Lời tựa bản thạch ấn sách Giản Ma Biện Dị Lục

(viết thay cư sĩ Xí Giác Triệu Hy Y)

Từ khi Phật pháp truyền vào Trung Quốc, đế vương các đời không ai chẳng sùng phụng, nhưng có những vị chỉ gieo hạt giống kết duyên, có vị ngộ chứng, đủ mọi hạng bất đồng. Tìm lấy một vị thâm nhập kinh tạng, đạt thẳng nguồn Thiền, chứng diệu tâm Niết Bàn, có chánh nhãn Kim Cang, nhân lúc tu – tề – trị – bình được rảnh rỗi, bèn xiển dương tông chỉ “niêm hoa trực chỉ” (cầm cành hoa giở lên để chỉ thẳng vào tâm)[1] thì chỉ có mình Thanh Thế Tông hoàng đế là bậc nhất. Nếu không phải là bậc Pháp Thân đại sĩ thừa nguyện tái lai, nắm vững cốt lõi đạo Quyền – Thật bất nhị, độ chúng sanh luân hồi không nơi nương tựa thì há có được như vậy hay chăng? Về trước thuật của nhà vua, trong Đại Tạng có Viên Minh Cư Sĩ Ngữ Lục gồm ba quyển (Viên Minh Cư Sĩ là đạo hiệu của Thanh Thế Tông). Ngoài ra, những tự, bạt, truyện, ký, thấy rải rác trong những kinh, luận, ngữ lục, thảy đều khéo léo khế hợp tâm Phật, ngầm hợp ý Tổ. Chữ nào chữ nấy tỏ rõ sự thật, lời nào lời nấy đều quy tông. Như gảy bàn tính, như báu Ma Ni, phàm những ai có đủ con mắt không ai chẳng bội phục!

Vào cuối đời Minh, trong số đồ đệ của sư Mật Vân Viên Ngộ, có Pháp Tạng tự là Hán Nguyệt, thiên tư thông minh, mẫn tiệp, gốc ngã mạn sâu dầy. Sau khi đại ngộ, bèn muốn làm bậc cao nhân thiên cổ độc nhất không ai sánh bằng, vì thế lập bậy chủ kiến, viết sách Ngũ Tông Nguyên, mong muốn vượt trội hết thảy. Chẳng biết Như Lai tâm ấn như vầng trăng trong mát, mây ngã mạn vừa đùn, liền che mất ánh trăng; Chân Như diệu tánh như thái hư không, bụi ngã mạn vừa bay tung, liền bẩn thể chất của Không. Đủ mọi thứ bôi vẽ, trau chuốt, bẹo hình bẹo dạng cuồng vọng, trái nghịch, cầu thăng hóa đọa, biến khéo thành vụng. Mật Vân quở lên, trách xuống, Pháp Tạng cùng với học trò là Hoằng Nhẫn vẫn chấp mê chẳng tỉnh. Sư phải cứu vớt nhiều lần nhưng ông ta lại toan lấn lướt ngài Mật Vân, bảo “ta tự ngộ không cần thầy”, Mật Vân bị ép phải đem mối đạo giao phó. Những ngôn thuyết của Pháp Tạng phần nhiều là dối lập, ít có sự thật. Hàng tri thức thời ấy tuy biết ông ta sai, nhưng thầy ông ta còn chẳng làm gì được; lại thêm môn đình của ông ta quá mạnh, hàng sĩ đại phu đa phần là kẻ ngoại hộ, chỉ sợ vừa phê phán đã khó khỏi mắc họa. Do vậy, họ đều chẳng dám bàn đến nữa.

Đến năm Ung Chánh mười một (1733), Thế Tông xem khắp các ngữ lục của Mật Vân, Pháp Tạng, Hoằng Nhẫn, thấy tri kiến của họ lầm lạc liền chép ra hơn mấy mươi ý kiến phỏng đoán, tà thuyết của họ để biện định chánh – tà một phen. Tính ra đến hơn mười vạn chữ, đặt tên là Ngự Chế Giản Ma Biện Dị Lục, liền cho khắc thành sách để thành bản in của triều đình, lại truyền đưa sách ấy vào Đại Tạng hòng trừ tà thuyết để chánh nhân tâm, chấn hưng Tông phong, sáng tỏ đạo Tổ. Đến năm thứ mười ba (1735) khởi công khắc in Đại Tạng, nhưng xe rồng đã lên làm khách cõi trời. Cao Tông (Càn Long) kế vị, ngày ngày phải lo muôn chuyện, chẳng rảnh rỗi đề xướng, đến nỗi rốt cuộc chẳng được nhập tạng. Sách đã khắc thành bản in chánh thức của triều đình được giữ trong đại nội, chẳng dễ lưu thông. Vì thế, những hàng đại gia Tăng – tục bác học đa văn hiện thời đều chẳng biết đến tựa đề sách này.

Năm Giáp Thìn (1904) đời Quang Tự, bạn tôi là Tử Nhậm tìm được hai bộ sách này ở chợ sách Bắc Kinh, gởi một bộ cho pháp sư Đế Nhàn mong Ngài đề xướng quyên mộ lưu thông, một bộ giao cho ông Dương Nhân Sơn gởi qua Nhật Bản, đưa vào Đại Tạng Kinh bản in mới của Hoằng Giáo Thư Viện. Mùa Xuân năm nay, tôi muốn vượt biển đến đất Hỗ (Thượng Hải) gặp cư sĩ Địch Sở Thanh. Tôi nói: “Ông thích truyền bá những sách cổ, sao không lấy cuốn Giản Ma Biện Dị Lục trong Đại Tạng Kinh của Hoằng Giáo Thư Viện để khắc ván ấn hành? Sách này do Thế Tông đem tâm pháp của Linh Sơn, Tứ Thủy để mở đại quang minh tạng Kim Cang chánh nhãn cho hai đạo Nho, Thích. Nếu sách này được lưu truyền, chẳng những người tham Thiền lập tức biết chỗ quy hướng, ngay cả người đề cao Khổng Mạnh để dò tìm Thành Minh đến cùng cực cũng sẽ như ngồi thuyền gặp được gió thuận, mau đến được bờ kia!” Cư sĩ nói: “Trước kia, ở kinh đô, con tìm được một bộ trong đống đồ cũ nát, cất trong rương sách đã hơn cả năm. Nếu không nhờ thầy nói, chắc là bỏ qua mất rồi!” Liền giao cho nhà in để họ chiếu theo thể thức in thạch bản, in ra một ngàn bộ, xin tôi viết lời tựa. Tôi hết sức vui mừng, quên mình kém cỏi, soạn lời tựa để phô bày cơ duyên ẩn – hiển như vậy.

***

[1] Niêm hoa (còn gọi là “niêm hoa vi tiếu”): Theo truyền thuyết của Thiền Tông, trong pháp hội Linh Sơn, đức Phật giơ cành hoa cho đại chúng xem, đại chúng ngơ ngác, chỉ mình tôn giả Ca Diếp mỉm cười. Đức Thế Tôn bèn nói: “Ta có chánh pháp nhãn tàng, Niết Bàn diệu tâm, Thật Tướng vô tướng, pháp môn vi diệu, chẳng lập văn tự truyền riêng ngoài giáo, nay giao cho Ma Ha Ca Diếp”. Nhà Thiền bảo sự tích này lấy từ kinh Đại Phạm Thiên Vương Sở Vấn, nhưng hiện thời chưa tìm thấy bản kinh này trong Đại Tạng, ngoại trừ một bản ghi trong Tục Tạng, nhưng cũng bị nghi ngờ tính chân xác. Theo kinh Đại Bát Niết Bàn, trước khi đức Phật nhập diệt, đã giao phó chánh pháp cho tổ Ca Diếp như sau: “Vô thượng chánh pháp giao phó cho Ma Ha Ca Diếp, Ca Diếp sẽ là chỗ y chỉ lớn lao cho các tỳ-kheo, giống như Như Lai là chỗ y chỉ cho mọi chúng sanh”. Do vậy, các nhà nghiên cứu Phật học hiện thời cho rằng thuyết “niêm hoa vi tiếu” chính là sự thêm thắt, tô vẽ của Thiền Tông Trung Hoa sau thời Thần Hội vào đoạn kinh trên.