Lời tựa sách Thập Tam Kinh Độc Bản

Trời đất dùng hai khí Âm – Dương để hóa sanh vạn vật. Thánh nhân dùng “thành minh nhất trí” để giáo dục quần manh. Ấy là Đạo vậy! Theo chiều ngang truyền khắp muôn nước, theo chiều dọc lưu truyền muôn đời. Những người hiểu biết đều tuân hành, không ai biết suy nghĩ chẳng phục. Dẫu thánh nhân sống lại cũng chẳng thể lập pháp nào khác. Cũng chẳng qua là phát huy đạo Thành Minh cho được phô bày trọn vẹn triệt để, giãi bày hết cả ra mà thôi! Thập Tam Kinh là đại kinh, đại pháp “cách vật trí tri, thành ý chánh tâm, tu – tề – trị – bình” được nhị đế, tam vương[1], Châu Công, Khổng Tử, Mạnh Tử tiếp nối ngôi trời lập ra để giáo hóa muôn đời. Nó chính là lý tột cùng thiên địa không riêng tư, là lương tri sẵn có của chúng ta. Thoạt đầu chẳng có gì đặc biệt, lạ lùng, huyền diệu, chẳng thể đạt đến được, dẫu là kẻ ngu phu ngu phụ cũng vẫn có thể thực hiện được. Bởi lẽ, con người có cùng một cái tâm này, tâm có cùng một lý này. Nghiêu – Thuấn cũng như mọi người, mà ai nấy cũng đều có thể trở thành Nghiêu – Thuấn. Nếu tuân hành theo thì ai nấy đều thành thánh, thế giới đại đồng.

Thế đạo suy sụp, nhân tâm tệ bạc là do Nho gia chẳng biết đạo nằm ở chỗ tận tụy thực hành, một mực chạy theo cái ngọn, nhất loạt gác lại chuyện “khắc kỷ, giữ lễ, dứt lòng tà, giữ lòng thành” không bàn đến nữa, chỉ lo học thuộc từ chương, hòng làm cái vốn tiến thủ, xử thế. Do vậy, biến cái đạo giúp cho quyền sanh thành, giáo hóa của thánh nhân trở thành một nghề khéo hòng thâu danh đoạt lợi. Đúng là vu hãm, khinh miệt thánh nhân, trái nghịch thiên địa đến cùng cực vậy! Do thế, người đọc sách tâm chẳng hiểu nghĩa sách, thân chẳng hành theo đạo sách đã dạy. Khi làm văn bèn phát huy đạo hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ chẳng sót mảy may nào, nhưng xét đến chỗ suy nghĩ, xử sự, hoàn toàn chẳng có những khí phận ấy! Khác gì kép hát diễn tuồng, khổ – sướng, buồn – vui diễn cho thật giống, thật ra chẳng mảy may gì liên can đến chính hắn. Mối tệ ấy một khi khởi lên dần dần ngày càng trở thành quá đáng. Do vậy, những kẻ có thiên tư quen thói cuồng vọng, xấu hổ phải noi theo dấu của Nghiêu, Thuấn, Châu, Khổng, cứ muốn vượt lên, rốt cuộc thành ra vứt bỏ thánh kinh, đua nhau soạn sách mới. Tà thuyết vừa dấy, [đại chúng] đua nhau phụ họa, đến nỗi những kẻ tiểu nhân xấu hèn muốn phô phang cái tâm cướp đoạt, gian dâm của chính mình, bèn vội vã đề xướng và thực hiện thuyết chung vợ, chung tài sản; chỉ sợ dân chúng chẳng giống với loài cầm thú, sợ cương thường luân lý gây trở ngại cho chính mình, đến nỗi thiên tai nhân họa liên tục giáng xuống, vận nước nguy ngập, dân không lẽ sống! Ví như đi đêm vứt đuốc, đi biển bỏ thuyền, muốn chẳng sa xẩy, chìm đắm, há có được chăng?

Ông Thi Triệu Tăng sợ đạo này diệt mất bèn cùng với hai ba người cùng chí hướng lập ra Quốc Học Chuyên Tu Quán, tụ tập những người có chí nơi đạo này để chuyên tinh nghiên cứu, đích thân tận lực thực hành, mong lưu truyền rộng những điều sở đắc. Ông Đường Văn Trị hơn mười năm qua tinh thông đạo này, sưu tập những bản Thập Tam Kinh hay nhất, chọn lấy những bản chú giải giản dị, xác đáng, gộp thành một tập; lại đối với mỗi một kinh chọn ra mấy câu hòng nêu được ý nghĩa chính, ghép vào cuối kinh. Dụng tâm có thể nói là hết sức tha thiết. Ông Thi bèn cho khắc in để lưu truyền trong các trường học, ngõ hầu ai nấy đọc tụng, tập tành theo. Khắc xong, chính ông ta và ông Đường đều viết lời tựa, thuật rõ duyên do. Lại nhờ tôi viết lời tựa. Tôi nghĩ Thập Tam Kinh lưu truyền trong đời như mặt trời, mặt trăng sáng vằng vặc giữa trời, ai có mắt đều thấy; cần gì đợi ông Tăng tầm thường chỉ biết cơm cháo này chỉ bày nữa ư? Tuy đạo cố nhiên không hai, nhưng người nhân kẻ trí thấy khác, nên chẳng ngại đem sở kiến của mình thuật cùng người nhân, kẻ trí, chưa chắc chẳng giúp gì được cho việc thấu hiểu kinh, mong thành thánh vậy.

Trộm nghĩ: Đạo được phát minh bởi Thập Tam Kinh chính là đạo “cách vật trí tri, thành ý, chánh tâm, tu – tề – trị – bình”, nhưng xiển phát yếu chỉ “cách vật trí tri, thành ý chánh tâm, tu – tề – trị – bình” chỉ có sách Đại Học là nói lớp lang, trình bày tột cùng. Trung Dung, Luận Ngữ, Mạnh Tử đều phát huy nghĩa này, nhưng chẳng nói tuần tự theo thứ lớp. Do vậy, biết Tứ Thư chính là chú sớ của kinh Dịch, kinh Thư, kinh Thi, Châu Lễ, Lễ Nghi, Lễ Ký để đạo ấy được sáng tỏ lớn lao. Hiếu Kinh thúc đẩy cho việc thực hành đạo ấy được hữu hiệu. Ba truyện Xuân Thu[2] chính là những chứng nghiệm của chuyện tuân thủ, trái nghịch, được – mất vậy. Do đó, bổn tâm của chúng ta, đạo tân truyền của chư thánh đều được sáng tỏ. Dùng đó để kế tục cổ thánh, mở lối cho hậu học. Công ấy bằng với công trời che đất chở. Những kẻ bỏ kinh khác gì muốn vứt bỏ trời che đất chở để tự lập ư? Những kẻ ấy chẳng biết sự vụ quá đáng! Hướng theo đó mà cầu thì mọi chuyện mong thành thánh thành hiền, đạo trị quốc tân dân không điều gì chẳng rõ ràng như từng đường chỉ trong bàn tay. Không mong thành thánh thành hiền thì thôi, chứ nếu muốn thành thánh thành hiền thì đạo thánh hiền tự sẵn đủ nơi thân và tâm chúng ta. Những giải thích từ sách Nhĩ Nhã[3] chính là chú thích chung cho các kinh, ngõ hầu dù văn hay nghĩa đều được hiểu rõ. Như vậy, Nhĩ Nhã là giải nghĩa ở mức độ ban đầu, còn Tứ Thư là pháp môn tổng trì thành thủy thành chung.

Bàn đến ý nghĩa trọng yếu ở một mức độ cao hơn thì Minh Đức là gốc, còn làm sáng tỏ Minh Đức lại chính là mấu chốt để từ phàm tiến lên thánh, để con người hợp với trời. “Làm sáng tỏ được Minh Đức” (minh Minh Đức) thì trong là thánh đạo, ngoài là vương đạo đều được trọn vẹn vậy. Nhưng muốn làm sáng tỏ Minh Đức thì phải trừ khử “món vật” nhân dục cho hết sạch không còn sót gì khiến cho Chân Tri sẵn có ngay trong tâm được triệt để phơi bày trọn vẹn. Bổn phận của người đọc sách chỉ nằm trong mấy điều ít ỏi này mà thôi. Còn gì thẳng tắt, còn gì dễ dàng hơn? Mới biết ai cũng có thể là Nghiêu – Thuấn, ngu phu ngu phụ cũng có thể biết được, làm được. Đấy chính là chân ngữ, thật ngữ; do con người có cùng một tâm này, tâm cùng một lý này. Muốn cho thế đạo nhân tâm chuyển từ loạn thành yên, biến ác nghiệt thành thuần hòa, mà bỏ điều này thì không còn cách gì nữa! Không biết ông Thi, ông Đường có cho lời tôi luận là đúng hay không? Nhưng những điều này là luận trên pháp thế gian, chớ lầm tưởng là luận về pháp xuất thế gian. Tha thiết dặn dò vậy!

***

[1] Nhị đế tam vương: Nhị đế là Nghiêu, Thuấn, Tam Vương là Đại Vũ, Thành Thang, Văn Vương.

[2] Ba truyện Xuân Thu: tức là các bộ Tả Truyện, Công Dương Truyện, Cốc Lương Truyện. Những cuốn này đều thuật những chuyện thuộc thời Xuân Thu nên gọi là ba truyện Xuân Thu.

[3] Nhĩ Nhã là một bộ từ điển cổ giải thích tên những nhân vật, sự vật, được hoàn thành vào thời Tây Hán.