Lời tựa cho bức khánh đồ (tranh diễn tả chuyện vui mừng) nhà ông Hà Lãng Tiên ở Thiệu Hưng

Xuân về trên cõi đất, trăm loài cây cỏ đều được sanh thành, gió lùa trên không, vạn ống sáo đều cùng trỗi tiếng. Trong đời chẳng có quả không nhân, cũng chẳng có cái nhân không quả. Ví như trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu, thanh hòa thì tiếng vang thuận, hình thẳng thì bóng ngay! Đấy là những điều cả cõi đời đích thân thấy biết, tin tưởng chắc thật không nghi! Hai chữ “nhân quả” bao trùm khắp hết thảy các pháp thế gian xuất thế gian trọn vẹn không còn sót. Thánh nhân thế gian không vị nào chẳng dạy rõ nhân quả, nhưng do các ngài chuyên chú nơi việc đời, muốn cho đạo ấy được tiếp nối, được truyền thừa, nên chỉ hạn cuộc trong đời này và đời cha, đời con, chứ không giảng rõ chuyện trước lúc sanh ra, chuyện sau khi đã chết, và những chuyện từ vô thỉ trước, chuyện tận vị lai sau. Những kẻ hậu học chẳng thể lãnh hội sâu xa ý thánh nhân, bèn cho người và vật được sanh ra là do bẩm thụ khí trời đất, ngẫu nhiên tụ hợp thành hình hài mà thôi! Đến khi chết đi, hình đã mục nát thì hồn cũng phiêu tán. Không nhân, không quả, thành Đoạn Diệt Kiến! Họ cô phụ thánh giáo, mê mất tánh linh của chính mình quá mức! Khổng Tử khen ngợi sách Châu Dịch[1], vừa mở đầu liền nói: “Nhà tích thiện ắt sự vui có thừa. Nhà tích điều bất thiện ắt tai ương có thừa!” Cơ Tử soạn sách Hồng Phạm[2], cuối sách bèn nêu rõ chuyện hưởng dụng ngũ phước, oai dùng lục cực.

Hai là nếu chẳng luận đến tam thế quá khứ, hiện tại, vị lai, thì sự ban tặng của trời đất, ngôn luận của thánh nhân, chánh lệnh của minh quân, phần nhiều sẽ mâu thuẫn nhau (như gian đảng được vinh hoa, phú quý, trung thần bị tru lục, Nhan Uyên đoản mạng, Đạo Chích[3] trường thọ v.v…) Nếu biết tiền nhân hậu quả thì cùng – thông, được – mất đều do ta tự chuốc lấy. Dẫu gặp phải nghịch cảnh, chẳng oán, chẳng hờn, chỉ thẹn đức mình chưa xứng, chẳng thấy lỗi lầm của trời hay người, vui theo mạng trời, không chuyện gì chẳng tự tại tiêu dao. Người ta chỉ thấy ông Hà một nhà từ hiếu, cả bốn đời cùng ở chung một nhà là vui, nhưng chẳng biết nguyên do là vì họ đã nhiều đời vun bồi nên được như vậy.

Phải biết thế giới Sa Bà thọ mạng ngắn ngủi, trăm năm là thượng thọ, nhưng mấy ai đạt được. Nay ông Hà may mắn có mẹ sống thọ đã tròn sáu mươi, nên mở tiệc hoa để mừng thượng thọ. Bày ra đủ loại thi văn để giúp vui cho tiệc chúc thọ. Có thể nói là dốc lòng thờ mẹ, lấy thân mình làm gương. Lại phải biết cái “tột cùng tam thế chẳng dời, chẳng biến, trải muôn đời chẳng giảm, chẳng tăng” mới là thọ lượng chân thật sẵn có nơi tự tâm của lão phu nhân. Bởi một niệm hiện tiền của chúng ta vốn tự linh minh đỗng triệt, trạm tịch thường hằng[4], quả thật chẳng hai chẳng khác gì với tam thế chư Phật. Nhưng do trái nghịch giác, xuôi theo trần lao, mê tâm chấp cảnh nên đến nỗi vốn chẳng dời, chẳng biến, chẳng tăng, chẳng giảm lại thường bị dời, biến, tăng, giảm, trọn chẳng lúc nào đạt được một niệm thường trụ bất động. Đức Đại Giác Thế Tôn ta thương xót, thị hiện sanh trong thế gian, thành Đẳng Chánh Giác, tùy thuận cơ nghi, rộng lưu ngôn giáo, khiến cho khắp hết thảy chúng sanh trái nghịch trần lao, hiệp theo tánh giác, khôi phục tâm tánh vốn có, diệt được huyễn nghiệp vốn chẳng có, hiểu rõ chân tâm vốn sẵn có. Vì vậy, kinh Hoa Nghiêm nói: “Lạ thay! Lạ thay! Hết thảy chúng sanh đều đầy đủ trí huệ đức tướng của Như Lai, nhưng do vọng tưởng, chấp trước nên chẳng thể chứng đắc. Nếu lìa vọng tưởng thì Nhất Thiết Trí, Tự Nhiên Trí liền được hiện tiền”.

Phải biết: Trí huệ – đức tướng và vọng tưởng – chấp trước chỉ là một tâm, vốn không phải là hai vật. Mê thì toàn thể trí huệ – đức tướng liền trở thành vọng tưởng, chấp trước; ngộ thì toàn thể vọng tưởng, chấp trước liền thành trí huệ, đức tướng. Ví như nước đông thành băng, băng tan thành nước; cũng như say thấy nhà xoay, chứ nhà thật sự không xoay. Mê thì cho là phương hướng thay đổi, chứ phương hướng thật sự không đổi dời. Nói “vạn cảnh vốn nhàn, chỉ có tâm tự ồn náo. Một tâm không sanh, vạn pháp đều dứt”, chính là ý này. Lý này ngộ thì dễ, nhưng chứng thật khó. Nếu chẳng phải túc căn chín muồi, ai có thể tự chứng, tự đạt được! Vì thế, đức Thế Tôn ta riêng ban phương tiện, lập ra pháp môn tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Bất luận thánh hay phàm, ngu hay trí, cho đến những hàng thiên tiên, Tu La, những loài địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, chỉ cần chí thành phát nguyện trì danh hiệu Phật, thánh thì nhanh chóng thành Phật đạo, những loài khác đều đới nghiệp vãng sanh. Đã được vãng sanh thì Hoặc chẳng mong đoạn mà tự đoạn, đức chẳng mong chứng mà tự chứng. Ví như một mảnh tuyết rớt vào lò lớn, chưa đến nơi đã tan; đã gặp được người có đức thì ý niệm hèn tệ hoàn toàn tiêu.

Con hiếu đối với cha mẹ thì trước hết phải chú trọng cái gốc rồi mới lo đến cái ngọn, phụng dưỡng cái thân nhưng phải hướng dẫn cái tâm. Nếu chỉ biết hầu hạ, phụng dưỡng để cha mẹ được yên thân, lập thân hành đạo để cha mẹ được vẻ vang, chẳng biết dùng đạo vô sanh thường trụ, pháp Niệm Phật vãng sanh để khuyên dụ cha mẹ tu trì, sao cho sống thì niệm Phật hiệu, chết sanh về cõi Phật, từ tạ huyễn khổ sanh tử, hưởng chân lạc thường trụ, hầu hạ Phật Di Đà, dự trong hải chúng, nghe viên âm[5], Tam Hoặc[6] hết sạch, thấy diệu cảnh, Tứ Trí[7] viên minh, chẳng rời An Dưỡng, vào khắp mười phương, thượng cầu hạ hóa, rộng làm Phật sự, triệt chứng Phật tánh vốn sẵn có nơi tâm, rộng làm thuyền Từ độ người trong biển khổ, thì có thể nói là “thấy sự nhỏ quên mất chuyện lớn, được gần bỏ xa, chỉ là cái thấy hạn hẹp của kẻ tầm thường, chẳng phải tầm mắt rộng lớn của bậc thông đạt”.

Nếu có thể làm cho mẹ cùng với mình và gia quyến cùng thoát Sa Bà, cùng sanh về An Dưỡng, cùng chứng vô lượng quang thọ, cùng hưởng pháp lạc tịch diệt, cùng làm pháp vương tử của Phật Di Đà, cùng làm đại đạo sư cho trời – người, thì mới là tận hết lòng từ hiếu, trọn tình nuôi dạy. Từ – hiếu, giáo dục như vừa nói đó chẳng phải là từ – hiếu giáo dục như thế gian thường nói. Đấy chính là chỗ khởi đầu và kết thúc cùng cực của bức gia khánh đồ này.

Nếu chẳng cho lời tôi nói là sai, đợi đến khi cùng sanh về Tịnh Độ xong, sẽ dùng Đại Viên Kính Trí thâu nhiếp lấy hình ảnh trong Liên Trì Hải Hội tặng cho khắp những đồng bào trong biển khổ, tôi cũng sẽ dốc cạn lòng ngu thành viết tựa khen ngợi.

***

[1] Gọi là Châu Dịch vì người Trung Hoa tin rằng từ thời Phục Hy đã có kinh Dịch. Theo truyền thuyết, ngay từ thời nhà Hạ, kinh Dịch đã được chú giải với tên gọi là Liên Sơn Dịch. Qua đời Thương được diễn giải bổ sung thêm, gọi là Quy Tàng Dịch. Các bản này bị thất truyền. Châu Văn Vương là người tinh thông Dịch Lý và diễn giải kinh Dịch một cách có hệ thống, hệ thống này về sau lại được Khổng Tử san định lần nữa, và thường gọi là Châu Dịch.

[2] Theo từ điển Từ Hải, Hồng Phạm là một bộ cổ thư giảng về đại pháp trong thiên hạ. Thật ra Hồng Phạm là một thiên trong sách Thượng Thư.

[3] Đạo Chích là một tên trộm nổi danh thời cổ.

[4] “Linh minh đỗng triệt, trạm tịch thường hằng”: Đây là tám chữ tổ Liên Trì dùng để giảng về chân tánh. Trong bộ A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa, pháp sư Cổ Đức đã giảng như sau: “Linh minh là thuần chân, linh minh chiếu suốt thấu trọn vẹn (đỗng triệt). Bản thể của Chiếu là trọn khắp mười phương. Trạm tịch là Tịch nhưng thường hằng, ý nói: bản thể của Tịch là thông suốt ba đời”. Nói cho dễ hiểu hơn: Tịch là tâm tánh thường tồn, chẳng nhiễm, không bị trần cảnh lay động, còn Chiếu là tác dụng quán sát, nhận biết của tâm nhưng không vướng mắc. Cổ nhân thường ví tâm như gương. Gương trong suốt, không nhơ (đó là Tịch), vật gì đến trước gương đều hiện bóng (đó là Chiếu). Hiện bóng nhưng không giữ lại vật gì (Chiếu mà thường Tịch), không giữ lại vật gì nhưng không gì chẳng hiện bóng trong gương (Tịch mà thường Chiếu).

[5] Viên âm: âm thanh viên mãn. Đức Phật dùng một âm thanh thuyết pháp mà mỗi loài nghe thấy đức Phật nói bằng ngôn ngữ của loài mình. Đức Phật nói một chữ mà tùy theo căn tánh người nghe sẽ hiểu vô lượng nghĩa. Do vậy, gọi âm thanh thuyết pháp của Phật là “viên âm”.

[6] Kiến Hoặc, Tư Hoặc, Trần Sa Vô Minh Hoặc là Tam Hoặc.

[7] Tứ Trí: Còn gọi là Tứ Chủng Trí, tức bốn trí nơi Phật quả là Đại Viên Kính Trí, Bình Đẳng Tánh Trí, Diệu Quán Sát Trí, và Thành Sở Tác Trí. Tứ Trí do tám thức chuyển thành; thức thứ tám chuyển thành Đại Viên Kính Trí, thức thứ bảy chuyển thành Bình Đẳng Tánh Trí, thức thứ sáu thành Diệu Quán Sát Trí, và năm thức trước trở thành Thành Sở Tác Trí. Mật Giáo còn đặt thêm một trí nữa là Pháp Giới Thể Tánh và mỗi trí được biểu hiện bằng một vị Phật. Trong Kim Cang Giới, Pháp Giới Thể Tánh Trí là Phật Tỳ Lô Giá Na, Đại Viên Kính Trí là A Súc Bệ Phật (Bất Động Phật), Bình Đẳng Tánh Trí là Bảo Sanh Phật, Diệu Quán Sát Trí là A Di Đà Phật, và Thành Sở Tác Trí là Bất Không Thành Tựu Phật. Trong Thai Tạng Giới, Đại Viên Kính Trí là Bảo Tràng Phật, Bình Đẳng Tánh Trí là Khai Phu Hoa Phật, Diệu Quán Sát Trí là Vô Lượng Thọ Phật, Thành Sở Tác Trí là Thiên Cổ Lôi Âm Phật.