Lời tựa cho từ đường mới của Thống Tổ ở Biệt Am  (viết thay cho thầy Mậu Lượng)

Đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác đức Như Lai đã chứng chính là cái tâm hiện tiền nhất niệm phiền não kết nghiệp điên đảo hôn mê của ta và hết thảy chúng sanh. Biết được cái tâm phiền não kết nghiệp điên đảo hôn mê này thì trên có thể nối tiếp được huệ mạng của Như Lai, dưới có thể làm đạo sư cho trời người, khiến cho hết thảy chúng sanh đều cùng biết tâm này, cùng chứng đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Ấy chính là “tâm, Phật, chúng sanh, cả ba không sai biệt. Mê – ngộ dẫu khác, thể vốn chẳng hai; đường Trường An thênh thang, xưa nay chẳng hề cấm ai đi. Tự mình chẳng về, hễ về liền được, gió trăng quê cũ há ai tranh?” Từ khi Thế Tôn thị hiện thành Chánh Giác, trong bốn mươi chín năm rộng nói kinh pháp, nêu đại kinh trong vi trần, chỉ minh châu trong chéo áo. Ba ngàn năm qua, người tắm gội pháp trạch ngộ tự tâm, chứng giác đạo, độ hữu tình, số nhiều còn hơn cát sông Hằng, há thể kể xiết!

Như Thống Tổ của Biệt Am chúng ta, xưa trồng cội đức, thừa nguyện tái lai, đồng chân xuất gia[1], tuổi nhược quan[2] bèn ngộ đạo, mở bày Phổ Môn, trùng hưng Pháp Vũ, truyền tâm ấn, chấn hưng tông phong, sống ngoài hải đảo, đạo rền hoàn vũ. Sáu phen ngồi nơi đạo tràng, rộng ban ngôn giáo. Do vậy chẳng những được vạn dân ngưỡng mộ, mà còn được một người[3] chú ý. Do vậy, ban tặng tiền của, ban ca-sa tía, nhiều lượt thí ân mưa móc chín trùng, chỉ mong cầu chúc nước nhà, nhân dân đều được tắm gội ân quang Đại Giác. Người đương thời cố nhiên đều kính ngưỡng, mà hậu thế cũng chẳng ai không tôn sùng. Trước kia, tiên sư[4] là Giới Văn lão nhân và Khai Như hòa thượng thường nghĩ mình chưa xứng làm pháp duệ[5], chưa thể kế tục được giềng mối tốt đẹp, toan tỏ tấm lòng thành tưởng nhớ cội nguồn, thành lập hội tạo dựng từ đường, bởi lẽ từ đường đã lập từ trước quá sơ sài, chẳng đủ tỏ lòng kiền thành, cung kính hòng báo đáp tổ đức, [chẳng đủ] khởi lòng quán cảm để con cháu [gắng sức tu tập cho] tốt đẹp hơn.

Năm Quang Tự 18 (1892), toàn núi tậu chút ít ruộng hương hỏa của nhà họ Châu; nhân đó, mười mấy nhà[6] góp lại, hoặc góp một phần vốn, hoặc mấy phần vốn, tiền đóng góp được bao nhiêu đó đem mua một trăm mẫu ruộng để lấy vốn xây dựng nhà từ đường mới. Về sau, bị người ngoài xâm chiếm mất hơn một nửa, chỉ còn được ba mươi mốt mẫu mà thôi. Do đất ruộng mới khai khẩn, chưa trừ hết phèn. Vì vậy, hai mươi năm qua, vẫn chưa xây cất được. Nay ruộng đã thuần thục, thâu hoạch ổn định. Vì thế, mùa Xuân năm nay khởi công dựng nhà từ đường. Mười nhà thay phiên làm ruộng, hết một vòng lại trở lại từ đầu. Thật ra, ý của thầy Khai Như và thầy tôi là muốn cho con cháu đời sau vào từ đường cúng bái, lễ tượng gieo tấm lòng thành, tâm tự suy nghĩ: “Tổ sư cũng giống như người khác. Ngài là trượng phu, ta cũng vậy. Há nên đề cao thánh cảnh nhưng chính mình ở địa vị phàm phu chăng?” Do vậy, đại tâm khởi lên mạnh mẽ, noi dấu bậc tiên giác, phá vô minh, chứng pháp tánh, tiếp nối Phật huệ, độ chúng sanh, sao cho viên thông đạo tràng được thường trụ bao kiếp. Đạo pháp của bậc đại huệ được lưu hành khắp pháp giới, mới chẳng thẹn là con cháu của tổ sư, là đệ tử Như Lai vậy. Những người cùng hàng với tôi hãy gắng lên! (viết vào năm Dân Quốc thứ hai – 1912)

***

[1] Đồng chân xuất gia: xuất gia từ khi còn rất bé.

[2] Nhược quan: 20 tuổi. Thuở xưa, khi đến tuổi 20, thanh niên bèn búi tóc lên, bắt đầu đội mũ nho sinh, nên về sau tuổi 20 được gọi là “nhược quan” (đội mũ).

[3] Tức nhà vua

[4] Tiếng xưng tụng vị thầy đã mất của mình.

[5] Con cháu đồ đệ đời sau trong đạo.

[6] Mười mấy nhà ở đây chỉ các chùa miếu có Tăng chúng là đồ tử, đồ tôn của Biệt Am.