Lời tựa dùng phẩm Đoạn Thực Nhục (dứt ăn thịt) của kinh Lăng Già để răn thần đừng hưởng đồ cúng mặn (viết thay cho cư sĩ Lư Trí Duệ ở huyện Y tỉnh An Huy)

Kính cẩn dựa theo lời Phật: Hết thảy chúng sanh đều có Phật tánh, do nhân duyên tội phước mà luân hồi sáu nẻo. Nếu chẳng tận lực tu Giới – Định – Huệ để mong đoạn sạch tham – sân – si và sanh tín phát nguyện niệm A Di Đà Phật cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới thì không cách nào thoát ly được. Đây chính là vì ta cùng hết thảy chúng sanh sống trên không, dưới nước, trong sáu nẻo từ vô thỉ đến nay không ai chẳng xoay vần làm cha mẹ, anh em, thê thiếp, con cái, bạn bè, thân thích, không một ai trong vị lai chẳng được nghe Phật pháp tu Giới – Định – Huệ, đoạn sạch phiền hoặc, viên thành Phật đạo. Do vậy, Như Lai truyền dạy các đệ tử kiêng giết, phóng sanh, chớ ăn các loại thịt. Nhưng tình ý mê muội của thế tục thường cho rằng cúng đồ mặn mới là cung kính, chẳng biết cả mình lẫn người đều gieo nhân ác đến nỗi tương lai phải chịu ác báo.

Nay ta đã biết tội lỗi của việc ăn thịt há nỡ để người trong cùng một làng vẫn chấp vào tình kiến mê muội ấy, để nhân duyên tội nghiệp ăn thịt làm lụy đến vị tôn thần ư? Lại sợ tôn thần chưa hiểu thấu duyên do mà sanh sân nộ, giáng xuống tai họa khiến người trong làng mê muội càng nặng, khiến cho ác báo trong tương lai của người trong làng và tôn thần càng thêm sâu, thêm lớn, chẳng dễ gì tiêu diệt được! Do vậy, riêng lấy phẩm Đoạn Thực Nhục từ kinh Nhập Lăng Già[1] của đức Phật đã nói cung kính thiêu trước lò hương của thần, ngõ hầu trên hiểu thấu lòng từ của Phật, dưới thương xót tấm ngu thành, yêu tiếc mạng loài vật, chẳng hưởng của cúng tế bằng thịt. Phàm những khi cúng chay bèn ban cho may mắn. Nếu dùng đồ mặn bèn hiện ra họa ương, khiến cho người trong làng cùng cảm nhận đức thông minh, chánh trực, hiếu sanh, ghét giết chóc của tôn thần, khiến cho gió Từ thổi khắp, hòng bồi đắp gốc đạo Bồ Đề, vãn hồi kiếp vận, cùng vui thái bình vô sự. Kính mong thần hãy sáng soi thì người trong làng may mắn lắm, vận nước may mắn lắm!

***

[1] Kinh Lăng Già (Lankāvatārasūtra), gọi đầy đủ là Lăng Già A Bạt Đa La Bảo Kinh, do ngài Cầu Na Bạt Đà La dịch năm 443 vào thời Lưu Tống. Lăng Già là tên núi, A Bạt Đa La có nghĩa là Nhập (vào). Ý nói: Đức Phật vào trong núi Lăng Già diễn nói bản kinh quý báu này. Đây là một trong sáu bản kinh y chỉ để lập cước của Tướng tông. Đại ý kinh phô diển toàn thể thế giới vạn hữu đều do tâm tạo, những đối tượng được chúng ta nhận thức không phải ở bên ngoài mà ở ngay trong nội tâm. Kinh này kết hợp hai hệ tư tưởng Như Lai Tạng và A Lại Da Thức. Kinh nhấn mạnh căn nguyên của mê là do tập khí từ vô thủy không thể hiểu rõ các pháp đều do tự tâm hiển hiện. Vì thế, khi nào triệt ngộ bản tánh của ý thức sẽ bỏ được sự đối lập giữa chủ thể nhận lấy (năng thủ) và đối tượng bị lấy (sở thủ). Trong Đại Tạng, kinh này có ba bản dịch:

1. Bản dịch của ngài Cầu Na Bạt Đà La, còn gọi là Tứ Quyển Lăng Già Kinh hoặc Tống dịch Lăng Già Kinh.

2. Lăng Già Kinh do ngài Bồ Đề Lưu Chi năm 513 dịch vào thời Bắc Ngụy, còn gọi là Thập Quyển Lăng Già Kinh

3. Đại Thừa Nhập Lăng Già Kinh do ngài Thật Xoa Nan Đà dịch vào đời Đường từ năm 700 đến 704.

Trong ba bản Hán dịch, bản Tứ Quyển Lăng Già phổ biến nhất vì theo truyền thuyết, tổ Đạt Ma đã phó chúc kinh này cho Nhị Tổ Huệ Khả để truyền tâm ấn Thiền Tông. Theo truyện ngài Pháp Xung trong bộ Cao Tăng Truyện ghi chép thì Tứ Quyển Lăng Già được giảng thuật theo hai chi: Chi thứ nhất là các sư thuộc hệ phái của tổ Tăng Xán, y cứ theo sự giảng thuật của Nhất Thừa Tông của Ấn Độ. Chi thứ hai là hệ phái của ngài Đàm Vân Thiên, diễn giảng kinh này theo tư tưởng của Nhiếp Đại Thừa Luận. Vào thời Nam Bắc Triều, kinh này chưa được phổ biến lắm. Đến đời Đường, do Thiền Tông lớn mạnh nên kinh này cũng được hết sức quý trọng. Đương thời có những tông phái mệnh danh là Lăng Già Tông, Lăng Già Sư. Đến khi những vị như Thần Hội chủ trương dùng học thuyết Bát Nhã thay cho chủ trương kinh Lăng Già thì kinh Kim Cang mới trở thành kinh điển chủ yếu của Thiền Tông.