Lời tựa tái bản bộ Tán Lễ Địa Tạng Bồ Tát Sám Nguyện Nghi

Tâm thể vốn tịnh, do căn trần mà trược niệm khởi lên. Phật tánh thường tồn, do mê trái nên phàm tình hừng hực. Do vậy, khiến cho sức tịch chiếu bị biến thành duyên tối tăm, loạn động. Trong thường trụ, lầm chịu nỗi khổ sanh tử. Chấp trước Ngũ Ấm, chẳng biết rốt ráo đều là không. Ngăn lấp nhất tâm, nào hiểu vốn chẳng thể được! Đắm nhiễm lục trần huyễn cảnh, đọa lạc đường khổ tam đồ. Dẫu trải qua vi trần kiếp số, chẳng thể thoát khỏi luân hồi lục đạo. Do vậy, đức Thế Tôn ta rủ lòng từ mẫn, nhân Địa Tạng Bồ Tát thưa hỏi, bèn nói pháp luân Thập Lực của Phật để nghiến nát Phiền Hoặc, thành tựu đạo khí. Do đấy, vứt bỏ ác pháp, đoạn trừ hết thảy Vô Y Hạnh[1], tu trì thiện pháp, đầy đủ hết thảy Hữu Y Hạnh. Nhưng muốn đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn thì phải sám trừ tội khiên đời trước. Nếu chẳng chấp vào Ngũ Ấm sẽ tự chứng được ba thân. Bên ngoài thì nhờ vào Phật lực, pháp lực, Bồ Tát thệ nguyện lực, trong nương vào sức thành kính, sức sám hối, sức tự tánh công đức nên sương tội ngập trời bị tiêu diệt triệt để; bầu trời chân tánh sẵn có được hiển hiện toàn thể.

Do vậy, biết rằng ba kinh Thập Luân, Bổn Nguyện, Chiêm Sát[2] đều là vì Địa Tạng đại bi nguyện lực khiến cho chúng sanh côi cút không nơi nương cậy trong đời Mạt có chỗ nương cậy lớn lao. Ngẫu Ích đại sư đã chứng Pháp Thân, thừa nguyện tái lai, thoạt đầu thị hiện làm kẻ Xiển Đề, sau trở thành sứ giả Như Lai, một đời hạnh giải, lý sự viên dung. Suốt đời trước thuật, tánh – tu cùng trọn đủ. Ngài muốn làm cho trược trí trở thành tịnh trí, bèn dựa theo ba kinh trên, soạn ra Sám Nghi, ngõ hầu biến phàm tâm thành Phật tâm, dùng Thập Luân để làm sáng tỏ sự tán thán, sám hối. Gương báu đã mài, quang minh tự phát. Ma-ni đã gột rửa, bèn tuôn ra trân bảo. Thật có thể nói là diệu pháp để phản bổn hoàn nguyên, là đạo để đạt “tâm này làm Phật” vậy. Hoằng Nhất Thượng Nhân từ trước đã khâm phục trước thuật của đại sư, bèn cho khắc bản bộ sám nghi này để lưu truyền rộng rãi, khiến cho người có chí diệt Hoặc nghiệp huyễn vọng, chứng chân tâm sẵn có, trên nối tiếp huệ mạng Như Lai, dưới tạo thành điển hình cho đời sau đều được thọ trì vậy!

***

[1] Kinh Địa Tạng Bồ Tát Thập Luân dạy có mười Hữu Y Hạnh Luân và mười Vô Y Hạnh. Hữu Y nghĩa là những hạnh nghiệp có thể nương nhờ vào, dùng chữ Luân với ý nghĩa giống như bánh xe lăn, nghiền nát Hoặc nghiệp. Như vậy, Hữu Y Hạnh Luân là những hạnh nghiệp có thể đoạn phiền hoặc, chứng Bồ Đề. Vô Y Hạnh là những hạnh nghiệp không thể nương tựa vì chúng tăng trưởng phiền não, vọng tưởng, chấp trước.

Mười Hữu Y Hạnh Luân là:

1) Đầy đủ lòng tin trong sạch, trọn tín tâm thanh tịnh.

2) Có đủ lòng hổ thẹn.

3) An trụ trong luật nghi, nhiếp thân khẩu ý, an trụ tịnh giới.

4) An trụ từ tâm.

5) An trụ bi tâm.

6) An trụ hỷ tâm.

7) An trụ xả tâm.

8) Có chánh quy y, y chỉ nơi Tam Bảo.

9) Đầy đủ tinh tấn, tùy thuận tu học, dũng mãnh, siêng tinh.

10) Thường lạc tịch tịnh, lòng lắng tịnh, tư duy đúng lý, dứt các vọng tưởng.

Mười Vô Y Hạnh là:

1) Gia Hạnh hoại nhưng ý lạc không hư hoại.

2) Ý lạc bị hoại nhưng gia hạnh không hoại.

3) Gia hạnh, ý lạc đều hoại.

4) Giới hoại, nhưng kiến không hoại.

5) Kiến hoại, nhưng giới không hoại.

6) Kiến, giới đều hoại.

7) Gia hạnh, ý lạc, giới, kiến đều không hoại, nhưng y chỉ vào sức bạn ác.

8) Tuy y chỉ thiện hữu và có gia hạnh, nhưng ngu độn như dê câm, không phân biệt các sự lý, nghe thiện pháp nói là bất thiện pháp, chẳng lãnh ngộ được ý nghĩa.

9) Đối với các thứ của cải, thường không chán đủ, miệt mài theo đuổi nên tâm bị loạn.

10) Bị các bệnh tật bức bách nên cúng bái thần quỷ, cầu chú thuật.

[2] Trong Đại Tạng có ba bộ kinh: Địa Tạng Bồ Tát Thập Luân Kinh, Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện Kinh và Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo Kinh đều do đức Địa Tạng khải thỉnh Phật bèn nói pháp, hoặc do một vị Bồ Tát khác khải thỉnh, Phật bèn giảng diễn về công hạnh của Địa Tạng Bồ Tát.