Lời tựa cho bộ Giác Hậu Biên       

(năm Dân Quốc 18 – 1929)

Khổng Tử nói: “Tánh tương cận dã, tập tương viễn dã” (Tánh thì gần giống như nhau, nhưng do rèn luyện mà thành khác xa nhau). Tánh chính là bản thể của Giác, Tập chính là công dụng của Giác. Tánh thì phàm – thánh, chúng sanh – Phật trọn chẳng khác nhau, nên nói “tương cận”, cũng giống như nói: “Nhân đồng thử tâm, tâm đồng thử lý” (con người có cùng một cái tâm này, tâm có cùng một lý này). “Tập” thì có thuận tánh, nghịch tánh sai khác. Thuận theo tánh thì suy tư, nẩy sanh ý niệm, xử sự đều tự có thể nén giận, khắc chế được ham muốn, dứt lòng tà, giữ lòng thành. Cho đến khi nhân dục hết sạch, thiên lý thông suốt, sẽ khôi phục trọn vẹn giác tánh nơi bản thể, cho đến trở thành hiền thành thánh, vượt ra ngoài điều mong đợi lúc ban đầu. Người như thế gọi là Giác Giả. Người đã giác ngộ trước (tiên giác) đem điều chính mình đã giác để giác ngộ kẻ chưa giác, khiến cho họ đều cùng được giác, khiến cho những kẻ chưa giác sau đấy mỗi mỗi đều giống như bậc tiên giác vậy.

Đại pháp để kế thừa đời trước, mở mang cho đời sau, tham dự quyền sanh thành giáo hóa [của trời đất], duy trì thiên hạ hậu thế ấy cũng chính là nguyên do vì sao con người cùng với trời đất được xưng là Tam Tài vậy. Vì thế, Y Doãn nói: “Dư thiên dân chi tiên giác giả dã, dư tương dĩ tư đạo giác tư dân dã, phi dư giác chi nhi thùy dã” (Ta là người giác ngộ trước hết thảy nhân dân, ta phải đem cái đạo ấy để giác ngộ cho những người dân ấy. Chẳng phải là ta giác ngộ họ thì còn ai vào đây nữa?). Ông ta đã coi hết thảy nhân dân như thánh hiền, nhân dân nghe được lời lẽ ấy, ai chịu tự hạn cuộc trong phận ngu hèn, chẳng thể không sốt sắng tu trì để tiến thẳng vào địa vị thánh hiền ư? Tiếc cho đời sau chưa được bậc tiên giác chỉ dạy, thường mê chân, đuổi theo vọng, trái giác, xuôi trần, rong ruổi trong thanh, sắc, của cải, lợi lộc, đến nỗi đạo đức, nhân nghĩa đều bị bỏ lửng hết. Tuy cùng sẵn có giác tánh ấy, nhưng vì trái nghịch nên không những chẳng thể là hiền thánh, mà trái lại còn đọa xuống phận ngu tối, tầm thường, thành phường bạo loạn, há chẳng đáng buồn quá đỗi ư?

Kinh Thư dạy: “Duy thánh võng niệm tác cuồng, duy cuồng khắc niệm tác thánh” (Thánh mất niệm thành cuồng, cuồng khắc chế được ý niệm bèn thành thánh) nên chẳng thể không miệt mài tìm tòi đạo hậu giác (giác ngộ cho người chưa giác)! Cư sĩ Chánh Định Vương Khắc Am là một vị ẩn sĩ vào đời Thanh xưa kia, do cõi đời đang trong thuở Mạt, khó thể thân cận thánh hiền, không thể do đâu mà bắt chước theo khuôn phép được, hạng người bình thường lại chẳng thể lãnh hội những lời lẽ trong sáu kinh, Luận Ngữ, Mạnh Tử. Do vậy, bèn chọn lọc những lời dạy trong Cảm Ứng Thiên, Âm Chất Văn, Công Quá Cách… và những lời lẽ tốt lành về hiếu thảo cha mẹ, kính trọng bậc trưởng thượng, giữ thân, xử thế, sửa lỗi hướng thiện từ những trước tác của những bậc hiền triết xưa nay, biên soạn thành một tập sách, tổng cộng gồm mười bốn môn. Đầu tiên là Minh Tông (nêu rõ tông chỉ), sao lục ba thứ cảm ứng để làm tổng cương (cương lãnh tổng quát), mỗi môn sau đó đều nhằm nêu tỏ ý nghĩa “những khuôn phép nên tuân theo, những điều nên răn dè” thuộc về ba thứ cảm ứng ấy.

Nếu người đời sau đọc được cuốn sách này [sẽ giống như] giở cái lưới lên, mọi mắt lưới đều căng ra, gốc đã lập đạo bèn sanh, phàm mỗi lời nói, mỗi hành động không gì chẳng theo đúng khuôn khổ. Giống như vàng lỏng đổ vào cái khuôn tốt đẹp, lẽ đương nhiên phải trở thành món vật đàng hoàng; như giống lúa tốt được đẫm mưa ngọt, chắc chắn mùa màng bội thu. Thiện quả thế gian đã đạt được thì ai chịu vạch đất tự hạn chế, chẳng chịu chăm chú tu trì pháp môn Tịnh Độ để mong chứng trọn vẹn giác tánh ấy, để trở thành vô thượng đại giác trong thế gian lẫn xuất thế gian ư? Em ông ta là Lôi Hạ tính lưu truyền sách này, đưa cho tôi xem. Do vậy bèn quyên mộ tiền bạc ấn loát để lưu truyền rộng rãi. Người có duyên gặp được hãy nên đọc kỹ, nghĩ chín, đừng để luống qua thì may mắn lắm thay!