhất thiết biến, tất cả chúng là sử vô minh do tận đế, đạo đế đoạn trừ chăng?

Thế nào là sử vô minh không chung? Thế nào là triền điệu (trạo cử) không chung?

Về các nghĩa trên, chương nầy xin diễn nói đầy đủ.

*

Hỏi: Thế nào là không hổ?

Đáp: Đáng hổ không hổ, đáng tránh không tránh, cũng không tránh người khác, không cung kính, không khéo cung kính, không khéo giao tiếp. Đó gọi là không hổ.

Hỏi: Thế nào là không thẹn?

Đáp: Nếu không thẹn, không khéo hổ thẹn, không thẹn với người khác. Đáng hổ thẹn không thẹn, không thẹn đối với người khác, không sợ việc xấu ác, thấy việc xấu ác không sợ. Đó gọi là không thẹn.

Hỏi: Không hổ, không thẹn có gì sai biệt?

Đáp: Không khéo gieo tiếp, qua lại là không hổ. Đối với việc xấu ác không thấy sợ là không thẹn. Không hổ, không thẹn sai biệt là như thế.

Thế nào là hổ?

Đáp: Đáng xấu hổ thì xấu hổ, đáng tránh thì tránh, có thể tránh người khác, biết cung kính, khéo cung kính, khéo giao tiếp, lui tới. Đó gọi là hổ.

Hỏi: Thế nào là thẹn?

Đáp: Đáng thẹn thì thẹn, đáng xấu hổ thì xấu hổ, có thể xấu hổ đối với người khác, sợ việc ác, thấy việc ác thì sợ. Đó gọi là thẹn.

Hỏi: Hổ, thẹn có gì sai biệt?

Đáp: Khéo gieo tiếp, lui tới là hổ. Đối với việc ác, thấy việc ác thì sợ là thẹn. Hổ, thẹn, sai biệt là như vậy.

Hỏi: Thế nào là căn bất thiện tăng trưởng nơi cõi Dục? Thế nào là vi tế? Thế nào là tăng?

Đáp: Các căn bất thiện đoạn dứt căn thiện. Khi đoạn dâm (lìa nhiễm) ở cõi Dục thì chúng được diệt bỏ trước nhất. Đó gọi là tăng.

Hỏi: Thế nào là vi tế? (Căn bất thiện hiện hành vi tế)

Đáp: Vượt qua dục không dâm, chúng được diệt trừ sau cùng. Các dục đã diệt, nên được không dâm (lìa nhiễm). Đó gọi là vi tế.

Hỏi: Thế nào là căn thiện tăng trưởng nơi cõi Dục? Thế nào là vi tế? Thế nào là tăng?

Đáp: Bồ-tát đối với chánh pháp, vượt thứ lớp, thủ chứng (nhập chánh tánh ly sinh), tu hành được đẳng trí (trí thế tục). Hoặc Như Lai đạt được tận trí, đối với dâm, nộ, si (tham sân si) đã dứt hết và được căn thiện. Đó gọi là tăng.

Hỏi: Thế nào là vi tế? (Căn thiện hiện hành vi tế)

Đáp: Khi đoạn dứt căn thiện là dứt bỏ sau cùng. Đối với chúng đã diệt, có thể thường đoạn căn thiện. Đó gọi là vi tế.

Hỏi: Các tâm quá khứ, tất cả tâm đó đều là biến hoại chăng?

Đáp: Đúng vậy. Các tâm quá khứ, tất cả tâm đó đều là biến hoại.

Hỏi: Từng có tâm biến hoại nhưng tâm đó không phải là quá khứ chăng?

Đáp: Có. Là tâm tương ưng với tham dục, giận dữ ở hiện tại, vị lai. Đức Thế Tôn cũng nói: “Nếu như có đám giặc đến, dùng cưa, dao cắt đứt thân thể, lúc ấy các Tỳ-kheo tâm chớ có biến hoại”.

Hỏi: Các tâm nhiễm ô, tất cả tâm đó đều là biến hoại chăng?

Đáp: Như thế. Các tâm nhiễm ô, tất cả tâm đó đều là biến hoại.

Hỏi: Từng có tâm biến hoại nhưng tâm đó không phải là nhiễm ô chăng?

Đáp: Có. Là tâm không tương ưng với tham dục quá khứ và tâm tương ưng với giận dữ nơi hiện tại, vị lai. Đức Thế Tôn cũng nói: Nếu như có đám giặc đến, dùng cưa, dao cắt đứt thân thể. Khi chúng dùng dao cưa cắt đứt thân thể như thế, tâm sẽ có biến hoại.

Hỏi: Hết thảy điệu (trạo cử) đều cùng tương ưng với hý (ố tác) chăng?

Đáp: Hoặc điệu không tương ưng với hý.

Thế nào là điệu không tương ưng với hý? Không hý, không dứt, không thôi, điệu chút ít, tâm điệu tăng thịnh. Đó gọi là điệu không tương ưng với hý.

Thế nào là hý không tương ưng với điệu? Tâm không nhiễm ô, nếu đã tạo ác thì hối hý (ố tác). Đó gọi là hý không tương ưng với điệu.

Thế nào là điệu, hý tương ưng với nhau? Tâm nhiễm ô và đã làm ác nên hối hý (ố tác). Đó gọi là điệu, hý tương ưng với nhau.

Thế nào là không phải điệu không phải hý tương ưng? Là trừ các việc đã nêu trên.

Hết thảy thùy (hôn trầm) đều cùng tương ưng với miên (thùy miên) chăng?

Đáp: Hoặc thùy không tương ưng với miên.

Thế nào là thùy không tương ưng với miên? Khi chưa ngủ (miên), thân không nhẹ nhàng, tâm không hòa dịu. Thân nặng nề, tâm nặng nề. Thân bực bội, tâm bối rối. Thân ngủ yên, tâm ngủ yên, giấc ngủ bị triền trói buộc. Đó gọi là thùy không tương ưng với miên.

Thế nào là miên không tương ưng với thùy? Là tâm không nhiễm ô, ngủ nằm mộng. Đó gọi là miên không tương ưng với thùy.

Thế nào là thùy, miên tương ưng với nhau? Là tâm nhiễm ô, ngủ nghỉ nằm mộng. Đó gọi là thùy, miên tương ưng với nhau.

Thế nào là không phải thùy không phải miên tương ưng? Là trừ các việc đã nêu trên.

Hỏi: Thùy miên nên nói là thiện, nên nói là bất thiện hay nên nói là vô ký?

Đáp: Thùy miên nên nói hoặc là thiện, hoặc là bất thiện, hoặc là vô ký.

Thế nào là thiện? Là tâm thiện nơi ngủ nghỉ, nằm mộng. Đó gọi là thiện.

Thế nào là bất thiện? Là tâm bất thiện nơi ngủ nghỉ, nằm mộng. Đó gọi là bất thiện.

Thế nào là vô ký? Là trừ các sự việc đã nêu trên.

Hỏi: Khi ngủ nghỉ (miên), phước đã tạo nên nói là biến chuyển chăng? Phi phước đã tạo nên nói là biến chuyển chăng? Phi phước phi phi phước đã tạo nên nói là biến chuyển chăng?

Đáp: Khi ngủ nghỉ hoặc phước đã tạo nên nói là biến chuyển. Hoặc phi phước đã tạo nên nói là biến chuyển. Hoặc phi phước phi phi phước đã tạo nên nói là biến chuyển.

Thế nào là khi ngủ nghỉ, phước đã tạo nên nói là biến chuyển? Như trong mộng đã hành thí và tạo phước như giữ giới, thủ trai. Như khi ngủ nghỉ, các thứ phước khác được tạo khiến tâm biến chuyển. Vì sao? Vì như tâm thiện hiện hữu nơi giấc ngủ. Như thế khi ngủ nghỉ, phước đã tạo nên nói là biến chuyển.

Thế nào là khi ngủ nghỉ, phi phước đã tạo nên nói là biến chuyển? Như trong mộng đã hành sát sinh, trộm cắp, hành tà dâm, hoặc nói dối, uống rượu. Như khi ngủ nghỉ, các thứ phi phước khác khiến tâm chuyển biến. Vì sao? Vì như tâm bất thiện hiện hữu cùng với giấc ngủ. Như thế khi ngủ nghỉ, phi phước đã tạo nên nói là biến chuyển.

Thế nào là khi ngủ nghỉ, phi phước phi phi phước đã tạo nên nói là biến chuyển? Như khi ngủ nghỉ, tâm phi phước, tâm phi phi phước đã biến chuyển. Vì sao? Vì như tâm vô ký hiện hữu với giấc ngủ. Như thế khi ngủ nghỉ, phi phước phi phi phước đã tạo nên nói là biến chuyển.

Hỏi: Mộng gọi là pháp gì?

Đáp: Khi ngủ nghỉ, tâm tâm niệm pháp (tâm tâm sở pháp) chuyển biến nơi đối tượng duyên. Người kia sau khi thức giấc, liền nhớ nghĩ, như nói: Tôi đã nằm mộng thấy các sự việc như thế như thế.

Hỏi: Năm cái gồm thâu các cái hay các cái gồm thâu năm cái?

Đáp: Các cái gồm thâu năm cái, không phải năm cái gồm thâu các cái. Những gì là không gồm thâu? Là cái vô minh.

Đức Thế Tôn cũng nói:

Vô minh che lấp

Kiết ái trói buộc

Ngu si như thế

Có được thân nầy

Thông sáng cũng vậy.

Các cái chúng là che lấp chăng?

Đáp: Hoặc có cái không phải là che lấp.

Thế nào là cái không phải là che lấp? Là năm cái quá khứ, vị lai. Đây gọi là cái không phải là che lấp.

Thế nào là che lấp không phải là cái? Là trừ năm cái, các kiết sử khác đang hiện ở trước. Đây gọi là che lấp không phải là cái.

Thế nào là cái cũng là che lấp? Là năm cái lần lượt hiện ở trước. Đây gọi là cái cũng là che lấp.

Thế nào là không phải cái cũng không phải là che lấp? Là trừ các sự việc đã nêu trên.

Hỏi: Các sử vô minh (tùy miên vô minh) hệ thuộc cõi Dục, tất cả sử vô minh đó là bất thiện chăng?

Đáp: Đúng vậy. Các sử vô minh hệ thuộc cõi Dục, tất cả sử vô minh đó là bất thiện.

Hỏi: Từng có sử vô minh hệ thuộc cõi Dục không phải là bất thiện chăng?

Đáp: Có. Là sử vô minh nơi cõi Dục tương ưng với thân kiến, biên kiến.

Hỏi: Các sử vô minh của cõi Sắc, cõi Vô sắc, tất cả sử vô minh đó là vô ký chăng?

Đáp: Đúng vậy. Các sử vô minh của cõi Sắc, cõi Vô sắc, tất cả chúng đều là vô ký.

Hỏi: Từng có sử vô minh vô ký không phải hệ thuộc cõi Sắc, cõi Vô sắc chăng?

Đáp: Có. Là sử vô minh nơi cõi Dục tương ưng với thân kiến, biên kiến.

Các sử vô minh do khổ đế, tập đế (kiến khổ, kiến tập) đoạn trừ, tất cả chúng là nhất thiết biến (biến hành) chăng?

Đáp: Đúng vậy. Các sử vô minh nhất thiết biến, tất cả chúng đều do khổ đế, tập đế đoạn trừ.

Hỏi: Từng có sử vô minh do khổ đế, tập đế đoạn trừ, chúng không phải là nhất thiết biến (biến hành) chăng?

Đáp: Có. Là vô minh tương ưng với sử (tùy miên) không phải nhất thiết biến do khổ đế, tập đế đoạn trừ.

Hỏi: Các sử vô minh do tận đế, đạo đế (kiến diệt, kiến đạo) đoạn trừ, tất cả chúng không phải là nhất thiết biến (biến hành) chăng?

Đáp: Đúng vậy. Các sử vô minh do tận đế, đạo đế đoạn trừ không phải là nhất thiết biến.

Hỏi: Từng có sử vô minh không phải là nhất thiết biến không phải do tận đế, đạo đế đoạn trừ chăng?

Đáp: Có. Là vô minh tương ưng với sử không phải là nhất thiết biến, do khổ đế, tập đế đoạn trừ.

Hỏi: Thế nào là sử vô minh không chung?

Đáp: Là đối với khổ không nhẫn, đối với tập, tận, đạo không nhẫn. (Nhẫn: Hiểu rõ)

Hỏi: Thế nào là triền điệu (trạo cử) không chung?

Đáp: Không có triền điệu không chung.

HẾT – QUYỂN 2