Lời tựa quyên mộ tu bổ, xây dựng ao phóng sanh chùa Đại Phật ở Tân Xương[1]

Nho thì lấy “trung hậu, khoan thứ, thương yêu người và vật như ruột thịt, như chính mình” làm trách nhiệm, ắt phải coi người khác cho đến loài vật đều như chính bản thân mình thì mới là người học đạo thật sự. Họ Thích lấy từ bi tế độ làm trọng. Vì vậy, thương xót các loài vật đều có Phật tánh, muốn thực hiện sự cứu giúp. Hiềm rằng người đời sát sanh ăn thịt đã thành thói quen, chẳng biết như vậy là sai, đến nỗi đời đời kiếp kiếp lần lượt giết lẫn nhau trọn chẳng khi nào ngơi! Chẳng đáng buồn ư?

Phải biết con người và loài vật cùng mang cái thân máu thịt này, cùng có tánh linh tri này, cùng sống trong vòng trời đất, chỉ vì đây – kia kiếp trước tội – phước bất đồng đến nỗi đời này hình dáng, thể chất, lanh lợi – ngu xuẩn sai khác. Cậy mình mạnh lấn áp kẻ yếu, ăn thịt chúng nó để no bụng mình, khoái lòng sướng ý, cho là có phước báo, chẳng biết một khi phước lực vừa hết, nghiệp báo hiện tiền, đọa trong dị loại: Lúc bị người ta giết hại, thân không chống lại được, miệng không nói được, trong tâm lo sợ, đau khổ, mới biết chuyện ăn thịt là tội lỗi lớn! Người ăn thịt quả thật là La Sát[2]. Dù có muốn chẳng bị người khác giết ăn thịt cũng không thể được.

Do vậy, kinh Lăng Nghiêm dạy: “Do người ăn thịt dê, dê chết thành người, người chết thành dê, như thế cho đến mười loài chúng sanh, chết chết, sống sống, ăn nuốt lẫn nhau, do ác nghiệp cùng sanh ra cho đến tận đời vị lai”. Huống chi từ nhiều kiếp đến nay lại sanh ra nhau. Đã không có đạo lực để cứu tế, nỡ nào khiến chúng nó chịu nỗi đau cùng cực bị dao chặt xẻ để cho ta hưởng vị ngon nơi lưỡi miệng ư? Trong kinh Nhập Lăng Già, đức Thế Tôn quở trách thói ăn thịt nhiều lần. Có câu: “Hết thảy chúng sanh từ vô thỉ đến nay, luân hồi trong sanh tử chẳng ngơi, không ai chẳng từng là cha mẹ, anh em, con cái, quyến thuộc, cho đến là bằng hữu, người thân ái, tôi tớ. Qua đời khác bèn mang thân chim, thú v.v… Sao lại bắt lấy chúng để ăn thịt?” Phàm những người sát sanh ăn thịt, nếu nghĩ đến điều này ắt sẽ run rẩy, kinh sợ, tỉnh ngộ. Thà tự giết mình, chẳng thể giết hết thảy loài vật!

Vùng Tân Xương có quả núi tên là Thạch Thành, trên núi đục cái khám và tượng Di Lặc to cả trăm thước, do ba vị sư là Tăng Hộ, Tăng Thục đời Tề và Tăng Hựu đời Lương tạo dựng. Tướng hảo trang nghiêm, đẹp đẽ không thể sánh tầy. Chùa nơi ấy là Tây Môn của Thiên Thai, Trí Giả đại sư nhập diệt tại đó. Có lẽ muốn ngụ ý: Trước là kế tục Linh Sơn, sau là phụ trợ hội Long Hoa. Suốt cả đời Đại Sư tùy cơ thuyết pháp, Ngài đặc biệt chú trọng phóng sanh. Do dân vùng Thiên Thai đa số theo nghề đánh cá, để cứu vớt, Ngài mua một chỗ đánh cá, biến thành ao phóng sanh. Lại còn giảng cho ngư dân nghe kinh Kim Quang Minh. Ngư dân nghe pháp đều hiếu sanh, bỏ giết chóc, ai nấy đều bỏ đăng, đó trên sông ngòi. Cả sáu mươi ba chỗ rộng đến hơn ba trăm dặm, đều biến thành ao phóng sanh. Những ai đánh bắt trộm bèn lập tức mắc họa. Đến đời Đường vẫn y như vậy. Nhưng lâu ngày, người đã khuất, pháp tàn, lệnh cấm lỏng lẻo, đến nỗi cái ao ngoài chùa Đại Phật cũng trở thành chỗ đánh cá. Cư sĩ Mã Khế Từ ngưỡng mộ đức hạnh tốt đẹp, công huân thù thắng của các vị Tăng Hộ, Tăng Thục, Tăng Hựu, Trí Giả, muốn cho đồng nhân và hết thảy loài vật sống trên cạn, dưới nước, bay trên không đều được hưởng hết tuổi trời, cùng sanh về Cực Lạc, tương lai cùng được dự ba hội Long Hoa, nên đặc biệt xin ban hành lệnh nghiêm cấm, cho khắc lên đá ngõ hầu tồn tại vĩnh cửu.

Nhưng ao đã lâu chưa vét, bùn lầy đầy ứ, lại còn phải dựng tường vây quanh bên ngoài để phòng kẻ bắt trộm. Lại còn phải dựng cầu, sửa đập, cất đình, đắp đường; nào phải chỉ nhằm làm cho quang cảnh đẹp mắt mà thật ra là muốn cho những người đến lễ Phật trông thấy cảnh sắc lòng vui thư thái, trên là khế hợp tâm Phật, ngõ hầu tiêu trừ được thiên tai nhân họa mà không hay không biết! Nhưng do công trình rộng lớn không thể không quyên mộ mười phương quan viên, thân sĩ, thương gia cùng hết thảy thiện tín. Khẩn khoản mong mọi người phát lòng “chúng sanh và Phật đồng thể, loài vật và ta chẳng hai”, cùng bỏ ra tịnh tài khiến cho quang cảnh này được thành tựu thì công đức ấy có cùng thọ lượng với mười phương hư không.

***

[1] Tân Xương là tên một huyện thuộc tỉnh Chiết Giang.

[2] La Sát (Rāksasa) là một loài ác quỷ, đôi khi còn phiên âm là La Sát Sa, La Xoa Sa, La Khất Sát Sa, A Lạc Sát Sa… dịch nghĩa là Khả Úy (đáng sợ), Tốc Tật Quỷ (quỷ nhanh lẹ), Hộ Giả (người bảo vệ). Tương truyền La Sát chính là danh xưng của cổ dân Ấn Độ, khi tộc người Aryan chinh phục Ấn Độ, từ ngữ này bèn trở thành đại từ chỉ những loài hung ác. Quỷ La Sát nam thân đen đúa, tóc đỏ lừ, mắt xanh lam, nhưng La Sát Nữ dung mạo tuyệt đẹp, có khả năng mê hoặc con người rất lớn. Loài quỷ này thích ăn thịt uống máu con người. Loài quỷ này có thần thông bay đi rất nhanh hoặc chạy rất nhanh trên mặt đất. Trong địa ngục cũng có những loài quỷ La Sát làm lính canh ngục, chuyên hành hạ tội nhân, thường được gọi bằng danh từ chung là A Bàng La Sát. Chúng thường có hình đầu trâu, đầu dê, đầu nai, đầu thỏ, thân người, hoặc chân có móng như trâu. Trong Mật Giáo, có loài quỷ hộ pháp thường được gọi là La Sát Thiên. Loài quỷ thần này thân hình đoan chánh, mặc giáp trụ, tay cầm binh khí, cỡi sư tử trắng. La Sát Thiên thường được vẽ ở góc Tây Nam trong đồ hình Thai Tạng Mạn Đà La.